Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Hợp đồng vay tài sản – thực tiễn giải quyết tranh chấp tại tòa án nhân dân huyện ba vì, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.01 MB, 99 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ LAN ANH

HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN – THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BA VÌ,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 8380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hƣớng ứng dụng)

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Văn Tuyết

LỜI CAM ĐOAN
LỜI CAM ĐOAN

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được
trích dẫn theo đúng quy định.


Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.
Ngƣời thực hiện

Nguyễn Thị Lan Anh


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLDS 2005

Bộ luật Dân sự 2005

BLDS 2015

Bộ luật Dân sự 2015

HĐVTS

Hợp đồng vay tài sản

NHNN

Ngân hàng nhà nước

TAND

Tòa án nhân dân

TCTD


Tổ chức tín dụng


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU

Trang

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài

1
2
2

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
5. Phƣơng pháp nghiên cứu

3
3

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
7. Kết cấu của luận văn

3
4
5

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG VAY

TÀI SẢN

1. 1 Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng vay tài sản

5

1.1.1 Khái niệm hợp đồng vay tài sản

5

1.1.2 Đặc điểm pháp lý của hợp đồng vay tài sản
1.2 Chủ thể của hợp đồng vay tài sản

7
12

1.3 Đối tƣợng của hợp đồng vay tài sản
1.4 Lãi suất và lãi trong hợp đồng vay tài sản

14
17
22

CHƢƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ
HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

2.1 Chủ thể của hợp đồng vay tài sản
2.2 Đối tƣợng của hợp đồng vay tài sản
2.3 Hình thức của hợp đồng vay tài sản


22
25
27

2.4 Lãi suất trong hợp đồng vay tài sản
2.4.1 Cơ sở xác định lãi suất
2.4.2 Các loại lãi suất
2.5 Thời hạn cho vay và kỳ hạn trả nợ trong hợp đồng vay tài
2.6 Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng vay tài sản
2.6.1 Quyền của các bên trong hợp đồng vay tài sản
2.6.2 Nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng vay tài sản

29
29
32
37
39
39
40

2.7. Các dạng hợp đồng vay đặc thù

42
47

CHƢƠNG 3: TRANH CHẤP VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
VỀ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BA
VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN

3.1. Sơ lƣợc về tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện Ba

Vì, thành phố Hà Nội
3.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp về hợp đồng vay tài sản
tại Tòa án nhân dân hyện Ba Vì, Hà Nội

47
49


3.2.1. Khái quát chung

49

3.2.2. Một số trường hợp cụ thể
3.2.2.1 Tranh chấp liên quan đến đối tượng của hợp đồng vay tài

52
52

3.2.2.2 Tranh chấp liên quan đến hình thức của hợp đồng vay tài

54

3.2.2.3 Tranh chấp về lãi suất trong hợp đồng vay tài sản
3.2.2.4 Tranh chấp liên quan đến biện pháp bảo đảm trong hợp

61
66

đồng vay có biện pháp bảo đảm
3.2.2.5 Tranh chấp liên quan đến trách nhiệm liên đới của vợ,


69

chồng đối với hợp đồng vay tài sản
3.2.2.6 Sự biến tướng của hợp đồng vay tài sản

71

sản
sản

3.2.3. Nguyên nhân
3.2.3.1. Nguyên nhân từ phía bên cho vay
3.2.3.2. Nguyên nhân từ phí bên vay
3.2.3.3. Nguyên nhân từ các quy định của pháp luật
3.3 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp
luật về hợp đồng vay tài sản và nâng cao hiệu quả giải quyết tranh
chấp về hợp đồng vay tài sản tại Tòa án nhân dân huyện Ba Vì,
thành phố Hà Nội.
3.3.1 Về Điều 643 Bộ luật dân sự năm 2015
3.3.2 Về lãi suất trong hợp đồng vay tài sản
3.3.3 Các quy định khác có liên quan đến hợp đồng vay tài sản
3.3.4 Một số kiến nghị nhằm đảm bảo thực hiện pháp luật về
hợp đồng vay tài sản
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

71
71
72

73
73

73
76
78
80
82
83


1

PHẦN MỞ DẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong cuộc sống hàng ngày để giải quyết những khó khăn tạm thời về kinh
tế đặc biệt với những gia đình túng thiếu cần vốn để sản xuất, kinh doanh, phải vay
tiền, vàng của người khác thì hợp đồng vay tài sản là phương tiện pháp lý để thỏa
mãn các nhu cầu đó. Hợp đồng vay tài sản đã trở thành phương tiện pháp lý để thực
hiện quan hệ hợp tác giữa các cá nhân, tổ chức nhằm góp phần vào việc giao lưu
hàng hóa, giải quyết phần nào khó khăn trong cuộc sống hàng ngày, củng cố tinh
thần đoạn kết, tương thân tương ái trong nhân dân. Nhà nước đã tạo điều kiện cho
nhân dân vay vốn của ngân hàng với mức lãi suất phù hợp, các hộ nông dân có thể
phát triển được sản xuất kinh doanh. Mặt khác, nhân dân vay mượn của nhau để tiêu
dùng cho những việc cần thiết trong gia đình hoặc để kinh doanh là việc làm phổ
biến và có ý nghĩa được nhà nước khuyến khích.
Bộ luật dân sự có những quy định chung về hợp đồng dân sự đồng thời quy
định chi tiết về một số hợp đồng dân sự thông dụng không chỉ nhằm góp phần điều
chỉnh xã hội bằng pháp luật mà thông qua đó còn bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của các chủ thể giao kết hợp đồng. Hợp đồng vay tài sản là một trong những hợp

đồng dân sự thông dụng nhất, điều chỉnh quan hệ vay tài sản diễn ra hàng ngày
trong đời sống nhân dân.
Các vấn đề pháp lý về hợp đồng vay tài sản đã được hình thành khá lâu trong
lịch sử lập pháp Việt Nam, trải qua thời gian vấn đề này càng được củng cố và hoàn
thiện, qua các quy định trong BLDS 1995 và BLDS năm 2005. Sự ra đời của BLDS
2015 đã tạo hành lang pháp lý an toàn cho các chủ thể tham gia quan hệ vay tài sản.
Tuy nhiên, qua tiễn giải quyết tranh chấp tại các Tòa án nói chung và TAND huyện
Ba Vì nói riêng, các quy định của pháp luật hiện hành về hợp đồng vay tài sản cho
thấy còn nhiều kẽ hở, nhiều quy định còn chung chung chưa rõ ràng. Điều này đã bị
một số đối tượng lợi dụng các quy định còn thiếu chặt chẽ của pháp luật để thu lợi
riêng, làm mất đi mục đích thiết thực của hợp đồng vay tài sản.
Với mong muốn được nghiên cứu các vẫn đề lý luận cũng như thực tiễn áp
dụng các quy định về HĐVTS trong thực tiễn xét xử, giải quyết các vụ án tranh
chấp về HĐVTS tại TAND huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội, từ đó đưa ra những
kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về HĐVTS, tác giả đã lựa chọn
đề tài: “Hợp đồng vay tài sản – Thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Tòa án nhân
dân huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội” để làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ của
mình.


2

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có nhiều tác giả, nhiều nhà khoa học nghiên cứu về hợp đồng vay tài sản
dưới các góc độ khác nhau, tuy nhiên các đề tài nghiên cứu chủ yếu dưới góc độ
kinh tế.
Dưới góc độ pháp lý, có thể kể đến các công trình sau: “Hợp đồng vay tài
sản trong Luật dân sự Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật học của Bùi Kim Hiếu,
Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2007; “Hợp đồng vay tài sản – Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn”, luận văn Thạc sĩ Luật học của Cẩm Thùy Linh, trường Đại học

Luật Hà Nội năm 2014; “Quy định của pháp luật hiện hành về hình thức của hợp
đồng vay tài sản”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm
2016…
Bên cạnh đó, cũng có nhiều đề tài nghiên cứu đề cập đến một hay một số
khía cạnh của HĐVTS như: “Một số về đề về lãi suất của hợp đồng vay tài sản” của
Phan Vũ Linh, Tạp chí Nghề Luật số 3/2014; “Hợp đồng vay tài sản – Một số vấn
đề pháp lý và thực tiễn áp dụng‟ của Nguyễn Thùy Trang và Đặng Nhật Minh, Tạp
chí Luật học số 05/2013; “Bình luận quy định về thực hiện nghĩa vụ trả tiền và hợp
đồng vay tài sản trong Dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi)” của Trương Đức Thanh,
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề sửa đổi, bổ sung BLDS/2015; “Hợp
đồng vay tài sản trong Bộ luật Dân sự năm 2015 và kiến nghị hoàn thiện” của Lê
Thị Giang, Tạp chí Kiểm sát/2017; …
Các công trình trên đây đã đề cấp đến một số khía cạnh pháp lý của HĐVTS.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên phần lớn được thực hiện trước khi BLDS
2015 có hiệu lực thi hành, rất nhiều các quy định cũng như các tranh chấp phát sinh
trên thực tế đã thay đổi. Do đó, kế thừa những thành quả mà các công trình nghiên
cứu về hợp đồng vay tai sản đã đạt được, đề tài nghiên cứu sẽ làm rõ chế định
HĐVTS theo pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành và thực tiễn áp dụng tại TAND
huyện Ba Vì, rút ra những ưu điểm, hạn chế qua đó đưa ra những kiến nghị nhằm
hoàn thiện pháp luật về HĐVTS và nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp về
HĐVTS tại TAND huyện Ba Vì.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
a. Đối tượng nghiên cứu
- Các quy định của pháp luận hiện hành về hợp đồng vay tài sản.
- Thực tiễn áp dụng các quy định về hợp đồng vay tài sản tại TAND huyện
Ba Vì, thành phố Hà Nội.
b. Phạm vi nghiên cứu


3


Quan hệ vay tài sản được điều chỉnh bởi các văn bản quy phạm pháp luật
thuộc nhiều ngành luật khác nhau như: Dân sự, thương mại, ngân hàng, hình sự…
Ở luận văn này, tác giả xin trình bày những vấn đề về HĐVTS dưới khía
cạnh luật dân sự. Trong một số nội dung, hợp đồng tín dụng vẫn được đề cập so
sánh. Mặt khác, có một số quy định cụ thể về HĐVTS trong một số trường hợp cụ
thể như họ, hụi, biêu, phường và các biện pháp bảo đảm trong HĐVTS sẽ không
được Luận văn đề cập đến.
Để đánh giá hiệu quả điều chỉnh pháp luật của chế định vay tài sản, Luận văn
nghiên cứu thực tiễn giải quyết tranh chấp HĐVTS tại TAND huyện Ba Vì trong
giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2017 và một số vụ việc tranh chấp hợp đồng vay tài
sản tiêu biểu được giải quyết tại TAND huyện Ba Vì, từ đó chỉ ra những điểm còn
bất cập trong các quy định hiện hành về hợp đồng vay tài sản.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm mục đích làm rõ chế định HĐVTS theo quy
định của BLDS 2015, đánh giá những điểm mới của chế định HĐVTS trong BLDS
2015 so với BLDS 2005. Qua thực tiễn áp dụng các quy định về HĐVTS tại TAND
huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội nêu lên những hạn chế, bất cập trong các quy định
từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về HĐVTS và nâng cao
hiệu quả giải quyết tranh chấp về HĐVTS tại TAND huyện Ba Vì.
Với mục đích như trên đề tài đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận của HĐVTS;
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về HĐVTS, phân tích, so
sánh, đánh giá mức độ hoàn thiện các quy định về HĐVTS trong BLDS 2015 so
sánh với BLDS 2005;
- Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định HĐVTS để giải quyết
các tranh chấp tại TAND huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội, từ đó đưa ra những kiến
nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về HĐVTS.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác –

Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngoài ra, đề tài cũng sử dụng các phương pháp
phân tích nghiên cứu lịch sử, phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp kiến thức từ
lý luận và thực tiễn, các tài liệu tham khảo để giải quyết vấn đê nhằm đạt được mục
đích nghiên cứu.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về HĐVTS, qua
đó luận văn đưa ra những đánh giá về thực tiễn áp dụng pháp luật để giải quyết


4

tranh chấp Hợp đồng vay tài sản tại TAND huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội trong
những năm gần đây (giai đoạn 2013 - 2017); qua đó luận văn đưa ra những giải
pháp, kiến nghị để hoàn thiện các quy định của pháp luật về HĐVTS và nâng cao
hiệu quả giải quyết tranh chấp HĐVTS tại TAND huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần: mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được thiết kế thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hợp đồng vay tài sản
Chương 2: Quy định của pháp luật hiện hành về hợp đồng vay tài sản
Chương 3: Tranh chấp và giải quyết tranh chấp về hợp đồng vay tài sản tại
Tòa án nhân huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội và một số kiến nghị hoàn thiện


5

CHƢƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
1.1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng vay tài sản
1.1.1 Khái niệm hợp đồng vay tài sản

Theo Từ điển tiếng việt thì “vay” được hiểu là: “nhận tiền hay vật gì của
người khác để chi dùng trước với điều kiện sẽ trả tương đương hoặc có thêm phần
lãi”(1). Như vậy, người đi vay sẽ phải thực hiện các hoạt động là “nhận tiền hay vật”
và sẽ phải “trả tương ứng hoặc có thêm phần lãi”. Để làm được việc đó phải có sự
thỏa thuận giữa hai bên chủ thể: bên vay và bên cho vay. Trên cơ sở thỏa thuận đó
làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể từ đó tạo thành hợp đồng
vay tài sản.
Có thể nói HĐVTS có lịch sử hình thành lâu đời, tồn tại và phát triển song
song với sự tồn tại và phát triển của các quan hệ kinh tế, xã hội trong xã hội loài
người. Ngay từ thời La Mã cổ đại, HĐVTS đã rất thông dụng và được chú trọng, nó
được gọi là hợp đồng vay nợ, theo đó: “Hợp đồng vay nợ là sự thỏa thuận của hai
bên, theo đó bên cho vay chuyển tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên vay
(tiền, lương thực, thực phẩm…). Bên vay có nghĩa vụ trả vật cùng loại hoặc số tiền
đã vay khi hết hạn hợp đồng”(2). Khái niệm này đã đề cập đến yếu tố thỏa thuận của
các bên, đây là một yếu tố cốt lõi khi thiết lập hợp đồng nói chung và hợp đồng vay
tài sản nói riêng. Ngoài ra, khái niệm cũng nêu rõ, tài sản vay phải thuộc sở hữu của
bên cho vay, nếu là vật thì phải là vật cùng loại. Có thể thấy, ngay từ thời kỳ cổ đại,
HĐVTS đã được tiếp cận và ghi nhận theo đúng bản chất của hợp đồng nói chung.
Giá trị của nó vẫn còn được lưu giữ cho đến tận ngày nay, các nhà làm luật hiện đại
của các nước đã đưa ra khái niệm HĐVTS không mấy khác biệt so với khái niệm
gốc. Cụ thể:
Điều 1892 BLDS của Pháp quy định: “Hợp đồng vay tài sản là hợp đồng
theo đó một bên giao cho bên kia một số lượng vật sẽ bị tiêu hao khi sử dụng với
điều kiện là bên kia phải trả vật cùng số lượng và chất lượng”. Định nghĩa này chỉ
rõ đối tượng của hợp đồng là vật bị tiêu hao khi sử dụng.
Điều 587 BLDS Nhật Bản quy định: “Hợp đồng vay tài sản có hiệu lực khi
một bên nhận từ bên kia một khoản tiền hoặc những vật với sự hiểu ngầm rằng
người đó sẽ trả lại tiền vay vật có thể loại, số lượng và chất lượng đúng như vậy”.
Như vậy, cách tiếp cận hợp đồng vay tài sản của BLDS Nhật Bản cũng giống
như cách tiếp cận trong BLDS Pháp, tuy nhiên các quy định này chỉ rõ đối tượng

(1)
(2)

Trung tâm từ điển học (2000), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật La Mã, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr.129.


6

HĐVTS là tiền hoặc vật chứ không quy định chung chung là một số lượng vật bị
tiêu hao khi sử dụng như trong BLDS Pháp. Các bộ luật dân sự trên đều tiếp cận
hợp đồng vay là sự thỏa thuận của các bên, theo đó bên chủ sở hữu tài sản (bên cho
vay) chuyển cho bên kia (bên vay) một số lượng tài sản nhất định làm sở hữu, khi
hết hạn của hợp đồng bên vay hoàn trả cho bên cho vay một tài sản cùng loại với tài
sản vay.
Khái niệm hợp đồng vay tài sản đã được pháp luật nước ta ghi nhận qua các
thời kỳ chẳng hạn như trong Bộ Dân luật Sài Gòn năm 1972, tại Điều 1173 đã đưa
ra định nghĩa khế ước vay nợ như sau: “Khế ước vay nợ là khế ước trong đó, một
bên đương sự giao cho bên kia một số đồ vật sẽ bị tiêu thất do sự tiêu thụ, người
vay khi tới hạn phải hoàn trả đúng số lượng, cùng loại, cùng hạng như đồ vật đã
vay, mặc dầu đồ vật ấy có tăng giá hay sụt giá”. Tuy nhiên, các nhà làm luật chưa
đề cập đến yếu tố thỏa thuận - yếu tố cốt lõi của các bên khi thiết lập khế ước vay
nợ.
Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991 ghi nhận khái niệm hợp đồng dân sự
tại Điều 1: “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay
đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong mua bán, thuê, vay mượn,
tặng cho tài sản; làm hoặc không làm một việc, dịch vụ hoặc các thỏa thuận khác
mà trong đó một hoặc các bên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng”. Mặc
dù định nghĩa đó chỉ đưa ra giới hạn về mục đích của hợp đồng và mang nặng tính
chất liệt kê, nhưng Pháp lệnh hợp đồng dân sự đã ghi nhận một vấn đề mang tính

bản chất của bất kỳ một hợp đồng dân sự nào, đó chính là “sự thỏa thuận”.
Đến BLDS 1995 và BLDS 2005, hợp đồng vay tài sản được tách riêng thành
một chế định, vì vậy khái niệm HĐVTS cũng được quy định khá cụ thể tại Điều 467
BLDS 1995 và Điều 471 BLDS 2005.
Trong pháp luật Việt Nam hiện hành, khái niệm về HĐVTS được quy định
tại Điều 463 BLDS 2015:
“Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay
giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài
sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận
hoặc pháp luật có quy định.” Như vậy, khái niệm HĐVTS trong Luật dân sự Việt
Nam không có nhiều khác biệt so với khái niệm HĐVTS trong Luật La Mã cổ đại
cũng như trong pháp luật dân sự của nhiều nước trên thế giới. Khái niệm này cũng
đã thể hiện được bản chất đặc trưng của hợp đồng đó là yếu tố thỏa thuận giữa bên
vay và bên cho vay, đây là yếu tố cốt lõi tạo nên nội dung của hợp đồng


7

Hợp đồng có được thiết lập hay không là do sự thỏa thuận của các bên, tức là
phải có sự thống nhất ý chí giữa các bên trong việc làm phát sinh quyền và nghĩa vụ
nhất định. Vì vậy, thỏa thuận vừa là tiền đề làm nên hợp đồng, vừa là yếu tố cơ bản
cho sự tồn tại của hợp đồng. Tuy nhiên, cần phải hiểu sự thỏa thuận không được vi
phạm điều cấm của pháp luật và không trái với đạo đức xã hội.
Ngoài ra, thỏa thuận chỉ có thể làm phát sinh hiệu lực ràng buộc với các bên
nếu tuân thủ các yêu cầu pháp luật quy định: điều kiện về chủ thể, điều kiện về nội
dung và mục đích của hợp đồng và điều kiện về sự tự nguyện. Tự nguyện xác lập
hợp đồng là việc chủ thể tự mình quyết định có hay không tham gia vào hợp đồng
theo nguyện vọng của cá nhân mình mà không chịu bất kỳ sự chi phối hay tác động
nào từ người khác. Hợp đồng sẽ vô hiệu nếu giao kết bị nhầm lẫn, lừa dối hay đe
dọa, hay nói cách khác là không đảm bảo nguyên tắc tự nguyện. Như vậy, các bên

được tự do thỏa thuận để thiết lập hợp đồng nhưng sự tự do ấy phải được đặt trong
giới hạn bởi lợi ích của Nhà nước cũng như lợi ích của chủ thể khác.
Tóm lại: Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của các bên,
theo đó bên cho vay chuyển giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên vay.
Hết hạn của hợp đồng, bên vay phải trả cho bên cho vay tài sản cùng loại và các lợi
ích vật chất khác do các bên thỏa thuận nhưng không vi phạm điều cấm của pháp
luật, không trái đạo đức xã hội.
1.1.2 Đặc điểm pháp lý của hợp đồng vay tài sản
Hợp đồng vay tài sản là một dạng của hợp đồng dân sự. Bên cạnh những đặc
điểm chung của hợp đồng dân sự thì HĐVTS cũng có những đặc điểm riêng. Những
đặc điểm riêng này chính là cơ sở để giúp ta phân biệt HĐVTS với các loại hợp
đồng thông dụng khác.
Thứ nhất, HĐVTS có thể là hợp đồng thực tế có thể là hợp đồng ưng thuận
Căn cứ vào thời điểm phát sinh hiệu lực, hợp đồng được chia thành hai loại:
hợp đồng ưng thuận và hợp đồng thực tế. Hợp đồng ưng thuận là những hợp đồng
mà theo quy định của pháp luật, quyền và nghĩa vụ của các bên phát sinh ngay sau
khi các bên chủ thể thỏa thuận xong về các nội dung cơ bản của hợp đồng. Hay nói
cách khác, hợp đồng ưng thuận là hợp đồng mà thời điểm có hiệu lực của nó được
xác định tại thời điểm giao kết. Còn hợp đồng thực tế là hợp đồng mà sau khi thỏa
thuận, hiệu lực của hợp đồng chỉ phát sinh tại thời điểm các bên đã chuyển giao cho
nhau đối tượng của hợp đồng.
Xét về bản chất, thì hợp đồng cho vay là một hợp đồng thực tế, bởi lẽ bên
cho vay chỉ có quyền với bên vay, hay nói cách khác bên cho vay không có nghĩa
vụ với bên vay. Vì nếu bên vay không chuyển giao tài sản thì không thể bắt buộc


8

bên vay phải chuyển giao. Nếu bên cho vay bắt buộc phải chuyên giao, nghĩa là bên
vay có quyền khởi kiện bên cho vay buộc phải cho vay theo thỏa thuận nếu bên vay

không còn tiền cho vay thì phải buộc bán nhà bán đất để cho vay? Điều này bất
công với người cho vay, bởi vì bên vay chưa có thiệt hại gì về vật chất, mặt khác
bên cho vay không còn khả năng cho vay mà buộc phải chịu sự cưỡng chế hà khắc
như vậy liệu có hợp lý hay không.
Về nguyên tắc, HĐVTS là hợp đồng ưng thuận, bởi theo Khoản 1 Điều 401
BLDS 2015 quy định: “Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm
giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan có quy định khác”.
Tuy nhiên, đây là một quy định mở, các bên hoàn toàn có thể thỏa thuận rằng
hợp đồng có hiệu lực từ khi bên cho vay đã giao tài sản cho bên vay, khi đó
HĐVTS là hợp đồng thực tế. Như vậy, không thể khẳng định hợp đồng vay tài sản
là hợp đồng ưng thuận hay hợp đồng thực tế. Hợp đồng vay tài sản là hợp đồng ưng
thuận hay thực tế? Điều này phụ thuộc vào việc hợp đồng phát sinh hiệu lực pháp
luật vào thời điểm nào: khi các bên đã thỏa thuận xong nội dung cơ bản của hợp
đồng hay khi bên cho vay đã chuyển giao tài sản cho bên vay. Vấn đề này hiện nay
vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm:
- Quan điểm thứ nhất: Hợp đồng vay tài sản là hợp đồng ưng thuận
Theo Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Điện cho rằng: “HĐVTS phát sinh hiệu lực kể từ
thời điểm mà ý chí của các bên giao kết được ghi nhận theo hình thức do pháp luật
quy định (bằng lời nói hoặc bằng văn bản), nếu không có thỏa thuận khác hoặc
pháp luật không có quy định khác”; và “HĐVTS trong luật Việt Nam hiện hành là
hợp đồng ưng thuận, tuy nhiên để buộc bên cho vay phải chuyển giao số tiền như đã
cam kết là điều rất khó thi hành trên thực tế, kể cả bên vay có theo đuổi các thủ tục
tư pháp, hậu quả nhiều lắm là bên vay chỉ có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại”(3).
Với nhận xét như vậy, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Điện đã khẳng định hợp đồng vay tài
sản là hợp đồng ưng thuận và lý giải rằng quyền lợi và nghĩa vụ của các bên phát
sinh ngay sau khi thỏa thuận giao kết hợp đồng xong.
- Quan điểm thứ hai, HĐVTS là hợp đồng thực tế. Việc coi hợp đồng vay tài
sản là hợp đồng thực tế đã được thừa nhận từ lâu trong pháp luật La mã và pháp luật
dân sự của Pháp, Nhật Bản, Thái Lan. Cho đến khi chuyển giao tài sản, các thỏa
thuận giữa hai bên về việc cho vay chỉ mang tính chất một lời hứa cho vay. Trong

BLDS và thương mại Thái Lan, Điều 650 quy định: “Một hợp đồng vay mượn để
tiêu dùng là hợp đồng, trong đó người cho mượn chuyển cho người vay mượn quyền
sở hữu của một số lượng tài sản nhất định để người vay mượn tiêu dùng và người
(3)

Nguyễn Ngọc Điện (2001), Bình luận các hợp đồng dân sự thông dụng trong Luật dân sự Việt Nam,
Nxb.Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, tr.235.


9

vay mượn thỏa thuận sẽ hoàn lại một tài sản cùng loại, cùng phẩm chất và cùng số
lượng. Hợp đồng chỉ được hoàn thành vào lúc chuyển giao tài sản”. Như vậy, bên
cho vay phải chuyển giao tài sản cho bên vay thì nghĩa vụ mới phát sinh.
Khoản 1 Điều 465 BLDS 2015 quy định: “Giao tài sản cho bên vay đầy đủ,
đúng chất lượng, số lượng vào thời điểm và địa điểm đã thỏa thuận”.
Theo quy định trên thì HĐVTS mang tính chất của hợp đồng ưng thuận,
được phát sinh tại thời điểm giao kết. Cụ thể nếu hợp đồng vay được ký kết dưới
hình thức miệng thì phát sinh hiệu lực sau khi đã thỏa thuận xong các nội dung cơ
bản của hợp đồng. Nếu hợp đồng vay được ký kết bằng văn bản thì phát sinh hiệu
lực khi bên sau cùng ký vào văn bản. Như vậy, sau hai thời điểm nêu trên thì bên
vay có quyền yêu cầu bên cho vay phải thực hiện nghĩa vụ theo đúng cam kết, trong
đó có nghĩa vụ bắt buộc phải chuyển giao khoản tiền vay. Theo lý luận về trách
nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, thì bên cho vay buộc phải chuyển giao
tài sản cho vay và bồi thường thiệt hại nếu có. Tuy nhiên, thực tế giải quyết tranh
chấp cho thấy nếu bên vi phạm nghĩa vụ (bên cho vay) chứng minh họ không có
khả năng tiếp tục thực hiện nghĩa vụ thì chỉ phải bồi thường thiệt hại thực tế đã xảy
ra cho bên đi vay do không vay được số tiền như đã cam kết.
Liên quan đến thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐVTS đó là vấn đề chứng
minh về sự tồn tại của hợp đồng đó trên thực tế. Nếu hợp đồng vay được ký kết

bằng văn bản thì bên vay mới có thể yêu cầu bên cho vay chịu trách nhiệm nếu vi
phạm nghĩa vụ giao tiền vì đó thuộc loại hợp đồng ưng thuận. Còn nếu hợp đồng
vay chỉ được giao kết bằng lời nói thì không có chứng cứ để buộc bên cho vay phải
chịu trách nhiệm và khi đó coi như hợp đồng vay tài sản chưa phát sinh hiệu lực.
Hợp đồng vay giao kết bằng lời nói chỉ phát sinh hiệu lực khi bên cho vay giao tiền
cho bên vay và giấy biên nhận vay sẽ là bằng chứng của việc giao kết hợp đồng, lúc
này HĐVTS mang đặc điểm của hợp đồng thực tế. Tuy nhiên trong trường hợp giao
kết bằng lời nói nhưng có các chứng cứ khác chứng minh được sự tồn tại của hợp
đồng (như có người làm chứng, có băng ghi âm ghi hình, các bên thừa nhận…) thì
bên cho vay vẫn phải chịu trách nhiệm về lời cam kết của mình, bởi hợp đồng phát
sinh từ thời điểm giao kết hợp đồng và nó trở thành hợp đồng ưng thuận, tuy nhiên
khi buộc bên cho vay phải chịu trách nhiệm về việc chuyển giao tài sản vay thì còn
phải phụ thuộc vào các chứng cứ pháp lý để chứng minh sự tồn tại của hợp đồng
vay đó.
Thứ hai, hợp đồng vay tài sản là hợp đồng đơn vụ hoặc song vụ


10

Khi xác lập một giao dịch thì cần phải xem xét quyền và nghĩa vụ của các
bên trong giao dịch đó, từ đó xác định trách nhiệm của các bên khi không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trong giao dịch.
Điều 402 BLDS 2015 quy định:
“1. Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với nhau.
2. Hợp đồng đơn vụ là hợp đồng mà chỉ một bên có nghĩa vụ.”
Có thể thấy cơ sở để xác định một hợp đồng có tính chất song vụ hay đơn vụ
chính là mối liên hệ giữa quyền và nghĩa vụ giữa các bên tại thời điểm hợp đồng
dân sự có hiệu lực. Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà các bên chủ thể đều có nghĩa
vụ, hay nói cách khác, mỗi bên chủ thể của hợp đồng song vụ là người vừa có
quyền lại vừa có nghĩa vụ dân sự. Trong hợp đồng này quyền dân sự của bên này

đối lập tương ứng với nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Còn hợp đồng đơn vụ là
những hợp đồng mà trong đó một bên chỉ có nghĩa vụ mà không có quyền gì đối với
bên kia và bên kia là người có quyền nhưng không phải thực hiện một nghĩa vụ nào.
Như phân tích ở trên hợp đồng vay tài sản có thể là hợp đồng ưng thuận có
thể là hợp đồng thực tế. Trong trường hợp, HĐVTS là hợp đồng ưng thuận, quyền
và nghĩa vụ của các bên phát sinh tại thời điểm giao kết hợp đồng, thì đây là hợp
đồng song vụ. Quyền của bên vay tương ứng với nghĩa vụ của bên cho vay và
ngược lại. Ví dụ : A và B ký hợp đồng vay tài sản trong đó thỏa thuận rằng A cho
B vay 200 triệu đồng, lãi suất 20%/năm, thời hạn 01 năm. Như vậy, sau khi cả hai
bên đã ký vào hợp đồng thì hợp đồng này có hiệu lực ngay. Đối với A có nghĩa vụ
phải giao tiền cho B, đồng thời A co quyền đòi nợ theo quy định của pháp luật. Đối
với B, có quyền yêu cầu A thực hiện việc giao tiền đúng thỏa thuận, đồng thời B
cũng có nghĩa vụ trả tiền gốc và lãi khi hết hạn hợp đồng. Quyền của A tương ứng
với nghĩa vụ của B và ngược lại, do đó đây là một hợp đồng song vụ.
Trường hợp HĐVTS là hợp đồng thực tế thì nó là hợp đồng đơn vụ. Bởi nếu
là hợp đồng thực tế thì thời điểm có hiệu lực của HĐVTS là thời điểm bên cho vay
chuyển giao tài sản cho bên vay, kể từ thời điểm này mới phát sinh quyền và nghĩa
vụ của các bên chủ thể. Đối với bên vay, sau khi chuyển giao quyền sở hữu cho bên
cho vay thì có quyền yêu cầu bên vay phải trả cho mình tài sản cùng loại theo đúng
số lượng, chất lượng và trả lãi nếu có thỏa thuận và pháp luật có quy định. Đối với
bên vay, Sau khi nhận được tài sản từ phía bên cho vay thì phải có nghĩa vụ hoàn trả
cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng trong khoảng thời
gian như đã thỏa thuận, ngoài ra phải trả thêm lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật
có quy định.


11

Thứ ba, hợp đồng vay tài sản là hợp đồng có tính đền bù hoặc không có tính
đền bù

HĐVTS là hợp đồng có tính chất đền bù nếu nó là HĐVTS có lãi suất. Nói
cách khác, HĐVTS có tính chất đền bù khi mà một bên sau khi đã thực hiện cho
bên kia một lợi ích sẽ nhận lại một lợi ích tương ứng cùng với khoản lãi theo thỏa
thuận. HĐVTS có tính chất đền bù thông thường được áp dụng bắt buộc trong hoạt
động tín dụng của ngân hàng; các tổ chức tín dụng cho vay tiền đều có quy định
mức lãi suất tương ứng tùy thuộc vào từng thời điểm, tính chất và đặc điểm của
HĐVTS.
HĐVTS không có tính chất đền bù nếu là hợp đồng vay không có lãi suất.
tức là khi hết hạn trả nợ, bên vay có nghĩa vụ hoàn trả đầy đủ một lượng tài sản
cùng loại, cùng giá trị cho bên vay, mà không phải trả thêm bất cứ khoản lợi ích vật
chất nào khác, hay một giá trị tài sản nào khác. Loại hợp đồng này thường được
giao kết mang tính chất tương trợ, giúp đỡ nhằm khắc phục khó khăn hoặc giúp đỡ
phát triển sản xuất kinh doanh giữa những chủ thể có mối quan hệ thân thiết, quen
biết lẫn nhau như những người trong gia đình, bạn bè, làng xóm…
Thứ tư, HĐVTS là căn cứ chuyển quyền sở hữu tài sản
HĐVTS là hợp đồng chuyển quyền sở hữu đối với tài sản từ bên cho vay
sang bên vay, khi bên vay nhận tài sản. Theo đó, bên vay trở thành chủ sở hữu tài
sản vay kể từ thời điểm nhận tài sản đó (Điều 464 BLDS 2015). Bên vay có toàn
quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản vay trừ trường hợp vay có điều kiện sử
dụng. Hết thời hạn vay, bên vay có thể trả tài sản khác cho bên cho vay tài sản
nhưng phải cùng loại với tài sản vay theo đúng số lượng, chất lượng trừ trường hợp
có thỏa thuận khác (Khoản 1 Điều 466 BLDS 2015). Chính vì việc chuyển giao
quyền sở hữu, mà sau khi nhận tài sản giao, bên vay sẽ phải gánh chịu mọi rủi ro
đối với tài sản vay nếu như rủi ro đó không có lỗi của bên cho vay.
Đặc điểm này giúp ta phân biệt HĐVTS với các hợp đồng dân sự khác như:
Hợp đồng mượn tài sản, hợp đồng thuê tài sản. Vì trong hai loại hợp đồng này,
người mượn và người thuê tài sản không trở thành chủ sỏ hữu tài sản mượn và thuê,
mà chỉ có quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản đã mượn, thuê trong một thời hạn nhất
định do hai bên thỏa thuận. Khi hết thời hạn, bên mượn, thuê phải trả đúng tài sản
đã mượn, thuê cho bên cho mượn, cho thuê tài sản.

Như vậy, khi xác định các đặc điểm pháp lý của hợp đồng vay tài sản thì cần
phải xem xét đến lợi ích mà các bên thu được từ việc thực hiện hợp đồng vay, nếu
hợp đồng vay mà bên cho vay không thu được lợi ích thì là hợp đồng thực tế, đơn
vụ. Trường hợp các bên trong hợp đồng vay đều nhận được các lợi ích vật chất thì


12

là hợp đồng ưng thuận, song vụ. Xác định đặc điểm pháp lý của HĐVTS có ý nghĩa
quan trọng trong việc xem xét trách nhiệm dân sự của các bên khi không thực hiện
đúng hợp đồng.
1.2. Chủ thể của hợp đồng vay tài sản
Chủ thể của hợp đồng vay tài sản là những người cụ thể có đầy đủ năng lực
pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Phạm vi “người” tham gia vào giao dịch vay
tài sản bao gồm cá nhân (công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không quốc
tịch), pháp nhân.
- Cá nhân: Cá nhân là chủ thể đầu tiên của các quan hệ xã hội, là “tổng hòa
các mối quan hệ xã hội”. Trong các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân mà Luật
dân sự điều chỉnh thì cá nhân là chủ thể nguyên sinh, đầu tiên và các chủ thể khác
tham gia vào các quan hệ dân sự cũng thông qua hành vi của con người. Để tham
gia vào các giao dịch dân sự nói chung và hợp đồng vay tài sản nói riêng cá nhân
phải có năng lực chủ thể. Năng lực chủ thể được tạo thành bởi năng lực pháp luật
dân sự và năng lực hành vi dân sự.
Khoản 1 Điều 16 BLDS 2015 quy định: “Năng lực pháp luật dân sự là khả
năng của các cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự”. Năng lực pháp luật dân
sự được pháp luật ghi nhận cho mọi cá nhân. Tư cách chủ thể của các nhân chỉ đầy
đủ và hoàn thiện, độc lập khi họ có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Khi xác lập,
thực hiện một giao dịch dân sự nói chung, một hợp đồng vay tài sản nói riêng,
không phải mọi cá nhân đều bình đẳng với nhau mà khả năng đó phụ thuộc vào
năng lực hành vi dân sự của mỗi cá nhân.

Theo quy định tại Điều 19 BLDS 2015 thì: “Năng lực hành vi dân sự của cá
nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền,
nghĩa vụ dân sự”. Nếu năng lực pháp luật dân sự là tiền đề, là quyền dân sự khách
quan của chủ thể thì năng lực hành vi là khả năng hành động của chính chủ thể để
tạo ra các quyền, thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ. Căn cứ vào khả năng của cá
nhân về nhận thức và điều khiển hành vi và hậu quả hành vi, pháp luật phân biệt
mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Tuy nhiên, khó có một tiêu chí để xác
định khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của cá nhân, do đó độ tuổi của cá
nhân được xem là tiêu chí chung nhất để phân biệt mức độ năng lực hành vi dân sự
của cá nhân. Cá nhân ở mỗi độ tuổi khác nhau có khả năng nhận biết hành vi khác
nhau thì có khả năng tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự khác nhau.
Theo pháp luật dân sự hiện hành thì người thành niên (từ đủ 18 tuổi trở lên)
có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp người đó bị mất năng lực hành vi
dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức


13

làm chủ hành vi (Điều 20, 22, 23, 24 BLDS 2015). Những người này có toàn quyền
xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự, miễn sao không vi phạm điều cấm của pháp
luật, không trái đạo đức xã hội.
Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao
dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự
phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực
hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản
phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại
diện theo pháp luật đồng ý. (Điều 21 BLDS 2015).
Đối với người không có năng lực hành vi dân sự (chưa đủ 6 tuổi) hay những
người bị mất năng lực hành vi dân sự thì giao dịch dân sự phải do người đại diện

theo pháp luật xác lập (Điều 21, 22 BLDS 2015).
Như vậy, năng lực hành vi dân sự của cá nhân là không giống nhau. Tùy
thuộc vào mức độ năng lực hành vi dân sự mà các cá nhân tham gia giao kết hợp
đồng vay tài sản ở các mức độ khác nhau. Những cá nhân có đủ năng lực hành vi
dân sự có quyền trực tiếp tham gia giao kết hợp đồng vay tài sản hoặc ủy quyền cho
người khác đại diện tham gia giao kết, điều này nhằm bảo đảm thực hiện quyền và
nghĩa vụ của mỗi bên như đã thỏa thuận.
- Pháp nhân: Ngoài cá nhân tham gia vào các hợp đồng vay tài sản còn có
các cơ quan, tổ chức và các chủ thể khác. Để các tổ chức tham gia vào các giao dịch
vay tài sản với tư cách là một chủ thể riêng biệt các tổ chức này phải có các điều
kiện do pháp luật quy định. Các điều kiện của pháp nhân được xác định tại Điều 74
BLDS 2015.
“1. Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau
đây:
a) Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan;
b) Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này;
c) Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm
bằng tài sản của mình;
d) Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập”.
Đây là các dấu hiệu để công nhận một chủ thể có tư cách là chủ thể chủ quan
hệ dân sự. Pháp nhân tham gia vào các giao dịch dân sự là một chủ thể bình đẳng,
độc lập với các chủ thể khác nên pháp nhân phải có năng lực pháp luật và năng lực
hành vi. Năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự của pháp nhân phát sinh
đồng thời và tồn tại tương ứng cùng với điểm thành lập và chấm dứt pháp nhân.


14

Mọi hoạt động của pháp nhân được tiến hành thông qua hành vi của những cá nhân
– người đại diện của pháp nhân. Theo quy định của BLDS 2015, người đại diện của

pháp nhân được chia thành hai loại: đại diện theo pháp luật (Điều 137 BLDS 2015)
và đại diện theo ủy quyền (Điều 138 BLDS 2015).
Theo quy định tại Điều 137 BLDS 2015, có thể hiểu rằng đối với pháp nhân
là doanh nghiệp thì người đại diện theo pháp luật được xác định theo điều lệ của
doanh nghiệp đó, còn đối với pháp nhân là các tổ chức khác thì người đại diện theo
pháp luật là người đứng đầu pháp nhân. Người đại diện của pháp nhân có quyền
nhân danh pháp nhân thực hiện các hành vi nhằm duy trì hoạt động của pháp nhân
trong khuân khổ pháp luật và điều lệ quy định. Đại diện theo ủy quyền là đại diện
được xác lập theo sự ủy quyền giữa người đại diện và người được đại diện. Hình
thức ủy quyền do các bên thỏa thuận trừ trường hợp pháp luật quy định việc ủy
quyền phải được lập thành văn bản. Đại diện theo ủy quyền của pháp nhân là người
được người đại diện theo pháp luật của pháp nhân ủy quyền xác lập, giao kết hợp
đồng. Khi tham gia giao kết hợp đồng các bên phải lưu ý đến địa vị pháp lý của
người đại diện theo ủy quyền, phạm vi ủy quyền, thời hạn ủy quyền nhằm tránh tình
trạng tranh chấp do việc ký kết hợp đồng không đúng thẩm quyền hoặc vượt quá
phạm vi ủy quyền.
Như vậy, pháp nhân là một chủ thể của hợp đồng vay tài sản, khi tham gia
giao kết hợp đồng hợp đồng vay tài sản, pháp nhân thông qua đại diện theo pháp
luật hoặc đại diện theo ủy quyền của mình là cá nhân. Hành vi của người đại diện
phải phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, phạm vi hoạt động của pháp nhân được ghi
trong quyết định thành lập pháp nhân, điều lệ pháp nhân và phù hợp với quy định
của pháp luật.
1.3. Đối tƣợng của hợp đồng vay tài sản
Trong quan hệ pháp luật dân sự, đối tượng của giao dịch vay là tài sản.
Trong mỗi chế độ xã hội có quan niệm khác nhau về tài sản. Điều này phụ thuộc
vào quan điểm của giai cấp thống trị, phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo, trình
độ văn hóa của mỗi dân tộc. Trong quan hệ dân sự các chủ thể sở hữu, trao đổi,
chuyển dịch cho nhau các lợi ích vật chất nhằm thỏa mãn nhu cầu khác nhau của
các chủ thể. Các lợi ích này thể hiện qua việc chiếm hữu một vật, một quyền lợi nào
đó được gọi là tài sản. Trong Luật La mã cổ đại quy định vật là đối tượng của chiếm

hữu, nó thuộc về một chủ thể nhất định. Vật là đối tượng của chiếm hữu được phân
chia thành động sản (res mobiles) gồm những vật dịch chuyển được trong không
gian mà không thay đổi giá trị sử dụng của nó. Bất động sản là những đồ vật không


15

thay đổi vị trí trong không gian. Bất động sản chủ yếu là đất đai và những vật gắn
liền với nó gồm các công trình xây dựng và các vật khác.
Ngoài việc phân chia vật như trên Luật La Mã còn phân chia vật thành các
loại như đồ vật phân chia được và đồ vật không phân chia được, vật thay thế được
và vật không thay thế được, vật tiêu hao, vật không tiêu hao….
Việc phân loại như trên có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định phương
thức thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên. Vật tiêu hao là đối tượng của
hợp đồng chuyển quyền sở hữu như hợp đồng vay tài sản. Vật đặc định là đối tượng
của hợp đồng cho mượn, cho thuê…
Pháp luật của các nước trên thế giới đều tiếp nhận cách phân loại tài sản có
từ thời cổ đại, đó là cách phân loại tài sản thành động sản và bất động sản. Điều 516
BLDS Pháp năm 1804 quy định: “Tất cả mọi tài sản đều là động sản và bất động
sản”. Tài sản theo quy định trong Luật dân sự Cộng hòa Pháp là những vật, lợi ích
vật chất phục vụ cho nhu cầu của con người như các quyền lợi vật chất (quyền tài
sản) đều thuộc quyền sở hữu của cá nhân. Trong đó quy định xác định tài sản là bất
động sản tại Điều 517 và tài sản là động sản tại điều 526.
Trong BLDS Liên Bang Nga năm 1994 tài sản được xác định thông qua
quy định về đối tượng chung của các quyền dân sự, Bộ luật này quy định:
“Điều 128 Các loại đối tượng của các quyền dân sự
Thuộc về đối tượng của các quyền dân sự phải được nhắc đến là vật, trong
đó bao gồm tiền và giấy tờ có giá và cũng bao gồm các loại tài sản khác, như các
quyền tài sản; công việc và dịch vụ; thông tin; kết quả của hoạt động trí tuệ, bao
gồm quyền loại trừ đối với chúng (quyền sở hữu trí tuệ); những giá trị phi vật

chất”.
Tương tự như Liên Bang Nga, BLDS của Tiểu bang Louisiana (Hoa Kỳ)
cũng không đưa ra định nghĩa về khái niệm tài sản mà đã dựa vào phân loại tài sản
để xác định khái niệm tài sản như sau: “Điều 448. Phân loại tài sản
Tài sản được phân chia thành tài sản chung, tài sản công và tài sản tư; tài
sản hữu hình và tài sản vô hình; động sản và bất động sản”.
Có thể thấy có nhiều quan niệm khác nhau về tài sản: (1) sử dụng cách thức
liệt kê các phân loại tài sản mà không đưa ra một phạm vi cụ thể; (2) coi tài sản là
đối tượng của quyền sở hữu; (3) tài sản được phân chia thành bốn phân loại lớn là
bất động sản hữu hình, động sản hữu hình, bất động sản vô hình và động sản vô
hình.
Ở nước ta, Điều 105 BLDS 2015 quy định: “1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ
có giá và quyền tài sản.


16

2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có
thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.”
Vật là một bộ phận của thế giới vật chất, tồn tại khách quan và con người
có thể cảm giác được bằng giác quan của mình. Vật chỉ có ý nghĩa khi nó trở thành
đối tượng trong quan hệ pháp luật nên vật phải đáp ứng được lợi ích của các bên
chủ thể trong quan hệ. Do đó, để trở thành vật trong dân sự đòi hỏi phải thỏa mãn
các điều kiện: (i) Là một bộ phận của thế giới vật chất; (ii) Con người chiếm hữu
được, mang lại lợi ích cho chủ thể; (iii) Đang tồn tại hoặc sẽ hình thành trong tương
lai
Tiền theo kinh tế chính trị học là vật ngang giá chung được sử dụng làm
thước đo giá trị của các loại tài sản khác. Tiền có thể là nội tệ hoặc ngoại tệ. Tuy
nhiên, ngoại tệ là tài sản hạn chế lưu thông không được lưu hành rộng rãi như tiền
Việt Nam.

Giấy tờ có giá theo cách hiểu chung là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, trong
đó xác nhận quyền tài sản của một chủ thể xét trong mối quan hệ với chủ thể khác.
Với tư cách là một loại tài sản trong quan hệ pháp luật dân sự, giấy tờ có giá có 3
thuộc tính sau: (1) xác nhận quyền tài sản của một chủ thể xác định; (2) Trị giá
được bằng tiền; (3) có thể chuyển giao quyền sở hữu cho chủ thể khác trong giao
lưu dân sự. Hiện nay giấy tờ có giá được tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau như séc,
cổ phiếu, trái phiếu, hồi phiếu…
Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối
với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác.
(Điều 115 BLDS 2015). Quyền này được hiểu là một quyền năng dân sự chủ quan
của chủ thể được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Pháp luật Việt Nam hiện nay công
nhận một số quyền tài sản là tài sản như: quyền sử dụng đất, quyền sở hữu công
nghiệp…
Điều 463 BLDS 2015 quy định: Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa
các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay
phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và
chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”.
Theo định nghĩa trên, liệu những tài sản được quy định tại Điều 105 BLDS
2015 đều là đối tượng của HĐVTS hay không? Để trả lời cho câu hỏi hỏi này,
chúng ta căn cứ vào quy định về HĐVTS và các tính chất pháp lý của HĐVTS, để
trở thành đối tượng của HĐVTS, tài sản phải thỏa mãn những điều kiện sau: (i) Tài
sản vay phải thuộc sở hữu của bên cho vay. Bởi, HĐVTS là hợp đồng chuyển quyền
sở hữu tài sản từ bên cho vay sang bên vay, sau khi chuyển giao bên vay có quyền


17

chiếm hữu, định đoạt, sử dụng tài sản đó; (ii) Tài sản vay phải là cùng loại, khi hết
hạn hợp đồng bên vay phải trả cho bên cho vay tài sản cùng loại, trừ trường hợp các
bên có thỏa thuận thay thế bằng tài sản khác; (iii) Tài sản được phép tự do giao dịch

(hoặc hạn chế giao dịch). Đối với tài sản cấm lưu thông thì không thể là đối tượng
của giao dịch, đối với tài sản hạn chế lưu thông thì các bên cần phải tuân theo
phương thức lưu thông loại tài sản đó (vàng, ngoại tệ…); (iv) Tài sản phải chiếm
hữu được trên thực tế .Vì mục đích sử dụng tài sản vay vào công việc nhất định mà
bên vay dự định, cho nên tài sản là đối tượng của HĐVTS phải chiếm hữu được.
Như vậy, không phải mọi tài sản được quy định tại Điều 105 BLDS 2015
đều là đối tượng của hợp đồng vay mà chỉ những tài sản thỏa mãn những điều kiện
trên mới có thể là đối tượng của HĐVTS. Chẳng hạn như bất động sản theo quy
định tại Điều 107 BLDS 2015 là những vật đặc định vì thế không thể trả lại một
“bất động sản cùng loại” với bất động sản đã vay nên bất động sản không thể là đối
tượng của HĐVTS. Tương tự như vậy đối với tài sản hình thành trong tương lai quy
định tại Điều 108 BLDS 2015. Xuất phát từ đặc điểm pháp lý của HĐVTS là việc
chuyển quyền sở hữu từ bên cho vay sang bên vay nên tài sản vay phải thuộc quyền
sở hữu của bên cho vay. Do đó, tài sản hình thành trong tương lai với đặc điểm
quyền sở hữu chưa được xác lập cho bên cho vay tại thời điểm giao dịch nên không
thể là đối tượng của HĐVTS.
Có thể thấy, tài sản là vấn đề cốt lõi của quan hệ pháp luật nói chung và
quan hệ vay nói riêng. Việc nhận thức đúng đắn về tài sản và phân loại tài sản có
vai trò rất quan trọng trong việc tạo lập các quy định pháp luật và giải quyết các
tranh chấp pháp lý. Đó là căn cứ, điều kiện thuận lợi cho chủ sở hữu quản lý, thực
hiện quyền của chủ sở hữu, tham gia các giao dịch dân sự đồng thời làm cơ sở pháp
lý cho việc giải quyết các tranh chấp. Trong mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của
xã hội loài người, tài sản có một phạm vi khác nhau, nhưng đều là công cụ đáp ứng
các nhu cầu cuộc sống của con người. Xét một cách chung nhất, tài sản có thể được
hiểu là bất cứ thứ gì có giá trị nằm trong sự chiếm hữu của một chủ thể, một khái
niệm rộng và không có giới hạn, luôn được bồi đắp thêm bởi những giá trị mới mà
con người nhận thức ra.
1.4. Lãi suất và lãi trong hợp đồng vay tài sản
* Lãi suất trong hợp đồng vay tài sản
Lãi suất là yếu tố quan trọng và là điều mà các bên quan tâm nhất khi tham

gia giao kết hợp đồng vay tài sản có lãi. Đã có nhiều học giả nghiên cứu về lãi suất
dưới các góc độ khác nhau.
Dưới góc độ kinh tế học


18

Quá trình nghiên cứu bản chất của chủ nghĩa tư bản, Mác (Karl Heinrich
Max) đã vạch ra rằng quy luật giá trị thặng dư tức là giá trị lao động của công nhân
làm thuê tạo ra; là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản và nguồn gốc của
mọi lãi suất đều xuất phát từ giá trị thặng dư. Theo Mác, khi xã hội phát triển thì tư
bản tài sản tách rời tư bản chức năng, tức là quyền sở hữu tư bản tách rời quyền sử
dụng tư bản nhưng mục đích của tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư thì không
thay đổi(4).
Quá trình nghiên cứu bản chất của tư bản chủ nghĩa Mác đã vạch ra rằng quy
luật giá trị thặng dư tức là giá trị lao động không công của công nhân làm thuê tạo
ra là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản mà nguồn gốc từ mọi lãi suất đều
xuất phát từ giá trị thặng dư.
Theo Mác, khi xã hội phát triển thì quyền sở hữu tư bản tách rời quyền sử
dụng tư bản nhưng mục đích của tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư thì không
thay đổi. Vì vậy, trong xã hội phát sinh quan hệ cho vay và đi vay, đã là tư bản thì
một thời gian giao cho nhà tư bản đi vay sử dụng, tư bản cho vay được hoàn trả lại
cho chủ sở hữu nó kèm theo một giá trị tăng thêm gọi là lợi tức (lãi suất). Về thực
chất, lợi tức chỉ là một bộ phận của giá trị thặng dư mà nhà tư bản đi vay phải cho
nhà tư bản vay. Trên thực tế nó là một bộ phận của lợi nhuận bình quân mà các nhà
tư bản đi vay phải chia cho các nhà tư bản cho vay. Do đó, nó là biểu hiện của quan
hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa được ở rộng trong lĩnh vực phân phối và giới hạn tối đa
của lợi tức là lợi nhuận bình quân, còn giới hạn tối thiểu là không có, nhưng luôn
lớn hơn không. Vì vậy, sau khi phân tích công thức chung của tư bản và hình thái
vận động đầy đủ của tư bản Mác đã kết luận: “Lãi suất là phần giá trị thặng dư

dược tạo ra do kết quả bóc lột lao động làm thuê bị nhà tư bản – chủ ngân hàng
chiếm đoạt” (Học thuyết giá trị thặng dư, Quyển I Bộ tư bản)(5).
Trong XHCN không còn phạm trù tư bản và chế độ người bóc lột người song
điều đó không có nghĩa là ta không thể xác định bản chất của lãi suất. Bản chất của
lãi suất trong xã hội chủ nghĩa là “giá cả của vốn cho vay mà nhà nước sử dụng với
tư cách là công cụ điều hòa hoạt động hạch toán kinh tế”(6).
Như vậy dù cho lãi suất xuất hiện trong quan hệ vay vốn giữa các chủ thể với
mục đích dùng cho đầu tư kinh doanh, tiêu dùng với tư cách là công cụ điều tiết vĩ
mô chính sách tiền tệ, thì khái niệm được thừa nhận có tính phổ biến phù hợp với
đặc trưng của nó là: Lãi suất là giá cả của vốn tiền tệ, được đo bằng tỷ lệ giữa số
(4)
(5)

Trần Bình Trọng (chủ biên)(2005), Giáo trình lịch sử các học thuyết kinh tế, Nxb. Thống Kê, 2005, tr. 176.
Trần Bình Trọng (chủ biên)(2005), Giáo trình lịch sử các học thuyết kinh tế, Nxb. Thống Kê, 2005, tr. 178.

(6)

Trần Bình Trọng (chủ biên)(2005), Giáo trình lịch sử các học thuyết kinh tế, Nxb. Thống Kê, 2005, tr. 188.


19

tiền lãi so với số tiền gốc mà người đi vay (người sử dụng vốn vay) phải trả cho
người cho vay (người ứng vốn) được sử dụng trong một thời gian nhất định, mà
thông thường được tính theo tỷ lệ %/năm, %/tháng, %/ngày.
Dưới góc độ luật học
Chính sách về lãi suất thay đổi theo thời gian và rất khác nhau từ xã hội này
sang xã hội khác. Vào triều đại nhà Lê, các khế ước vay nợ đã trở nên rất phổ biến,
tại Điều 588 Bộ luật Hồng Đức quy định: “Cho vay nợ hay cầm đồ vật mỗi tháng

được lấy tiền lãi là 15 đồng kẽm, dù lâu bao nhiêu năm cũng không được tính quá
một giá, một lãi, trái luật thì xử biếm một tư, mà mất tiền lãi. Nếu tính gom lãi vào
là gốc rồi bắt làm văn tự khác thì xử tội nặng hơn một bậc; trường hợp quá hạn mà
không trả thì bị tội trượng. Nếu cố tình không chịu trả nợ thì xử tội biếm hai tư và
bồi thường gấp đôi”(7). Đến triều đại nhà Nguyễn (1802 – 1858), tại Bộ luật Gia
Long, Điều 134 quy định “lãi là 3% một tháng, chủ nợ chỉ có thể đòi tiền vốn và
một số tiền lãi ngang với tiền vốn”(8).
Ngày nay, hầu hết các nước đều chấp nhận vay có lãi và thuật ngữ “lãi suất”
không xa lạ trong pháp luật cũng như khoa học pháp lý Việt Nam. Tuy nhiên, theo
các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, không có một định nghĩa hay khái
niệm chính xác như thế nào là lãi suất. Tại Điều 10 và 12 Luật NHNN, lãi suất được
đề cấp đến nhưng không được định nghĩa thế nào là lãi suất. Tương tự vậy, lãi suất
được quy định tại các điều, khoản cụ thể của BLDS 2015, nhưng BLDS cũng không
định nghĩa cụ thể về lãi suất. Khoản 1 Điều 468 BLDS quy định: “1. Lãi suất vay
do các bên thỏa thuận.
Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận
không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên
quan quy định khác …”
Tại từ điển Luật học – trường Đại học Luật Hà Nội năm 1999 đề cập cách
giải thích lãi suất, thì lãi suất cho vay là giá cả của tiền vay thể hiện dưới hình thức
tỷ lệ % trên số tiền vay theo khoảng thời gian xác định (tháng, năm); lãi suất do
TCTD và bên vay thỏa thuận phù hợp với quy định của NHNN về thời điểm cho
vay tại thời điểm ký kết hợp đồng(9). Theo nội dung Giáo trình lý thuyết tiền tệ,
ngân hàng, thì lãi suất được hiểu là giá cả của quyền được sử dụng vốn vay trong
một thời gian nhất định mà người sử dụng vốn phải trả cho người sở hữu vốn(10).

(7)

Bộ luật Hồng Đức (Quốc triều hình luật), Nxb. Pháp lý, Hà Nội, 1999.
Luật Gia Long (Hoàng Việt luật lệ), bản dịch, Nxb. Văn hóa thông tin, 1994.

(9)
Trường Đại học Luật Hà Nội, Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,
1999, tr.253.
(10)
Trường đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình luật Ngân hàng, Nxb. Công an nhân dân, tr.63.
(8)


20

Như vậy, đặc trưng cơ bản của lãi suất thể hiện nó là một công cụ để tính lợi
nhuận, nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất hoặc tinh thần của bên cho vay và bên vay.
Từ những phân tích trên có thể thấy: Lãi suất là giá cả vốn vay, khi sử dụng
bất kỳ một khoản vay nào, người sử dụng vốn không thuộc sở hữu của mình có
nghĩa vụ phải trả thêm vào số tiền đã vay một khoản tiền nhất định theo thỏa thuận
(nếu có) được tính theo tỷ lệ % số tiền tăng thêm được xác định theo khoảng thời
gian trên số vốn gốc đã vay. Trong HĐVTS các bên cần phải xác định rõ mức lãi
suất trong hạn và mức lãi suất nợ quá hạn.
* Lãi trong hợp đồng vay tài sản
Thông thường, khi tham gia vào HĐVTS, vấn đề mà các bên quan tâm nhiều
nhất là các lợi ích vật chất ngoài lượng giá trị tài sản vay ban đầu. Lượng giá trị
tăng thêm này được gọi là lãi. Tỷ lệ phần trăm của tiền lãi so với giá trị tài sản vay
ban đầu được gọi là lãi suất. Lãi nhiều hay ít phụ thuộc vào giá trị tài sản vay, lãi
suất và thời hạn vay. Khi lãi suất cao, thời hạn vay dài, giá trị tài sản lớn thì lãi càng
cao và ngược lại.
- Giá trị tài sản vay: đây là số vốn gốc mà các bên đã thỏa thuận cho nhau
vay, số lãi sẽ tỷ lệ thuận với số vốn gốc mà bên cho vay chuyển cho bên vay theo
hợp đồng. Lãi được chuyển từ người vay sang người cho vay khi hết hạn hợp đồng
hoặc thời hạn nhất định tùy theo thỏa thuận của các bên
- Lãi suất: Nếu các bên thỏa thuận với lãi suất cao thì lãi thu về sẽ cao nhưng

lãi chỉ tỉ lệ thuận với lãi suất trong thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng còn ngoài
thời hạn hợp đồng vì lý do nào đó mà bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ cho
bên cho vay thì lãi sẽ phụ thuộc vào mức lãi suất luật định.
- Thời hạn vay: Cũng giống như số tiền cho vay và mức lãi suất, thời gian sử
dụng vốn vay càng dài thì lãi càng nhiều và ngược lại lãi sẽ ít khi thời gian sử dụng
ngắn.
Có thể xác định công thức tính lãi như sau:
Lãi = Giá trị tài sản vay x lãi suất x thời hạn vay
Lãi trong hợp đồng vay tài sản phụ thuộc hoàn toàn vào lãi suất, vì trong hợp
đồng nếu các bên không thỏa thuận về mức lãi suất thì không có lãi (hợp đồng
không có lãi) trừ trường hợp nợ quá hạn trong hợp đồng vay không lãi khi đó lãi
quá hạn sẽ được tính dựa vào lãi suất quá hạn luật ấn định 10%/năm. Trường hợp
vay không lãi thường xảy ra trong giao dịch giữa cá nhân với cá nhân trên cơ sở sự
tương trợ của bên cho vay đối với bên vay nhằm giúp đỡ, tạo điều kiện để bên vay
giải quyết khó khăn về mặt tài chính, bên vay không phải trả tiền lãi cho bên cho
vay.


×