Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Yếu tố lỗi của các vụ tranh chấp trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trên địa bàn tỉnh lạng sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.56 MB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
--------------------

VI NGỌC DIỆP

YẾU TỐ LỖI CỦA CÁC VỤ TRANH CHẤP TRONG
TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP
ĐỒNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
--------------------

VI NGỌC DIỆP

YẾU TỐ LỖI CỦA CÁC VỤ TRANH CHẤP TRONG
TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP
ĐỒNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành

: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự

Mã số

: 8380103

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS PHÙNG TRUNG TẬP

HÀ NỘI – 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
Tác giả luận văn

Vi Ngọc Diệp


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
Chƣơng 1.MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LỖI TRONG TRÁCH

NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG ........................ 6
1.1. Khái niệm lỗi trong trách nhiệm dân sự .................................................. 6
1.1.1 Lỗi trong trách nhiệm do vi phạm hợp đồng .............................................. 8
1.1.2 Lỗi và hình thức lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
......................................................................................................................... 10
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1............................................................................... 17
Chƣơng 2.THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ LỖI TRONG TRÁCH
NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG VÀ THỰC
TIỄN ÁP DỤNG TẠI LẠNG SƠN ............................................................... 18
2.1. Thực trạng pháp luật về lỗi trong trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại
ngoài hợp đồng ............................................................................................... 18
2.1.1 Xác định lỗi do hành vi trái pháp luật gây ra ............................................ 18
2.1.2 Xác định lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi các bên đều có lỗi
......................................................................................................................... 21
2.1.3 Xác định lỗi do tài sản gây ra ................................................................... 23
2.2. Thực tiễn áp dụng tại Lạng Sơn quy định về lỗi trong giải quyết tranh
chấp bồi thƣờng thiệt hại ............................................................................... 29
2.2.1 Xác định lỗi do hành vi trái pháp luật gây thiệt hại .................................. 30
2.2.2 Xác định lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi các bên đều có lỗi
(trách nhiệm hỗn hợp lỗi) ................................................................................. 34
2.2.3 Xác định lỗi trong trách nhiệm bồi thường do tài sản gây ra .................... 37
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................. 40


Chƣơng 3.NHỮNG BẤT CẬP VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT QUY ĐỊNH VỀ LỖI TRONG TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG
THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG................................................................ 41
3.1. Một số vấn đề kinh tế - xã hội tỉnh Lạng Sơn ........................................ 41
3.1.1. Vị trí tự nhiên, diện tích, dân số, tình hình kinh tế, xã hội, dân trí. .......... 41
3.1.2 Những tranh chấp phổ biến trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài

hợp đồng trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. ............................................................... 43
3.2. Những bất cập.......................................................................................... 49
3.3 Giải pháp hoàn thiện ................................................................................ 54
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 .............................................................................. 58
KẾT LUẬN .................................................................................................... 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong khoa học pháp lý, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng phát sinh khi có các điều kiện: có thiệt hại xảy ra, hành vi gây thiệt hại
là hành vi trái pháp luật; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và
thiệt hại; người gây thiệt hại có lỗi. Như vậy, yếu tố lỗi là một trong những
căn cứ làm phát sinh trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Trong đời sống hàng ngày, thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm của công dân; tài sản, danh dự, uy tín của các tổ chức có
thể xảy ra dưới nhiều tác động khác nhau. Cũng có thể đó là những tác động
khách quan xong cũng có thể là hành vi trái pháp luật của cá nhân mang lại.
Do đó, để ngăn chặn và khắc phục những hậu quả, Nhà nước đã đặt ra những
quy định pháp luật hữu hiệu như chế định trách nhiệm dân sự nói chung và
chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng. Cơ sở của trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là những quy định của pháp luật quy định
những hậu quả pháp lý ngoài mong muốn, không có sự thoả thuận trước của
các bên và được phát sinh trên cơ sở hành vi bất hợp pháp do lỗi cố ý hoặc vô
ý.
Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có hiệu lực từ ngày 1/7/2015 dành một
chương quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

(Chương XX) với 24 điều (từ Điều 584 đến Điều 608). Chế định bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định tại Bộ luật dân sự năm 2015 có những
thay đổi so với Bộ luật dân sự năm 2005. Yếu tố lỗi đã được tiếp cận theo
hướng có lợi cho người bị thiệt hại - không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của
người gây thiệt hại và có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định mức bồi
thường thiệt hại. Theo số liệu thống kê năm năm (2013 đến 2017) gần đây của
Toà án nhân dân tỉnh Lạng Sơn, các vụ án về đòi bồi thường thiệt hại ngoài


2

hợp đồng về tài sản, sức khoẻ, tính mạng, danh dự, nhân phẩm có xu hướng
tăng và tình tiết phức tạp. Trong đó, việc xác định lỗi như là căn cứ phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và mức bồi thường còn có
nhiều vướng mắc và chưa thống nhất. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn xét xử,
việc nghiên cứu lý luận và một số vướng mắc khi áp dụng đối với đặc thù trên
địa bàn tỉnh Lạng Sơn là điều cần thiết. Chính vì các lẽ trên, tác giả đã lựa
chọn đề tài nghiên cứu “Yếu tố lỗi của các vụ tranh chấp trong trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn” để làm
luận văn tốt nghiệp chương trình Thạc sĩ Luật - định hướng ứng dụng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Có thể khẳng định, đề tài “Yếu tố lỗi của các vụ tranh chấp trong
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trên địa bàn tỉnh Lạng
Sơn” là một đề tài có tính mới. Bởi lẽ, chưa có công trình nào nghiên cứu vấn
đề được nêu ở trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã được nghiên cứu ở nhiều công trình với
các quy mô, cấp độ khác nhau. Có thể điểm qua các công trình như sau:
2.1. Sách chuyên khảo: cho đến thời điểm hiện nay, chưa có công trình
sách tham khảo riêng biệt bàn trực tiếp về yếu tố lỗi của các vụ tranh chấp
trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng mà chỉ có các công

trình có liên quan. Cụ thể, PGS. TS Phùng Trung Tập “Luật dân sự Việt Nam
(Bình giải và áp dụng) - Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”,
Nxb Công an nhân dân, 2017; TS. Phùng Trung Tập “ Bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng về tài sản, sức khoẻ và tính mạng”, NXB Hà Nội, 2009;
Trường đại học Luật TP Hồ Chí Minh “Giáo trình pháp luật về hợp đồng và
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”, Nxb Hồng Đức – Hội luật gia Việt
Nam, 2016; TS.Trần Thị Huệ “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản
gây ra theo pháp luật dân sự Việt Nam”, Nxb Chính trị - Hành chính, 2013.


3

2.2. Luận văn, luận án: Luận án tiến sĩ “Trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do tài sản gây ra theo pháp luật dân sự Việt Nam”, Nguyễn Văn Hợi,
PGS.TS Bùi Đăng Hiếu, TS Hoàng Thị Thuý Hằng; Luận văn thạc sĩ “ Yếu tố
lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” Hứa Thu Hằng,
TS. Phạm Văn Tuyết hướng dẫn, 2014; Luận văn thạc sĩ “ Căn cứ phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng – lý luận và thực tiễn” Lư
Ngọc Lan, PGS. TS Phùng Trung Tập, năm 2016.
2.3. Bài viết nghiên cứu trên các Tạp chí: Nguyễn Tiến Hùng, Vũ Đức
Hùng “Yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo
Dự thảo Bộ luật dân sự ( sửa đổi) và một số kiến nghị”, Tạp chí dân chủ và
pháp luật, Bộ Tư pháp, số chuyên đề Sửa đổi, bổ sung BLDS 2015; TS.
Phùng Trung tập “ Lỗi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”,
Tạp chí Toà án nhân dân, số 10/2004; TS. Đỗ Văn Đại, “Lỗi, căn cứ phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”. Khoa học pháp lý, số
2/2010; Đỗ Văn Đại, Lê Hà Huy Phát “Những điểm mới về bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng trong Bộ luật Dân sự năm 2015”, Tạp chí Toà án nhân
dân, số 7/2016; Trịnh Anh Tuấn, “Bàn về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo Bộ luật Dân sự năm 2015”, Tạp chí

Kiểm sát, số 19/2016; Nguyễn Văn Hợi, “Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do tài sản gây ra trong Bộ luật Dân sự”, Tạp chí Luật học,
số 12/2015….
Qua liệt kê, có thể thấy rằng, đến thời điểm hiện nay, chưa có công
trình chuyên biệt về yếu tố lỗi trong các vụ tranh chấp bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng thực tiễn áp dụng địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
3. Mục đích, đối tƣợng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu:
- Mục đích nghiên cứu


4

Đề tài nghiên cứu toàn diện, có hệ thống trên cơ sở phân tích lý luận,
quan điểm hiện nay về yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng. Bên cạnh đó, có dẫn chiếu đến các quy định của Bộ luật Dân sự
2015; phân tích thực tiễn áp dụng các quy định về việc áp dụng yếu tố lỗi
trong các vụ tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn để từ đó đưa ra kiến nghị tiếp tục hoàn thiện chế định và các giải
pháp khác bảo đảm cho việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
- Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng; thực tiễn áp dụng yếu tố lỗi để xác định
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong các vụ tranh chấp trên
địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi về nội dung: nghiên cứu lý luận, các quy định của Bộ luật Dân
sự hiện hành về yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng.
+ Phạm vi về không gian: nghiên cứu thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn, từ đó chỉ ra nguyên nhân và các giải pháp nâng cao hiệu quả xác

định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tranh chấp.
+ Phạm vi về thời gian: chủ yếu nghiên cứu thực tiễn áp dụng yếu tố lỗi
trong các vụ tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn từ năm 1/2013 đến 12/2017 (05 năm).
4. Các phƣơng pháp nghiên cứu;
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
Chủ nghĩa Mác – Lê Nin. Bên cạnh đó, tác giả sử dụng các phương pháp
nghiên cứu khoa học truyền thống và hiện đại của khoa học pháp lý như


5

phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, phương pháp lịch sử và tư duy
lôgic.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài;
Luận văn có thể sử dụng là tài liệu tham khảo cho các sinh viên khi
tham gia học tập và nghiên cứu môn Luật Dân sự và Tố tụng dân sự tại các cơ
sở đào tạo luật. Bên cạnh đó, luận văn có thể xem như tài liệu giới thiệu, phổ
biến, hơn nữa là có những đóng góp trong việc hoàn thiện việc áp dụng các
quy định về yếu tố lỗi trong các vụ án tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn trong giai đoạn hiện nay.
6. Bố cục của luận văn.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng và thực tiễn áp dụng tại Lạng Sơn.
Chương 3: Những bất cập và giải pháp hoàn thiện pháp luật quy định về
lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng



6

Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LỖI TRONG TRÁCH NHIỆM
BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
1.1. Khái niệm lỗi trong trách nhiệm dân sự
Theo Luật La Mã, lỗi (Culpa) là sự không tuân thủ hành vi mà pháp luật
yêu cầu, không có lỗi nếu như tuân thủ tất cả những gì được yêu cầu. Trong Luật
La Mã, lỗi được phân chia thành lỗi cố ý (dolus) và lỗi vô ý (culpa)1. Tuy nhiên
trong Luật La Mã có một điều đặc biệt là trong trường hợp lỗi cố ý thì thoả thuận
của các bên về miễn trừ trách nhiệm không có hiệu lực. Trong luật La Mã lỗi vô
ý được nói đến nhiều hơn, bởi rằng lỗi cố ý đã quá rõ ràng để áp dụng trách
nhiệm. Được coi là lỗi vô ý nếu như không nhìn thấy trước được những gì mà
một người chu đáo, cẩn thận có thể nhìn thấy. Tiêu chí chu đáo và cần mẫn là
tiêu chuẩn khi xác định mức độ quan tâm, chu đáo của người vi phạm trong việc
thực hiện nghĩa vụ của mình cũng như mức độ trách nhiệm của họ. Như vậy,
Luật La Mã không nhắc đến trạng thái tâm lý của chủ thể đối với hành vi của
mình và hậu quả do hành vi đó gây ra khi xác định lỗi.
Khái niệm lỗi trong khoa học pháp luật Dân sự các nước Châu Âu lục địa
về cơ bản cũng giống với khái niệm lỗi được định nghĩa trong Luật dân sự La
Mã bởi lẽ, các hệ thống pháp luật nói trên được xây dựng dựa trên cơ bản các
quy định của Luật La Mã. Pháp luật các nước Châu Âu lục địa coi lỗi của người
vi phạm nghĩa vụ là điều kiện cơ bản của trách nhiệm do không thực hiện nghĩa
vụ. Luật Dân sự của các quốc gia này xuất phát từ nguyên tắc suy đoán có lỗi,
tức là người vi phạm phải chứng minh rằng mình không có lỗi. Ví dụ: Điều 1147
Bộ luật Dân sự Cộng hoà Pháp, Mục 282 Bộ luật Dân sự Đức, quy định rằng
người có quyền chỉ phải chứng minh người có nghĩa vụ không thực hiện hay

1


Phạm Kim Anh (2003), “Khái niệm lỗi trong trách nhiệm dân sự”, Tạp chí Khoa học pháp lý (03), tr.17


7

thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình.
Trong khoa học pháp lý Việt Nam, các nhà lập pháp Việt Nam nhìn nhận
và phân biệt lỗi dựa trên trạng thái tâm lý và mức độ nhận thức của một người
đối với hành vi của mình và hậu quả của hành vi đó gây ra. Như vậy, khái niệm
lỗi trong trách nhiệm dân sự (trách nhiệm bồi thường thiệt hại) có sự đồng nhất
với khái niệm lỗi trong trách nhiệm hình sự, tức phải xem xét, đánh giá “trạng
thái tâm lý và nhận thức” của bên vi phạm, trong khi kết quả chưa chắc chắn đã
phản ánh được bản chất khách quan của hành vi vi phạm. Đây là một hạn chế
của Bộ luật dân sự, đã vấp phải rất nhiều ý kiến phản đối của các nhà nghiên
cứu2. Với lý do cho rằng hai chế tài lỗi trong trách nhiệm dân sự và trách nhiệm
hình sự là hoàn toàn khác nhau. Trong hình sự, không có lỗi không phải chịu
trách nhiệm hình sự trong mọi trường hợp. Hình phạt trong hình sự hoàn toàn
phụ thuộc vào mức độ lỗi. Ngược lại, trong dân sự, bên vi phạm phải chứng
minh là mình không có lỗi. Mức bồi thường trong dân sự hoàn toàn không phụ
thuộc vào mức độ lỗi. Thiệt hại bao nhiêu thì phải bồi thường bấy nhiêu mặc cho
lỗi đó là lỗi cố ý hay vô ý.
Có hai yếu tố cấu thành lỗi là lý trí và ý chí. Lý trí là thể hiện sự nhận thức
tồn tại khách quan (nhận thức được hay không nhận thức được khả năng gây
thiệt hại của hành vi do mình thực hiện) còn ý chí thể hiện năng lực điều khiển
hành vi trên cơ sở thực tại khách quan đó (khả năng kiềm chế hành vi gây thiệt
hại hoặc có khả năng thực hiện hành vi khác phù hợp với pháp luật). Lý trí và ý
chí chính là biểu hiện về mặt hình thức “lỗi”. Con người có khả năng nhận thức
được hành vi của mình cũng như hậu quả phát sinh từ hành vi đó. Một người bị
coi là có lỗi khi thực hiện hành vi gây hại nhận thức được hành vi của mình sẽ
2


Phạm Kim Anh (2003), Khái niệm lỗi trong trách nhiệm dân sự, Tạp chí Khoa học pháp lý, trường Đại học
Luật TP Hồ Chí Minh, số 03 (18), tr.32 -36.
Trịnh Tuấn Anh (2016), Bàn về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo Bộ
luật dân sự năm 2015, Tạp chí kiểm sát, số 19( tháng 10/2016), tr.38.


8

gây thiệt hại hoặc tuy không nhận thức được nhưng có đủ điều kiện thực hiện
hành vi khác không gây ra thiệt hại.
Tại Việt Nam, số đông quan điểm về lỗi được xây dựng trên cơ sở trạng
thái tâm lý, nhận thức3. Có thể hiểu một cách chung nhất, lỗi là thái độ tâm lý
của người vi phạm nghĩa vụ dân sự, phản ánh nhận thức của người đó đối với
hành vi và hậu quả của hành vi mà họ thực hiện. Tác giả cho rằng, quan điểm
này hợp lý và khá phù hợp với điều kiện hoàn cảnh hiện nay. Tuy nhiên trong
pháp luật thực định của Việt Nam cũng như các nước nói trên không định nghĩa
khái niệm lỗi, nhưng có quy định các hình thức lỗi khác nhau. Theo đó, pháp
luật Việt Nam quy định lỗi trong trách nhiệm dân sự bao gồm lỗi cố ý và lỗi vô
ý4.
1.1.1 Lỗi trong trách nhiệm do vi phạm hợp đồng
Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng là trách nhiệm dân sự phát sinh
do không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ theo hợp
đồng. Hay nói cách khác, nếu nghĩa vụ hợp đồng được tạo lập do các bên cam
kết, thoả thuận mà người có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ đó sẽ phát sinh trách
nhiệm theo hợp đồng.
Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng là một dạng trách nhiệm pháp
lý buộc bên vi phạm hợp đồng gây ra thiệt hại cho phía bên kia phải bù đắp
những tổn thất về mặt tinh thần và vật chất cho bên bị vi phạm. Trách nhiệm
pháp lý này được đặt ra trong trường hợp các bên giao kết hợp đồng, do việc

không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ mà gây thiệt hại cho bên
3

TS. Phùng Trung Tập, “Luật dân sự Việt Nam (Bình giải và áp dụng) - Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng”, Nxb Công an nhân dân, 2017.
TS. Nguyễn Minh Tuấn, (2016), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự nước CHXHCN Việt Nam, NXB Tư pháp
Hà Nội, tr.548
Hứa Thu Hằng, Luận văn “Yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”, 20114, tr.10
Trường đại học Luật Tp Hồ Chí Minh, “Giáo trình pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt thiệt hại ngoài
hợp đồng”, Nxb Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam, tr458. Có định nghĩa: “Lỗi là một yếu tố chủ quan nói
lên thái độ tâm lý của con người đối với hành vi của mình và hậu quả của hành vi ấy”
4
Điều 364 Bộ luật Dân sự 2015


9

đối tác. Bồi thường này phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định. Trong đó,
nguyên tắc bên bị vi phạm chỉ phải bồi thường một phần thiệt hại khi cả hai bên
cùng có lỗi. Bồi thường một phần thiệt hại được hiểu là mức bồi thường mà
người gây ra thiệt hại phải thực hiện nhỏ hơn so với thiệt hại đã xảy ra. Thông
thường, thiệt hại xảy ra khi bên có nghĩa vụ do lỗi cố ý hoặc vô ý của mình mà vi
phạm nghĩa vụ và gây ra thiệt hại. Tuy nhiên, có trường hợp bên có quyền không
thực hiện đúng quyền của mình làm ảnh hưởng đến việc thực hiện nghĩa vụ của
bên kia nên đã xảy ra thiệt hại là do lỗi của hai bên. Trường hợp này, cần phải
căn cứ vào mức độ lỗi của các bên đến xem xét trách nhiệm pháp lý của bên có
quyền và bên có nghĩa vụ. Điều 363 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “ Trường
hợp vi phạm nghĩa vụ và có thiệt hại là do một phần lỗi của bên bị vi phạm thì
bên vi phạm chỉ phải bồi thường thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình”.
Có thể nói, nguyên tắc bên bị vi phạm chỉ phải bồi thường một phần thiệt hại khi

cả hai bên đều có lỗi đã góp phần nhằm tăng cường trách nhiệm thực hiện hợp
đồng của các bên trong quan hệ hợp đồng.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại được miễn nếu bên có nghĩa vụ chứng
minh được nghĩa vụ không thực hiện được là hoàn toàn do lỗi của bên có quyền
(Điều 351 Bộ luật Dân sự 2015).
Yếu tố lỗi trong trách nhiệm do vi phạm hợp đồng có thể do lỗi cố ý hoặc
vô ý của người không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng, trừ trường
hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Trong trách nhiệm dân
sự do vi phạm hợp đồng, chủ thể không liên quan đến quan hệ hợp đồng nếu như
chứng minh được là có lỗi thì vẫn phát sinh trách nhiệm bồi thường.
Các hệ thống pháp luật khác nhau có những quan niệm khác nhau về việc
có xem yếu tố lỗi là một trong những điều kiện xác định trách nhiệm dân sự nói
chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng nói riêng hay
không?


10

Trong pháp luật Anh – Mỹ, hợp đồng xem như nghĩa vụ bảo đảm và
người có nghĩa vụ “trách nhiệm tuyệt đối”. Nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì họ phải chịu trách nhiệm do vi phạm
hợp đồng (breach of contract) mà không phụ thuộc vào việc họ có lỗi hay không.
Khi xét xử tại Toà án, Thẩm phán sẽ chỉ quan tâm việc thực hiện nghĩa vụ của
họ đã hoàn tất và tuân thủ của các bên hay không mà thôi.
Ngược lại hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa, pháp luật Việt Nam quan
tâm đến yếu tố lỗi trong việc xác định trách nhiệm do vi phạm hợp đồng. Điều
này có nghĩa rằng, đối với trách nhiệm vi phạm hợp đồng nói chung và trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng nói riêng thì nếu bên vi phạm
nghĩa vụ hợp đồng có lỗi sẽ phải gánh chịu trách nhiệm do vi phạm hợp đồng đó.
1.1.2 Lỗi và hình thức lỗi trong trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại

ngoài hợp đồng
Có thể đưa ra định nghĩa về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng như sau: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là trách nhiệm
dân sự, theo đó, người có hành vi trái pháp luật xâm hại đến tính mạng, sức
khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của cá
nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà
gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại. Hay nói cách
khác, nếu pháp luật quy định về nghĩa vụ mà có người vi phạm thì phải chịu
trách nhiệm và trách nhiệm đó được coi là trách nhiệm ngoài hợp đồng.
Về lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, các chuyên
gia, nhà khoa học có nhiều quan điểm khác nhau, xoay quanh các nội dung:
Thứ nhất, lỗi trong trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng được quy định
trong luật hay là lỗi suy đoán? Về vấn đề này, có quan điểm cho rằng lỗi trong


11

bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là lỗi suy đoán5. Điều này được giải thích
bởi, khoản 2 Điều 584 Bộ luật dân sự 2015 không đề cập đến yếu tố lỗi trong
căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường mà chỉ quy định việc người thiệt hại
không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát
sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi cho bên bị thiệt hại. Như
vật, theo Bộ luật dân sự 2015, lỗi ở đây là lỗi suy đoán, tức là người gây thiệt hại
luôn được suy đoán là có lỗi và chính người này phải gạt bỏ sự suy đoán đó bằng
cách chứng minh điều ngược lại, người vi phạm chỉ được miễn trách nhiệm nếu
như họ chứng minh được họ không có lỗi hoặc rơi vào trường hợp bất khả
kháng.
Nhưng có quan điểm cho rằng, lỗi trong trách nhiệm dân sự ngoài hợp
đồng là lỗi phải do pháp luật quy định trước về hình thức và mức độ. Điều này
được lý giải như sau: Trong trách nhiệm dân sự, điều kiện lỗi không thể thiếu

trong việc xác định. Bên cạnh đó, điều luật đã quy định rõ về hình thức lỗi (Điều
364 Bộ luật Dân sự 2015 về lỗi cố ý và lỗi vô ý. Ngoài ra, khi xác định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, cần phải xác định yếu tố lỗi để có
căn cứ quy trách nhiệm cho người có hành vi trái pháp luật – người có hành vi
có lỗi phải bồi thường thiệt hại. Bên cạnh đó, cần phải phân biệt những trách
nhiệm dân sự liên quan đến những quan hệ dân sự và những chủ thể nhất định
trong quan hệ dân sự và trách nhiệm dân sự của chủ thể. Việc suy đoán lỗi là
không cần thiết.6

5

Trịnh Tuấn Anh, “Bàn về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo Bộ luật
dân sự 2015”, Tạp chí Kiểm sát, số 19 (tháng 10/2016), tr.38
Hứa Thu Hằng, Luận văn “Yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”, 2014, tr.20
6

PGS. TS Phùng Trung Tập, “Luật Dân sự Việt Nam (Bình giải và áp dụng) – Trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng”, Nxb Công an nhân dân, 2017, tr.79
Ths. Lê Văn Sua, “ Bàn về sự kiện bất khả kháng và nguyên tắc suy đoán lỗi tại điều 584 Bộ luật dân sự
2015”.
/>ListId=75a8df79-a725-4fd5-9592-517f443c27b6&SiteId=b11f9e79-d495-439f-98e6-


12

Thứ hai, yếu tố lỗi có cần thiết trong việc xác định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng? Về vấn đề này, cũng có nhiều quan điểm khác
nhau. Một số chuyên gia, nhà nghiên cứu cho rằng, việc xác định lỗi là không
cần thiết – tức là không nên quy định là một trong những điều kiện phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.7

Tuy nhiên, tác giả đồng tình với quan điểm cho rằng, việc xác định yếu tố
lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là cần thiết8. Bởi lẽ,
hành vi gây thiệt hại là hành vi của con người thể hiện dưới một trong hai hình
thức lỗi cố ý và lỗi vô ý. Lỗi là liên quan đến nhận thức của chủ thể. Yếu tố lỗi
đóng vai trò quan trọng trong việc chứng minh nhận thức của chủ thể khi thực
hiện hành vi trái pháp luật để từ đó xác định trách nhiệm của cá nhân đó trong
việc bồi thường thiệt hại. Tất nhiên, có loại trách nhiệm không cần xác định điều
kiện lỗi – đó là trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra (khoản 3 Điều
584). Mặt khác, yếu tố lỗi là căn cứ để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trong một số trường hợp mà luật đã quy định:
- Lỗi hoàn toàn do bên bị thiệt hại thì người gây thiệt hại không phải chịu
trách nhiệm bồi thường (khoản 2 Điều 584).
- Cá nhân thiệt hại không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với
khả năng kinh tế của mình, thì người này có thể được giảm mức bồi thường thiệt
hại (khoản 2 Điều 585).
Ngoài ra, yếu tố lỗi còn được xác định trong trường hợp khi bên bị thiệt
hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường thiệt hại do lỗi của
4bd81e36adc9&ItemID=2103&SiteRootID=b71e67e4-9250-47a7-96d6-64e9cb69ccf3. Truy cập ngày
2/3/2017
7
Đỗ Văn Đại – Lê Hà Huy Phát, Những điểm mới trong chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong
Bộ luật dân sự năm 2015, Tạp chí Toà án nhân dân, số 7 (tháng 4/2016), tr.14
Đỗ Văn Đại, Về những nhược điểm từ việc yêu cầu yếu tố lỗi, Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt
Nam – Bản án và bình luận bản án, (Tập 1), NXB Đại học quốc gia TP Hồ Chí Minh, 2014, tr 138.
8
PGS. TS Phùng Trung Tập, “Luật Dân sự Việt Nam (Bình giải và áp dụng) – Trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng”, Nxb Công an nhân dân, 2017, tr.80


13


mình gây ra (khoản 4 Điều 585).
1.1.2.1 Lỗi vô ý
Lỗi vô ý là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có
khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra
hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại nhưng cho rằng thiệt
hại xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
1.1.2.2 Lỗi cố ý
Lỗi cố ý là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây
thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy không mong
muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.
Về mặt khách quan, quy định trên đã dự liệu trường hợp người gây thiệt
hại nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực
hiện, cho dù người đó mong muốn hoặc không mong muốn nhưng đã có thái độ
để mặc cho thiệt hại xảy ra thì người đó phải chịu trách nhiệm dân sự về hành vi
có lỗi cố ý.
Về mặt chủ quan, người gây thiệt hại khi thực hiện hành vi luôn nhằm
mục đích thiệt hại xảy ra cho người khác và được thể hiện ở dưới 2 mức độ:
- Mong muốn có thiệt hại xảy ra.
- Không mong muốn có thiệt hại nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.
Mức độ thể hiện ý chí – hành vi cố ý gây thiệt hại trong trường hợp người
đó nhận thức tốt hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn
thực hiện thì phải chịu trách nhiệm dân sự do lỗi cố ý là nguyên nhân của
thiệt hại. Như vậy, việc biểu lộ ý chí mong muốn thiệt hại xảy ra và mối quan
hệ nhân quả giữa hành vi có ý thức của người gây thiệt hại đã làm phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Khi xác định và phân tích yếu tố lỗi trong trách nhiệm dân sự bồi


14


thường thiệt hại ngoài hợp đồng, cần thiết phải đặt yếu tố đó trong mối liên hệ
với những sự kiện pháp lý khác, mà rõ nét hơn cả là sự biến pháp lý tuyệt đối
và sự biến pháp lý tương đối là những căn cứ làm phát sinh, thay đổi và chấm
dứt quan hệ pháp luật dân sự. Sự biến pháp lý tương đối là một sự kiện pháp
lý mà sự khởi phát của nó do hành vi của con người tác động dưới hình thức
lỗi vô ý, do vậy, người có hành vi tạo ra sự kiện đó phải bồi thường thiệt hại
theo nguyên tắc bồi thường toàn bộ thiệt hại. Trong khoa học pháp lý các nhà
luật học đều thừa nhận sự biến pháp lý tương đối là sự biến do con người tác
động, còn sự thay đổi và chấm dứt của nó, con người không kiểm soát được.
Như vậy, hành vi tạo ra sự biến pháp lý tương đối là hành vi có lỗi và là hành
vi trái pháp luật. Theo khoản 2 Điều 364 Bộ luật dân sự năm 2015: “Lỗi vô ý
là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây
thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy
trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ
không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được”. Người gây thiệt hại đã không
mong muốn, không để mặc cho thiệt hại xảy ra mà là do không kiểm soát
được diễn biến của sự kiện do hành vi vô ý của mình tạo ra thì người có hành
vi đó phải bồi thường.
Cũng theo quy định tại khoản 2 Điều 584 Bộ luật dân sự năm 2015,
trách nhiệm hỗn hợp (lỗi hỗn hợp) được loại trừ. Mà theo đó, hình thức lỗi
của người bị thiệt hại không cần phải xác định, mà lỗi hiểu theo nghĩa "hoàn
toàn" thuộc về người bị thiệt hại. Áp dụng quy định này trong việc giải quyết
việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, cần phải làm rõ những vấn đề sau
đây:
Một là, thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại, thì người
gây thiệt hại không phải bồi thường. Lỗi của người bị thiệt hại có thể do vô ý
hoặc cố ý nhưng phải xác định được lỗi đó hoàn toàn thuộc về người bị thiệt



15

hại, theo đó người gây thiệt hại phải là người hoàn toàn không có lỗi thuộc
hình thức này hay hình thức khác, ở mức độ này hay ở mức độ khác thì người
đó không phải bồi thường. Người gây thiệt phải chứng minh được là mình
hoàn toàn không có lỗi, mà lỗi hoàn toàn thuộc về phía người bị gây thiệt hại.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại với thiệt hại xảy ra luôn luôn
xác định được trong một thiệt hại cụ thể. Nhưng trách nhiệm pháp lý có phát
sinh ở người có hành vi gây thiệt hại hay không còn tùy thuộc vào sự kiện xảy
ra hoàn toàn hay không hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại để có cơ sở
quy trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, đối với người có
hành vi gây thiệt hại. Nếu người gây thiệt hại cũng có lỗi, thì mỗi bên phải
chịu trách nhiệm dân sự tương ứng với mức độ lỗi của mình.
Hai là, lỗi không tự nó có vị trí độc lập với các yếu tố khác trong việc
xác định trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Hình thức
lỗi cũng không phải là không thể xác định. Theo nguyên tắc chung của trách
nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, thì hình thức lỗi nếu xét về
người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại không ảnh hưởng tới mức độ và
trách nhiệm bồi thường của người đó. Người gây thiệt hại dù có lỗi cố ý hay
có lỗi vô ý khi gây thiệt hại cho người khác thì người đó cũng phải bồi thường
toàn bộ thiệt hại do hành vi có lỗi của mình gây ra. Không vì người gây thiệt
hại có lỗi vô ý hoặc cố ý trong khi gây thiệt hại mà mức bồi thường tăng hay
giảm tương ứng. Tuy nhiên, trong những trường hợp cá biệt có điều kiện luật
định, thì người gây thiệt hại ngoài hợp đồng có thể được miễn giảm mức bồi
thường (do Tòa án xem xét quyết định). Những trường hợp phổ biến trong
việc miễn giảm mức bồi thường cho người gây thiệt hại thường phát sinh
trong các trường hợp sau đây: Người gây thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng
vệ chính đáng phải bồi thương cho người bị thiệt hại (Điều 594); Trường hợp
thiệt hại xảy ra do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết thì người gây thiệt



16

hại phải bồi thường phần thiệt hại xảy ra do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp
thiết cho người bị thiệt hại (Điều 595)…
Ba là, lỗi phản ánh yếu tố tâm lý của con người, có tác động trực tiếp
đến hành vi của người đó và thiệt hại xảy ra do hành vi vô ý vì cẩu thả, vô ý
vì quá tự tin mà gây ra thiệt hại đã phản ánh yếu tố tâm lý chủ quan của người
đó. Việc xác định trách nhiệm hỗn hợp căn cứ vào mức độ lỗi của mỗi bên đã
có tính thuyết phục, bởi tính hợp lý của cách xác định đó. Qua phân tích trên,
đã loại trừ trường hợp cả người bị thiệt hại và người gây thiệt hại đều có lỗi
cố ý trong việc gây thiệt hại, mong muốn thiệt hại xảy ra cho nhau và cho
chính bản thân mình.
Đến đây có thể hiểu như thế nào về trường hợp người bị thiệt hại hoàn
toàn có lỗi, và lỗi đó là lỗi vô ý hay cố ý. Mối liên hệ giữa lỗi vô ý của người
gây thiệt hại và lỗi cố ý của người bị thiệt hại có ảnh hưởng đến việc xác định
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của các bên.
Có thể thấy, lỗi và hình thức lỗi là kết hợp của sự nhận thức, động cơ,
mục đích, thái độ, sự quan tâm đến hậu quả của người thực hiện hành vi. Để xác
định chính sách một hành vi gây thiệt hại thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý, cố ý
trực tiếp hay cố ý gián tiếp thì người tiến hành tố tụng phải xem xét hoàn cảnh,
điều kiện thực hiện hành vi và xem xét mối liên hệ giữa hành vi gây thiệt hại và
thiệt hại thực tế xảy ra.


17

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có vị trí, vai trò
quan trọng trong đời sống dân sự. Nó quan trọng ở chỗ, khi các quyền và lợi ích

hợp pháp của các tổ chức, cá nhân bị xâm hại bởi hành vi trái pháp luật hoặc các
yếu tố khách quan khác đem lại mà không có sự thoả thuận trước bởi một hợp
đồng thì quy định của pháp luật dân sự hay chế định bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng càng trở nên cần thiết. Để xác định việc bồi thường và mức bồi thường
dựa các căn cứ khác nhau, trong đó, có yếu tố lỗi. Vì vậy, Chương I của tác giả
đã hàm chứa các nội dung:
Thứ nhất, về khái niệm lỗi nói chung, khái niệm này không được quy định
Bộ luật dân sự quy định. Tác giả đã đưa ra các quan điểm của các nhà nghiên
cứu khác nhau về khái niệm lỗi để bình luận và phân tích. Quan niệm phù hợp
với điều kiện hoàn cảnh hiện nay và được nhiều nhà khoa học ủng hộ, coi lỗi là
lỗi là thái độ tâm lý của người vi phạm nghĩa vụ dân sự, phản ánh nhận thức của
người đó đối với hành vi và hậu quả của hành vi mà họ thực hiện.
Thứ hai, về lỗi trong trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng, tác giả đã
đưa ra những lý luận cơ bản về lỗi trong trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp
đồng. Để từ đó, có sự phân biệt, làm rõ lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng.
Thứ ba, về lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, tác
giả đã giải quyết hai câu hỏi đặt ra: 1, Lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng là suy đoán hay được quy định? 2, Yếu tố lỗi có cần thiết trong
xác định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng? Tác giả cho rằng, với câu hỏi số 1,
lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là lỗi suy đoán. Với
câu hỏi số 2, Yếu tố lỗi không chỉ là căn cứ để xác định bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng trong một số trường hợp cụ thể mà còn là căn cứ để xác định
mức bồi thường và trách nhiệm của các bên.
Thứ tư, về các hình thức lỗi, tác giả đã đưa ra các hình thức lỗi theo quy
định của Bộ luật dân sự và phân tích các yếu tố của các hình thức lỗi.


18


Chƣơng 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ LỖI TRONG TRÁCH NHIỆM
BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG VÀ THỰC TIỄN ÁP
DỤNG TẠI LẠNG SƠN
2.1. Thực trạng pháp luật về lỗi trong trách nhiệm bồi thƣờng thiệt
hại ngoài hợp đồng
Để giải quyết các vụ tranh chấp đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng,
Toà án nhân dân trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn đã áp dụng các văn bản pháp luật
trực tiếp như: Bộ luật Dân sự 2015 và Nghị quyết số 03/2006/NQ – HĐTP ngày
08/7/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự về bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng. Ngoài ra, khi áp dụng trong những trường hợp cụ thể,
Toà án nhân dân còn áp dụng một số các văn bản pháp luật có liên quan đến các
lĩnh vực như Luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước; Luật bảo vệ môi
trường….Như vậy, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ban hành một số
lượng đáng kể các văn bản hướng dẫn áp dụng chế định bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, mức độ khái quát, có thể thấy các quy định pháp luật
vẫn tồn tại một số bất cập, đặc biệt là trong việc xác định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng của các bên trong những trường hợp cụ thể và trong
việc áp dụng yếu tố lỗi.
2.1.1 Xác định lỗi do hành vi trái pháp luật gây ra
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi trái pháp luật gây ra được
quy định dưới dạng nguyên tắc chung và cơ bản tại khoản 1 điều 584 Bộ luật
dân sự năm 2015; Bên cạnh đó, Bộ luật dân sự còn quy định các trường hợp cụ
thể như bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại xảy ra do người chưa
thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây ra; trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của cán bộ, công chức, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố


19


tụng gây ra; do người dùng chất kích thích gây ra.
Khoản 1 Điều 584 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “1. Người nào có
hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản,
quyền lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi
thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có quy định khác”
Hành vi trái pháp luật mà gây thiệt hại, xâm phạm lợi ích của các chủ thể
dân sự có thể là hành vi vi phạm pháp luật hình sự, luật hành chính, luật dân sự.
Các hành vi vi phạm quy tắc trong sinh hoạt cộng đồng dân cư nếu gây thiệt hại
cũng phải bồi thường. Hành vi trái pháp luật xâm phạm các quan hệ xã hội, xâm
phạm các quyền tài sản (quyền sở hữu và cá quyền khác về vật) và quyền nhân
thân (quyền được bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín… )
của chủ thể dân sự.
Hành vi trái pháp luật là hành vi của một người được tiến hành gây ra
những thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần của tổ chức, của Nhà nước….mà
những lợi ích đó được pháp luật quy định bảo vệ. Trong trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng, trên thực tế thường phát sinh từ những sự kiện do hành
vi cố ý hoặc vô ý của người gây ra thiệt hại. Hành vi gây thiệt hại phải xác định
được là hành vi trái pháp luật, người gây thiệt hại phải bồi thường. Để giải quyết
thoả đáng vấn đề đặt ra, sự cần thiết phải làm rõ mối quan hệ giữa hậu quả pháp
lý của hành vi vi phạm hợp đồng và hành vi gây thiệt hại cho người khác không
theo bất kỳ hợp đồng giữa người bị thiệt hại hoặc người gây thiệt hại. Mối liên
hệ đó được thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, một người có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng nhưng có hành vi
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ theo hợp
đồng là người có hành vi trái pháp luật. Vì những quyền và nghĩa vụ hợp pháp
của các bên được xác lập từ hợp đồng, được pháp luật thừa nhận giá trị pháp lý
và tính hiệu lực của hợp đồng theo nguyên tắc hợp đồng dân sự được giao kết


20


hợp pháp có hiệu lực bắt buộc đối với các bên.
Thứ hai, hành vi của người gây ra những thiệt hại về tài sản, tính mạng,
sức khoẻ và các quyền nhân thân của người khác là hành vi trái pháp luật. Bởi
vì, những quyền dân sự hợp pháp của cá nhân, tổ chức và nhà nước luôn được
bảo hộ bằng pháp luật. Pháp luật luôn quy định biện pháp ngăn chặn, cấm đoán
và chế tài đối với mọi hành vi dưới bất kỳ hình thức nào mà vi phạm những
quyền dân sự đó của người khác. Tuy nhiên, pháp luật có quy định những trường
hợp ngoại lệ như: hành vi thực hiện phương pháp chữa bệnh mới trên cơ thể một
người, việc gây mê, mổ…. (Điều 33 Bộ luật Dân sự 2015); gây thiệt hại trong
những trường hợp phòng vệ chính đáng (Điều 594); gây thiệt hại trong tình thế
cấp thiết; người bị thiệt hại có lỗi cố ý, mong muốn thiệt hại xảy ra đối với mình.
Lỗi của pháp nhân, của cơ quan nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng…
trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được xác định thông qua
lỗi của nhân viên các cơ quan này khi thực hiện nhiệm vụ được giao. Vì vậy, các
cơ quan này phải bồi thường thiệt hại do thành viên của họ gây ra khi thực hiện
nhiệm vụ được giao. Sau đó căn cứ vào hành vi, tính chất lỗi cho nhân viên khi
thực hiện nhiệm vụ và thiệt hại xảy ra mà họ phải thực hiện trách nhiệm bồi
hoàn ngược lại cho cơ quan, đơn vị của mình, phải bù lại khoản bồi thường mà
cơ quan đã đứng ra thực hiện do hành vi gây thiệt hại của họ.
Trong trường hợp người không có khả năng nhận thức và làm chủ được
hành vi của mình như người không có năng lực hành vi dân sự, người mất năng
lực hành vi dân sự thì không có lỗi trong việc thực hiện hành vi gây thiệt hại nên
họ không phải chịu trách nhiệm bồi thường. Trong trường hợp này thì cha mẹ,
người giám hộ, bệnh viện, trường học là những người theo quy định của pháp
luật phải chăm sóc, giáo dục, quản lý người gây thiệt hại… đã không thực hiện
nghĩa vụ của mình và phải chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, nếu người giám hộ
chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải bồi



×