Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam của viện kiểm sát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.78 MB, 107 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN HỮU TÙNG LÂM

KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG VIỆC
ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠM GIỮ,
TẠM GIAM CỦA VIỆN KIỂM SÁT

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN HỮU TÙNG LÂM

KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG VIỆC
ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠM GIỮ,
TẠM GIAM CỦA VIỆN KIỂM SÁT

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8380104

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS: Đỗ Thị Phượng

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chữa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được
trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
Tác giả luận văn

Nguyễn Hữu Tùng Lâm


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS:
TTHS:
BPNC:
VKSND:

Bộ luật tố tụng hình sự
Tố tụng hình sự
Biện pháp ngăn chặn
Viện kiểm sát nhân dân



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu ...................................................................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 4
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .................................................................. 5
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu .......................................... 6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn..................................................... 6
7. Kết cấu của đề tài ............................................................................................ 7
Chƣơng 1 .............................................................................................................. 8
LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG
VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠM GIỮ, TẠM GIAM
CỦA VIỆN KIỂM SÁT ...................................................................................... 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc
áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sát ............ 8
1.2. Ý nghĩa của kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng biện
pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam ................................................................. 17
1.3. Vai trò của Viện kiểm sát trong kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam........................ 20
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .................................................................................. 24
Chƣơng 2 ............................................................................................................ 25
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ KIỂM
SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG VIỆC ÁP DỤNG BIỆN
PHÁP NGĂN CHẶN TẠM GIỮ, TẠM GIAM CỦA VIỆN KIỂM SÁT VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG ................................................................................... 25
2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam
............................................................................................................................. 25



2.1.1. Viện kiểm sát ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn ......... 25
2.1.2. Viện kiểm sát quyết định việc thay thế hoặc hủy bỏ biện pháp tạm
giữ, tạm giam ở giai đoạn điều tra ................................................................... 40
2.1.3 Kiểm sát chế độ tạm giữ, tạm giam và đảm bảo quyền khiếu nại, tố
cáo của ngƣời bị tạm giữ, tạm giam ................................................................ 41
2.2. Thực tiễn kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng biện
pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sát.................................. 46
2.2.1. Những kết quả đạt đƣợc ......................................................................... 46
2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân............................................................. 57
2.2.2.1. Những tồn tại, hạn chế ......................................................................... 57
2.2.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế........................................... 61
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .................................................................................. 66
Chƣơng 3 ............................................................................................................ 67
CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT
TRONG VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠM GIỮ, TẠM
GIAM CỦA VIỆN KIỂM SÁT ........................................................................ 67
3.1. Hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản khác có liên quan
đến công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam ........................................................ 67
3.1.1. Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ... 67
3.1.2. Hoàn thiện một số quy định của các văn bản pháp luật khác có liên
quan đến công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng
biện pháp tạm giữ, tạm giam ........................................................................... 71
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam........................ 73
3.2.1. Tăng cƣờng quản lý, đào tạo, bồi dƣỡng nghiệp vụ về kiểm sát tạm
giữ, tạm giam cho đội ngũ cán bộ Kiểm sát .................................................... 73
3.2.2. Tăng cƣờng nhận thức về các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình

sự ......................................................................................................................... 76


3.2.3. Tăng cƣờng phối hợp giữa kiểm sát tạm giữ, tạm giam với kiểm sát
điều tra................................................................................................................ 78
3.2.4. Tăng cƣờng cơ sở vật chất, phƣơng tiện, điều kiện làm việc .............. 80
3.2.5. Nâng cao chất lƣợng nghiệp vụ Kiểm sát giam, giữ ............................ 81
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hệ thống các biện pháp ngăn chặn (BPNC) của Bộ luật tố tụng hình
sự (BLTTHS), tạm giữ, tạm giam là những biện pháp nghiêm khắc nhất và có
tầm quan trọng đặc biệt. Nói như vậy bởi lẽ, việc áp dụng BPNC tạm giữ, tạm
giam một mặt tạo điều kiện thuận lợi ảnh hưởng rất lớn đến quá trình giải quyết
vụ án hình sự và hiệu quả trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm; một
mặt lại hạn chế các quyền tự do dân chủ, lợi ích hợp pháp của công dân được
ghi nhận và bảo đảm trong Hiến pháp.
Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định: “1. Mọi người có quyền bất khả
xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân
phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử
nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.
2. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết
định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả
tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định.1”
Như vậy, Hiến pháp đã quy định rất rõ ràng việc mọi người không bị bắt ,

giam giữ, tước tự do một cách tùy tiện. Vì vậy, khi áp dụng các biện pháp ngăn
chặn nói chung hay biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam nói riêng đòi hỏi
phải hết sức thận trọng, đúng căn cứ pháp luật mà pháp luật Tố tụng hình sự
(TTHS) quy định. Thực tế chỉ ra rằng, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
trong Tố tụng hình sự không đúng không chỉ xâm phạm các quyền cơ bản của
công dân, gây nên những khó khăn nhất định cho việc giải quyết vụ án hình sự,
mà còn tạo dư luận xã hội không tốt và có thể dẫn đến những hậu quả như bỏ lọt
tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Có thể thấy, để đảm bảo cho việc áp dụng các BPNC tạm giữ, tạm giam là
đúng với các quy định của pháp luật, góp phần ngăn chặn kịp thời hành vi phạm
tội, chặn đứng hành vi trốn tránh pháp luật của bị can, bị cáo thì việc kiểm sát
1

Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội


2

hoạt động tư pháp trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam
của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) là vô cùng quan trọng. Ngoài ra, việc
kiểm sát tốt còn góp phần giảm thiểu nhiều vi phạm gây ảnh hưởng không nhỏ
đến kết quả điều tra tội phạm, xâm phạm các quyền cơ bản của công dân, gây dư
luận xấu trong nhân dân, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, Nhà nước và các cơ
quan tiến hành tố tụng.
Việc kiểm sát có hiệu quả việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng
biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam có rất nhiều yếu tố tác động. Ngoài
những yếu tố trên thì vấn đề chủ yếu là do các quy định của pháp luật Tố tụng
hình sự còn nhiều “lỗ hổng”, thiếu chặt chẽ, chồng chéo, dẫn đến những khó
khăn trong việc áp dụng pháp luật. Bên cạnh đó, trình độ của một số người làm
công tác áp dụng các quy định này còn chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ

trong tình hình mới.
Nắm vững nội dung, thẩm quyền, thủ tục áp dụng các BPNC sẽ có tác
dụng tốt giúp các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng áp dụng
đúng pháp luật, hạn chế tối đa vi phạm các quyền con người, quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân mà Hiến pháp và luật đã quy định. Hơn nữa, việc đảm
bảo quyền con người trong Tố tụng hình sự nói chung và trong việc áp dụng
BPNC nói riêng sẽ góp phần bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, tăng cường sự
tin tưởng của nhân dân vào hoạt động của các cơ quan nhà nước, tạo cơ sở vững
chắc để xây dựng xã hội ổn định, văn minh.
Từ những phân tích, lập luận trên tác giả quyết định chọn vấn đề “Kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ,
tạm giam của Viện kiểm sát” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học, với mong
muốn góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng BPNC
tạm giữ, tạm giam trong TTHS và chất lượng kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc áp dụng BPNC tạm giữ, tạm giam trong ngành kiểm sát.


3

2. Tình hình nghiên cứu
Những vấn đề liên quan đến Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc
áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sát đã được một
số nhà luật học, cũng như một số cán bộ làm công tác thực tiễn nghiên cứu trong
những năm vừa qua. Cho đến nay đã có một số bài viết, công trình nghiên cứu
liên quan đến đề tài như:
-

Đề tài khoa học cấp bộ: “ Kháng nghị của Viện kiểm sát với các cơ quan

có trách nhiệm trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý giáo dục người chấp hành

án phạt tù” của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, do Nguyễn Hoàng Thế và các
thành viên thực hiện, nghiệm thu năm 2004.
-

Đề tài khoa học cấp bộ “ Nhiệm vụ quyền hạn của Viện kiểm sát trong

tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù theo yêu cầu
cải cách tư pháp hiện nay” của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, do tác giả Ngô
Quang Liễn và các thành viên thực hiện, nghiệm thu năm 2007.
-

Chuyên đề: “ Tổng kết 50 năm công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam,

quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù” của Viện kiểm sát nhân dân tối
cao do tác giả Bùi Đức Long và các thành viên thực hiện, nghiệm thu năm 2010.
-

Luận văn thạc sỹ luật học “ Kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi hành án

hình sự trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn thủ đô Hà Nội” của tác giả Trần
Thế Linh năm 2014, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
-

Luận văn thạc sỹ luật học “ Vai trò của Viện kiểm sát trong việc áp dụng

các biện pháp ngăn chặn: bắt, tạm giữ, tạm giam trong luật tố tụng hình sự Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Bá Phùng năm 2010, Khoa Luật – Đại học Quốc gia
Hà Nội.
-


Luận văn thạc sỹ luật học “Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam ở thành phố

Hà Nội” của tác giả Lê Vân Hà năm 2016, trường Đại học Luật Hà Nội
-

Luận văn thạc sỹ luật học “Kiểm sát việc tạm giam trong giai đoạn điều

tra vụ án hình sự” của tác giả Tăng Ngọc Kim Mỹ năm 2016, trường Đại học
Luật Hà Nội


4

Bên cạnh đó còn có một số sách báo, tạp chí chuyên ngành luật đã nghiên
cứu về kiểm sát tạm giữ, tạm giam đã được đăng tải như: Tạp chí kiểm sát số
19/2012 có bài: “ Căn cứ tạm giam, hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam
đối với một số loại tội phạm, thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết định
việc áp dụng tạm giam” của TS. Đỗ Văn Đương; tác giả Nguyễn Hải Phùng có
bài viết: “ Khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tạm giữ, tạm giam và thi
hành án hình sự có cần ban hành “ quyết định trực tiếp kiểm sát” không?”, Tạp
chí kiểm sát, số 7/2012. Bên cạnh đó còn bài viết của GS. TSKH Lê Cảm “
Những vấn đề chung về bảo bệ các quyền con người bằng pháp luật trong lĩnh
vực tư pháp hình sự”, Tạp chí Kiểm sát, số 10/2008; bài viết của PGS.TS Trần
Văn Độ: “ Bảo vệ quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố
tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số
6/2010.
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về Kiểm sát tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sát, hầu hết các công
trình nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau, đều nhằm mục đích làm rõ các quy
định của pháp luật, việc áp dụng trên thực tiễn như thế nào, những vấn đề cần

hoàn thiện. Chính vì vậy, việc lựa chọn đề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
quan trọng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm sáng tỏ một cách có hệ thống những vấn đề lý luận liên
quan đến BPNC tạm giữ, tạm giam trong TTHS hiện hành, thực tiễn kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm
giam, luận văn đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
việc kiểm sát hoạt động tư pháp trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm
giữ, tạm giam và áp dụng BPNC tạm giữ, tạm giam có hiệu quả trong quá trình
giải quyết các vụ án hình sự trên địa bàn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu


5

Để đạt được mục đích trên, luận văn đặt ra và tập trung giải quyết một số
nhiệm vụ sau:
- Phân tích làm sáng tỏ một những đề lý luận về các BPNC tạm giữ, tạm
giam và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam của Viện
kiểm sát;
- Phân tích các quy định của pháp luật về kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong việc tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sát;
- Phân tích thực tiễn kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc tạm giữ,
tạm giam của Viện kiểm sát trên toàn ngành ở những khía cạnh như kết quả đạt
được và nguyên nhân, những hạn chế, khó khăn và nguyên nhân;
- Đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam của Viện
kiểm sát trên thực tế.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu đề tài là các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự
Việt Nam và thực tiễn của công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm
sát đảm bảo việc tuân thủ pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ tạm giữ, tạm giam.
Ngoài ra, luận văn cũng nghiên cứu và làm rõ một số điểm mới trong các
quy định về công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam của Bộ luật Tố tụng hình sự
2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 và Luật thi hành tạm giữ, tạm giam 2015.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dưới góc độ luật hình sự và tố tụng hình sự, song
chỉ nghiên cứu những quy định của pháp luật TTHS năm 2015 và so sánh với
BLTTHS năm 2003 về chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong việc thực hiện
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật khi việc áp dụng BPNC tạm giữ,
tạm giam trong giai đoạn điều tra.


6

Về thời gian và không gian: tác giả nghiên cứu trên cơ sở, thu thập số
liệu, tài liệu thực tiễn của công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam của toàn ngành
kiểm sát từ năm 2013 đến năm 2017.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây
dựng Nhà nước và pháp luật, trong đó có vấn đề áp dụng BPNC ( trong đó có
tạm giữ, tạm giam), vấn đề kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng
BPNC. Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của khoa học luật hình sự,
luật TTHS các tài liệu tham khảo từ các công trình nghiên cứu của các tác giả
khác….
5.2. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Thống kê, phân tích,
tổng hợp, so sánh, đối chiếu với các quy phạm pháp luật hiện hành, phương
pháp tham khảo ý kiến chuyên gia, tổng kết thực tiễn, dự báo,… phù hợp với
yêu cầu của đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ lý luận về vị trí, vai trò của VKSND trong
công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng BPNC tạm giữ,
tạm giam của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra đề xuất những giải pháp,
kiến nghị trên cơ sở đúc kết thực tiễn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
quá trình sửa đổi, bổ sung một số quy định về tạm giữ, tạm giam Quy chế tạm
giữ, trại giam, Luật tổ chức VKSND…
Với việc đánh giá đúng thực tiễn việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc áp dụng BPNC tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sát trong toàn ngành
Kiểm sát, đánh giá những thành tựu và nguyên nhân, những khó khăn, bất cập
và nguyên nhân, luận văn rút ra được những đề xuất có cơ sở lý luận và thực


7

tiễn. Những đề xuất này có giá trị tham khảo trong áp dụng của các cơ quan tiến
hành tố tụng trên cả nước.
Đề tài có giá trị làm tài liệu tham khảo và học tập đối với các sinh viên,
học viên luật, người làm thực tiễn tại các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa
án, cán bộ nghiên cứu… Đặc biệt cung cấp về kiến thức chuyên sâu cho cán bộ,
Kiểm sát viên trực tiếp làm công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp
dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được
kết cấu thành 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Lý luận về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp

dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sát.
Chương 2: Quy định của BLTTHS năm 2015 về Kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam của
Viện kiểm sát và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự và nâng cao
hiệu quả kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn
chặn tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sát.


8

Chƣơng 1
LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG
VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠM GIỮ, TẠM GIAM
CỦA VIỆN KIỂM SÁT

1.1.

Khái niệm, đặc điểm về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp
dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sát
Các BPNC là một trong những chế định pháp lý quan trọng có ý nghĩa to

lớn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Hai trong số những BPNC có ý
nghĩa quan trọng nhất đó là tạm giữ và tạm giam. Việc nhận thức thống nhất,
đồng thời các quy định và áp dụng đúng đắn các BPNC nói chung hay BPNC
tạm giữ, tạm giam nói riêng là bảo đảm cần thiết cho việc thực hiện tốt các
nhiệm vụ của TTHS để phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh,
kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô
tội.
BPNC tạm giữ, tạm giam chứa đựng mục đích là ngăn chặn tội phạm,

không để người thực hiện hành vi phạm tội gây khó khăn cản trở hoạt động điều
tra, truy tố, xét xử và chấp hành bản án hình sự, đồng thời nó còn có tác động
ảnh hưởng rất lớn đến quyền và nghĩa vụ của công dân2.
BLTTHS năm 2015 mặc dù không đưa ra khái niệm về biện pháp ngăn
chặn, nhưng theo quy định tại khoản 1 Điều 109 BLTTHS năm 2015 thì:
“ Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị
buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm
tội hoặc để bảo đảm thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp giữ người trong
trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm
đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh.”

2

Dương Ngọc An (2012), “Một số ý kiến nhằm góp phần nâng cao chật lượng công tác
kiểm sát hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam”, Tạp chí Kiểm sát, (14)


9

+ Tạm giữ được hiểu là biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang,
người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã
để cách ly họ với xã hội trong thời gian cần thiết nhằm ngăn chặn người đó tiếp
tục phạm tội, cản trở điều tra và xác định sự liên quan của người này đối với tội
phạm. Cũng theo Điều 117 BLTTHS năm 2015 đối tượng bị tạm giữ là những
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự
thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã. Tuy nhiên, không
phải tất cả các trường hợp trên, người bị bắt đều bị tạm giữ mà tùy tính chất,
mức độ của hành vi nguy hiểm cho xã hội hay về nhân thân của những người

này mà có thể bị tạm giữ hoặc không tạm giữ. Trong trường hợp người đủ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi vẫn có thể bị tạm giữ khi có đủ căn cứ theo luật định
nhưng chỉ trong các trường hợp phạm tội rất nghiêm trong do lỗi cố ý hoặc
phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
+ Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do những người
có thẩm quyền của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị
can, bị cáo phạm tội trong các trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm
trọng hoặc bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, ít nghiêm trọng mà Bộ luật
hình sự quy định phạt tù trên 2 năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn
hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Có thể hiểu tạm giữ, tạm giam là những biện pháp ngăn chặn được quy
định trong Bộ luật tố tụng hình sự do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa
án áp dụng nhằm buộc những người có Quyết định tạm giữ hoặc Lệnh tạm giam
cách ly khỏi xã hội trong một thời gian nhất định để ngăn chặn hành vi phạm tội,
hành vi gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc đảm bảo thi hành án
phạt tù hoặc án tử hình. Như vậy có thể thấy, tạm giam không phải là hình phạt
tù vì mục đích của tạm giam không những ngăn ngừa bị can, bị cáo phạm tội
mới hoặc trốn tránh mà còn đảm bảo cho cơ quan tiến hành tố tụng điều tra, truy


10

tố và xét xử bị cáo được chính xác, kịp thời, bên cạnh đó cũng là biện pháp để
giúp đảm bảo thi hành án hình sự.
Biện pháp ngăn chặn là một loại biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự do
các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng ( Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án) áp dụng đối với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo..
khi các cơ quan, người có thẩm quyền này có căn cứ cho rằng những người này
sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, giải quyết vụ án hình sự. Các
biện pháp ngăn chặn là những biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất, gây tác

động, ảnh hưởng nhất định đến các quyền và lợi ích của đương sự, thậm chí hạn
chế một số quyền, hạn chế tự do... đối với người bị áp dụng.
Như vậy, ngoài mục đích chung, thống nhất là ngăn chặn không để người
bị buộc tội có điều kiện tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi gây khó khăn cho việc
giải quyết vụ án thì ở mỗi giai đoạn tố tụng nhất định, việc áp dụng biện pháp
tạm giữ, tạm giam còn có mục đích riêng nhằm bảo đảm thực hiện tốt chức năng
tố tụng của cơ quan áp dụng. Việc tạm giữ, tạm giam đối với người bị buộc tội
tạo điều kiện thuận lợi cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể tiến
hành hoạt động thu thập chứng cứ từ lời khai của bị can vào bất cứ khi nào nếu
thấy cần thiết mà không phải triệu tập nhiều lần, đồng thời cũng giúp cho việc
quản lý, giám sát bị can được chặt chẽ .
Tính đến thời điểm hiện tại, chưa có một tài liệu nào đưa ra khái niệm
chính thức về khái niệm “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng
biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam”, ngay cả các tài liệu giảng dạy hay học
tập nghiên cứu của ngành kiểm sát. Tuy nhiên, có những quan điểm có nội dung
đề cập gần với khái niệm này nhưng chưa đưa ra được khái niệm đầy đủ, khoa
học chứa đựng được tất cả các đặc điểm, nội dung của kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong việc áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam.
Xuyên suốt lịch sử lập hiến nước ta từ Hiến pháp năm 1959, sau đó là Hiến
pháp năm 1980, được cụ thể hóa trong các văn bản luật: Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân năm 1960, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981, Luật tổ


11

chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 1988 thì
cụm từ “kiểm sát việc tuân theo pháp luật” được sử dụng liên tục. Đến thời điểm
năm 2001, đã xuất hiện cụm từ “kiểm sát các hoạt động tư pháp” - Điều 137
Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) quy định: “Viện kiểm sát nhân dân
(VKSND) Tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp,

góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.
Điều 1 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy định: “Viện kiểm sát
nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy
định của Hiến pháp và pháp luật”. Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 lại tiếp tục
sử dụng cụm từ “kiểm sát việc tuân theo pháp luật”. Đến nay, Luật Hiến pháp
năm 2013 vẫn sử dụng cụm từ “ kiểm sát hoạt động tư pháp” trong khi Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2015 chỉ sử dụng cụm từ “kiểm sát việc tuân theo pháp
luật” còn Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 2014 lại sử dụng đồng thời
cả 2 cụm từ trên.
Như vậy, trong lĩnh vực tố tụng hình sự, tồn tại đồng thời hai thuật ngữ rất
dễ bị nhầm lẫn: “kiểm sát việc tuân theo pháp luật” và “kiểm sát các hoạt động
tư pháp”. Để làm rõ khái niệm “kiểm sát việc tuân theo pháp luật”, trước hết,
cần phân biệt với khái niệm “kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình
sự”.
Theo pháp luật TTHS Việt Nam, “tố tụng hình sự là toàn bộ hoạt động của
các cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và cá nhân, cơ quan Nhà
nước, tổ chức xã hội nhằm giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, nhanh chóng,
chính xác và đúng pháp luật”3, các hoạt động TTHS bao gồm:
- Hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong vụ án hình sự: là hoạt động
của các cơ quan: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án. Đây là các cơ quan có
vai trò chủ đạo trong việc giải quyết các vụ án hình sự.

3

Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc
gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia, 2005


12


- Hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng được thực hiện thông qua hoạt động
của người tiến hành tố tụng. Người tiến hành tố tụng là những công chức trong
cơ quan tiến hành tố tụng, được bổ nhiệm vào các chức danh tố tụng, có thẩm
quyền thực hiện những hoạt động tố tụng nhất định trong phạm vi chức năng,
nhiệm vụ của cơ quan đó nhằm góp phần giải quyết vụ án hình sự.
- Hoạt động của những người tham gia tố tụng: Bao gồm hoạt động của người
tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình (người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan); hoạt động của người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của người khác; hoạt động của người tham gia tố tụng nhằm
giúp cơ quan tiến hành tố tụng xác định sự thật vụ án (người làm chứng, người
giám định, người phiên dịch).
- BLTTHS còn quy định cả nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, các cơ quan, tổ
chức và công dân trong việc thực hiện một số biện pháp ngăn chặn, thi hành bản
án, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng... Như vậy, trong một chừng mực
nhất định, đây cũng là các hoạt động TTHS.
Tất cả các hoạt động nêu trên đều phát sinh trong lĩnh vực TTHS, có thể
coi là các hoạt động TTHS, do đó, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS
là kiểm sát tất cả các hoạt động nêu trên, của các chủ thể nêu trên. Có thể hiểu
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS là hoạt động kiểm sát việc tuân
theo pháp luật tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng, các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, các
cơ quan, tổ chức và công dân trong việc thực hiện một số biện pháp ngăn chặn,
thi hành bản án, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng…. (các cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra và những “người” tham gia tố tụng).
Về khái niệm “hoạt động tư pháp”, hiện có nhiều ý kiến khác nhau, loại ý
kiến thứ nhất cho rằng, hoạt động tư pháp là hình thức thực hiện những thẩm



13

quyền tương ứng do luật định của hệ thống Toà án mà thông qua đó các chức
năng của nhánh quyền lực thứ ba trong Nhà nước pháp quyền biến thành hiện
thực4. Loại ý kiến thứ hai lại khẳng định: hoạt động tư pháp là hoạt động xét xử
của Toà án và hoạt động của các cơ quan khác của Nhà nước và các tổ chức
khác được Nhà nước cho phép thành lập, trực tiếp liên quan hoặc phục vụ cho
việc xét xử của Toà án. Toà án sử dụng công khai các kết quả hoạt động điều
tra, truy tố, bào chữa, giám định tư pháp, áp dụng các thủ tục tư pháp theo luật
định để nhân danh Nhà nước đưa ra phán quyết cuối cùng. Hoạt động tư pháp
cần được hiểu là hoạt động của các Cơ quan điều tra, truy tố, xét xử, Cơ quan thi
hành án và các cơ quan, tổ chức liên quan hoặc bổ trợ cho công tác xét xử của
Toà án5.
Như vậy, cả hai loại ý kiến trên hoặc khẳng định chủ thể của hoạt động tư
pháp chỉ là Toà án, hoặc như ý kiến thứ 2 thì lại mở rộng phạm vi chủ thể của
hoạt động này tới cả các các cơ quan, tổ chức liên quan hoặc bổ trợ cho công tác
xét xử của Toà án.
Quan điểm phổ biến hiện nay cho rằng: hoạt động tư pháp là các hoạt
động do cơ quan tư pháp thực hiện và một số hạn chế hoạt động do các cơ quan
được giao một số thẩm quyền tư pháp thực hiện, mang tính quyền lực nhà nước,
được thực hiện trong quá trình tố tụng, được điều chỉnh bằng pháp luật tố tụng,
trực tiếp liên quan tới quá trình giải quyết các vụ án. Và do đó, hoạt động tư
pháp trong TTHS là các hoạt động do cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện, mang
tính quyền lực nhà nước, được thực hiện trong quá trình TTHS, được điều chỉnh
bằng pháp luật TTHS, trực tiếp liên quan tới quá trình giải quyết các vụ án hình
sự.
4

Kỷ yếu đề tài cấp Bộ: “Những giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và

kiểm sát các hoạt động tư pháp”, Hà Nội, 2002-2003, trang 11-12, trích trong bài viết Lê Lan
Chi (2007), Phân biệt Khái niệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự” với
khái niệm liền kề”, Tạp chí Nghề Luật số 5/2007
5
Kỷ yếu đề tài cấp Bộ: “Những giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp”, Hà Nội, 2002-2003, trang 14 trích trong bài viết Lê Lan Chi,
Phân biệt Khái niệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự” với khái niệm
liền kề”, Tạp chí Nghề Luật số 5/2007


14

Từ các phân tích nêu trên về hoạt động TTHS và hoạt động tư pháp trong
TTHS, có thể thấy kiểm sát hoạt động tư pháp trong TTHS về căn bản khác với
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS ở phạm vi, đối tượng kiểm sát, cụ
thể:
Thứ nhất, hoạt động tư pháp trong TTHS là hoạt động chỉ do các cơ quan
tư pháp và các cơ quan được giao thực hiện một số thẩm quyền tư pháp chịu
trách nhiệm trực tiếp thực hiện. Đây là những hoạt động có tính quyền lực nhà
nước. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS hay kiểm sát việc tuân theo
pháp luật đối với các hoạt động TTHS không chỉ là kiểm sát các hoạt động tư
pháp trong TTHS mà còn bao gồm cả những hoạt động của các cơ quan, tổ chức
không phải là các cơ quan tư pháp, hoạt động của những người tham gia tố tụng,
không mang tính quyền lực Nhà nước.
Thứ hai, hoạt động tư pháp trong TTHS bao gồm những dạng thực hiện
pháp luật6 ở mức độ cao: áp dụng pháp luật và sử dụng pháp luật - do các dạng
thực hiện pháp luật này gắn với chức năng, nghề nghiệp của những người tiến
hành tố tụng. Trong khi đó, những hoạt động tuân theo pháp luật trong TTHS
bao gồm cả các dạng thực hiện pháp luật ở mức độ thấp, gắn với nghĩa vụ, trách
nhiệm công dân của những người tham gia tố tụng (tuân thủ pháp luật - kiềm

chế không tiến hành những hoạt động mà pháp luật cấm, chấp hành pháp luật thực hiện nghĩa vụ một cách tích cực)7.
Như vậy, khái niệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS rộng
hơn khái niệm kiểm sát các hoạt động tư pháp trong TTHS, phạm vi kiểm sát
các hoạt động tuân theo pháp luật trong TTHS bao trùm phạm vi kiểm sát các
hoạt động tư pháp trong TTHS.
Từ những phân tích trên, chúng tôi cho rằng: Kiểm sát việc tuân theo pháp
luật của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự là việc kiểm tra, giám sát đối với
6

Theo lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, thực hiện pháp luật được chia thành nhiều
dạng khác nhau theo tính chất, mức độ ý thức của chủ thể thực hiện: áp dụng pháp luật, sử
dụng (vận dụng) pháp luật, thi hành (chấp hành) pháp luật, tuân thủ pháp luật.
7
Lê Lan Chi (2007), “ Phân biệt khái niệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật và các khái niệm
liền kề”, tạp chí Nghề luật, số 5/2007.


15

các hoạt động cụ thể của các cơ quan, người tiến hành tố tụng hình sự, của các
cơ quan khác được giao một số thẩm quyền điều tra trong quá trình tố tụng hình
sự, của người tham gia tố tụng hình sự hoặc của các cá nhân, cơ quan, tổ chức
khác trong tố tụng hình sự.
Để đưa ra được khái niệm về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc
áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam, chúng ta cần nghiên cứu thẩm
quyền của Viện kiểm sát trong trường hợp áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm
giữ, tạm giam. Theo đó thẩm quyền chung của Viện kiểm sát về việc áp dụng
các biện pháp ngăn chặn được quy định tại Điều 109 BLTTHS năm 2015: “ .. cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi thẩm quyền của
mình có thể áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm

giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn
xuất cảnh.”. Khác với quy định tại Điều 79 BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm
2015 đã không quy định cụ thể cơ quan tiến hành tố tụng là cơ quan nào nhưng
chúng ta vẫn hiểu ở đây cơ quan tiến hành tố tụng bao gồm cả Viện kiểm sát.
Thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ của Viện kiểm sát
nhân dân: để đảm bảo công tác giám sát việc tạm giữ, tránh vi phạm quyền tự
do, bất khả xâm phạm về thân thể của công dân, Bộ luật tố tụng hình sự quy
định trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi ra quyết định tạm giữ, quyết định tạm giữ
kèm theo các tài liệu làm căn cứ tạm giữ phải được gửi cho Viện kiểm sát cúng
cấp. Nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì Viện
kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người
bị tạm giữ. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được Viện kiểm sát cùng
cấp phê chuẩn.
Thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam của Viện kiểm sát
nhân dân: Đối với Viện kiểm sát nhân dân thì Viện trưởng, phó Viện trưởng
viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp có quyền ra lệnh tạm
giam và một số thủ trưởng cơ quan khác do luật quy định cũng có quyền ra lệnh
tạm giam. Tại khoản 5 điều 119 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cũng quy định


16

rõ: lệnh tạm giam của những người được pháp luật cho phép phải được Viện
kiểm sát nhân dân cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
Như vậy, có thể hiểu: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp
dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam của Viện kiểm sát là việc kiểm tra, giám sát
các hoạt động tạm giữ, tạm giam của các cơ quan, người có thẩm quyền nhằm
đảm bảo cho việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam có căn cứ,
đúng pháp luật; góp phần loại trừ những vi phạm pháp luật trong việc áp dụng
các biện pháp ngăn chặn này, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của công

dân không bị xâm phạm.
Từ việc đưa ra được quan điểm về khái niệm của việc kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam, có thể
thấy có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, được thể chế hóa cụ thể trong Hiến pháp, Luật Tổ chức
VKSND, BLTTHS và các đạo luật khác có liên quan, hoạt động kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong việc áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam mang tính
quyền lực nhà nước bởi chức năng, nhiệm vụ và hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân do cơ quan quyền lực Nhà nước là Quốc Hội quyết định.
Thứ hai, đây là hoạt động nhằm thực hiện quyền giám sát do Quốc Hội
giao, vì thông qua hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp, Viện kiểm sát có trách nhiệm kiểm sát chặt chẽ hoạt động tư pháp nói
chung và trình tự, thủ tục, căn cứ, thẩm quyền trong việc áp dụng biện pháp
ngăn chặn tạm giữ, tạm giam.
Thứ ba, đối tượng của hoạt động kiểm sát là việc tuân theo pháp luật của
các cơ quan có thẩm quyền như Cơ quan điều tra, Tòa án...trong việc áp dụng
các biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam. Vì vậy, ban hành bất cứ quyết định
phê chuẩn hay không phê chuẩn hoặc hủy bỏ các quyết định của các chủ thể này
cũng liên quan đến quyền và lợi ích chính đáng trái chiều của hai nhóm đối
tượng là công dân và các cơ quan tố tụng có thẩm quyền.


17

Thứ tư, đối tượng bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam
là những người thuộc trường hợp bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị
tạm giữ, người bị bắt để tạm giam, bị can, bị cáo....
Thứ năm, các căn cứ để áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam
là những căn cứ thực tế và cũng chính là những căn cứ để Viện kiểm sát xem
xét, đánh giá tính có căn cứ, hợp pháp để ra các quyết định.

1.2.

Ý nghĩa của kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng biện
pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam
Thứ nhất, để nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm

giữ, tạm giam. Đó là các quyền được bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, tài sản,
danh dự, nhân phẩm của người bị tạm giam và các quyền khác của họ không bị
pháp luật tước bỏ được tôn trọng và bảo vệ.
Xuyên suốt trong Hiến pháp năm 2013 là tư tưởng tôn trọng, bảo vệ, bảo
đảm quyền con người, quyền công dân. Hiến pháp năm 2013 khẳng định nguyên
tắc: Nhà nước công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền
công dân; “quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy
định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia,
trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng” (Khoản 2 Điều 14).
Đây là nguyên tắc rất quan trọng, thể hiện tư tưởng pháp quyền, đề cao trách
nhiệm của Nhà nước trước nhân dân, đồng thời là cơ sở pháp lý cao nhất để mọi
người và công dân bảo vệ và thực hiện quyền con người, quyền công dân của
mình. Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, để đạt được mục đích cao nhất là phát
hiện tội phạm và người phạm tội, pháp luật của tất cả các nước đều cho phép áp
dụng một số biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân. Song vấn đề
cần nhấn mạnh là, không phải bất cứ đối tượng nào cũng có thể bị áp dụng biện
pháp này. Trường hợp cần phải áp dụng biện pháp hạn chế quyền con người,
quyền công dân thì phải đáp ứng đầy đủ căn cứ luật định, phải trên cơ sở và chỉ
trong khuôn khổ quy định của pháp luật. Theo đó, đối với các biện pháp có tính


18

chất hạn chế quyền tự do của con người phải được Viện kiểm sát quyết định

hoặc phê chuẩn nếu vụ án ở giai đoạn điều tra, truy tố.
Những người bị tạm giữ, tạm giam bị hạn chế một số quyền và lợi ích nhất
định, đặc biệt là quyền tự do đi lại. Tuy nhiên quyền và lợi ích hợp pháp khác
của họ vẫn cần phải được tôn trọng và bảo vệ, đó là các quyền cơ bản của con
người về sức khỏe, tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm. Khi thực hiện các
quyết định tạm giữ, gia hạn giữ, hay lệnh bắt người để tạm giam, tâm lý của
nhiều người thuộc các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng là tâm lý buộc
tội, tức là coi người bị tạm giữ, tạm giam là người có tội. Từ đó có các hành vi
phân biệt đối xử với người bị tạm giam, đánh đập, dùng nhục hình để ép cung,
mớm cung gây ra tình trạng oan sai nghiêm trọng. Chính vì vậy, hoạt động kiểm
sát tạm giam phải đảm bảo cho người bị tạm giữ, tạm giam được bảo vệ về các
quyền này, tránh việc người bị tạm giữ, tạm giam bị xâm phạm bởi Điều tra
viên, cán bộ quản giáo hoặc các phạm nhân, người bị tạm giam, tạm giữ khác.
Thứ hai, để đảm bảo thuận lợi cho các hoạt động tố tụng. Việc tạm giữ, tạm
giam phục vụ chủ yếu cho giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Nhiệm vụ của giai
đoạn điều tra là rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, bởi kết
quả của hoạt động điều tra là để phục vụ cho việc xét xử của Tòa án, mọi quyết
định của Tòa án về sự việc phạm tội và người thực hiện tội phạm đều phải dựa
trên cơ sở các chứng cứ đã thu thập được ở giai đoạn điều tra. Tạm giữ, tạm
giam là các biện pháp ngăn chặn được quy định trong BLTTHS nhằm ngăn chặn
tội phạm và các hành vi khác gây cản trở cho hoạt động điều tra vụ án hình sự.
Việc tạm giữ, tạm giam đối với người bị tạm giữ, bị can trong giai đoạn điều tra
tạo điều kiện thuận lợi cho Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát có thể tiến hành
hoạt động thu thập chứng cứ từ lời khai của người bị tạm giữ, bị can vào bất cứ
khi nào nếu thấy cần thiết mà không phải triệu tập nhiều lần, đồng thời cũng
giúp cho việc quản lý, giám sát bị can được chặt chẽ. Vì vậy, thực hiện tốt việc
kiểm sát tạm giữ, tạm giam sẽ bảo đảm sự có mặt của người bị tạm giữ, bị can
trong quá trình điều tra, đảm bảo sự chính xác, khách quan của hoạt động tố



×