Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Chế định mang thai hộ theo luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và tình hình thực hiện trên địa bàn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.25 MB, 102 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ PHƯƠNG LINH

ĐỀ TÀI
CHẾ ĐỊNH MANG THAI HỘ THEO LUẬT HÔN NHÂN
VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 VÀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hướng Nghiên cứu)

HÀ NỘI – 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ PHƯƠNG LINH

ĐỀ TÀI
CHẾ ĐỊNH MANG THAI HỘ THEO LUẬT HÔN NHÂN
VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 VÀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Định hướng Nghiên cứu

Chuyên ngành : Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số
: 8380103

Người hướng dẫn khoa học: TS. BÙI THỊ MỪNG

Hà Nội – 2018


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo - Tiến sĩ Bùi Thị Mừng đã tận tình chỉ
bảo, hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu, hoàn thành luận
văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy giáo, cô giáo Trường Đại học Luật Hà
Nội đã dạy dỗ, truyền đạt kiến thức, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập,
nghiên cứu và rèn luyện tại Trường Đại học Luật Hà Nội.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, người thân, bạn bè
đã quan tâm, động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu, hoàn thành
luận văn.

Hà Nội, ngày 20 tháng 07 năm 2018
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thị Phương Linh



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguôn gốc rõ ràng, được
trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thị Phương Linh


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

: Luật HNGĐ 2014

Nghị định số 10/2015/NĐ-CP quy định về sinh con : Nghị định số 10/2015/NĐ-CP
bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
Bộ luật Dân sự năm 2015

: BLDS 2015


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1.


Tính cấp thiết của đề tài........................................................................ 1

2.

Tình hình nghiên cứu đề tại .................................................................. 2

3.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ............................................. 3

4.

Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài ................................................. 4

5.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................ 4

6.

Phương pháp nghiên cứu đề tài ............................................................ 4

7.

Những điểm mới của luận văn ............................................................. 5

8.

Cơ cấu của luận văn.............................................................................. 5


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHẾ ĐỊNH
MANG THAI HỘ VÌ MỤC ĐÍCH NHÂN ĐẠO ....................................... 6
1.1. Khái quát chung về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo ............... 6
1.1.1.

Khái niệm mang thai hộ vì mục đích nhân đạo .......................... 6

1.1.2.

Phân biệt giữa mang thai hộ vì mục đích nhân đạo với mang thai

hộ vì mục đích thương mại ........................................................................ 9
1.2. Ý nghĩa của chế định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo........... 11
1.2.1.

Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo góp phần đảm bảo quyền con

người……………………………………………………………………………11
1.2.2.

Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là căn cứ giúp gia đình thực

hiện tốt chức năng sinh đẻ ...................................................................... 12
1.2.3.

Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo góp phần làm lành mạnh các

quan hệ hôn nhân và gia đình, ổn định đời sống xã hội ......................... 13



1.2.4.

Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo góp phần thúc đẩy sự ứng

dụng thành tựu của y học Việt Nam đối với việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ
trợ sinh sản .............................................................................................. 13
1.3. Một số quan điểm của các quốc gia trên thế giới về mang thai
hộ………………………………………………………………………….14
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .............................................................................. 22
CHƯƠNG 2 NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT
NAM HIỆN HÀNH VỀ MANG THAI HỘ ................................................ 23
2.1. Điều kiện về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.......................... 23
2.1.1.

Đối với bên nhờ mang thai hộ................................................... 23

2.1.2.

Đối với bên mang thai hộ .......................................................... 29

2.1.3.

Điều kiện về hình thức của thỏa thuận về việc mang thai

hộ............................................................................................................ 33
2.2. Quyền và nghĩa vụ của bên nhờ và bên mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo ..................................................................................................... 35
2.2.1.

Quyền và nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân


đạo………………………………………………………………………………35
2.2.2.

Quyền và nghĩa vụ của bên mang thai hộ vì mục đích nhân

đạo………………………………………………………………………………42
2.3. Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo ..................................................................................................... 46
2.4. Thủ tục thực hiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo ................ 49
2.5. Giải quyết tranh chấp và xử lý hành vi vi phạm liên quan đến mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo ................................................................... 51
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .............................................................................. 55


CHƯƠNG 3 THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ MANG THAI
HỘ VÌ MỤC ĐÍCH NHÂN ĐẠO TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ
NỘI………………………………………………………………………….56
3.1. Nhận xét chung về tình hình thực hiện pháp luật về mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo trên địa bàn thành phố Hà Nội ..................................... 56
3.2. Một số vướng mắc, bất cập trong việc thực hiện pháp luật về mang thai
hộ vì mục đích nhân đạo ............................................................................. 59
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo ...................................................................................... 68
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .............................................................................. 78
KẾT LUẬN .................................................................................................... 80


1


MỞ ĐẦU
1.

TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Vấn đề vô sinh ở Việt Nam đang ngày càng trở nên đáng báo động. Hiện
nay có khoảng 700.000 đến 1.000.000 cặp vợ chồng đang bị vô sinh. Theo số
liệu nghiên cứu hơn 4.000 tinh dịch đồ tại trung tâm điều trị vô sinh ở thành
phố Hồ Chí Minh, trung tâm nghiên cứu di truyền và sức khỏe sinh sản thuộc
khoa Y, Đại Học Quốc Gia, nghiên cứu tại bệnh viện Phụ sản Trung ương và
Đại học Y Hà Nội tiến hành trên 14.300 cặp vợ chồng đang ở độ tuổi sinh đẻ
(15-49 tuổi) ở 8 tỉnh cho 8 vùng sinh thái ở Việt Nam, tỷ lệ vô sinh ở Việt Nam
lên tới 7,7%. Trong đó tỉ lệ ở cặp vợ chồng chưa thụ thai lần nào là: 3,9%, tỉ lệ
vợ chồng đã có ít nhất một lần mang thai, sinh sản hoặc phá thai kế hoạch, sau
đó quá thời hạn một năm, họ muốn có thai mà vẫn không có thai trở lại: 3,8%.1
Tuy nhiên, trong thời điểm khoa học – kỹ thuật có sự phát triển vượt bậc như
hiện nay, các thành tựu đạt được đã được áp dụng vào y học nói chung và việc
sinh sản nói riêng. Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đã trở thành một giải
pháp phổ biến đối với các cặp vợ chồng không thể có con theo cách tự nhiên
cũng như những người phụ nữ độc thân muốn có con.
Nhằm góp phần đảm bảo quyền làm cha, làm mẹ của các cặp vợ chồng vô
sinh, Luật HNGĐ 2014 đã quy định cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo. Trước khi chế định này được thông qua, trong thực tế, việc mang thai hộ
đã diễn ra trong xã hội với nhu cầu ngày càng lớn, kéo theo rất nhiều rủi ro do
không có được sự bảo hộ của pháp luật. Bởi thế, quy định mang thai hộ được
thông qua là quy định mang đậm tính nhân văn.
Kể từ thời điểm chế định mang thai hộ được thông qua, hơn 60 hồ sơ mang
thai hộ đã được duyệt tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương. Cả nước có khoảng
100 hồ sơ đủ điều kiện cho phép mang thai hộ. Tới hết sáu tháng đầu năm 2016,
gần 30 em bé ra đời bằng phương pháp mang thai hộ. Tuy nhiên, đây là vấn đề

còn mới, hết sức phức tạp, gây nhiều ý kiến trái chiều và văn bản hướng dẫn
Lan Anh (2018), “Vô sinh ở Việt Nam lên đến mức đáng báo động”, ngày 3/2/2018.
1


2
còn thiếu nên việc áp dụng quy định này vào thực tiễn còn gặp nhiều vướng
mắc, bất cập, thiếu tính thống nhất.
Xuất phát từ những lý do trên, người viết đã lựa chọn đề tài: “Chế định
mang thai hộ theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và tình hình thực hiện
trên địa bàn thành phố Hà Nội.”. Luận văn phân tích nhiều khía cạnh của vấn
đề mang thai hộ, tập trung nghiên cứu, tổng hợp và phân tích một cách chuyên
sâu và toàn diện các vấn đề pháp lý về mang thai hộ nhằm tìm ra những hạn
chế, vướng mắc và đưa ra phương hướng hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
2.

TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

Vấn đề mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là vấn đề mới được quy định
trong Luật Hôn nhân gia đình năm 2014, vì thế mới chỉ được nghiên cứu một
cách khái quát trong một số bài viết như: bài viết của tác giả Nguyễn Quế Anh:
“Quy định về mang thai hộ - một nội dung mới trong Luật HNGĐ 2014” (Tạp
chí Luật sư Việt Nam số 8/2015) phân tích các quy định của pháp luật hôn nhân
và gia đình về chế định mang thai hộ như điều kiện pháp lý để được mang thai
hộ, nội dung thỏa thuận về mang thai hộ, quyền, nghĩa vụ của các bên và vấn
đề giải quyết tranh chấp liên quan đến việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh
sản, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Bài viết của TS. Nguyễn Thị Lan:
“Mang thai hộ và những vấn đề phát sinh” (Tạp chí Luật học số 04/2015) tập
trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về chế định mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo đồng thời đưa ra đánh giá, bình luận và một số kiến nghị hoàn

thiện pháp luật nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong
việc mang thai hộ. Bài viết của Thạc sĩ Nguyễn Văn Lâm: “Bàn về mang thai
hộ trong pháp luật Việt Nam” (Tạp chí Kiểm sát 04/2015) nghiên cứu về đối
tượng được phép nhờ mang thai hộ theo quy định của pháp luật Việt Nam, đặc
biệt là một số đối tượng mà pháp luật không điều chỉnh có nhu cầu nhờ mang
thai hộ như những người độc thân, LGBT… Bài viết của Phó Giáo sư – TS.
Nguyễn Văn Cừ: “Pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam” (Tạp chí Luật học số
06/2016) phân tích quan điểm của tác giả về mang thai hộ cũng như sự cần thiết


3
phải cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo ở Việt Nam hiện nay; đồng
thời nêu ra các nội dung quy định về mang thai hộ theo Luật HNGĐ 2014, từ
đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về mang thai hộ. Bài
viết của tác giả Ngô Thị Hồng Anh: “Cho phép mang thai hộ nhân đạo nhưng
vẫn còn nhiều vướng mắc” (Tạp chí Luật sư Việt Nam 05/2015) tập trung đề
cập đến tính nhân đạo trong việc quy định của pháp luật về mang thai hộ cũng
như những vướng mắc pháp lý và thực tiễn trong quá trình áp dụng các quy
định của Luật Hôn nhân và gia đinh về vấn đề mang thai hộ…
Bên cạnh đó, có một số công trình đã đi sâu vào nghiên cứu về vấn đề này
như luận văn thạc sĩ “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về mang thai hộ” – Bùi
Thị Quỳnh Hoa. Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về
mang thai hộ cũng như xu hướng pháp luật điều chỉnh mang thai hộ ở Việt Nam
trước thời điểm ban hành Luật HNGĐ 2014. Luận văn thạc sĩ “Mang thai hộ
trong Luật HNGĐ 2014” – Phạm Thị Hương Giang, Khoa Luật – Đại học Quốc
gia Hà Nội tập trung vào các quy định của pháp luật về mang thai hộ cũng như
khả năng áp dụng các quy định trong thực tiễn. Tuy nhiên, nhìn chung, các công
trình nghiên cứu này đều được thực hiện tại thời điểm Luật HNGĐ 2014 mới
được áp dụng vào thực tiễn trong thời gian ngắn, nên chưa nghiên cứu toàn
diện đối với các quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình và thực tiễn áp

dụng về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
3.

Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

Luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích những vấn đề pháp lý cơ bản của
chế định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo cũng như tình hình thực hiện các
quy định này trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong quá
trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo,
tài liệu tham khảo nghiên cứu và học tập môn Luật Hôn nhân và gia đình trong
các cơ sở đào tạo luật.


4
4.

MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

Mục đích của đề tài là nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực
tiễn của chế định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Từ đó phát hiện những
quy định còn thiếu sót, chưa cụ thể cũng như tìm ra những điểm bất cập trong
thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Trên
cơ sở đó, luận văn đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp
luật về vấn đề này, nâng cao hiệu quả áp dụng trên thực tế.
Nhiệm vụ nghiên cứu là phân tích và bình luận các quy định của pháp luật
hôn nhân và gia đình về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Đồng thời nghiên
cứu và đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về vấn đề này trên địa bàn thành
phố Hà Nội. Thông qua đó, luận văn phải tìm ra những vấn đề còn bất cập để
có giải pháp hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về

chế định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
5.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật Việt Nam về
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Các quy định của pháp luật một số nước
trên thế giới chỉ được xem xét nghiên cứu mang tính chất tham khảo, đối chiếu
với pháp luật Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu cơ sở lý
luận và thực tiễn của chế định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Trong đó,
phần thực tiễn, luận văn chỉ tập trung vào việc phân tích thực tiễn thực hiện
việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo trên địa bàn thành phố Hà Nội.
6.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

Cơ sở phương pháp luận để nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của học thuyết Mác – Lê Nin. Luận văn được nghiên
cứu trên cơ sở gắn liền giữa lý luận và thực tiễn để làm sáng tỏ vấn đề.
Đồng thời, luận văn áp dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như
phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh…


5
7.

NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LUẬN VĂN

Luận văn này là công trình nghiên cứu toàn diện, hệ thống về các vấn đề lý
luận và thực tiễn của chế định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, thực tiễn

thực hiện các quy định này trên địa bàn thành phố Hà Nội. Từ đó, đưa ra các
kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này, nâng cao khả năng áp dụng
pháp luật vào đời sống thực tiễn.
8.

CƠ CẤU CỦA LUẬN VĂN

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
bao gồm ba chương được kết cấu như sau:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về chế định mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo.
- Chương 2: Nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành
về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
- Chương 3: Thực tiễn thực hiện pháp luật về mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo trên địa bàn thành phố Hà Nội.


6
CHƯƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ CHẾ ĐỊNH MANG THAI HỘ VÌ MỤC ĐÍCH NHÂN ĐẠO
1.1.

Khái quát chung về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

1.1.1. Khái niệm mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
Dù mang thai hộ đã xuất hiện từ rất lâu trên thế giới và đã được nhiều quốc
gia pháp điển hóa, nhưng phải đến gần đây, khái niệm “mang thai hộ” mới được
biết đến ở Việt Nam. Tuy nhiên, khái niệm này trước đây vẫn bị đa số người
dân đánh đồng với “đẻ thuê, đẻ mướn” mà hầu hết được hiểu với nghĩa, người

chồng có quan hệ tình dục trực tiếp với người phụ nữ được “thuê đẻ”, cho đến
khi người phụ nữ đó mang thai và sinh con. Trong trường hợp này, đứa trẻ được
sinh ra từ tinh trùng của người chồng kết hợp với noãn của người phụ nữ “đẻ
thuê”. Hiện nay, với sự phát triển của xã hội, khái niệm mang thai hộ đã được
thu hẹp lại và được hiểu một cách đúng đắn, phù hợp với hệ thống pháp luật
của các quốc gia trên thế giới.
Khái niệm mang thai hộ theo từ điển tiếng Anh là “surrogacy: the practice
by which a woman (called a surrogate mother) becomes pregnant and gives
birth to a baby in order to give it to someone who cannot have children”2. Theo
đó, mang thai hộ là hoạt động mang thai và sinh con của một người phụ nữ (gọi
là người mẹ thay thế) nhằm có con cho một người không thể mang thai.
Từ khái niệm trên đã hình thành nên một khái niệm khác có quan hệ mật
thiết với nó: “surrogate mother: a woman who becomes pregnant usually by
artificial insemination or surgical implantation of a fertilized egg for the
purpose of carrying the fetus to term for another woman”3. Theo đó, người mẹ
thay thế (bên mang thai hộ) là người phụ nữ mang thai bằng cách thụ tinh nhân
tạo hoặc phẫu thuật cấy ghép trứng đã được thụ tinh nhằm mục đích mang thai
cho người phụ nữ khác.

2

George Webster, Charles Webster (1982), Merriam-Webster's Dictionary, Merriam-Webster, Massachusetts.
George Webster, Charles Webster (1982), Merriam-Webster's Dictionary, Merriam-Webster, Massachusetts.

3


7
Từ mang thai hộ (surrogacy) đã tồn tại từ lâu, nhưng việc mang thai hộ thật
sự chỉ có thể được thực hiện sau khi con người thực hiện thành công kỹ thuật

thụ tinh trong ống nghiệm. Trước khi kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm ra đời,
khi người vợ không thể có con hay mang thai, người chồng có thể giao hợp với
một người phụ nữ khác hoặc bơm tinh trùng vào tử cung của phụ nữ này để có
thai và việc này thời đó cũng được xem là “mang thai hộ”. Người phụ nữ này
có thể có thai, sau đó trao con lại cho cặp vợ chồng có nhu cầu. Trong trường
hợp này, đứa trẻ là con sinh học giữa người chồng và người phụ nữ mang thai
hộ. Ngày nay, vấn đề này không được luật pháp và đạo đức xã hội chấp nhận.
Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ra đời, cho phép lấy tinh trùng và noãn của một
cặp vợ chồng ra khỏi cơ thể, cho tinh trùng và noãn thụ tinh để tạo phôi, nuôi
cấy phôi và cho đưa phôi vào tử cung một phụ nữ khác để mang thai. Nhờ đó,
việc mang thai hộ chính danh mới có thể được thực hiện. Với thụ tinh trong
ống nghiệm, chúng ta mới có thể tiến hành mang thai hộ một cách đúng nghĩa.
Như vậy, dưới góc độ y học, mang thai hộ được hiểu là việc một người phụ
nữ mang thai cho một cặp vợ chồng khác trên cơ sở lấy trứng (noãn) của người
vợ và tinh trùng của người chồng sử dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản để kết hợp,
phát triển thành phôi, phôi này được cấy trở lại dạ con của người phụ nữ mang
thai hộ. Về mặt sinh học, đứa trẻ do người phụ nữ mang thai hộ sinh ra sẽ mang
gen của cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ mà không có sự liên quan về mặt huyết
thống giữa người phụ nữ mang thai và đứa trẻ.4
Với kỹ thuật mang thai hộ hiện nay, yếu tố huyết thống sẽ được đảm bảo.
Huyết thống được hiểu là quan hệ máu mủ, ruột thịt, trước hết là quan hệ về di
truyền sinh học giữa cha, mẹ và con. Đó chính là cơ sở để xác lập quan hệ cha,
mẹ, con. Trong trường hợp mang thai hộ, bên mang thai hộ mang và nuôi dưỡng
phôi, đứa trẻ được bên mang thai hộ “mang nặng đẻ đau” nhưng giữa đứa trẻ
và bên mang thai hộ không có mối quan hệ huyết thống với nhau. Phôi mà bên
mang thai hộ mang là do sự kết hợp giữa noãn và tinh trùng của cặp vợ chồng
Nguyễn Văn Lâm (2015), "Từ những quy định pháp luật về mang thai hộ quan niệm thế nào về "Huyết thống"
và "Mẹ"", Dân chủ và Pháp luật, (09), tr. 50 - 52
4



8
nhờ mang thai hộ nên xét về mặt sinh học, đứa trẻ sinh ra có cùng huyết thống
với cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ. Vì thế, đứa trẻ được sinh ra là con chung
của cặp vợ chồng vô sinh, còn bên mang thai hộ chỉ nhằm mục đích nhân đạo,
giúp đỡ mà không có mục đích làm mẹ.
Dưới góc độ pháp lý, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo có thể được hiểu
như là một sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ giữa cha mẹ và con dựa trên
sự kiện sinh đẻ hoặc được hiểu là một chế định pháp lý.
Với ý nghĩa là một căn cứ nhằm xác lập quan hệ giữa cha mẹ và con dựa
trên sự kiện sinh đẻ. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo được hiểu như là một
căn cứ làm phát sinh quan hệ giữa cha mẹ và con dựa trên sự kiện sinh đẻ nhưng
là việc sinh con có áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
Như vậy, với ý nghĩa là căn cứ xác lập quan hệ cha, mẹ, con dựa trên sự
kiện sinh đẻ, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo được hiểu là chế định pháp lý
quy định về việc sinh con có áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Theo đó một
người phụ nữ đảm bảo đủ các điều kiện, tự nguyện mang thai giúp cặp vợ chồng
vô sinh không nhằm mục đích trục lợi khi người vợ của cặp vợ chồng vô sinh
không thể mang thai ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc
lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống
nghiệm, sau đó cấy phôi vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai hộ
để người này mang thai và sinh con.
Khái niệm trên đã thể hiện rõ được đặc điểm của mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo, cụ thể:
+ Mang thai hộ chỉ được đặt ra với những cặp vợ chồng mà người vợ không
thể mang thai và sinh con ngay cả khi đã áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Tức
là những người phụ nữ hiếm muộn, vô sinh nhưng vẫn có khả năng tự mang
thai và sinh con khi có sự hỗ trợ về mặt y học thì không thuộc đối tượng được
phép tiến hành mang thai hộ.
+ Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải được tiến hành bằng kỹ

thuật hỗ trợ sinh sản . Mang thai hộ được tiến hành thông qua thụ tinh trong
ống nghiệm, cụ thể là lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để


9
thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện
mang thai để người này mang thai và sinh con. Đây là hoạt động mang thai phi
tự nhiên với sự can thiệp của con người cùng các kỹ thuật y học để đảm bảo
việc thụ thai diễn ra thành công trên cơ sở các quy luật tự nhiên về sinh sản.
+ Việc mang thai hộ phải được tiến hành tự nguyện trên cơ sở các quyền tự
nhiên của con người. Việc tiến hành mang thai hộ bằng sự can thiệp của kỹ
thuật công nghệ chỉ có thể được thực hiện khi có sự đồng ý và thỏa thuận của
bên nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ.
+ Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là một hoạt động phi thương mại.
Quan hệ này chỉ được xác lập vì mục đích nhân đạo mà không nhằm hưởng lợi
về kinh tế hay các lợi ích khác.
Như vậy, việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đòi hỏi phải được quy
định đầy đủ và chặt chẽ trong pháp luật thì mới phản ánh được giá trị nhân văn
của việc mang thai hộ. Vì vậy, pháp luật về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
phải dự liệu cụ thể các điều kiện của bên mang thai hộ và bên nhờ mang thai
hộ vì mục đích nhân đạo; quyền và nghĩa vụ của các bên cũng như việc xác
định cha, mẹ con đối với trường hợp này và cách thức giải quyết các tranh chấp
phát sinh từ việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Trong khoa học pháp lý,
tổng hợp các quy định của pháp luật điều chỉnh về việc mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo tạo thành chế định pháp lý về mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo,
1.1.2. Phân biệt giữa mang thai hộ vì mục đích nhân đạo với mang
thai hộ vì mục đích thương mại
Thực tiễn cho thấy rằng, nhu cầu mang thai hộ đã tồn tại từ trước khi Luật
HNGĐ 2014 được thông qua. Vì thế, song song với hoạt động mang thai hộ vì

mục đích nhân đạo, trên thực tế còn tồn tại khái niệm mang thai hộ vì mục đích
thương mại. Để hiểu rõ hơn khái niệm mang hộ vì mục đích nhân đạo, cần phải
hiểu rõ sự khác nhau giữa mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và mang thai hộ
vì mục đích thương mại.


10
Theo đó, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự
nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà
người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ
sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ
tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện
mang thai để người này mang thai và sinh con.
Mục đích của mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là bên mang thai hộ tự
nguyện, không vì lợi ích vật chất hoặc một lợi ích nào khác.
Hoạt động mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải tuân thủ theo điều kiện
mà pháp luật quy định đối với bên mang thai hộ và người nhờ mang thai hộ.
Trong khi đó, mang thai hộ vì mục đích thương mại là việc một người phụ
nữ mang thai cho người khác bằng việc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản để
được hưởng lợi về kinh tế hoặc lợi ích khác. Điều này dễ dẫn đến nhiều biến
tướng vi phạm các quy định của pháp luật đồng thời xâm hại đến các quan hệ
mà pháp luật bảo vệ.
Mục đích của hoạt động này chỉ vì các lợi ích vật chất hoặc lợi ích khác và
không có bất cứ các điều kiện nào đối với bên mang thai hộ cũng như người
nhờ mang thai hộ mà chỉ căn cứ trên cơ sở nhu cầu của người nhờ mang thai
hộ. Chính vì thế, mang thai hộ vì mục đích thương mại là một hoạt động mang
tính rủi ro rất cao đối với các bên tham gia vào quan hệ này. Trên thực tế, xảy
ra không ít trường hợp các cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ đã bỏ rơi đứa trẻ
được sinh ra bằng phương pháp mang thai hộ vì lý do bệnh tật hay giới tính.
Hay trường hợp bên mang thai hộ không chịu trả con, ngay cả khi đã nhận đủ

tiền từ bên nhờ mang thai hộ, thì vợ chồng nhờ mang thai hộ cũng khó có căn
cứ để có thể đòi lại con. Trong trường hợp này, bên bị vi phạm không có ràng
buộc pháp lý để có thể yêu cầu bên vi phạm thực hiện nghĩa vụ của mình.
Không những thế, mang thai hộ vì mục đích thương mại sẽ khiến người mang
thai hộ có nguy cơ trở thành một công cụ sản xuất và đứa trẻ là một món hàng.
Khác với mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, bên mang thai hộ chỉ được mang
thai hộ một lần, đối với mang thai hộ vì mục đích thương mại, bên mang thai


11
hộ thường thực hiện rất nhiều lần, trở thành “máy đẻ” gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến sức khỏe của bên mang thai hộ.
Kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là một thành tựu khoa học trong lĩnh vực y học đã
và đang là mối quan tâm của nhiều người trong xã hội. Song để vấn đề này phát
triển đúng hướng, đúng ý nghĩa xã hội thì cần phải có cơ chế điều chỉnh một
cách kịp thời, cụ thể, tránh hiện tượng lạm dụng đi ngược lại bản chất xã hội
của mang thai hộ và tránh những tranh chấp có thể phát sinh giữa các chủ thể
của quan hệ này.
1.2.

Ý nghĩa của chế định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

1.2.1. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo góp phần đảm bảo quyền
con người
Quyền làm cha, mẹ là một trong những quyền tự nhiên của con người được
pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Đó cũng chính là quyền được mưu cầu hạnh phúc
của mỗi cá nhân. Đặc biệt, từ xa xưa, người Việt Nam đã đề cao việc duy trì
nòi giống gia đình: “đông con hơn nhiều của”, Bởi vậy, với mỗi người Việt
Nam, mong mỏi có con để nối dõi, duy trì nòi giống không chỉ là nguyện vọng
chính đáng mà còn phù hợp với truyền thống, phong tục tập quán của dân

tộc.Theo các chuyên gia y tế và dân số, ở Việt Nam hiện nay, tỷ lệ các cặp vợ
chồng (đang ở độ tuổi sinh đẻ) bị vô sinh ngày càng gia tăng. Mặc dù khoa học,
kỹ thuật về hỗ trợ sinh sản khá phát triển những vẫn không thể giải quyết được
hết những vấn đề về sinh sản đối với những cặp vợ chồng vô sinh. Chính vì thế,
vấn đề mang thai hộ trở thành nhu cầu của nhiều cặp vợ chồng.
Việc Luật HNGĐ 2014 cho phép hoạt động mang thai hộ đã thỏa mãn được
nguyện vọng của các cặp vợ chồng vô sinh, với mong muốn có đứa con ruột
thịt của mình. Đồng thời, đảm bảo một trong các quyền cơ bản của con người
– quyền được mưu cầu hạnh phúc mà Công ước quốc tế về quyền con người
cũng như Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận.
Cho phép “mang thai hộ” đối với một số đối tượng có chỉ định góp phần
bảo đảm quyền làm mẹ chính đáng của mọi phụ nữ và được người mang thai


12
hộ đồng ý thực hiện không vì mục đích lợi nhuận. Kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là
một thành tựu của y học, có thể nói là một tiến bộ vượt bậc để biến mơ ước
không thể làm mẹ của rất nhiều phụ nữ được trở thành hiện thực. Bản chất
“mang thai hộ” là hết sức nhân văn, đây là một sự giúp đỡ của một người phụ
nữ này đối với cặp vợ chồng khác nhằm giúp họ thực hibắt
buộc chấm dứt ngay hành vi vi phạm bởi sẽ không đảm bảo tính nhân văn của
các quy định pháp luật về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
- Vấn đề tình trạng sức khỏe của bên mang thai hộ cũng chưa có quy định
cụ thể. Pháp luật chưa có quy định rõ ràng, cụ thể về độ tuổi, tiêu chuẩn sức
khỏe đối với bên mang thai hộ dẫn đến phát sinh tiêu cực trong quá trình các
cơ quan y tế có thẩm quyền xác nhận về khả năng mang thai hộ.
- Quy định về điều kiện cần có sự đồng ý của người chồng trong một số
trường hợp cũng gây ra cản trở trong đối với việc mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo. Không ít trường hợp người chồng là người bị mất năng lực hành vi
dân sự thì việc có được sự đồng ý của người chồng là hết sức khó khăn.

Thứ ba, về quyền và nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ và bên mang thai
hộ:
- Quy định quyền và nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ đối với con phát
sinh kể từ thời điểm đứa trẻ được sinh ra là một quy định hợp lý. Tuy nhiên,
quy định này dẫn đến bất cập trong trường hợp cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ
vì lý do nào đó mà chết trước khi đứa trẻ được sinh ra, đứa trẻ đó sẽ không


65
được thừa hưởng di sản, vì thời điểm phát sinh quan hệ cha mẹ - con là “kể từ
thời điểm con được sinh ra”. Điều này là trái với nguyên tắc phân chia di sản
thừa kế theo pháp luật luôn xếp những người có quan hệ huyết thống gần nhất
vào hàng thứ nhất. Nếu áp dụng quy định tại Khoản 3 Điều 98: “Trong trường
hợp bên nhờ mang thai hộ chết thì con được hưởng thừa kế theo quy định của
pháp luật đối với di sản của bên nhờ mang thai hộ.” thì trong trường hợp này
sẽ nảy sinh sự mâu thuẫn giữa hai điều luật, gây khó khăn cho việc áp dụng
pháp luật trong thực tế.
- Bên mang thai hộ phải tuân thủ quy định về thăm khám, sàng lọc để phát
hiện, điều trị các bất thường, dị tật của bào thai theo quy định của Bộ y tế. Tuy
nhiên, trên thực tế, có không ít trường hợp bên mang thai hộ không thực hiện,
không tuân thủ quy định. Pháp luật hiện nay cũng chưa có chế tài nào áp dụng
trong trường hợp này để buộc họ phải thực hiện quy định.
- Việc giải quyết trong trường hợp khi sàng lọc trước sinh, thai nhi có vấn
đề và bên nhờ mang thai hộ không đồng ý bỏ thai theo chỉ định của cơ sở ý tế
vẫn chưa được pháp luật quy định. Trong trường hợp thông thường sẽ do bố mẹ
là người quyết định cuối cùng, tuy nhiên đối với trường hợp mang thai hộ, pháp
luật chỉ cho phép bên mang thai hộ có quyền quyết định tiếp tục hay không tiếp
tục mang thai. Trong khi đó, người có nghĩa vụ cuối cùng trong việc chăm sóc
và nuôi dưỡng em bé kể từ thời điểm được sinh ra lại là người nhờ mang thai
hộ. Nếu xảy ra trường hợp người mang thai được bác sỹ khuyên nên cân nhắc

để chấm dứt thai kỳ. Tuy nhiên, quyền quyết định tiếp tục mang thai hay không
lại nằm ở bên mang thai hộ mà người mang thai không thông báo lại cho người
nhờ mang thai và quyết định giữ thai lại. Trong khi đó, bên nhờ mang thai
không được từ chối nhận con và họ chỉ có quyền và nghĩa vụ với con kể từ thời
điểm con được sinh ra, do vậy họ không có quyền can thiệp trong trường hợp
này. Vì vậy, trường hợp này sẽ có khả năng dẫn đến thực tế là sinh ra những
đứa trẻ bị bệnh hiểm nghèo, dị tật nặng, không những ảnh hưởng đến quyền và
lợi ích của đứa trẻ mà còn là nỗi đau, gánh nặng cho người nhờ mang thai và
cho toàn xã hội.


66
- Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, bên mang thai hộ và người
mẹ bên nhờ mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp
luật về bảo hiểm xã hội. Tuy nhiên, Điều 2 và khoản 1 Điều 3 Luật Bảo hiểm
xã hội chỉ quy định người lao động, người sử dụng lao động và một đối tượng
khác phải tuân theo Luật Bảo hiểm xã hội trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã
hội. Vì vậy, việc quy định bên mang thai hộ và người nhờ mang thai hộ được
hưởng chế độ thai sản theo Luật Bảo hiểm xã hội là chưa có cơ sở pháp lý vì
có thể họ không thuộc đối tượng áp dụng hoặc không đóng vào quỹ bảo hiểm
xã hội.
Thứ tư, vấn đề xác định cha, mẹ, con:
- Thủ tục đăng ký khai sinh và ghi vào sổ hộ tịch việc khai sinh cũng nảy
sinh một số vấn đề trong thực tế. Trường hợp cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ
vì mục đích thương mại ở nước ngoài và vể Việt Nam đăng ký khai sinh cho
con, liệu có được công nhận, trong khi pháp luật Việt Nam nghiêm cấm mang
thai hộ vì mục đích thương mại?
Pháp luật về hộ tịch đã quy định việc đăng ký khai sinh cho trẻ sinh ra ở
nước ngoài về cư trú tại Việt Nam và các trường hợp ghi vào sổ hộ tịch việc
đăng ký khai sinh đã được thực hiện ở nước ngoài. Để đăng ký khai sinh trong

trường hợp này, cần phải đáp ứng một số điều kiện nhất định, trong đó có việc
cung cấp giấy chứng sinh hoặc các giấy tờ khác do cơ quan có thẩm quyền nước
ngoài cấp xác nhận về việc trẻ em được sinh ra ở nước ngoài và quan hệ mẹ con nếu có. Nếu cha mẹ cung cấp thỏa thuận mang thai hộ được công nhận ở
nước ngoài để chứng minh cho mối quan hệ cha, mẹ, con và nội dung của thỏa
thuận cho thấy việc mang thai hộ được thực hiện vì mục đích thương mại thì
mối quan hệ cha, mẹ con này có được xác lập hay không? Việc pháp luật hộ
tịch không quy định các trường hợp bị từ chối đăng ký khai sinh tại Việt Nam
sẽ dẫn đến khó khăn trong việc xác định có thừa nhận hoặc không thừa nhận
những trường hợp mang thai hộ ở nước ngoài nhưng có sự vi phạm pháp luật
Việt Nam.


67
Thứ năm, một số vấn đề khác trong việc thực hiện quy định về mang thai
hộ vì mục đích nhân đạo:
- Trường hợp cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ có thể ly dị hoặc ly thân hay
một trong hai bên vợ chồng chết trong khi tiến hành mang thai hộ, pháp luật
chưa có quy định nào cụ thể trong việc giải quyết mối quan hệ giữa cha mẹ và
con. Điều này gây khó khăn trong việc áp dụng quy định của pháp luật, ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đứa trẻ.
- Cặp vợ chồng vô sinh muốn nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo sẽ
phải gửi hồ sơ đề nghị gồm 12 loại giấy tờ đến cơ sở khám chữa bệnh được
phép thực hiện kỹ thuật này theo Nghị định số 10/2015/NĐ-CP. Như vậy, thủ
tục hành chính là một trong những rào cản dẫn đến việc người dân ngần ngại
thực hiện quyền lợi hợp pháp này của mình.
- Các quy định về điều kiện thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo đối với các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh còn lỏng lẻo, kéo theo gánh
nặng quản lý hành chính lên các cơ quan nhà nước khi số lượng các cơ sở cung
cấp dịch vụ kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo gia tăng. Điều này sẽ
nảy sinh ra nhiều tiêu cực trên thực tế.

- Trong thực tế, còn tồn tại không ít trường hợp người có thẩm quyền tư vấn
về y tế, pháp lý, tâm lý cho bên nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ còn thiếu
trách nhiệm. Trách nhiệm ở đây không những thể hiện ở việc không đảm bảo
đúng trình độ chuyên môn, thực hiện đầy đủ yêu cầu luật định trong công tác
tư vấn mà còn thể hiện ở thái độ thiếu nghiêm túc, hời hợt, chỉ để cho đúng thủ
tục. Tư vấn viên có thể đáp ứng đầy đủ “điều kiện định lượng” để thực hiện tư
vấn, như “bác sĩ chuyên khoa sản” đối với tư vấn y tế, là “cử nhân luật” khi tư
vấn pháp lý, và “trình độ đại học chuyên khoa tâm lý” đối với tư vấn tâm lý
nhưng không có ý thức trách nhiệm khiến cho hoạt động tư vấn không đảm bảo
được đầy đủ ý nghĩa, mục đích, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của các bên tham gia quan hệ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.


68
3.3.

Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo

3.3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật
- Bổ sung thêm đối tượng được phép nhờ mang thai hộ bao gồm: người phụ nữ
độc thân mắc một số bệnh bẩm sinh, di truyền, dị tật khiến họ không thể tự
mình mang thai, những người thuộc nhóm LGBT. Trong xu hướng số người
độc thân ngày càng gia tăng, tập trung rất nhiều ở tầng lớp lao động trí thức,
những người có điều kiện kinh tế, địa vị trong xã hội cũng như số lượng những
người đồng tính, song tính, chuyển đổi giới tính công khai ngày càng tăng do
sự đánh giá, nhìn nhận từ xã hội đã cởi mở hơn, cho phép họ có quyền có con
theo phương pháp mang thai hộ là phù hợp với chính bản chất nhân đạo của
pháp luật, đảm bảo tính nhân văn trong quy định của pháp luật về mang thai
hộ. Việc cho phép những đối tượng này được quyền có con bằng phương pháp

mang thai hộ là sự thừa nhận và phù hợp với pháp luật của các nước trên thế
giới, đồng thời đảm bảo sự bình đẳng, tôn trọng và thực thi các quyền cơ bản
của con người trong đời sống thực tiễn. Tuy nhiên, nhằm tránh xảy ra các biến
tướng gây ảnh hưởng tiêu cực lên đời sống xã hội cũng như đảm bảo các điều
kiện thực hiện phương pháp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, cần có sự
nghiên cứu kỹ lưỡng và cụ thể việc áp dụng quy định này đối với các đối tượng
là người độc thân và những người thuộc cộng đồng LGBT.
- Cần xác định rõ cách thức thực hiện việc xác nhận đối với điều kiện “Có xác
nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và
sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản” cũng như trách nhiệm
của cơ sở khám chữa bệnh có thẩm quyền để tránh sự tùy tiện trong thực tiễn,
áp dụng pháp luật, lợi dụng pháp luật để thực hiện mang thai hộ bừa bãi. Về
nguyên tắc, tổ chức y tế cấp giấy xác nhận phải là tổ chức có thẩm quyền cấp.
Trong trường hợp cấp sai, tổ chức đó sẽ chịu trách nhiệm trước cơ quan quản
lý nhà nước về y tế. Để thực hiện thống nhất trong phạm vi địa phương và có
cơ sở hướng dẫn các chủ thể đến đúng tổ chức y tế có thẩm quyền lấy giấy xác
nhận, tại mỗi địa phương (cấp tỉnh), cơ quan quản lý nhà nước là Sở Tư pháp


69
và Sở Y tế cần trao đổi với nhau để lập Danh sách các tổ chức y tế chuyên khoa
trên địa bàn địa phương có thẩm quyền cấp giấy xác nhận y tế nhằm tạo điều
kiện cho các cặp vợ chồng muốn nhờ mang thai hộ thực hiện quy định pháp
luật một cách dễ dàng, thuận tiện hơn.
- Cho phép các cặp vợ chồng vô sinh được quyền nhờ mang thai hộ trong trường
hợp đã có con chung nhưng con chung bị các bệnh về tâm thần hoặc thể chất
khiến đứa con không thể phát triển bình thường. Đây là trường hợp con chung
của cặp vợ chồng bị tàn tật, tật nguyền hay thiểu năng trí tuệ… đồng thời người
vợ lại bị tai biến sản khoa, như bị cắt tử cung, không thể mang thai. Trong
trường hợp này, việc cho phép họ được nhờ mang thai hộ là hợp lý. Điều này

sẽ giúp đảm bảo tinh thần nhân đạo của pháp luật. Và hơn nữa, đứa trẻ được
sinh bằng kỹ thuật mang thai hộ sau này sẽ là nguồn chính nuôi dưỡng, chăm
sóc cha mẹ và ngay cả anh, chị tàn tật của mình. Tuy nhiên, cần xem xét đến
trường hợp đứa trẻ sinh ra tật nguyền do bệnh lý di truyền, khi đó việc nhờ
mang thai hộ có thể dẫn đến việc sinh ra một đứa trẻ tật nguyền khác thì sẽ làm
mất đi ý nghĩa nhân đạo của quy định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Bên
cạnh đó, việc xem xét cho những trường hợp này được nhờ người mang thai hộ
cần cân nhắc các quy định về dân số để tránh lợi dụng việc mang thai hộ vi
phạm chính sách và pháp luật về dân số của Nhà nước.
- Cần bổ sung quy định về các biện pháp xử lý cũng như giải quyết tranh chấp
trong vấn đề xác định cha, mẹ, con trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích
thương mại. Pháp luật hôn nhân và gia đình nghiêm cấm mang thai hộ vì mục
đích thương mại, bởi vậy, khi tiến hành mang thai hộ, các bên chủ yếu thỏa
thuận ngầm, thỏa thuận chui, dẫn đến khó khăn trong việc giải quyết khi có
tranh chấp xảy ra. Đồng thời chưa có văn bản nào quy định hậu quả pháp lý
cũng như xác định cha, mẹ đứa trẻ được sinh ra, các quyền nhân thân và quyền
tài sản của đứa trẻ với những người có liên quan trong trường hợp mang thai
hộ vì mục đích thương mại. Đặc biệt, trong trường hợp người mang thai hộ là
người nước ngoài, việc xác định quyền và nghĩa vụ, khai sinh, xác định quốc
tịch cho đứa trẻ được “đẻ thuê” là hết sức phức tạp. Nhằm đảm bảo lợi ích của


×