Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Nhiệm vụ, quyền hạn của thẩm phán trong tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 93 trang )

y
o

c u -tr a c k

.c

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THƢƠNG HUYỀN

NhiÖm vô, quyÒn h¹n cña ThÈm ph¸n
trong Tè tông h×nh sù ViÖt Nam

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018

.d o

m

o

w

w



w

.d o

C

lic

k

to

bu

y
bu
to
k
lic
C

w

w

w

N


O
W

!

h a n g e Vi
e

N

PD

!

XC

er

O
W

F-

w

m

h a n g e Vi
e


w

PD

XC

er

F-

c u -tr a c k

.c


y
o

c u -tr a c k

.c

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THƢƠNG HUYỀN


NhiÖm vô, quyÒn h¹n cña ThÈm ph¸n
trong Tè tông h×nh sù ViÖt Nam

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số

: 8 38 01 04

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Đỗ Thị Phƣợng

HÀ NỘI - 2018

.d o

m

o

w

w

w

.d o

C


lic

k

to

bu

y
bu
to
k
lic
C

w

w

w

N

O
W

!

h a n g e Vi
e


N

PD

!

XC

er

O
W

F-

w

m

h a n g e Vi
e

w

PD

XC

er


F-

c u -tr a c k

.c


y
o

c u -tr a c k

.c

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích
dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thị Thƣơng Huyền

.d o

m


o

w

w

w

.d o

C

lic

k

to

bu

y
bu
to
k
lic
C

w

w


w

N

O
W

!

h a n g e Vi
e

N

PD

!

XC

er

O
W

F-

w


m

h a n g e Vi
e

w

PD

XC

er

F-

c u -tr a c k

.c


y
o

c u -tr a c k

.c

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU


1

Chƣơng 1: LÝ LUẬN VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA THẨM PHÁN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

6

1.1. Khái niệm đặc điểm về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong
tố tụng hình sự
1.2. Vai trò và mối quan hệ của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam
1.3

6
13

Một số nguyên tắc cơ bản gắn liền với nhiệm vụ, quyền hạn của
Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam

18

Chƣơng 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA THẨM PHÁN VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG

26

2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về nhiệm vụ,
quyền hạn của Thẩm phán


26

2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật Tố tụng Hình sự Việt
Nam về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán

39

Chƣơng 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA THẨM PHÁN

51

3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự Việt Nam về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán

51

3.2. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam về
nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán

54

3.3. Những giải pháp nhằm nâng cao nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm
phán trong tố tụng hình sự Việt Nam

58

KẾT LUẬN


75

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHÀO

.d o

m

o

w

w

w

.d o

C

lic

k

to

bu

y
bu

to
k
lic
C

w

w

w

N

O
W

!

h a n g e Vi
e

N

PD

!

XC

er


O
W

F-

w

m

h a n g e Vi
e

w

PD

XC

er

F-

c u -tr a c k

.c


y
o


c u -tr a c k

.c

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

HĐXX

: Hội đồng xét xử

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
TTHS

: Tố tụng hình sự

VAHS

: Vụ án hình sự

XHCN


: Xã hội chủ nghĩa

.d o

m

o

w

w

w

.d o

C

lic

k

to

bu

y
bu
to
k

lic
C

w

w

w

N

O
W

!

h a n g e Vi
e

N

PD

!

XC

er

O

W

F-

w

m

h a n g e Vi
e

w

PD

XC

er

F-

c u -tr a c k

.c


y
o

c u -tr a c k


.c

DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

bảng
2.1

2.2

Tổng số VAHS mà TAND các cấp đã thụ lý, đã giải quyết, xét xử
và tỉ lệ số vụ án bị hủy, sửa từ năm 2013 đến năm 2017

40

Trình độ Thẩm phán các Tòa án của cả nước năm 2017

41

.d o

m

o


w

w

w

.d o

C

lic

k

to

bu

y
bu
to
k
lic
C

w

w


w

N

O
W

!

h a n g e Vi
e

N

PD

!

XC

er

O
W

F-

w

m


h a n g e Vi
e

w

PD

XC

er

F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

w

N
y
bu
k

to


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nhà nước pháp quyền, Tòa án được nhắc tới với tư cách là cơ quan
thực thi quyền tư pháp. Hoạt động của Tòa án luôn luôn được quan tâm và đổi mới
nhằm đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, tránh làm oan người vô tội. Điều này đã
được nhấn mạnh tại Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, theo đó: "Đổi mới việc tổ chức phiên tòa
xét xử, xác định rõ hơn vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành
tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ,
nghiêm minh; nâng cao chất lượng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá
của hoạt động tư pháp". Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X khẳng định nhiệm vụ:
"Cải cách tư pháp khẩn trương, đồng bộ, lấy cải cách hoạt động xét xử làm trung
tâm,..."1. Cùng với việc đổi mới toàn diện tổ chức và hoạt động của Tòa án thì việc
xây dựng, kiện toàn và nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán là một nhiệm vụ
trọng tâm, Nghị quyết số 08-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị
đã yêu cầu: "Rà soát đội ngũ cán bộ tư pháp để xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp
trong sạch vững mạnh", "Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là
cán bộ có chức danh tư pháp, theo hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm pháp lý,
nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất, đạo đức, chuyên môn
nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán bộ" và "Đào tạo
đủ số lượng cán bộ tư pháp có trình độ nghiệp vụ và ngoại ngữ chuyên sâu về lĩnh
vực tư pháp quốc tế nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức,
công dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và khu vực"… Trong những
năm qua ngành Tòa án nhân dân (TAND) đã không ngừng lớn mạnh. Song song với
việc triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ chuyên môn, lãnh đạo ngành TAND rất
chú trọng tới công tác kiện toàn tổ chức và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, đội
ngũ Thẩm phán, đảm bảo về chất lượng cũng như số lượng, đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ chính trị của ngành và của các địa phương. Tuy nhiên, quá trình này diễn ra còn
chậm, chưa đồng bộ và toàn diện, hoạt động xét xử của Tòa án chưa đáp ứng yêu

1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia,
tr. 127.

.d o

m

w

o

m

o

.c

lic

1

lic
C
c u -tr a c k

w

w

.d o


w

w

w

C

k

to

bu

y

N

O
W

!

XC

er

O
W


F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC

er

PD

F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

w


N
y
bu
k

to

cầu của cải cách tư pháp. Chất lượng xét xử của TAND các cấp vẫn còn thấp, tình
trạng xét xử oan sai, án tồn đọng kéo dài vẫn còn chiếm tỷ lệ cao. Bên cạnh đội ngũ
Thẩm phán vừa thiếu về số lượng vừa yếu về chất lượng, cơ sở vật chất, phương
tiện làm việc của cơ quan tư pháp còn thiếu thốn, nghèo nàn và lạc hậu. Những tồn
tại trên đã được chỉ rõ trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI: "Chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức chưa đáp ứng được yêu cầu cả về phẩm chất và năng lực, quá trình cải cách tư
pháp còn chậm, chưa đồng bộ.
Công tác điều tra, giam giữ, truy tố, xét xử trong một số trường hợp chưa
chính xác, án tồn đọng, án bị hủy, bị sửa còn nhiều".
Đứng trước yêu cầu xây dựng và kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức,
Thẩm phán ngành TAND trong sạch vững mạnh, đáp ứng yêu cầu hoàn thành
nhiệm vụ chính trị trong tình hình hiện nay, đòi hỏi phải tiếp tục có sự nghiên cứu
sâu sắc hơn để có các giải pháp thiết thực. Vì vậy, tôi đã chọn đề tài: "Nhiệm vụ,
quyền hạn của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam" để làm luận văn tốt
nghiệp cao học.
2. Tình hình nghiên cứu
Đề tài liên quan đến

nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong tố tụng

hình sự (TTHS) Việt Nam đã thu hút sự chú ý của không í t các học giả


, các nhà

nghiên cứu . Qua tì m hiểu , hiện nay có một số công trình nghiên cứu về chế định
Thẩm phán dưới dạng sách chuyên khảo, Tạp chí luật học. GS.TSKH Lê Cảm (chủ
biên): "Hệ thống tư pháp hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền"
Sách chuyên khảo, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009. PGS.TS Võ Khánh Vinh:
"Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự", Nxb Công an nhân dân, 2007... Bên
cạnh đó còn có các công trình nghiên cứu dưới dạng bài viết đăng trên các tạp chí
khoa học về hoạt động thực tiễn của Thẩm phán của các nhà làm công tác thực tiễn:
"Tăng cường tính độc lập của các Thẩm phán trong hoạt động xét xử ở Việt Nam"
Cổng thông tin điện tử Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh; TS. Trần Thu Hạnh
(2009): "Một số giải pháp nâng cao vị thế của đội ngũ Thẩm phán trong tố tụng hình
sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp", Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội,
Luật học 25-2009; Nguyễn Quang Lộc - Nguyên Thẩm phán TANDTC: "Kỹ năng
viết Bản án hình sự sơ thẩm", Tạp chí TAND, số 17, tháng 9/2014… Các công trình

.d o

m

w

o

m

o

.c


lic

2

lic
C
c u -tr a c k

w

w

.d o

w

w

w

C

k

to

bu

y


N

O
W

!

XC

er

O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC

er

PD


F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

c u -tr a c k

w

N
y
bu
lic

dưới dạng luận văn thạc sĩ như: Địa vị pháp lý của Chánh án, Phó chánh án Tòa án
nhân dân, Thẩm phán, Thư ký Tòa án và Hội thẩm nhân dân trong pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam, của Nguyễn Thị Hằng; Nghiên cứu mô hình nhân cách Thẩm
phán trong hoạt động xét xử, Luận án tiến sĩ của Bùi Kim Chi; Cơ sở khoa học của
việc xây dựng đội ngũ thẩm phán ở Việt Nam hiện na, của Đỗ Gia Thư; Chế định
thẩm phán trong tố tụng hình sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, của Trần Thu
Trang; Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, của Hà Duy Hiển…
Tuy nhiên, có thể thấy rằng, trong số các công trình kể trên, có một số công
trình nghiên cứu được tiến hành cách đây khá lâu, dẫn tới hệ quả là giá trị về mặt lý
luận cũng như thực tiễn sẽ có phần hạn chế. Mặt khác, có những công trình nghiên

cứu lại chỉ thiên về mặt lý luận như: Khái niệm, lịch sử hình thành và phát triển…
của các quy định có liên quan tới đề tài này mà chưa gắn với thực tiễn xét xử, hoặc
nghiên cứu đề tài trên cơ sở Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 mà chưa
có công trình nào đề cập tới các quy định tương ứng tại BLTTHS năm 2015.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là đề xuất các giải pháp nhằm góp phần
hoàn thiện các quy định cửa pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong
quá trình xét xử, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Để đạt được mục đích nghiên
cứu trên, luận văn có nhiệm vụ: Phân tích các đặc điểm của các mô hình TTHS qua
đó thấy được nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán tương ứng với từng mô hình tố
tụng. Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán
trong TTHS ở nước ta trong thời gian vừa qua. Nêu rõ nội dung, yêu cầu cải cách tư
pháp đối với Tòa án nói chung và Thẩm phán nói riêng để từ đó đóng góp hoàn
thiện quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong TTHS.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Các quy định của pháp luật về nhiệm
vụ, quyền hạn của thẩm phán trong TTHS Việt Nam và thực tiễn áp dụng.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong TTHS được thể hiện ở tất cả
các giai đoạn xét xử như: giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm. Phạm vi nghiên cứu về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong TTHS là
về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán và đối tượng là trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự (VAHS). Tuy nhiên, với phạm vi luận văn thạc sĩ trong quá

.d o

m

w

o


3

k

to
.c

C

m

o

.d o

w

w

w

w

w

C

lic


k

to

bu

y

N

O
W

!

XC

er

O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e


!

XC

er

PD

F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

w

N
y
bu
k

to

trình nghiên cứu viết luận văn do trình độ kinh nghiệm còn hạn chế nên tôi chỉ giới
hạn trong việc nghiên cứu về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong TTHS Việt

Nam nói chung và đặc biệt chủ yếu ở giai đoạn xét xử sơ thẩm về các VAHS.
5. Cơ sở phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận
Luận văn được thực hiện dựa trên nền tảng cơ sở phương pháp luận chủ
nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan
điểm, tư tưởng của Đảng, Nhà nước về Nhà nước và pháp luật, về cải cách tư pháp
nhằm nâng cao hiệu quả công tác xét xử các VAHS đối với ngành Tòa án nói chung
và Thẩm phán nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình tiếp cận và giải quyết những vấn đề mà luận văn đặt ra, tôi
đã sử dụng phương pháp biện chứng duy vật của chủ nghĩ a Mác

- Lênin, dựa trên

đường lối quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách kinh tế - xã hội và các
nội dung khác có liên quan.
Trong những trường hợp cụ thể, tôi kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên
cứu phù hợp như thống kê, so sánh, tổng hợp, phân tích… nhằm kết hợp nhuần
nhuyễn giữa kiến thức lý luận và thực tiễn để góp phần làm sáng tỏ những vấn đề.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn là một công trình khoa học ở cấp thạc sĩ luật học đề cập một cách
khá đầy đủ các vấn đề lý luận và thực tiễn về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán.
Luận văn chứa đựng một số điểm mới cơ bản về mặt lý luận như sau:
Thứ nhất, nghiên cứu lý luận và quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền
hạn của Thẩm phán trong TTHS.
Thứ hai, nghiên cứu quy định của pháp luật TTHS Việt Nam về nhiệm vụ,
quyền hạn của Thẩm phán và thực tiễn áp dụng.
Thứ ba, từ nghiên cứu về lý luận, hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam và
những giải pháp nhằm nâng cao nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là một trong những tài liệu tham khảo
có thể được sử dụng để nghiên cứu, học tập, đồng thời cung cấp những luận cứ khoa

.d o

m

w

o

m

o

.c

lic

4

lic
C
c u -tr a c k

w

w


.d o

w

w

w

C

k

to

bu

y

N

O
W

!

XC

er

O

W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC

er

PD

F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

w


N
y
bu
k

to

học phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng Bộ luật tố tụng
hình sự Việt Nam liên quan đến vấn đề về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu , kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong tố tụng
hình sự.
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về nhiệm vụ,
quyền hạn của Thẩm phán và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và những giải
pháp nhằm bảo đảm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán.

.d o

m

w

o

m


o

.c

lic

5

lic
C
c u -tr a c k

w

w

.d o

w

w

w

C

k

to


bu

y

N

O
W

!

XC

er

O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC


er

PD

F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

w

N
y
bu
k

to

Chƣơng 1
LÝ LUẬN VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA THẨM PHÁN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm đặc điểm về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong
tố tụng hình sự
Trong bộ máy nhà nước, TAND có một vị trí đặc biệt quan trọng - là cơ

quan duy nhất có chức năng xét xử các VAHS, dân sự, hôn nhân gia đình, lao động,
kinh tế, hành chính, kinh doanh thương mại và giải quyết các công việc khác theo
quy định của pháp luật như thi hành án, giải thích pháp luật… Bằng hoạt động của
mình, Tòa án bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN), quyền dân chủ của công
dân, của tập thể, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, nhân phẩm danh dự của
công dân và bảo vệ tài sản của Nhà nước. Thông qua hoạt động xét xử, Tòa án góp
phần giáo dục công dân ý thức pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống, tham
gia cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác. Trong hoạt
động xét xử của Tòa án, Thẩm phán được coi là nhân tố, hạt nhân rất quan trọng, nhân
vật trung tâm. Xét xử được hiểu là "hoạt động do Tòa án thực hiện để xem xét và giải
quyết các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, lao động, kinh tế với việc tuân thủ
nghiêm ngặt các đòi hỏi của pháp luật và trật tự pháp luật, có tính lập luận công
bằng và có ý nghĩa bắt buộc chung". Thẩm phán được hiểu như thế nào cho đầy đủ
và chính xác? Cũng có nhiều khái niệm (định nghĩa) về Thẩm phán chẳng hạn như:
- "Thẩm phán là một chức danh Nhà nước trong hệ thống Tòa án các cấp".
- Theo tác giả Đỗ Gia Thư: "Thẩm phán là người làm việc trong cơ quan
Tòa án, chuyên xét xử các vụ án và giải quyết các vụ việc theo thẩm quyền của Tòa
án, ra các bản án, quyết định nhân danh Nhà nước"2.
- Tại Điều 65 Luật tổ chức TAND năm 2014 quy định về Nhiệm vụ, quyền
hạn của Thẩm phán: "Thẩm phán là người có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định
của Luật này được Chủ tịch nước bổ nhiệm để làm nhiệm vụ xét xử"3.
Trải qua sự phát triển của lịch sử cũng như sự phát triển của nền lập pháp từ
khi chưa có đội ngũ Thẩm phán đến khi xuất hiện đội ngũ Thẩm phán để từ đó khái
2. Đỗ Gia Thư (2006), Cơ sở khoa học của việc xây dựng đội ngũ Thẩm phán, Luận án tiến sĩ Luật học, Viện
Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội
3. Điều 65 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014

.d o

m


w

o

m

o

.c

lic

6

lic
C
c u -tr a c k

w

w

.d o

w

w

w


C

k

to

bu

y

N

O
W

!

XC

er

O
W

F-

w

PD


h a n g e Vi
e

!

XC

er

PD

F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

c u -tr a c k

w

N
y
bu
lic


niệm về Thẩm phán dần được xuất hiện và ngày càng hoàn thiện hơn. Tôi đồng tình
với khái niệm về Thẩm phán được quy định tại Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức TAND
năm 2014. Đây là khái niệm hoàn chỉnh và đầy đủ về Thẩm phán. Theo khái niệm này
thì Thẩm phán phải có tiêu chuẩn và được bổ nhiệm theo thủ tục do pháp luật quy định.
Tức là chế độ bổ nhiệm Thẩm phán được thực hiện đối với Tòa án các cấp. Việc bổ
nhiệm Thẩm phán phải do người có thẩm quyền bổ nhiệm, tương ứng với 3 cấp Tòa án
có 3 ngạch Thẩm phán tương ứng và thẩm quyền bổ nhiệm đối với các ngạch Thẩm
phán này cũng khác nhau. Và để được bổ nhiệm làm Thẩm phán thì cán bộ Tòa án phải
đáp ứng những tiêu chuẩn về bổ nhiệm Thẩm phán do pháp luật quy định. Thẩm phán
là người được Chủ tịch nước bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ
xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án. Thẩm
phán phải là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh
thần dũng cảm và kiên quyết bảo vệ công lý, liêm khiết và trung thực, có tinh thần
kiên quyết bảo vệ pháp chế XHCN, có trình độ cử nhân luật trở lên và đã được đào
tạo về nghiệp vụ xét xử, có thời gian công tác thực tiễn pháp luật và có sức khỏe
đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được giao. Thẩm phán TANDTC do Chủ tịch nước
bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội; thẩm
phán các tòa án khác do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức.
Chức năng, nhiệm vụ xét xử của Tòa án được thực hiện thông qua hoạt
động xét xử trong đó Thẩm phán làm chủ tọa phiên tòa tham gia vào việc ra bản án
hoặc quyết định nhân danh Nhà nước, thay mặt Hội đồng xét xử (HĐXX) tuyên án
hoặc các quyết định nhân danh Nhà nước như quyết định đình chỉ xét xử sơ thẩm,
quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm, quyết định trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa...
Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa được phân công giải
quyết vụ án có thẩm quyền ra các quyết định tố tụng như quyết định đưa vụ án ra
xét xử, quyết định trả hồ sơ, quyết định hoãn phiên tòa... Bên cạnh đó, Thẩm phán còn
tham gia giải quyết vụ án với vai trò là Thẩm phán - thành viên của HĐXX trong
trường hợp xét xử theo trình tự sơ thẩm khi HĐXX gồm 5 người hoặc theo trình tự

phúc thẩm. Ngoài nhiệm vụ xét xử, Thẩm phán còn thực hiện các nhiệm vụ khác
thuộc thẩm quyền của Tòa án khi được lãnh đạo phân công. Nói đến Thẩm phán trước
hết phải hiểu đó là người - chuyên hành nghề xét xử. Công việc xét xử của Thẩm

.d o

m

w

o

7

k

to
.c

C

m

o

.d o

w

w


w

w

w

C

lic

k

to

bu

y

N

O
W

!

XC

er


O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC

er

PD

F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e


w

N
y
bu
k

to

phán được coi là một nghề - nghề có tính đặc thù. Bởi lẽ, chỉ có Tòa án mới có chức
năng xét xử. Tính đặc thù nghề nghiệp của Thẩm phán được thể hiện ở chỗ:
- Nghề này ảnh hưởng lớn đến tính công minh của pháp luật, uy tín về nền
công lý của một quốc gia;
- Lao động của Thẩm phán chính là lao động trí óc, đầy khó khăn phức tạp
dưới sự giám sát nghiêm ngặt của xã hội và công dân;
- Thẩm phán là người đại diện cho Nhà nước trực tiếp áp dụng pháp luật do vậy
sự công bằng khách quan, tình người là không thể thiếu được của người Thẩm phán;
- Hoạt động của Thẩm phán gắn liền với việc áp dụng các biện pháp cưỡng
chế liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân, tổ chức;
- Độc lập xét xử là nguyên tắc cơ bản đối với hoạt động của Thẩm phán;
- Thẩm phán hoạt động theo một trình tự pháp lý chặt chẽ được quy định
trong pháp luật TTHS;
- Khi xét xử, HĐXX nhân danh Nhà nước để ra bản án hoặc quyết định.
Thẩm phán được coi là một chức danh quan trọng không thể thiếu trong tổ chức bộ
máy nhà nước, có ý nghĩa quyết định đến việc thực hiện quyền tư pháp. Bởi lẽ, hoạt
động xét xử là hoạt động trung tâm thực hiện quyền tư pháp. Ở nước ta Thẩm phán
được coi là một chức danh từ năm 2002 và được ghi nhận bằng cơ sở pháp lý tại
Luật tổ chức TAND 2014 4, còn trở về trước Thẩm phán chỉ được coi là một chức
vụ. Đây là một bước ngoặt quan trọng đánh dấu sự thay đổi về nhận thức khoa học,
muốn xây dựng đội ngũ Thẩm phán chuyên nghiệp thì trước hết phải coi Thẩm phán là

một nghề, có vị trí chức danh nhất định trong xã hội có như vậy Thẩm phán mới có cơ
sở điều kiện pháp lý để làm việc và yên tâm cống hiến, phấn đấu cho sự nghiệp của
mình. Ngoài ra, Thẩm phán còn được coi là công chức nhà nước. Theo Pháp lệnh cán
bộ công chức hiện hành, Thẩm phán được xếp vào ngạch công chức nhà nước được
hưởng mọi quyền lợi, nghĩa vụ và chế độ của công chức nói chung.
Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân; tất cả quyền lực thuộc về nhân dân tiếp tục được kế thừa trong Hiến pháp mới
của nước ta. Tư tưởng chủ quyền nhân dân và nguyên tắc tổ chức thực hiện quyền
lực nhà nước tiếp tục được phát triển trong bản Hiến pháp mới. Nguyên tắc phân
công, phối hợp thực hiện quyền lực nhà nước được thể hiện rõ ràng, rành mạch hơn.
4. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014

.d o

m

w

o

m

o

.c

lic

8


lic
C
c u -tr a c k

w

w

.d o

w

w

w

C

k

to

bu

y

N

O
W


!

XC

er

O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC

er

PD

F-

c u -tr a c k


.c


h a n g e Vi
e

w

N
y
bu
k

to

Bằng việc quy định "Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp"5, Hiến pháp 2013 xác định rõ
ràng, cụ thể vị trí, vai trò của TAND trong bộ máy cơ quan nhà nước. TAND là cơ
quan duy nhất có quyền ra phán quyết về các vi phạm pháp luật, các tranh chấp theo
quy định của pháp luật và về các vấn đề pháp lý liên quan đến quyền, lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân. Xử lý các vi phạm pháp luật bằng chế tài nhà nước, giải
quyết các tranh chấp bằng quyền lực nhà nước đều thuộc thẩm quyền của Tòa án.
Trong TAND, Thẩm phán là người có vị trí và vai trò then chốt để thực thi nhiệm
vụ tố tụng của Tòa án. Hoạt động của Thẩm phán là một trong những yếu tố quyết
định đến chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp. Vậy khái niệm nhiệm vụ,
quyền hạn của Thẩm phán trong TTHS được hiểu như thế nào?
Thẩm phán cũng còn gọi là quan tòa là người thực hiện quyền xét xử chính
tại một phiên tòa, có thể là chủ tọa một mình hoặc là một thành phần trong HĐXX
gồm nhiều thẩm phán. Các quốc gia khác nhau thì cũng có các quy định khác nhau

về quyền hạn, chức năng, cách thức bổ nhiệm, kỷ luật, và đào tạo thẩm phán. Thẩm
phán thực hiện việc xét xử một cách không thiên vị tại các phiên tòa công khai.
Thẩm phán nghe những người làm chứng và các bên trong vụ án trình bày chứng
cứ, đánh giá mức độ xác thực của các bên, và sau đó đưa ra phán quyết về vấn đề
được trình bày dựa trên việc giải thích pháp luật và đánh giá chủ quan của mình. Tại
một số quốc gia, quyền hạn của thẩm phán được chia sẻ với bồi thẩm đoàn hoặc hội
thẩm, trong khi đó một số quốc gia khác lại giảm dần việc chia sẻ quyền hạn này.
Trong hệ thống TTHS thẩm vấn, thẩm phán đã tham gia vào việc điều tra sẽ không
được là thẩm phán xét xử vụ án đó.
Thẩm phán phải có tiêu chuẩn và được bổ nhiệm theo thủ tục do pháp luật quy
định. Tức là chế độ bổ nhiệm Thẩm phán được thực hiện đối với Tòa án các cấp. Việc
bổ nhiệm Thẩm phán phải do người có thẩm quyền bổ nhiệm, tương ứng với 3 cấp Tòa
án có 3 ngạch Thẩm phán tương ứng và thẩm quyền bổ nhiệm đối với các ngạch Thẩm
phán này cũng khác nhau. Và để được bổ nhiệm làm Thẩm phán thì cán bộ Tòa án
phải đáp ứng những tiêu chuẩn về bổ nhiệm Thẩm phán do pháp luật quy định.
Chức năng, nhiệm vụ xét xử của Tòa án được thực hiện thông qua hoạt
động xét xử trong đó Thẩm phán làm chủ tọa phiên tòa tham gia vào việc ra bản án
5. Hiến pháp (2013), Khoản 1, Điều 102

.d o

m

w

o

m

o


.c

lic

9

lic
C
c u -tr a c k

w

w

.d o

w

w

w

C

k

to

bu


y

N

O
W

!

XC

er

O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC


er

PD

F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

w

N
y
bu
k

to

hoặc quyết định nhân danh Nhà nước, thay mặt HĐXX tuyên án hoặc các quyết
định nhân danh Nhà nước như quyết định đình chỉ xét xử sơ thẩm, quyết định đình
chỉ xét xử phúc thẩm, quyết định trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa...
Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa được phân
công giải quyết vụ án có thẩm quyền ra các quyết định tố tụng như quyết định đưa
vụ án ra xét xử, quyết định trả hồ sơ, quyết định hoãn phiên tòa...
Bên cạnh đó, Thẩm phán còn tham gia giải quyết vụ án với vai trò là Thẩm

phán - thành viên của HĐXX trong trường hợp xét xử theo trình tự sơ thẩm khi
HĐXX gồm 5 người hoặc theo trình tự phúc thẩm.
Ngoài nhiệm vụ xét xử, Thẩm phán còn thực hiện các nhiệm vụ khác thuộc
thẩm quyền của Tòa án khi được lãnh đạo phân công. Ví dụ: tham gia vào Hội đồng
giảm án tha tù...
Công việc xét xử của Thẩm phán được coi là một nghề - nghề có tính đặc
thù. Bởi lẽ, chỉ có Tòa án mới có chức năng xét xử. Theo từ điển Tiếng Việt của
Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 1994 đã định nghĩa: "nghề là công việc chuyên
làm theo sự phân công lao động của xã hội"6. Nghề Thẩm phán là nghề đại diện
cho quyền lực tư pháp, quyền lực nhà nước, là tượng trưng cho khát vọng của mọi
tầng lớp, giai cấp trong xã hội về chân, thiện, mỹ về một hệ thống tiêu chí đạo
đức: sống làm người.Thẩm phán nhân danh nhà nước để đưa ra phán quyết và khi
bản án có hiệu lực pháp luật thì tất cả mọi cơ quan nhà nước, các tổ chức và mọi
công dân đều phải chấp hành.
Thẩm phán là một chức danh tư pháp quan trọng không thể thiếu trong tổ
chức Tòa án nói riêng và trong bộ máy nhà nước nói chung và được xác định là một
chức danh tư pháp quan trọng và có ý nghĩa quyết định đến việc thực hiện quyền tư
pháp. Ở nước ta Thẩm phán được coi là một chức danh từ năm 2002, còn trước đó
về mặt pháp lý Thẩm phán chỉ được coi là một chức vụ. Đây là một bước ngoặt
quan trọng đánh dấu sự thay đổi về nhận thức khoa học, muốn xây dựng đội ngũ
Thẩm phán chuyên nghiệp thì trước hết phải coi Thẩm phán là một nghề, có vị trí
chức danh nhất định trong xã hội có như vậy Thẩm phán mới có cơ sở điều kiện
pháp lý để làm việc và yên tâm cống hiến, phấn đấu cho sự nghiệp của mình. Ngoài
ra, Thẩm phán còn được coi là công chức nhà nước. Theo Pháp lệnh cán bộ công
6. Từ điển tiếng Việt (1994), Nxb Văn hóa Thông tin, tr. 154

.d o

m


w

o

m

o

.c

lic

10

lic
C
c u -tr a c k

w

w

.d o

w

w

w


C

k

to

bu

y

N

O
W

!

XC

er

O
W

F-

w

PD


h a n g e Vi
e

!

XC

er

PD

F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

w

N
y
bu
k

to


chức hiện hành, Thẩm phán được xếp vào ngạch công chức nhà nước được hưởng
mọi quyền lợi, nghĩa vụ và chế độ của công chức nói chung.
Nhiệm vụ, quyền hạn của chủ thể pháp luật là vị trí của chủ thể pháp luật
trong mối quan hệ với chủ thể pháp luật khác trên cơ sở các quy định của pháp luật;
là sự thể hiện thành một tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể, qua đó
xác lập cũng như giới hạn khả năng của chủ thể trong các hoạt động của mình.
Thông qua nhiệm vụ, quyền hạn có thể phân biệt chủ thể pháp luật này với chủ thể
pháp luật khác, đồng thời có thể xem xét vị trí và tầm quan trọng của chủ thể pháp
luật trong các mối quan hệ pháp luật.
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên thì "nhiệm vụ"
được hiểu là "công việc do cơ quan, đơn vị hoặc tổ chức giao cho phải làm vì một
mục đích và trong một thời gian nhất định của cá nhân trong xã hội"7
Thẩm phán thực hiện nghiệp vụ xét xử và có thẩm quyền ra bản án, quyết
định nhân danh Nhà nước. Đó là việc đưa ra các quyết định mang tính chất bắt buộc
chung bằng cách này hay cách khác liên quan đến các quyền và tự do cơ bản, các
lợi ích hợp pháp của công dân, của cơ quan nhà nước, của các tổ chức xã hội... Các
nhiệm vụ với những đặc điểm riêng biệt được đội ngũ Thẩm phán đảm nhiệm đã tạo
thành nhiệm vụ, quyền hạn của các Tòa án, của các Thẩm phán có sự khác biệt so
với nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước với những người có chức vụ
quyền hạn trong các cơ quan đó. Những người Thẩm phán có các quyền và nghĩa vụ
đặc trưng cho họ. Tổng thể các quyền và nghĩa vụ đó tạo thành cái mà chúng ta gọi
là quy chế của Thẩm phán, nhiệm vụ quyền hạn của Thẩm phán.
Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2014, BLTTHS hiện
hành, Luật Tổ chức TAND hiện hành đã quy định quyền và nghĩa vụ riêng biệt của
người Thẩm phán phù hợp với nghề nghiệp của Thẩm phán. Đây là những cơ sở
pháp lý và cũng là hành lang pháp lý cho người Thẩm phán khi thực thi nhiệm vụ
của mình được có căn cứ, đúng pháp luật. Thẩm phán không được: Tư vấn cho bị
can, bị cáo, đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác làm cho việc giải quyết vụ
án hoặc những việc khác không đúng quy định của pháp luật; Can thiệp trái pháp
luật vào việc giải quyết vụ án hoặc lợi dụng ảnh hưởng của mình tác động đến

người có trách nhiệm giải quyết vụ án; Đem hồ sơ vụ án hoặc tài liệu trong hồ sơ vụ
7. Nguyễn Như Ý (2010), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, tr. 8

.d o

m

w

o

m

o

.c

lic

11

lic
C
c u -tr a c k

w

w

.d o


w

w

w

C

k

to

bu

y

N

O
W

!

XC

er

O
W


F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC

er

PD

F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

c u -tr a c k


w

N
y
bu
lic

án ra khỏi cơ quan, nếu không vì nhiệm vụ được giao hoặc không được sự đồng ý
của người có thẩm quyền; Tiếp bị can, bị cáo, đương sự hoặc người tham gia tố
tụng khác trong vụ án mà mình có thẩm quyền giải quyết ngoài nơi quy định.
Xuất phát từ những đặc thù, sự nhạy cảm của công việc xét xử nên Thẩm
phán cũng bị hạn chế bớt quyền hạn của mình khi đương nhiệm như: Thẩm phán
đương nhiệm không được làm luật sư đặc biệt tham gia tranh tụng.
Có thể nói nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong TTHS đã tạo ra một vị
thế riêng biệt cho người Thẩm phán khi thực hiện nghiệp vụ xét xử cũng như khi giải
quyết các công việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án khi được lãnh đạo phân công.
Như vậy, có thể rút ra khái niệm: Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán
trong Tố tụng hình sự được hiểu là tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý mà pháp
luật trao cho họ khi thực hiện các hoạt động tố tụng hình sự nhân danh Nhà nước
và các hoạt động khác thuộc phạm vi của Tòa án.
Trước hết chúng ta xem xét nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán dưới góc
độ là nhiệm vụ, quyền hạn của một công dân: Thẩm phán là một công dân nên
Thẩm phán cũng có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ cơ bản của một công dân được
pháp luật hiện hành quy định. Quyền và nghĩa vụ này được quy định tại Hiến pháp văn bản pháp lý có giá trị pháp lý cao nhất. Ví dụ: Hiến pháp quy định "Công dân
có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác
nếu người đó không đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép…" (Điều 73);
"Công dân phải trung thành với Tổ quốc. Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất" (Điều 75);
"Công dân có nghĩa vụ đóng thuế và lao động công ích theo quy định của pháp luật"
(Điều 80) thì Thẩm phán cũng có các quyền và nghĩa vụ đó. Bên cạnh đó, Thẩm
phán là một cán bộ công chức nhà nước nên được hưởng các quyền và phải chịu các

nghĩa vụ của một cán bộ công chức nhà nước theo Pháp lệnh cán bộ công chức hiện
hành quy định. Tuy nhiên, không phải mọi quyền và nghĩa vụ của cán bộ công chức
nhà nước đều được áp dụng cho Thẩm phán vì xuất phát từ chính tính đặc thù của
nghề nghiệp mà Thẩm phán đảm nhiệm. Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân
dân 2014, BLTTHS hiện hành, Luật Tổ chức TAND hiện hành đã quy định quyền
và nghĩa vụ riêng biệt của người Thẩm phán phù hợp với nghề nghiệp của Thẩm
phán. Đây là những cơ sở pháp lý và cũng là hành lang pháp lý cho người Thẩm
phán khi thực thi nhiệm vụ của mình được có căn cứ, đúng pháp luật. Ví dụ: Thẩm

.d o

m

w

o

12

k

to
.c

C

m

o


.d o

w

w

w

w

w

C

lic

k

to

bu

y

N

O
W

!


XC

er

O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC

er

PD

F-

c u -tr a c k

.c



h a n g e Vi
e

w

N
y
bu
k

to

phán không được "Tiếp bị can, bị cáo, đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác
trong vụ án mà mình có thẩm quyền giải quyết ngoài nơi quy định" (tiết 5 Điều 15)
Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Ví dụ: "Thẩm phán có quyền yêu cầu
cơ quan, tổ chức, cá nhân thi hành những quyết định có liên quan đến việc giải
quyết vụ án hoặc những việc khác theo quy định của pháp luật" (Điều 12). Xuất
phát từ tính đặc thù, sự nhảy cảm của nghề nghiệp xét xử nên Thẩm phán cũng bị
hạn chế bớt quyền hạn của mình khi còn đương nhiệm. Ví dụ "Thẩm phán đương
nhiệm không được làm luật sư đặc biệt là luật sư tham gia tranh tụng".
Chúng ta có thể phân loại quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán theo các dạng sau:
- Quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán với tư cách là một cán bộ Tòa án;
- Quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán với tư cách là người tiến hành tố tụng
tham gia giải quyết VAHS (trong đó Thẩm phán là thành viên của HĐXX, Thẩm
phán là Chủ tọa phiên tòa).
Nhưng nói gì đi nữa thì quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được coi là
cái gốc rễ để quy định quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán. Có thể nói nhiệm vụ,
quyền hạn của Thẩm phán trong TTHS đã tạo ra một vị thế, vai trò riêng biệt cho

người Thẩm phán khi thực hiện nghiệp vụ xét xử cũng như khi giải quyết các công
việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án khi được lãnh đạo phân công.
1.2. Vai trò và mối quan hệ của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam
1.2.1. Vai trò của Thẩm phán trong Tố tụng hình sự Việt Nam
Thứ nhất, Thẩm phán là nhân tố cơ bản, có vai trò chủ yếu trong việc thực
hiện chức năng nhiệm vụ của Tòa án. Theo quy định của pháp luật TTHS hiện
hành, thì tại phiên tòa sơ thẩm hình sự, Chủ tọa phiên tòa vừa là người tiến hành tố
tụng vừa là người điều khiển toàn bộ hoạt động tố tụng tại phiên tòa.
Kết quả xét xử của Tòa án là sản phẩm cuối cùng của một quá trình tố tụng.
Chất lượng xét xử có cao hay không phụ thuộc phần lớn vào người Thẩm phán, phụ
thuộc vào chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng điều khiển phiên tòa, kinh nghiệm tích lũy
trong quá trình công tác. Vì sao lại hỏi bị cáo này trước mà không hỏi bị cáo kia trước,
vật chứng nào, nhân chứng nào, những tình tiết nào trong vụ án có ý nghĩa quyết định
đến việc bị cáo có tội hay không có tội, nếu có tội thì được quy định tại điều khoản nào
trong Bộ luật Hình sự. Tất cả những vấn đề trên đòi hỏi người Thẩm phán phải có kiến
thức pháp luật sâu rộng, phải có kinh nghiệm tích lũy trong quá trình xét xử các vụ án

.d o

m

w

o

m

o

.c


lic

13

lic
C
c u -tr a c k

w

w

.d o

w

w

w

C

k

to

bu

y


N

O
W

!

XC

er

O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC

er


PD

F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

w

N
y
bu
k

to

thì mới làm tốt vị trí, vai trò của mình được. "Cơ sở của các phán quyết là pháp luật,
nhưng kết quả của các phán quyết có công bằng, vô tư và khách quan hay không đòi
hỏi mỗi Thẩm phán phải có cái tâm trong sáng". Thẩm phán phải có niềm tin nội tâm,
đó là niềm tin vào công lý. Bởi vì, trong quá trình xét xử Thẩm phán cũng sẽ không
bao giờ dự liệu hết được mọi tình huống xảy ra trong thực tế. Có những quy định của
pháp luật còn xung đột, không thống nhất, song khi xét xử Thẩm phán vẫn phải đảm
bảo nguyên tắc xét xử đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Mỗi phán quyết của
Thẩm phán có thể dẫn tới việc công dân, pháp nhân được hưởng quyền và lợi ích hoặc
phải gánh chịu các hậu quả pháp lý nhất định. Đặc biệt là trong lĩnh vực hình sự,

phán quyết của Thẩm phán dẫn đến hậu quả pháp lý vô cùng nghiêm trọng đối với
người bị kết án. Sai lầm trong hoạt động xét xử của Thẩm phán sẽ dẫn đến tình trạng
xử oan, sai. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến một cá nhân mà có thể làm giảm lòng
tin của quần chúng nhân dân vào sự công bằng của xã hội, vào pháp luật của Nhà
nước ta. Với mọi người, Toà án vàong chỉ là bảo vệ pháp luật mà còn là biểu tượng
của công lý, sự công bằng xã hội và trong đó Thẩm phán là trụ cột, là chỗ dựa vững
chắc cho công dân, tổ chức, nhà nước trong việc đấu tranh và phòng chống tội phạm.
Thứ hai, bằng việc xét xử, Thẩm phán cũng góp phần về việc bảo vệ công
lý, bảo vệ quyền con người, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ quyền làm chủ của nhân
dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh
dự và nhân phẩm của nhân dân.
Thứ ba, Thẩm phán góp phần to lớn có hiệu quả trong công tác phổ biến
tuyên truyền pháp luật đồng thời thông qua công tác áp dụng pháp luật, rút kinh
nghiệm kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoàn thiện pháp luật.
Thẩm phán có vị trí trung tâm trong quá trình tố tụng tại phiên tòa. Thẩm phán
hầu như quán xuyến mọi việc và giữ ý nghĩa quyết định kết quả xét xử. Thẩm phán là
người điều khiển phiên tòa theo quy định của pháp luật. Thẩm phán phải lập kế hoạch
cho cả phiên tòa như những chứng cứ nào sẽ được sử dụng, nhân chứng nào được triệu
tập, thời gian xét xử... và dự liệu được những vấn đề có thể xảy ra tại phiên tòa. Trong
phần thẩm vấn luật không quy định cụ thể phải hỏi ai trước, hỏi vấn đề gì trước nên gần
như quy trình xét hỏi được quyết định bởi Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa và là người
điều khiển phiên tòa, thấy cần hỏi ai trước, cần làm rõ cái gì trước, xem xét và trình
bày cái gì là hợp lý để đảm bảo kết quả, chất lượng xét xử tốt nhất và không làm

.d o

m

w


o

m

o

.c

lic

14

lic
C
c u -tr a c k

w

w

.d o

w

w

w

C


k

to

bu

y

N

O
W

!

XC

er

O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e


!

XC

er

PD

F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

c u -tr a c k

w

N
y
bu
lic

cho các sự kiện bị rối lên, đồng thời cũng quyết định luôn tình tiết, nội dung nào cần
được xét hỏi. Mặc dù người hỏi gồm có cả Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm

sát viên, Luật sư nhưng thực tiễn xét xử tại Việt Nam cho thấy việc xét hỏi được tiến
hành chủ yếu bởi Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa, sự tham gia xét hỏi của Luật sư,
Kiểm sát viên trong quá trình xét hỏi không mang tính liên tục. Tất cả những điều đó
ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng xét xử. Chất lượng xét xử có cao hay không phụ
thuộc phần lớn vào người Thẩm phán. Thông qua xét xử các VAHS, Thẩm phán góp
phần to lớn vào việc trừng trị kịp thời, có hiệu quả những kẻ phạm tội nhằm duy trì trật
tự kỷ cương phép nước, không chỉ buộc bị cáo phải hành xử đúng pháp luật mà còn tạo
nên một môi trường bền vững an toàn cho cá nhân, tổ chức sinh sống và hoạt động.
Đứng trước Tòa án, người dân hay cơ quan nhà nước đều được bình đẳng trước pháp
luật có quyền và nghĩa vụ như nhau. Thẩm phán bằng lương tâm, trách nhiệm và
quyền hạn được giao, bằng trình độ chuyên môn, kinh nghiệm sống và phải có lòng
dũng cảm để minh oan cho những trường hợp bị kết án oan, hủy bỏ quyết định sai trái,
khôi phục quyền lợi danh dự cho họ, bảo vệ lẽ phải và chính nghĩa. Khẳng định rằng
Tòa án là công cụ bảo vệ công lý trong đó Thẩm phán là trụ cột, là chỗ dựa vững chắc
cho công dân, tổ chức nhà nước trong việc đấu tranh và phòng chống tội phạm. Bằng
việc xét xử tại phiên tòa, Thẩm phán góp phần vô cùng to lớn có hiệu quả trong công
tác phổ biến tuyên truyền pháp luật đồng thời thông qua công tác áp dụng pháp luật,
rút kinh nghiệm kiến nghị sửa đổi bổ sung hoàn thiện pháp luật. Trong xét xử bắt buộc
phải có Thẩm phán, chỉ Thẩm phán mới có quyền xét xử, chính bởi vậy Thẩm phán giữ
vai trò trọng yếu trong hoạt động xét xử, có tính chất quyết định đến uy tín, chất lượng
xét xử của Tòa án. Quần chúng nhân dân có đặt niềm tin vào công lý được hay không
đều phụ thuộc vào sự phán quyết cuối cùng của HĐXX. Bởi vậy, công việc của người
Thẩm phán hết sức nặng nề và nguy hiểm nhưng cũng không kém phần vinh quang.
Phương diện hoạt động của Thẩm phán là xét xử, chức năng của Thẩm phán là xét xử,
để thực hiện được chức năng này pháp luật nước ta đã cụ thể hóa trong pháp luật tố
tụng thành nhiệm vụ quyền hạn của Thẩm phán. Nhìn vào nhiệm vụ, quyền hạn mà
pháp luật TTHS quy định cho họ đã thể hiện rõ mô hình về người Thẩm phán.
Từ những vai trò cơ bản nêu trên của Thẩm phán, có thể thấy rằng nhiệm
vụ, quyền hạn của Thẩm phán đã được ghi nhận và khẳng định một cách rõ ràng
trong hệ thống pháp luật của nước ta. Tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005


.d o

m

w

o

15

k

to
.c

C

m

o

.d o

w

w

w


w

w

C

lic

k

to

bu

y

N

O
W

!

XC

er

O
W


F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC

er

PD

F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

w

N

y
bu
k

to

của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, tiếp tục khẳng định
vị trí, vai trò trung tâm của Tòa án và nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán cùng với
việc đề ra các yêu cầu về xây dựng, củng cố đội ngũ Thẩm phán để đáp ứng tốt hơn
nữa yêu cầu nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho trong tình hình hội
nhập quốc tế của đất nước hiện nay.
1.2.2. Mối quan hệ của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam
Thẩm phán có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống Tòa án,
cũng như trong hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, nếu chỉ một
mình Thẩm phán thì không thể tiến hành tố tụng, mà việc tiến hành tố tụng của
Thẩm phán phải đặt trong mối quan hệ với những người và cơ quan tiến hành tố
tụng khác và thông qua các mối quan hệ đó sẽ cho chúng ta cái nhìn tổng quan hơn
về vị trí, vai trò của Thẩm phán. Mối quan hệ của Thẩm phán trong công tác có hai
dạng đó là: Mối quan hệ hành chính và mối quan hệ tố tụng.
- Mối quan hệ hành chính: Là quan hệ giữa Thẩm phán và Chánh án nhưng
nó được hiểu dưới hai góc độ khác nhau:
Thứ nhất: Mối quan hệ giữa Thẩm phán và Chánh án là mối quan hệ với tư
cách cán bộ cơ quan và thủ trưởng cơ quan. Đây là mối quan hệ hành chính. Chánh án
phân công nhiệm vụ và quản lý Thẩm phán. Chánh án TANDTC có quyền ký quyết
định bổ nhiệm, tái bổ nhiệm, điều động biệt phái Thẩm phán. Với tư cách là cán bộ Tòa
án, Thẩm phán phải chịu trách nhiệm, chấp hành nhiệm vụ được giao trước Chánh án.
Thứ hai: Mối quan hệ giữa Thẩm phán và Chánh án với tư cách là Thẩm
phán tham gia giải quyết VAHS. Đây là mối quan hệ tố tụng và chịu sự điều chỉnh
của luật TTHS, phải độc lập trong xét xử.
- Mối quan hệ tố tụng: Mối quan hệ giữa Thẩm phán và người tiến hành tố

tụng, mối quan hệ của Thẩm phán với người tham gia tố tụng.
Mối quan hệ giữa Thẩm phán và những người tiến hành tố tụng (Hội thẩm
nhân dân, Thư ký Tòa án, Kiểm sát viên, Luật sư, người giám định, người phiên
dịch, Bị cáo, người bị hại và các đương sự khác).
Mối quan hệ giữa Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân: Hội thẩm nhân dân
đại diện cho quần chúng nhân dân tham gia vào công tác xét xử, giám sát hoạt động
của Tòa án góp phần làm cho hoạt động xét xử đúng pháp luật, hợp lẽ công bằng,
bảo đảm pháp chế. Hội thẩm cũng có trách nhiệm nghiên cứu hồ sơ, tham gia xét xử

.d o

m

w

o

m

o

.c

lic

16

lic
C
c u -tr a c k


w

w

.d o

w

w

w

C

k

to

bu

y

N

O
W

!


XC

er

O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC

er

PD

F-

c u -tr a c k

.c



h a n g e Vi
e

w

N
y
bu
k

to

và khi xét xử vụ án, mọi vấn đề phải được Thẩm phán và Hội thẩm thảo luận và
thông qua tại phòng nghị án. Mối quan hệ giữa Thẩm phán và Hội thẩm là mối quan
hệ độc lập, thể hiện trên hai phương diện: độc lập với các cá nhân khác và độc lập
với chính những thành viên trong HĐXX. Nhưng trong hoạt động xét xử thì vai trò
của Thẩm phán vẫn là trung tâm, được thể hiện trong toàn bộ quá trình xét xử từ
phần thủ tục đến phần tuyên án.
Mối quan hệ giữa Thẩm phán và Thư ký Tòa án: Thư ký là người giúp việc
cho Thẩm phán để thực hiện những tác nghiệp trong quá trình giải quyết vụ án.
Giúp Thẩm phán trong công tác chuẩn bị phiên tòa khi cần thiết, trước khi bắt đầu
phiên tòa, phổ biến nội quy phiên tòa, báo cáo danh sách những người được triệu
tập hợp lệ, ghi biên bản phiên tòa. Mặc dù là người giúp việc cho Thẩm phán nhưng
Thư ký tiến hành các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật và theo sự phân
công của Chánh án, chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi của mình.
Không phải trong mọi trường hợp, Thư ký đều phải chấp hành theo sự phân công
của Thẩm phán, mà Thư ký có quyền từ chối những công việc mà mình cho rằng là
vi phạm pháp luật. Thẩm phán giao việc cho Thư ký, tuy nhiên cả Thẩm phán và
Thư ký đều phải hoạt động tuân theo quy định của pháp luật.

Mối quan hệ giữa Thẩm phán và Kiểm sát viên giữ quyền công tố: Kiểm sát
viên giữ quyền công tố tại phiên tòa có nhiệm vụ tiến hành các hoạt động kiểm sát
xét xử, giám sát HĐXX trong việc thực hiện các nguyên tắc và trình tự tố tụng theo
quy định pháp luật. Hiệu quả xét xử của Tòa án phụ thuộc không ít vào hoạt động
của Kiểm sát viên. Kiểm sát viên tham gia vào quá trình thẩm vấn, tranh luận tại
phiên tòa phải nghiên cứu, xem xét hỏi vấn đề gì, hỏi ai để làm sáng tỏ vụ án và đưa
ra kết luận giải quyết vụ án. Tại phiên tòa Kiểm sát viên phải tuân theo sự điều
khiển của Chủ tọa phiên tòa về mặt trình tự tố tụng.
Mối quan hệ của Thẩm phán với Luật sư: Vai trò của luật sư trong hoạt
động tố tụng có vị trí đặc biệt quan trọng, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo, giúp giải quyết vụ án khách quan, đúng pháp
luật. Luật sư có quyền nghiền cứu hồ sơ vụ án, sao chép các tài liệu cần thiết trong
hồ sơ vụ án, được biết về thời gian địa điểm mở phiên tòa. Vì vậy, Thẩm phán phải
tạo điều kiện để họ thực hiện những quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật
trong quá trình tác nghiệp tại phiên tòa.

.d o

m

w

o

m

o

.c


lic

17

lic
C
c u -tr a c k

w

w

.d o

w

w

w

C

k

to

bu

y


N

O
W

!

XC

er

O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC

er

PD


F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

c u -tr a c k

w

N
y
bu
lic

Mối quan hệ của Thẩm phán với người giám định, người phiên dịch: Trong
nhiều vụ án, để đánh giá chính xác, đúng đắn, khách quan các tình tiết, sự kiện phức
tạp, các cơ quan điều tra, công tố, xét xử phải huy động sự hỗ trợ của các cơ quan,
tổ chức chuyên môn cung cấp các kết luận giám định khoa học, chuyên môn sâu
trong các lĩnh vực khác nhau. Thẩm phán phải đưa ra quyết định trưng cầu giám
định, người giám định có quyền tìm hiểu tài liệu vụ án có liên quan đến đối tượng
giám định, yêu cầu Thẩm phán cung cấp tài liệu cần thiết, tham gia vào việc xét hỏi
và đặt câu hỏi liên quan đến đối tượng giám định tại phiên tòa.
Trong trường hợp người tham gia tố tụng không sử dụng được tiếng Việt thì
Thẩm phán phải mời người phiên dịch cho họ hoặc đương sự là người câm điếc.

Thẩm phán có trách nhiệm giải thích thêm về những vấn đề cần phiên dịch khi
người phiên dịch yêu cầu. Luật tố tụng không quy định người phiên dịch có quyền
nghiên cứu hồ sơ vụ án nhưng thực tế khi cần tìm hiểu về những vấn đề chuyên
môn, những thuật ngữ pháp lý, hoặc những cử chỉ cần diễn đạt để hiểu về một khái
niệm, một từ nào đó thì Thẩm phán có thể cung cấp cho họ những tài liệu cần thiết
hoặc có thể cho họ nghiên cứu hồ sơ vụ án trong phạm vi nhất định.
Mối quan hệ của Thẩm phán với bị cáo, người bị hại và các đương sự khác:
Đây là mối quan hệ tố tụng phát sinh khi giải quyết VAHS. Quyền và nghĩa vụ của
bị cáo, người bị hại và các đương sự khác đã được quy định rất cụ thể trong
BLTTHS. Trước pháp luật họ đều được đối xử một cách bình đẳng, Thẩm phán
phải xử sự đúng mức, tôn trọng ý kiến của đương sự, không áp đặt chủ quan những
mặc cảm ban đầu có thể dẫn đến định kiến làm sai lệch vụ án. Tại phiên tòa các
đương sự phải tuân thủ theo sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa.
1.3. Một số nguyên tắc cơ bản gắn liền với nhiệm vụ, quyền hạn của
Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam
Nguyên tắc của TTHS có chức năng điều chỉnh hành vi tố tụng. Đây cũng
là biểu hiện cụ thể chức năng của pháp luật nói chung. Tính điều chỉnh của nguyên
tắc thể hiện ở hiệu lực của nó đối với các chủ thể tố tụng mà trước hết là các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các chủ thể đó có nghĩa vụ nghiêm
chỉnh chấp hành các quy định của pháp luật TTHS, thực hiện đúng giới hạn thẩm
quyền, tuân thủ các nguyên tắc đã được pháp luật quy định. Không chỉ vi phạm các
quy định pháp luật tố tụng cụ thể mà vi phạm các nguyên tắc của TTHS cũng phải

.d o

m

w

o


18

k

to
.c

C

m

o

.d o

w

w

w

w

w

C

lic


k

to

bu

y

N

O
W

!

XC

er

O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e


!

XC

er

PD

F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

w

N
y
bu
k

to

được xem là căn cứ để hủy các quyết định tố tụng và vô hiệu các hành vi tố tụng. Vì
vậy, trong quá trình giải quyết vụ án các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành

tố tụng phải thực hiện nghiêm chỉnh các nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS, mọi
biểu hiện không tuân thủ đều có thể dẫn đến sai lầm trong quá trình giải quyết vụ án.
Theo quy định của BLTTHS 2015, Thẩm phán phải tuân thủ các nguyên tắc
sau: Bảo đảm pháp chế XHCN trong TTHS; bảo đảm quyền bình đẳng của mọi
công dân trước pháp luật; không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; xác định sự thật của vụ án; bảo đảm quyền bào
chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham
gia; khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật;
xét xử tập thể và quyết định theo đa số; việc xét xử của Tòa án được tiến hành công
khai, trừ trường hợp do BLTTHS quy định; bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án;
Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử; bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và
phục hồi danh dự, nhân phẩm, quyền lợi của người bị oan; bảo đảm quyền khiếu
nại, tố cáo trong TTHS; bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng hoặc
người tham gia tố tụng; Tòa án cấp trên giám đốc việc xét xử của Tòa án cấp dưới,
TANDTC giám đốc việc xét xử của TAND và Tòa án quân sự các cấp để bảo đảm
cho việc áp dụng pháp luật được nghiêm chỉnh và thống nhất.
Trong các nguyên tắc trên thì có ba nguyên tắc được coi là cơ bản nhất đối
với người Thẩm phán khi giải quyết VAHS mà chúng tôi lựa chọn để phân tích
dưới đây:
1.3.1. Nguyên tắc "Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật"
Đây là nguyên tắc cơ bản, nhằm đảm bảo các quyền tự do dân chủ của công
dân được quy định trong Hiến pháp năm 2013 và Điều 15 BLTTHS năm 2015 của Việt
Nam. Theo nguyên tắc này thì: Không ai có thể bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi
chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Trong quá trình giải quyết
VAHS, nguyên tắc này được thể hiện ở chỗ tuy họ đã bị Viện kiểm sát truy tố và Tòa
án quyết định đưa vụ án ra xét xử vẫn chưa bị coi là người có tội. Họ tham gia tố tụng
với tư cách là bị cáo, vì họ còn đầy đủ các quyền của một công dân. Vì vậy, những người
tiến hành tố tụng luôn phải có tư duy: Tất cả mọi người đều được coi là chưa có tội khi
chưa có một bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án có thẩm quyền kết tội.


.d o

m

w

o

m

o

.c

lic

19

lic
C
c u -tr a c k

w

w

.d o

w


w

w

C

k

to

bu

y

N

O
W

!

XC

er

O
W

F-


w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC

er

PD

F-

c u -tr a c k

.c


×