Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Thụ lý vụ án dân sự và thực tiễn áp dụng tại các tòa án nhân dân tỉnh lạng sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.69 MB, 79 trang )

B GIO DC V O TO

B T PHP

TRNG I HC LUT H NI

HONG VN DUY

THụ Lý Vụ áN DÂN Sự Và THựC TIễN áP DụNG
TạI CáC TòA áN NHÂN DÂN TỉNH LạNG SƠN

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2018


B GIO DC V O TO

B T PHP

TRNG I HC LUT H NI

HONG VN DUY

THụ Lý Vụ áN DÂN Sự Và THựC TIễN áP DụNG
TạI CáC TòA áN NHÂN DÂN TỉNH LạNG SƠN

LUN VN THC S LUT HC

Chuyờn ngnh : Lut dõn s v T tng dõn s
Mó s



: 8 38 01 03

Ngi hng dn khoa hc: TS. Lu Tin Dng

H NI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Hoàng Văn Duy


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ

6


1.1.

Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của thụ lý vụ án dân sự

6

1.2.

Quy định của pháp luật tố tụng dân sự về thụ lý vụ án dân sự

19

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI CÁC TÒA ÁN
NHÂN DÂN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN VÀ ĐỀ
XUẤT, KIẾN NGHỊ

2.1.

2.2.

40

Thực trạng thụ lý vụ án dân sự tại các Tòa án nhân dân trên địa
bàn tỉnh Lạng Sơn

40

Một số đề xuất, kiến nghị

55


KẾT LUẬN

61

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHÀO


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

Trang

bảng
2.1

Số vụ án dân sự đã thụ lý và giải quyết trên phạm vi cả
nước (2012 - 2017)

2.2

41

Số liệu số vụ án dân sự đã thụ lý và giải quyết tại các Tòa
án nhân dân trên phạm vi tỉnh Lạng Sơn (2012-2017)

2.3


42

Số liệu số vụ án dân sự đã thụ lý và giải quyết tại Tòa án
nhân dân tỉnh và các Tòa án nhân dân huyện
trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn (2012-2017)

2.4

43

Số liệu loại vụ án dân sự đã thụ lý và giải quyết tại Tòa án
nhân dân trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn (2012-2017)

44

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Số hiệu

Tên biểu đồ

Trang

biểu đồ
2.1

Tỷ lệ các loại vụ việc dân sự đã thụ lý tại các Tòa án nhân
dân trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn

2.2


45

Tỷ lệ các loại vụ việc dân sự đã giải quyết tại các Tòa án
nhân dân trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn

45


1
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài
Thụ lý vụ án dân sự là giai đoạn đầu tiên trong trình tự, thủ tục giải
quyết vụ án dân sự của Tòa án. Thụ lý vụ án xác định Tòa án có trách nhiệm,
thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự, đồng thời, là cơ sở pháp lý để Tòa án tiến
hành các hoạt động tố tụng, giải quyết vụ án. Hoạt động thụ lý vụ án dân sự
được tiến hành đúng quy định của pháp luật sẽ tạo tiền đề để giải quyết vụ án
dân sự nhanh chóng, chính xác và hiệu quả. Pháp luật tố tụng dân sự quy định
mỗi vụ án dân sự phải được giải quyết trong một thời hạn nhất định và căn cứ
để tính thời hạn là thời điểm Tòa án thụ lý vụ án. Do đó, việc Tòa án thụ lý vụ
án còn là căn cứ để kiểm tra thời hạn giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án,
nếu vụ án dân sự bị kéo dài quá thời hạn đương sự có thể khiếu nại. Nếu Tòa
án thực hiện đúng thủ tục thụ lý vụ án, thời hạn giải quyết vụ án được bảo
đảm, không còn tình trạng vụ án tồn đọng kéo dài. Thụ lý vụ án dân sự còn có
ý nghĩa thiết thực bảo đảm việc bảo vệ kịp thời những quyền và lợi ích hợp
pháp của các chủ thể trong các lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình, lao
động, kinh doanh thương mại, bảo đảm cho việc thực thi pháp luật, góp phần
bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Nhằm thể chế hóa tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW năm 2005 của
Bộ Chính trị "Hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ,
dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người... tạo

điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý", Bộ luật Tố tụng dân sự
2015 có hiệu lực kể từ ngày 1/7/2016 đã có nhiều điểm mới so với nội dung
của Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 (sửa đổi, bổ sung 2011), trong đó, thụ lý vụ
án dân sự cũng là vấn đề được chú trọng và sửa đổi bổ sung nhiều nội dung,
cụ thể: (i). Đã rút ngắn thời gian phải nộp tiền tạm ứng án phí từ 15 ngày
xuống còn 7 ngày kể từ ngày nhận được thông báo nộp tiền tạm ứng án phí


2
của Tòa án; (ii). Bổ sung thêm các nhiệm vụ của Thẩm phán được phân công
giải quyết vụ án trong quá trình thụ lý vụ án: Lập hồ sơ vụ án và tiến hành xác
minh, thu thập chứng cứ theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 97 của Bộ
luật Tố tụng dân sự 2015; (iii). Bổ sung quy định trường hợp nguyên đơn có
đơn yêu cầu Tòa án hỗ trợ trong việc gửi tài liệu, chứng cứ thì kèm theo thông
báo về việc thụ lý vụ án, Tòa án gửi cho bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan bản sao tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp. Việc quy định
như vậy nhằm bảo đảm cho các bên có thể chuẩn bị tốt nhất cho việc tham gia
xét xử sau này, đồng thời bảo đảm tính khách quan, minh bạch trong hoạt
động xét xử vụ án dân sự của Tòa án.
Đối với Tòa án nhân dân các cấp trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn, công tác
giải quyết các vụ án dân sự nói chung, hoạt động thụ lý vụ án dân sự nói riêng
được các cấp Tòa án thực hiện khá tốt, với tỷ lệ giải quyết vụ án dân sự khá cao,
cao hơn tỷ lệ trung bình của cả nước, cụ thể: Năm 2013, thụ lý: 347 vụ/việc,
giải quyết 318 vụ/việc, đạt tỷ lệ 91,6%; Năm 2014, thụ lý: 287 vụ/việc, giải
quyết 245 vụ/việc, đạt tỷ lệ 85,3%; Năm 2015, thụ lý: 323 vụ/việc, giải quyết
322 vụ/việc, đạt tỷ lệ 97,7%; Năm 2016, thụ lý: 314 vụ/việc, giải quyết 231
vụ/việc, đạt tỷ lệ 74%; Năm 2017, thụ lý: 317 vụ/việc, giải quyết 297 vụ/việc,
đạt tỷ lệ 93,7%. Đồng thời, thực tiễn xét xử tại Lạng Sơn cho thấy, những Tòa
án nhân dân cấp nào, huyện nào coi trọng việc thụ lý vụ án dân sự thì kết quả
bản án được ban hành khách quan, công bằng và đúng pháp luật và ngược lại,

giảm rõ rệt tình trạng tồn đọng án.
Tuy vậy, qua thực tiễn xét xử vụ án dân sự nói chung, hoạt động thụ
lý vụ án dân sự nói trên tại các Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn,
nhận thấy một số quy định về thụ lý vụ án dân sự trong Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015 vẫn tiếp tục phải nghiên cứu hoàn thiện, bên cạnh đó, thực
trạng hoạt động thụ lý vụ án dân sự cũng giống như thực trạng thụ lý vụ án
trên phạm vi cả nước còn tồn tại những bất cập, khó khăn, vướng mắc nhất


3
định, cần phải được tháo gỡ, khắc phục, cũng như nâng cao chất lượng hiệu
quả trong thời gian tới. Điều này đặt ra yêu cầu tiếp tục nghiên cứu các quy
định về thụ lý vụ án dân sự nhằm phát hiện những bất cập, vướng mắc và
kiến nghị hoàn thiện pháp luật, đồng thời cần có những đánh giá trên thực
tiễn thụ lý vụ án dân sự từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác này.
Do đó, tác giả đã chọn đề tài: "Thụ lý vụ án dân sự và thực tiễn áp
dụng tại các Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn" làm luận văn thạc sĩ luật học
của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận về thụ lý vụ án dân sự và thực
tiễn thụ lý vụ án trong công tác giải quyết các vụ án dân sự tại các Tòa án
nhân dân trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động thụ lý vụ án dân sự góp phần bảo đảm tính
khách quan, minh bạch trong hoạt động xét xử vụ án dân sự của Tòa án, bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
(i). Làm rõ một số vấn đề lý luận về thụ lý vụ án dân sự (khái niệm,
đặc điểm, vai trò của thụ lý vụ án dân sự, một số tác động đến hoạt động thụ lý

vụ án dân sự và quy định của pháp luật tố tụng dân sự về thụ lý vụ án dân sự);
(ii). Thực trạng thụ lý vụ án dân sự tại các Tòa án nhân dân trên địa
bàn tỉnh Lạng Sơn (kết quả, những vấn đề còn tồn tại, khó khăn, vướng mắc,
nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc);
(iii). Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động thụ lý vụ án
dân sự nói chung và tại các Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn nói
riêng (về tiếp tục hoàn thiện pháp luật, về đào tạo bồi dưỡng nâng cao năng
lực cán bộ, về hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật…).


4
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu luận văn là những vấn đề lý luận về thụ lý vụ án
dân sự, quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thụ lý vụ án dân sự và
thực trạng thụ lý vụ án dân sự tại các Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi về nội dung: Luận văn tập trung đánh giá, phân tích, làm rõ
quy định pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về thụ lý vụ án dân sự;
+ Phạm vi về thời gian: Luận văn đánh giá thực trạng thụ lý vụ án dân
sự trong khoảng thời gian 06 năm (04 năm trước khi có Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015 có hiệu lực pháp luật (2012, 2013, 2014, 2015), 02 năm sau khi Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2015 có hiệu lực pháp luật (2016, 2017);
+ Phạm vi về không gian: Luận văn đánh giá thực trạng thụ lý vụ án
dân sự tại các Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được hoàn thành trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Luận văn sử dụng tổng hợp, kết hợp nhiều phương pháp phổ biến
trong nghiên cứu khoa học hiện nay: Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống
kê, so sánh v.v… để thực hiện luận văn.
5. Những điểm mới về khoa học
(i) Góp phần nhận thức thống nhất về một số vấn đề lý luận về thụ lý
vụ án dân sự (khái niệm, đặc điểm, vai trò, một số yếu tố tác động);
(ii) Phân tích làm rõ nội dung các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015 về thụ lý vụ án dân sự.
(iii) Đánh giá đúng, đủ thực trạng thực hiện thụ lý vụ án dân sự từ góc
độ giải quyết vụ án dân sự nói chung và thụ lý vụ án dân sự nói riêng tại các
Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn;


5
(iv) Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
thụ lý vụ án nói chung và tại các Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn nói riêng.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thụ lý vụ án dân sự.
Chương 2: Thực trạng thụ lý vụ án dân sự tại các Tòa án nhân dân trên
địa bàn tỉnh Lạng Sơn và đề xuất, kiến nghị.


6
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của thụ lý vụ án dân sự
1.1.1. Khái niệm thụ lý vụ án dân sự
Trong trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự, thụ lý vụ án dân sự là

hoạt động đầu tiên của Tòa án nhân dân và có ý nghĩa quan trọng, bởi lẽ nếu
không có thụ lý vụ án thì không có quá trình tố tụng. Mặt khác, ngày thụ lý vụ
án cũng chính là thời điểm tính thời hạn tố tụng mà Tòa án phải giải quyết vụ
án theo luật định, do đó, thụ lý vụ án dân sự là vấn đề không mới trong lịch sử
lập pháp tố tụng dân sự và là vấn đề mà nhiều nhà khoa học, chuyên gia quan
tâm nghiên cứu, làm rõ.
Dưới góc độ lịch sử lập pháp tố tụng dân sự, ngay sau khi Nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, ngày 10/10/1945, Nhà nước đã
ban hành Sắc lệnh số 47/SL cho phép áp dụng luật lệ cũ để xét xử nhưng
"không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể Cộng
hòa", trong đó Điều 11 quy định về thủ tục tố tụng cho phép về tạm thời giữ
thủ tục tố tụng chế độ cũ. Đến ngày 17/4/1946, Nhà nước đã ban hành Sắc
lệnh số 51/SL có quy định về việc kiện, khởi tố và thụ lý vụ án, tuy nhiên,
trong đó không có quy định thụ lý như thế nào, các sắc lệnh sau đó như Sắc
lệnh số 97/SL, Sắc lệnh số 85/SL cũng chỉ mới dừng lại ở việc quy định về
nguyên tắc giải quyết các vụ án dân sự mà chưa có quy định cụ thể về thụ lý
vụ án dân sự.
Luật hôn nhân và gia đình năm 1959, Luật tổ chức Tòa án nhân dân
năm 1960 lần lượt được ban hành, kèm theo một khối lượng lớn các văn bản
hướng dẫn thủ tục giải quyết các tranh chấp về dân sự, đặc biệt là thủ tục giải
quyết ly hôn. Trong đó có Thông tư số 39 ngày 21/01/1972 của Tòa án nhân
dân tối cao hướng dẫn việc thụ lý, di lý, xếp và tạm xếp những việc kiện về


7
hôn nhân và gia đình, tranh chấp về dân sự. Trong thông tư này, Tòa án nhân
dân tối cao đã hướng dẫn cụ thể việc thụ lý vụ án dân sự như sau: "khi nghiên
cứu một đơn kiện, Thẩm phán cần xem xét nội dung của đơn kiện có rõ ràng
không, vụ kiện có thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án không, nguyên đơn có
đủ tư cách đi kiện không. Nếu nhận thấy nội dung đơn kiện tư cách đi kiện thì

Thẩm phán phải thụ lý vụ kiện. Việc đó phải được vào sổ thụ lý ngay". Thông
tư này đã trở thành văn bản pháp lý quan trọng, góp phần vào giải quyết các
tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình được nhanh chóng và hiệu quả.
Sau Hiến pháp năm 1980, nhiều văn bản pháp luật tố tụng đã được
ban hành, trong đó có Pháp lệnh Thủ tục giải quyết vụ án dân sự năm 1989,
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết vụ án kinh tế năm 1994, Pháp lệnh Thủ tục giải
quyết vụ án lao động năm 1996. Đây là những văn bản pháp luật quan trọng
có ý nghĩa rất lớn về thủ tục giải quyết các vụ án dân sự trong thời kỳ này, đặc
biệt vấn đề thụ lý vụ án cũng đã được quy định trong các văn bản pháp luật
này tạo cơ sở pháp lý cho quá trình giải quyết vụ án dân sự.
Đặc biệt, ngày 15/6/2004, Quốc hội đã thông qua Bộ luật Tố tụng dân
sự. Bộ luật này có hiệu lực từ ngày 01/1/2005, đã quy định thống nhất một thủ
tục để giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động, trong đó dành hẳn chương XII để quy định về vấn đề khởi kiện
và thụ lý vụ án dân sự với 18 điều từ Điều 161 đến Điều 178. Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2004 đã xác định rõ các chủ thể có quyền khởi kiện vụ án dân sự;
thẩm quyền thụ lý giải quyết của Tòa án; các điều kiện thụ lý vụ án dân sự,
quy định các trường hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện tại khoản 1 Điều 168,
khoản 2 Điều 169 Bộ luật Tố tụng dân sự, quyền khiếu nại của người khởi
kiện khi nhận lại đơn khởi kiện, việc thông báo thụ lý vụ án dân sự, quyền và
nghĩa vụ của người được thông báo. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 đã làm
thay đổi cơ bản các quy định về thủ tục tố tụng dân sự nói chung và các quy
định về thụ lý vụ án dân sự nói riêng, tạo nền tảng quan trọng để các Tòa án


8
giải quyết vụ án được nhanh chóng, kịp thời, chính xác, góp phần không nhỏ
vào quá trình thực hiện pháp chế xã hội chủ nghĩa, ổn định xã hội, tạo niềm
tin nhân dân.
Đến Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, các quy định về thụ lý vụ án

dân sự tiếp tục được hoàn thiện với nhiều quy định được sửa đổi, bổ sung,
như: Rút ngắn thời gian phải nộp tiền tạm ứng; bổ sung thêm các nhiệm vụ
của Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án trong quá trình thụ lý vụ án;
bổ sung quy định trường hợp nguyên đơn có đơn yêu cầu Tòa án hỗ trợ trong
việc gửi tài liệu, chứng cứ thì kèm theo thông báo về việc thụ lý vụ án… điều
này tạo điều kiện thuận lợi cho đương sự thực hiện quyền khởi kiện của mình,
cũng như tạo điều kiện cho Tòa án nhân dân thực hiện hoạt động thụ lý vụ án
của mình một cách hiệu quả.
Dưới góc độ khoa học pháp lý, khái niệm thụ lý vụ án dân sự được
nhiều nhà khoa học, chuyên gia quan tâm, nghiên cứu, cụ thể:
Quan điểm thứ nhất cho rằng Thụ lý vụ án là bắt đầu tiếp nhận một vụ
việc để xem xét và giải quyết, đó là việc Tòa dân sự nhận đơn yêu cầu của
đương sự xem xét giải quyết một vụ việc để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của cá nhân, pháp nhân, tổ chức, cơ quan1.
Quan điểm thứ hai cho rằng thụ lý vụ án dân sự là việc Tòa án nhân
đơn khởi kiện của người khởi kiện và vào sổ thụ lý vụ án dân sự để giải quyết2.
Quan điểm thứ ba cho rằng thụ lý vụ án là việc Tòa án nhân đơn khởi
kiện và trong thời hạn luật định ra một trong các quyết định thụ lý vụ án,
chuyển cơ quan có thẩm quyền hoặc trả lại đơn khởi kiện3.
Quan điểm thứ tư cho rằng thụ lý vụ án dân sự là công việc đầu tiên
của Tòa án trong quá trình tố tụng, nếu không có việc thụ lý vụ án của Tòa
1. Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa, Nxb Tư pháp, tr. 732
2. Trần Anh Tuấn (2017), Bình luận Khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2011, Nxb Tư pháp, tr. 453
3. Lê Thu Hà (2006), Bình luận khoa học một số vấn đề của phấp luật tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 245


9
thì sẽ không có các bước tiếp theo của quá trình tố tụng, bao gồm hai hoạt
động cơ bản là nhận đơn khởi kiện, xem xét và vào sổ thụ lý vụ án dân sự để

giải quyết4.
Quan điểm thứ năm cho rằng thụ lý vụ án dân sự là việc Tòa án có
thẩm quyền chấp nhận, giải quyết đơn khởi kiện của đương sự và vào sổ thụ
lý vụ án dân sự để giải quyết theo định của pháp luật tố tụng dân sự 5.
Như vậy, về cơ bản các quan điểm đều cơ bản thống nhất, thụ lý vụ án
dân sự là công việc hoạt động (giai đoạn) đầu tiên của Tòa án trong quá trình
giải quyết vụ án dân sự, đều khẳng định được bản chất của việc Tòa án thụ lý
vụ án dân sự là việc Tòa án đã xác nhận trách nhiệm giải quyết vụ án dân sự.
Thụ lý vụ án dân sự không đơn thuần chỉ là hành vi nhận đơn yêu cầu mà là
cả một quy trình, gồm nhiều bước khác nhau để đi đến quyết định cuối cùng
là thụ lý vụ án dân sự.
Về vấn đề này, tác giả cho rằng để có thể xây dựng được khái niệm
khoa học về thụ lý vụ án dân sự thì trước hết phải làm rõ khái niệm vụ án dân
sự. Theo quy định tại Điều 1 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 có thể hiểu vụ
án dân sự là các tranh chấp, mâu thuẫn phát sinh giữa các chủ thể của quan hệ
pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động,
được Tòa án chấp nhận giải quyết theo yêu cầu của một trong các bên đương
sự. Như vậy, khái niệm vụ án dân sự phải được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm
các vụ án phát sinh từ bốn lĩnh vực: dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại và lao động. Đặc điểm đầu tiên của vụ án dân sự là vụ án dân sự
có chứa đựng các mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật phi
hình sự, phi hành chính, thuộc thẩm quyền giải quyết về dân sự của Tòa án.
Vì có mâu thuẫn, tranh chấp nên trong vụ án dân sự thường hình thành ít nhất
4. Nguyễn Thu Hiền (2012), Hoàn thiện chế định khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự trong tố tụng dân sự Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 21.
5. Đặng Tất Tùng (2015), Thụ lý vụ án dân sự trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam qua thực tiễn áp dụng
trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 12.


10

hai bên đương sự đối lập nhau, tranh giành, mâu thuẫn nhau về quyền và lợi
ích. Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp cứ có mâu thuẫn, tranh chấp
về các quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại và lao động là sẽ có vụ án dân sự. Các mâu thuẫn, tranh chấp này chỉ trở
thành vụ án dân sự tại Tòa án bao gồm hai điều kiện, cụ thể: (i) có yêu cầu
giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp; (ii) được Tòa án chấp nhận giải quyết. Đây
là những đặc điểm rất khác biệt giữa vụ án dân sự với các loại vụ án khác
như: vụ án hình sự, vụ án hành chính6.
Khi có mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh từ lĩnh vực thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án và chủ thể của mâu thuẫn, tranh chấp đó có quyền yêu
cầu Tòa án giải quyết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ thì Tòa án
sẽ phải tiến hành giải quyết theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
Trình tự, thủ tục này bao gồm nhiều hoạt động tố tụng khác nhau, mà hoạt
động đầu tiên khẳng định trách nhiệm giải quyết tranh chấp thuộc về Tòa án
mà không phải thuộc về một cơ quan nhà nước có thẩm quyền nào khác là
hoạt động thụ lý vụ án dân sự. Với hoạt động thụ lý vụ án dân sự, hoạt động
này đã khởi động cho cả một quy trình tố tụng tiếp theo. Chỉ khi Tòa án tiến
hành thụ lý vụ án dân sự thì những hoạt động tố tụng tiếp theo mới được tiến
hành như hòa giải, chuẩn bị xét xử…
Bên cạnh đó, Tòa án là cơ quan có chức năng giải quyết các tranh
chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Để
giải quyết các tranh chấp này Tòa án phải thụ lý. Tuy nhiên, hoạt động thụ lý
của Tòa án có phát sinh hay không hoàn toàn phụ thuộc vào việc thời hiệu
quyền khởi kiện vụ án dân sự của các đương sự có đúng các quy định của
pháp luật không, đối tượng tranh chấp được xác định trên cơ sở yêu cầu của
bên này đối với bên kia có thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án hay
6. Đặng Tất Tùng (2015), Thụ lý vụ án dân sự trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam qua thực tiễn áp dụng
trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 12.



11
không. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ án khi có đơn khởi kiện hợp pháp của
đương sự.
Như vậy, thụ lý vụ án dân sự có mối quan hệ mật thiết với các hoạt
động tố tụng khác, Tòa án chỉ tiến hành hòa giải, đưa vụ án ra xét xử sau khi
đã thụ lý vụ án. Thụ lý vụ án dân sự là một giai đoạn của tố tụng dân sự - giai
đoạn đầu tiên trong quá trình tòa án giải quyết vụ án. Thụ lý vụ án dân sự thực
chất là việc tòa án chấp nhận đơn khởi kiện xem xét giải quyết. Đây là một
hành động cụ thể của Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp. Thụ lý vụ
án làm phát sinh quyền và nghĩa vụ tố tụng của các chủ thể tham gia quan hệ
pháp luật tố tụng dân sự. Tòa án có trách nhiệm căn cứ vào các quy phạm nội
dung giải quyết tranh chấp đúng pháp luật, và để vụ án dân sự được giải quyết
đúng thời hạn và chính xác thì tòa án phải làm tốt công tác thụ lý.
Một trong các trình tự, thủ tục quan trọng nhất trong công tác thụ lý
vụ án dân sự đó là Tòa án nhận và xem xét đơn khởi kiện, và sau khi nhận
đơn khởi kiện, Tòa án sẽ tiến hành xem xét đơn khởi kiện đó, do đó đương
nhiên sẽ có một bước đó là trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện nếu
thuộc trường hợp Tòa án phải trả lại đơn khởi kiện theo quy định của pháp
luật tố tụng dân sự, hoặc sẽ chuyển đơn khởi kiện đến tòa án có thẩm quyền
giải quyết nếu thuộc trường hợp tòa án phải chuyển đơn khởi kiện của người
khởi kiện đến tòa án có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật tố
tụng dân sự. Như vậy, có thể thấy, việc trả lại đơn khởi kiện sẽ phải được tiến
hành sau một khoảng thời gian hợp lý do các nhà làm luật dự liệu để tòa án
xem xét xem có thuộc trường hợp phải trả lại đơn khởi kiện hay không. Nếu
trả lại đơn khởi kiện thì có nghĩa là Tòa án đang tiến hành giải quyết trường
hợp mà tòa án không thụ lý vụ án dân sự.
Từ nhận thức trên, có thể hiểu Thụ lý vụ án dân sự là hoạt động đầu
tiên do Tòa án nhân dân có thẩm quyền tiến hành trên cơ sở yêu cầu khởi kiện
của người có quyền khởi kiện và vào sổ thụ lý vụ án dân sự khi có đủ điều
kiện do pháp luật quy định.



12
1.1.2. Đặc điểm thụ lý vụ án dân sự
Thụ lý vụ án là hoạt động (giai đoạn) đầu tiên của quá trình tố tụng
dân sự do Tòa án có thẩm quyền thực hiện, từ đó, các mối quan hệ pháp luật
tố tụng, các hoạt động tố tụng sẽ được phát sinh, các chủ thể tố tụng dân sự sẽ
bị ràng buộc với nhau và mối quan hệ đó sẽ được điều chỉnh bằng các quy
định của pháp luật tố tụng dân sự. Trong mối quan hệ này, Tòa án là chủ thể
thực hiện quyền lực nhà nước thông qua việc thụ lý giải quyết tranh chấp và
quyết định thụ lý của Tòa án có tính bắt buộc đối với các bên. Thụ lý vụ án
dân sự có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, thụ lý vụ án dân sự là một hoạt động do Tòa án nhân dân có
thẩm quyền thực hiện.
Thụ lý vụ án là một hoạt động đặc trưng của Tòa án, là hoạt động đầu
tiên trong việc thực hiện chức năng thực hiện quyền tư pháp của Tòa án, gắn
liền với chức năng, nhiệm vụ của Tòa án mà không có một cơ quan nhà nước
trong hệ thống bộ máy nhà nước có quyền tiến hành hoạt động này. Khi
quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, các cơ quan, tổ chức và cá nhân có
nhiều phương thức khác nhau để bảo vệ quyền và lợi ích của mình, trong đó,
có quyền khởi kiện ra Tòa án. Tuy nhiên, không phải bất kỳ Tòa án nào cũng
thực hiện hoạt động thụ lý vụ án dân sự khi nhận được đơn khởi kiện mà đó
phải là Tòa án có thẩm quyền. Nghĩa vụ thụ lý vụ án dân sự đó phải thuộc
thẩm quyền chung của Tòa án, đúng thẩm quyền theo cấp của Tòa án và đúng
thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án. Khi thỏa mãn các điều kiện về thẩm
quyền thì Tòa án mới tiến hành thủ tục thụ lý vụ án; nếu không thỏa mãn thì
Tòa án sẽ phải thực hiện chuyển đơn kiện đến Tòa án có thẩm quyền xem xét
giải quyết hoặc trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện.
Thứ hai, thụ lý vụ án dân sự chỉ được thực hiện khi có yêu cầu khởi
kiện của chủ thể có quyền khởi kiện.

Như đã phân tích ở trên thụ lý vụ án dân sự là hoạt động đặc trưng của
Tòa án, nó gắn liền với chức năng, nhiệm vụ của Tòa án. Tòa án muốn thực


13
hiện được nhiệm vụ của mình là giải quyết các vụ án dân sự nhằm lập lại trật
tự cho các quan hệ xã hội thì bước đầu tiên mà Tòa án phải thực hiện là hoạt
động thụ lý vụ án dân sự. Tuy vậy, điều này không có nghĩa là Tòa án tự ý thụ
lý vụ án dân sự, Tòa án chỉ thụ lý khi có yêu cầu khởi kiện của các chủ thể có
năng lực pháp lý dân sự. Đây là nét khác biệt của tố tụng dân sự so với tố tụng
hình sự, vì ở tố tụng hình sự cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện việc giải
quyết vụ án thường xuất phát từ quyết định khởi tố của cơ quan có thẩm
quyền. Còn trong tố tụng dân sự, khi quyền lợi hợp pháp bị xâm phạm thì chủ
thể có quyền và lợi ích đó có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xem xét
giải quyết bảo vệ cho mình và khi đó Tòa án mới thực hiện được chức năng,
nhiệm vụ của mình như quy định trong Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức
Tòa án nhân dân năm 2014. Bên cạnh đó, để hạn chế những trường hợp lợi
dụng quyền khởi kiện để xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác thì pháp luật cũng đặt ra giới hạn về phạm vi và người có quyền khởi
kiện, đó phải là những người có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm và
kèm theo yêu cầu về năng lực tố tụng dân sự. Như vậy, thụ lý vụ án dân sự
được thực hiện bởi Tòa án chỉ khi có yêu cầu khởi kiện của người có quyền
khởi kiện.
Thứ ba, thụ lý vụ án dân sự là một quy trình gồm nhiều bước khác
nhau để đi đến kết quả là Tòa án vào sổ thụ lý vụ án dân sự.
Mặc dù thụ lý vụ án là giai đoạn khởi đầu cho quá trình tố tụng dân
sự, nó không đòi hỏi quá nhiều về trình độ của những người được phân công
giải quyết và cũng được pháp luật quy định khá chi tiết, nhưng nếu làm không
tốt khâu này sẽ dẫn đến những sai lầm không đáng có ở những khâu tiếp theo.
Thụ lý vụ án dân sự gồm nhiều hoạt động cơ bản: nhận đơn khởi kiện, kiểm

tra điều kiện thụ lý, dự tính tạm ứng án phí và yêu cầu người khởi kiện nộp,
vào sổ thụ lý vụ án và thông báo việc thụ lý. Tòa án khi tiếp nhận đơn khởi
kiện phải phân công người giải quyết đơn khởi kiện để quyết định có thụ lý


14
vụ án hay không. Có thể nói, thụ lý vụ án là cơ sở cho các hoạt động tố tụng
sau đó được và có làm tốt giai đoạn đầu tiên này thì ở những giai đoạn sau
mới tránh được những sai sót không đáng có, gây khó khăn cho các đương sự.
1.1.3. Vai trò của thụ lý vụ án dân sự
Thứ nhất, thụ lý vụ án dân sự bảo đảm việc bảo vệ kịp thời những
quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân trong các lĩnh vực
dân sự, kinh tế, thương mại, kinh doanh, lao động và hôn nhân gia đình; giải
quyết kịp thời các mâu thuẫn, tranh chấp trong nội bộ nhân dân, tạo niềm tin
của nhân dân vào cơ quan bảo vệ pháp luật, trong đó có Tòa án là cơ quan
trực tiếp thụ lý giải quyết.
Thứ hai, thụ lý vụ án dân sự xác định Tòa án nhân dân có trách nhiệm
giải quyết vụ án hay xác định thẩm quyền của Tòa án giải quyết vụ án dân sự.
Tức là đã có cơ quan có thẩm quyền nhận trách nhiệm giải quyết tranh chấp,
mâu thuẫn và quyết định giải quyết sẽ được đảm bảo thực hiện bằng sức
mạnh cưỡng chế Nhà nước. Khi đã nhận giải quyết Tòa án sẽ phải thực hiện
đúng chức năng, căn cứ vào các quy định của pháp luật để giải quyết dứt điểm
các tranh chấp. Tòa án sẽ phải chịu trách nhiệm về tính chính xác trong các
quyết định của mình.
Thứ ba, thụ lý vụ án dân sự là cơ sở pháp lý để Tòa án tiến hành các
hoạt động tố tụng, giải quyết vụ án. Nếu làm tốt các hoạt động thụ lý vụ án sẽ
tạo tiền đề để giải quyết vụ án nhanh chóng, chính xác và hiệu quả. Tòa án
xác định đúng quan hệ pháp luật trong giai đoạn thụ lý vụ án sẽ góp phần rất
lớn trong việc giải quyết đúng vụ án, nếu xác định sai quan hệ pháp luật và
việc giải quyết mâu thuẫn không đúng pháp luật sẽ gây bức xúc cho đương sự

dẫn đến việc khiếu nại kéo dài, mất niềm tin ở quần chúng nhân dân.
Thứ tư, thụ lý vụ án dân sự là cơ sở để Tòa án xác định thời hạn giải
quyết vụ án dân sự. Pháp luật quy định mỗi vụ án phải được giải quyết trong
một thời hạn nhất định và căn cứ để tính thời hạn là thời điểm Tòa án thụ lý.


15
Do đó việc Tòa án thụ lý vụ án là căn cứ để kiểm tra thời hạn giải quyết của
Tòa án, nếu vụ án bị kéo dài quá thời hạn đương sự có thể khiếu nại. Nếu Tòa
án thực hiện đúng thủ tục thụ lý vụ án, thời hạn giải quyết vụ án được bảo
đảm, không còn tình trạng vụ án tồn đọng kéo dài.
1.1.4. Các yếu tố tác động đến thụ lý vụ án dân sự
Hoạt động thụ lý vụ án dân sự của Tòa án là hoạt động đầu tiên, mở ra
quá trình tố tụng đối với vụ án dân sự, cũng giống với quá trình giải quyết vụ
án dân sự, hoạt động thụ lý vụ án dân sự có nhiều yếu tố tác động ảnh hưởng
đến chất lượng, hiệu quả hoạt động này, tuy nhiên, trong phạm vi luận văn
này, cũng như từ thực tiễn giải quyết vụ án dân sự nói chung, thực tiễn thụ lý
vụ án dân sự nói riêng trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn, tác giả tập trung làm rõ 03
yếu tố tác động quan trọng nhất, cụ thể:
Thứ nhất, sự hoàn thiện của hệ thống các văn bản pháp luật về giải
quyết vụ án dân sự nói chung, thủ tục thụ lý vụ án dân sự nói riêng.
Một trong những yêu cầu trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, chính là sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật. Khi áp
dụng pháp luật trong giải quyết vụ án dân sự nói chung, trong thủ tục thụ lý
vụ án dân sự nói riêng, người có thẩm quyền trong Tòa án có thẩm quyền phải
áp dụng các quy định của Hiến pháp (tư cách là đạo luật gốc, đạo luật có giá
trị pháp lý cao nhất), pháp luật tố tụng dân sự và hệ thống các văn bản pháp
luật khác… thực hiện đúng, đủ, nhanh chóng hoạt động thụ lý vụ án góp phần
sau này đưa ra bản án và quyết định dân sự chính xác, đúng pháp luật, có hiệu
quả và hiệu lực cao. Chính vì vậy, nếu hệ thống pháp luật có liên quan đến

hoạt động áp dụng pháp luật trong thụ lý vụ án dân sự không hoàn thiện sẽ
gây khó khăn cho người khởi kiện, cũng như gây khó khăn cho Tòa án trong
thụ lý vụ án, điều này đồng nghĩa chất lượng, hiệu quả hoạt động thụ lý vụ án
dân sự sẽ không cao, thậm chí không thực hiện được. Vì vậy, để hoạt động
thụ lý vụ án dân sự tại Tòa án đạt hiệu quả cao, đòi hỏi phải có sự đảm bảo về


16
pháp lý, bao gồm sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật thực định về tố tụng
dân sự nói chung, về khởi kiện, thụ lý vụ án dân sự nói riêng; sự hoàn thiện
của cơ chế thực hiện, thực thi và áp dụng pháp luật; ý thức pháp luật và văn
hóa pháp lý của cán bộ, công chức Ngành Tòa án và nhân dân.
Sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật thực định, đặc biệt được thể hiện
ở Bộ luật Tố tụng dân sự và hệ thống các văn bản hướng dẫn… được thể hiện
ở những tiêu chuẩn như tính toàn diện, tính đồng bộ, tính phù hợp, tính hiệu
lực, hiệu quả và trình độ kỹ thuật pháp lý của hệ thống pháp luật. Sự hoàn
thiện của cơ chế thực hiện và áp dụng pháp luật biểu hiện thông qua các vấn
đề cơ bản như các văn bản pháp luật có liên quan tới chức năng nhiệm vụ của
Tòa án nhân dân, các văn bản pháp luật về tố tụng dân sự, việc ban hành các
văn bản chi tiết hướng dẫn thi hành pháp luật. Công tác tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật trong xã hội; công tác tổ chức và chất lượng hoạt
động của cơ quan áp dụng pháp luật; năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán
bộ, công chức trực tiếp tham gia áp dụng pháp luật; chất lượng của các văn
bản áp dụng pháp luật… Ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý của cán bộ,
công chức và các tầng lớp nhân dân phụ thuộc không nhỏ vào công tác phổ
biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật cũng như chất lượng của pháp luật;
chất lượng của hoạt động thực hiện, áp dụng pháp luật. Điều này cho thấy có
sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật thì hoạt động áp dụng pháp luật mới đạt
chất lượng cao.
Thứ hai, năng lực đội ngũ cán bộ công chức của Tòa án

Thực tế công tác xét xử tại các Tòa án nhân dân tại Lạng Sơn đã
chứng minh, chất lượng, hiệu quả của hoạt động xét xử các vụ án dân sự nói
chung, hoạt động thụ lý vụ án dân sự nói riêng của Tòa án phụ thuộc vào
nhiều điều kiện, yếu tố, những nguyên nhân chủ quan, khách quan khác nhau,
có thể trực tiếp hoặc gián tiếp. Một trong những yếu tố vô cùng quan trọng
ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giải quyết vụ án dân sự nói chung, hoạt


17
động thụ lý vụ án dân sự nói riêng đó là: Chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức Ngành Tòa án mà trước hết là trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức,
năng lực, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ Thẩm phán và những người có
thẩm quyền trong hoạt động thụ lý vụ án dân sự.
Trong hoạt động thụ lý vụ án dân sự, Chánh án Tòa án nhân dân,
Thẩm phán, cán bộ tiếp nhận đơn khởi kiện là những người có nhiệm vụ,
quyền hạn liên quan đến hoạt động này, trong đó, Thẩm phán là người có vị
trí, vai trò rất quan trọng trong việc xử lý đơn khởi kiện, trong đó, có quyền
yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện; tiến hành thủ tục thụ lý vụ án theo
thủ tục thông thường hoặc theo thủ tục rút gọn; chuyển đơn khởi kiện cho Tòa
án có thẩm quyền và thông báo cho người khởi kiện nếu vụ án thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án khác; trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện
nếu vụ việc đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án... Ở những cán
bộ có liên quan đến hoạt động thụ lý vụ án cần phải có những tố chất nghề
nghiệp nhất định, họ vừa là người thay mặt cho quyền lực nhà nước thông qua
hoạt động thụ lý vụ án, vừa phải là công dân gương mẫu trong cuộc sống
hằng ngày. Với vị trí và trách nhiệm xã hội đặc biệt của mình, đòi hỏi họ phải
có những tiêu chuẩn nhất định về trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính
trị, đạo đức nghề nghiệp…
Chất lượng đội ngũ cán bộ tham gia xét xử nói chung, hoạt động thụ
lý vụ án dân sự nói riêng là sự tổng hợp chất lượng của từng Thẩm phán, cán

bộ tiếp nhận và xử lý đơn khởi kiện… tham gia hoạt động thụ lý vụ án dân sự
được đánh giá thông qua các tiêu chuẩn về chuyên môn, phẩm chất chính trị,
đạo đức; khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao theo qui định của pháp luật
và theo qui định của ngành. Là người giữ vị trí quan trọng trong hoạt động thụ
lý vụ án dân sự tại Tòa án, Thẩm phán phải là những người am hiểu pháp luật,
có trình độ chuyên môn và kỹ năng. Như chúng ta đã biết, Thẩm phán là
người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử


18

những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án.
Trong hoạt động xét xử, giải quyết các vụ án dân sự, thụ lý vụ án là công việc
đầu tiên những rất quan trọng, là một công việc không phức tạp, nhưng cũng
đòi hỏi người tham gia phải có trình độ am hiểu về pháp luật, có tinh thần
trách nhiệm, có kỹ năng một số kỹ năng cơ bản như: Nắm vững các qui định
pháp luật thuộc lĩnh vực được phân công đảm nhiệm một cách chuyên sâu;
thu nhận và xử lý thông tin để phục vụ việc thực hiện có hiệu quả chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn được giao và có khả năng phân tích, đánh giá một cách
chính xác, toàn diện những tài liệu, chứng cứ để làm căn cứ cho việc ra các
quyết định phù hợp với thực tiễn.
Ngoài các điều kiện về chuyên môn, họ còn phải có trình độ lý luận
chính trị, phải thường xuyên trau dồi đạo đức nghề nghiệp, coi đây là một yếu
tố quan trọng, có tác động trực tiếp đến quá trình xét xử của Tòa án nhân dân
hiện nay. Mặt khác, đây cũng là cơ sở quan trọng, mang tính pháp lý cho việc
tuyển dụng, bổ nhiệm và đào tạo cán bộ. Đạo đức nghề nghiệp đối với cán bộ
tư pháp là tiêu chuẩn tối quan trọng, bởi vì hoạt động nghề nghiệp của họ
mang tính đặc thù, có tác động trực tiếp đến đến danh dự, quyền tự do, tài
sản,… của con người. Những giá trị đạo đức của đội ngũ này được thể hiện rõ
nét nhất trong hoạt động nghề nghiệp và trong đời sống hàng ngày. Trong

hoạt động nghề nghiệp, Thẩm phán và các cán bộ tư pháp khác phải đảm bảo
được yếu tố khách quan, công bằng, vô tư, không vụ lợi cá nhân, có lý, có
tình. Sự công bằng, vô tư và khách quan là hiện thân những giá trị của một
nền tư pháp dân chủ.
Thứ ba, cơ sở vật chất của Tòa án nhân dân
Cơ sở vật chất của Tòa án nhân dân, điều kiện làm việc và chế độ đãi
ngộ đối với cán bộ Ngành Tòa án có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng
giải quyết vụ án dân sự nói chung, hoạt động thụ lý vụ án dân sự nói riêng nói
riêng. Cơ sở vật chất phục vụ xét xử bao gồm: Trụ sở làm việc, các phương


19
tiện kỹ thuật, các tài liệu tham khảo, tài liệu tra cứu… có những ảnh hưởng
nhất định đến việc nâng cao chất lượng thụ lý vụ án. Điều kiện vật chất, cụ
thể là máy móc; phương tiện làm việc, đi lại; trụ sở làm việc, phòng xét xử,
phòng nghị án… được trang bị đầy đủ, hiện đại thì sẽ góp phần trực tiếp vào
việc thể hiện sự trang nghiêm của cơ quan công quyền; đội ngũ cán bộ Tòa án
có đủ phương tiện làm việc thì việc xét xử sẽ đảm bảo chất lượng hơn, họ sẽ
tập trung vào công việc mà không bị chi phối bởi sự khó khăn về điều kiện,
phương tiện làm việc.
Bên cạnh đó, chế độ đãi ngộ tốt sẽ khuyến khích cán bộ hăng hái làm
việc, chống lại sự tha hóa, biến chất, mua chuộc; ngược lại, chế độ đãi ngộ
không hợp lý sẽ là nguyên nhân dẫn đến tình trạng lơ là công việc, không
hăng say phấn đấu nâng cao trình độ chuyên môn, tu dưỡng đạo đức nghề
nghiệp của đội ngũ cán bộ tham gia xét xử. Chế độ chính sách đãi ngộ giữ vai
trò hết sức quan trọng, từ chế độ đề bạt, bổ nhiệm bố trí đến chế độ khen
thưởng, chế độ tiền lương và kỷ luật… đây là động lực thúc đẩy cán bộ
Ngành Tòa án không ngừng vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng dân sự về thụ lý vụ án dân sự
1.2.1. Điều kiện thụ lý vụ án dân sự

Công dân có quyền khởi kiện ra Tòa án để bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp khác của mình khi bị xâm hại, Tòa án có trách nhiệm xem xét đơn và
các tài liệu kèm theo và thụ lý vụ án. Tuy nhiên, hoạt động thụ lý vụ án của Tòa
án được tiến hành tiến hành trên cơ sở xem xét những điều kiện luật định, cụ thể:
Thứ nhất, điều kiện về quyền khởi kiện của người khởi kiện
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định về quyền khởi kiện của cơ
quan, tổ chức và cá nhân cụ thể: "Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình
hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án tại Tòa án có thẩm
quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình"7. Quyền khởi
7. Điều 186 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.


20
kiện vụ, việc dân sự là quyền của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi
quyền hạn của mình yêu cầu Tòa án có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình hay lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước thuộc lĩnh vực
cơ quan, tổ chức mình phụ trách. Để khởi kiện vụ án dân sự, chủ thể khởi kiện
phải có quyền khởi kiện và có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Đây là điều
kiện đầu tiên phải xác định khi đương sự thực hiện việc khởi kiện 8.
Người khởi kiện phải là người có quyền, lợi ích hợp pháp về dân sự,
hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động, đất đai, nhà ở. Về
nguyên tắc, quyền, lợi ích hợp pháp về dân sự chỉ có được khi chủ thể tham
gia vào quan hệ pháp luật nội dung: quan hệ dân sự, hôn nhân gian đình, kinh
doanh thương mại, lao động, đất đai, nhà ở. Chủ thể không có quyền, lợi ích
dân sự, không có quyền khởi kiện trừ một số trường hợp ngoại lệ theo quy
định của pháp luật. Tuy nhiên, mặc dù người khởi kiện có quyền, lợi ích dân
sự nhưng quyền, lợi ích đó không hoặc chưa bị xâm phạm thì cũng chưa đủ
điều kiện khởi kiện vụ án dân sự.
Về nguyên tắc, chỉ có cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền, lợi ích bị
xâm phạm mới có quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi của

mình. Bên cạnh đó, để bảo vệ quyền hay lợi ích hợp pháp của người khác
hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực phụ trách,
trong một số trường hợp đặc biệt, pháp luật quy định quyền khởi kiện của các
cá nhân, cơ quan, tổ chức gồm: Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ
quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong phạm
vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện trong trường hợp cần
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
Thứ hai, điều kiện về phạm vi khởi kiện
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể khởi kiện một hoặc nhiều cơ quan,
tổ chức, cá nhân khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp
8. Xem Điểm a khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.


×