Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Thẩm quyền giải quyết các vụ án dân sự của tòa án và thực tiễn áp dụng tại các tòa án nhân dân ở tỉnh sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 78 trang )

B GIO DC V O TO

B T PHP

TRNG I HC LUT H NI

NGUYN TIN VIT

THẩM QUYềN GIảI QUYếT CáC Vụ áN DÂN Sự
CủA TòA áN Và THựC TIễN áP DụNG
TạI CáC TòA áN NHÂN DÂN ở TỉNH SƠN LA

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2018


B GIO DC V O TO

B T PHP

TRNG I HC LUT H NI

NGUYN TIN VIT

THẩM QUYềN GIảI QUYếT CáC Vụ áN DÂN Sự
CủA TòA áN Và THựC TIễN áP DụNG
TạI CáC TòA áN NHÂN DÂN ở TỉNH SƠN LA

LUN VN THC S LUT HC


Chuyờn ngnh : Lut dõn s v T tng dõn s
Mó s

: 8 38 01 03

Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS Bựi Th Huyn

H NI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Tiến Việt


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT
VỤ ÁN DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN


8

1.1. Nhận thức chung về thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của
Tòa án nhân dân

8

1.2. Nội dung pháp luật hiện hành về thẩm quyền giải quyết vụ án
dân sự của Tòa án nhân dân

16

Chƣơng 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT VỤ
ÁN DÂN SỰ CỦA CÁC TÒA ÁN Ở TỈNH SƠN LA VÀ MỘT
SỐ KIẾN NGHỊ

36

2.1. Thực tiễn áp dụng thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của các
Tòa án ở tỉnh Sơn La

36

2.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và bảo đảm áp dụng pháp
luật về thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của các Tòa án ở
tỉnh Sơn La

54


KẾT LUẬN

61

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHÀO


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

bảng
2.1

Kết quả thụ lý vụ án dân sự của Tòa án nhân dân hai cấp ở
tỉnh Sơn La từ năm 2013 đến năm 2017

36


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh kinh tế thế giới ngày càng phát triển đặc biệt khi nước
ta đã hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới, các quan hệ dân sự

ngày càng đa dạng, phong phú thì các tranh chấp dân sự ngày càng đa dạng và
gia tăng với số lượng lớn.
Trong giai đoạn hiện nay, cùng với việc tiếp tục đẩy nhanh quá trình
cải cách kinh tế và cải cách nền hành chính quốc gia, công cuộc cải cách tư
pháp cũng đang được Đảng và Nhà nước tích cực triển khai, coi đây như là
khâu đột phá quan trọng, thúc đẩy quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Điều này được thể hiện rõ nét trong
Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02 tháng 6 năm 2005 về "Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020". Công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta đã và
đang đặt ra một loạt vấn đề lý luận và thực tiễn cần được giải quyết một cách
hợp lý và thỏa đáng, trong đó có vấn đề xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
thẩm quyền dân sự của Tòa án nhân dân.
Để giải quyết các tranh chấp dân sự của cá nhân, tổ chức trong nền
kinh tế thực tiễn đã hình thành nhiều phương thức giải quyết tranh chấp như:
thương lượng, hòa giải, trọng tài (đối với tranh chấp kinh doanh, thương mại).
Thực tiễn giải quyết các tranh chấp dân sự tại Tòa án cho thấy, khi
thương lượng, hòa giải không thành, các đương sự thường lựa chọn hình thức
giải quyết tranh chấp bằng con đường Tòa án như một giải pháp cuối cùng để
bảo vệ có hiệu quả các quyền và lợi ích của mình. Tuy nhiên, việc giải quyết
tranh chấp bằng con đường Tòa án vẫn còn nhiều vấn đề đáng quan tâm đó là:
vướng mắc từ phía pháp luật chưa phù hợp, dẫn đến việc áp dụng không đạt
được tính thuyết phục; hướng dẫn của ngành không thống nhất, quan điểm
giải quyết không thống nhất giữa các cấp giải quyết, điều đó làm cho hoạt


2
động xét xử của Tòa án gặp nhiều khó khăn vướng mắc. Mặc dù Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015 ra đời trên cơ sở việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2011, Hiến pháp năm 2013, song các quy định của pháp luật về
thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án vẫn còn nhiều vấn đề cần

được làm rõ nhằm đảm bảo việc áp dụng thống nhất pháp luật. Hơn nữa trong
Nhà nước pháp quyền cũng đòi hỏi hoạt động xét xử của Tòa án phải đảm bảo
công minh, nhanh chóng, chính xác và kịp thời tránh tình trạng tồn đọng án,
giải quyết án kéo dài, dễ gây phiền hà, mệt mỏi cho các bên đương sự. Để
khắc phục những hạn chế, bất cập của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2011 và
thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nhằm: "Tiếp tục hoàn thiện thủ tục
tố tụng dân sự… tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý",
ngày 25/11/2015, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật số 92/2015/QH13 có
hiệu lực từ ngày 1/7/2016, trong đó có những quy định về thẩm quyền giải
quyết vụ án dân sự của Tòa án nhân dân.
Thực tiễn áp dụng pháp luật về thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự
của các Tòa án ở tỉnh Sơn La về cơ bản đã thực hiện đúng các quy định của
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, tạo điều kiện thuận lợi, tốt nhất cho cá
nhân, pháp nhân bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, cũng như bảo đảm
cho Tòa án có điều kiện tốt nhất giải quyết các tranh chấp, yêu cầu dân sự.
Tuy nhiên, vẫn còn một số các vụ việc do xác định chưa chính xác tính chất
của quan hệ pháp luật tranh chấp dân sự dẫn đến Tòa án đã thụ lý không đúng
loại việc tranh chấp, sai thẩm quyền theo cấp hoặc lãnh thổ. Trước những yêu
cầu của thực tiễn xác định thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của các Tòa án
ở tỉnh Sơn La, việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật về thẩm
quyền dân sự của Tòa nhằm góp phần làm sáng tỏ thêm các quy định về thẩm
quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án của Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015 cũng như thực tiễn áp dụng tại các Tòa án ở tỉnh Sơn La, tìm ra những


3
hạn chế, vướng mắc trong quy định pháp luật và thực tiễn thi hành, từ đó đề
xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo cho việc xác định đúng
thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của các Tòa án ở tỉnh Sơn La hiện nay là

hết sức cần thiết.
Chính vì các lý do trên học viên chọn đề tài "Thẩm quyền giải quyết
các vụ án dân sự của Tòa án và thực tiễn áp dụng tại các Tòa án nhân dân
ở tỉnh Sơn La" để thực hiện luận văn thạc sĩ luật, định hướng ứng dụng nhằm
mục đích nghiên cứu những quy định pháp luật tố tụng dân sự về thẩm quyền
giải quyết các vụ án dân sự làm tư liệu áp dụng pháp luật. Ngoài ra nghiên
cứu đề tài cũng nhằm làm rõ thực trạng áp dụng pháp luật về thẩm quyền giải
quyết vụ án dân sự của các Tòa án ở tỉnh Sơn La, đặc biệt là những vướng
mắc trong quá trình thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 liên quan đến
thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự, từ đó đề xuất những kiến nghị nhằm
hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện pháp luật về thẩm quyền giải quyết
vụ án dân sự của các Tòa án ở tỉnh Sơn La.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Đề tài thẩm quyền dân sự của Tòa án nhân dân đã được rất nhiều tác
giả nghiên cứu, đề cập ở các góc độ và mức độ khác nhau. Ngoài các giáo
trình của các cơ sở đào tạo luật có một chương riêng nghiên cứu về thẩm
quyền dân sự của Tòa án nhân dân, còn có các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ
luật học, các bài viết đăng trên các tạp chí luật học, các khóa luận tốt nghiệp,
các bài hội thảo, bài báo, bài viết trong các đề tài nghiên cứu khoa học. Có thể
kể đến một số các công trình nghiên cứu tiêu biểu như:
- Luận án tiến sĩ luật học với đề tài: "Phân cấp thẩm quyền giải quyết
tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án ở Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay", của Lê Thị Hà, bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2005.
- Luận văn thạc sĩ luật học của Lê Hoài Nam với đề tài: "Thẩm quyền
xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng dân sự tại Việt Nam", bảo vệ tại Trường


4
Đại học Luật Hà Nội, năm 1997; Luận văn thạc sĩ luật học của Ngô Thị Thu
Hương với đề tài "Thẩm quyền theo vụ việc của Tòa án nhân dân trong việc

giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại từ thực tiễn Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội", bảo vệ tại Viện Đại học Mở Hà Nội năm 2017.
- Khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Thị Tố Loan với đề tài: "Thẩm quyền
sơ thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn",
thực hiện tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2009; Khóa luận tốt nghiệp của
Trần Quang Anh với đề tài: "Thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các
tranh chấp về dân sự", thực hiện tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2016.
- Về đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường có thể kể đến đề tài nghiên
cứu khoa học "Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thủ tục giải quyết vụ việc
dân sự theo định hướng cải cách tư pháp", Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà
Nội năm 2010, do TS. Trần Anh Tuấn làm chủ nhiệm.
- Về sách có cuốn "Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015", Chủ biên TS. Bùi Thị Huyền, Nhà xuất bản Lao động, năm 2016 và
cuốn "Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015", Chủ biên
PGS.TS. Trần Anh Tuấn, Nhà xuất bản Tư pháp, năm 2017.
- Về bài báo, có rất nhiều bài báo về thẩm quyền dân sự của Tòa án
nhân dân như bài "Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của tòa án",
Tạp chí Tòa án nhân dân, số 17/2004, của Trần Quang Huy; bài "Một số vấn
đề trong giải quyết các tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất", Tạp chí Tòa án nhân dân, số 12/2004; bài "Một vài suy nghĩ về giải
quyết tranh chấp quyền sử dụng đất", Tạp chí Tòa án nhân dân, số 3/2007; bài
"Thẩm quyền của tòa án nhân dân cấp huyện trong việc giải quyết các vụ việc
dân sự" của Tưởng Duy Lượng; bài "Một số vấn đề đặt ra khi thực hiện thẩm
quyền mới của tòa án cấp huyện theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự",
Tạp chí Kiểm sát, số 14/2006, của Trần Văn Tuân; bài "Giải quyết tranh chấp
về quyền tác giả tại tòa án nhân dân theo thủ tục tố tụng dân sự", Tạp chí Tòa


5
án nhân dân, số 14/2005, của Điêu Ngọc Tuấn; bài "Thẩm quyền của tòa án

trong việc giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất", Tạp chí nghiên
cứu lập pháp, số 7 (144), tháng 4/2009 của Trần Anh Tuấn; bài "Về thẩm
quyền giải quyết tranh chấp đất đai của tòa án", Tạp chí Tòa án nhân dân, số
14/2004, của Nguyễn Quang Tuyến...
Tuy nhiên, có thể thấy chưa có tác giả nào nghiên cứu riêng về thẩm
quyền giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án và thực tiễn áp dụng tại các Tòa
án nhân dân ở tỉnh Sơn La.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài nhằm xây dựng, hoàn thiện pháp
luật về thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự khoa học, hợp lý, tạo điều kiện
thuận lợi cho người dân khi thực hiện quyền khởi kiện của mình, đồng thời
tạo điều kiện cho các Tòa án ở tỉnh Sơn La thực hiện việc thụ lý vụ án dân sự
nhanh chóng, chính xác, bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của các cá
nhân, cơ quan, tổ chức khi có tranh chấp dân sự xảy ra.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu trên, luận văn có các nhiệm vụ chủ yếu:
- Làm rõ hơn khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thẩm quyền giải quyết
vụ án dân sự của Tòa án nhân dân.
- Phân tích, đánh giá các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015 về thẩm quyền giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án.
- Tìm hiểu, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015 về thẩm quyền giải quyết các vụ án dân sự của các Tòa
án ở tỉnh Sơn La trong những năm gần đây.
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm
thực hiện pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự của các Tòa
án ở tỉnh Sơn La.


6

4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là:
- Một số vấn đề cơ bản về thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa
án nhân dân trong tố tụng dân sự, đặc biệt là các quy định của pháp luật tố tụng
dân sự hiện hành về thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án nhân dân.
- Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện
hành về thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của các Tòa án ở tỉnh Sơn La,
xác định những hạn chế, vướng mắc trong quá trình thực hiện và rút ra
nguyên nhân của tồn tại, vướng mắc.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Vì là luận văn thạc sĩ ứng dụng nên luận văn không đi sâu vào
nghiên cứu sâu tất cả những vấn đề lý luận về thẩm quyền giải quyết vụ án
dân sự, mà chỉ nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thẩm quyền
giải quyết vụ án dân sự của Tòa án nhân dân. Nghiên cứu các quy định của
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về thẩm quyền sơ thẩm giải quyết các vụ án
dân sự của Tòa án theo ba nội dung: thẩm quyền theo loại việc, thẩm quyền
theo cấp Tòa án và thẩm quyền theo lãnh thổ.
- Luận văn phân tích, đánh giá các quy định của Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành về thẩm quyền giải quyết vụ
án dân sự của Tòa án nhân dân. Tuy nhiên, do giới hạn về thời gian và số
trang của luận văn thạc sĩ ứng dụng nên luận văn tập trung nghiên cứu thẩm
quyền giải quyết vụ án dân sự (theo nghĩa hẹp), luận văn không nghiên cứu
về thẩm quyền giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình, vụ án kinh doanh,
thương mại và lao động.
- Luận văn nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng thẩm quyền giải
quyết vụ án dân sự (theo nghĩa hẹp) của các Tòa án tại tỉnh Sơn La từ năm
2013 đến nay, nhưng chủ yếu là từ 1/7/2016 đến nay.



7
5. Phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin là chủ nghĩa duy vật lịch sử, duy vật biện chứng; tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt
Nam về cải cách tư pháp. Bên cạnh đó luận văn sử dụng phương pháp nghiên
cứu khoa học như: so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê được sử dụng có
chọn lọc để bình luận trong quá trình nghiên cứu.
6. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Luận văn có những điểm mới và đóng góp sau đây:
Về lý luận : Luận văn làm rõ hơn khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của
thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án nhân dân.
Về đánh giá lu ật thực định: Luận văn đánh giá khách quan, dựa trên
cơ sở khoa học các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về thẩm
quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án nhân dân, đề xuất kiến nghị nhằm
hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự về vấn đề này.
Về thực tiễn: Luận văn đánh giá đúng thực tiễn áp dụng pháp về thẩm
quyền giải quyết vụ án dân sự của các Tòa án ở tỉnh Sơn La, chỉ ra được
nguyên nhân của các hạn chế, vướng mắc và đề xuất đưa những kiến nghị
nhằm bảo đảm thực hiện áp dụng pháp luật về thẩm quyền giải quyết vụ án
dân sự của các Tòa án ở tỉnh Sơn La.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm hai chương với nội dung như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về thẩm quyền giải quyết vụ án dân
sự của Tòa án nhân dân.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của
các Tòa án ở tỉnh Sơn La và một số kiến nghị.



8
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẨM QUYỀN
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.1. Nhận thức chung về thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của
Tòa án nhân dân
1.1.1. Khái niệm thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án
nhân dân
Trước hết, dưới góc độ ngôn ngữ, Từ điển Tiếng Việt giải thích "thẩm
quyền" là "quyền xem xét để kết luận và định đoạt một vấn đề theo pháp
luật"1. Theo đó, "thẩm quyền" được hiểu theo nghĩa chung nhất là quyền của
một tổ chức, cá nhân tự mình nhìn nhận, đánh giá sự việc và đưa ra phán
quyết để giải quyết một vấn đề nào đó phù hợp với quy định của pháp luật.
Dưới góc độ pháp lý, theo Từ điển Luật học thì "thẩm quyền" là "tổng
hợp các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết định của các cơ quan, tổ chức
thuộc bộ máy Nhà nước do luật pháp quy định"2. Từ đó cho thấy, khái niệm
thẩm quyền bao hàm hai nội dung chính là quyền hành động và quyền quyết
định. Quyền hành động là quyền được làm những công việc nhất định, còn
quyền quyết định là quyền hạn giải quyết công việc đó trong phạm vi pháp
luật cho phép. Dưới góc độ nghiên cứu, tác giả Lê Hoài Nam cho rằng: "Thẩm
quyền là quyền được thực hiện những hành vi pháp lý mà pháp luật giao cho
một tổ chức hoặc nhân viên Nhà nước. Nói khác đi, thẩm quyền là quyền của
một chủ thể nhất định, đó là khả năng mà pháp luật cho phép được thực hiện
một công việc trong một lĩnh vực, một phạm vi nhất định"3. Theo tác giả Lê
Thị Hà: "Thẩm quyền là tổng hợp các quyền mà pháp luật quy định cho một
cơ quan, tổ chức hoặc một công chức được xem xét giải quyết những công
1. Viện Ngôn ngữ học (2010), Từ điển tiếng việt, Nxb Từ điển bách khoa, tr. 992.
2. Viện Khoa học pháp lý - Bộ tư pháp (2005), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển bách khoa, tr. 459.
3. Lê Hoài Nam (1997), Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng dân sự tại Việt Nam, Luận văn
thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 11.



9
việc cụ thể trong lĩnh vực và phạm vi nhất định nhằm thực hiện chức năng
của bộ máy Nhà nước"4. Như vậy, có thể nhận định rằng, dù chúng ta tiếp cận
dưới góc độ nào thì "thẩm quyền" luôn bao hàm 2 nội dung cơ bản đó là:
quyền xem xét giải quyết các vụ việc trong phạm vi pháp luật cho phép và
quyền hạn trong việc ra các quyết định khi giải quyết vụ việc đó.
Khi xem xét khái niệm thẩm quyền của Tòa án nhân dân cần phải dựa
vào chức năng của Tòa án nhân dân theo quy định của Hiến pháp và Luật Tổ
chức Tòa án nhân dân. Theo Điều 102 Hiến pháp năm 2013 thì: "Tòa án nhân
dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực
hiện quyền tư pháp". Theo khoản 2 Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân
năm 2014 thì: "Tòa án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp
luật;…". Trên cơ sở quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức Tòa án nhân
dân, hiện nay ở Việt Nam có các loại thủ tục tố tụng như: tố tụng hình sự, tố
tụng dân sự, tố tụng hành chính và thủ tục phá sản. Những loại việc được giải
quyết tại Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự được gọi là vụ việc dân sự. Vụ
việc dân sự bao gồm vụ án dân sự và việc dân sự.
Thuật ngữ vụ án được đề cập trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án
dân sự năm 1989 bao gồm các tranh chấp, yêu cầu dân sự được Tòa án thụ lý
giải quyết như: Tranh chấp về quyền sở hữu, hợp đồng, bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng hoặc những tranh chấp khác, việc xác định công dân đã chết
hoặc mất tích…Bởi theo Pháp lệnh Thủ tục giải quyết vụ án dân sự năm 1989
không có sự phân biệt giữa quy định của pháp luật về thủ tục giải quyết vụ án
dân sự và việc dân sự. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 được ban hành, trong
đó Điều 1 quy định: "Bộ luật tố tụng dân sự quy định những nguyên tắc cơ
4. Lê Thị Hà (2005), Phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án ở Việt Nam

trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 12.


10
bản trong tố tụng dân sự; trình tự, thủ tục khởi kiện để Tòa án giải quyết các
vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động (sau đây gọi chung là vụ án dân sự) và trình tự, thủ tục yêu cầu để Tòa
án giải quyết các việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động (sau đây gọi chung là việc dân sự); trình tự, thủ tục giải
quyết vụ án dân sự, việc dân sự (sau đây gọi chung là vụ việc dân sự) tại Tòa
án". Như vậy, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 quy định về nguyên tắc, trình
tự, thủ tục giải quyết vụ việc dân sự và thuật ngữ vụ việc dân sự đã được Bộ
luật Tố tụng dân sự ghi nhận chính thức. Khái niệm vụ việc dân sự bao gồm
vụ án dân sự và việc dân sự, trong đó, vụ án dân sự là các tranh chấp về quyền
và nghĩa vụ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao động
được quy định thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ tục tố tụng
dân sự và được Tòa án thụ lý giải quyết. Việc dân sự là việc các cá nhân, cơ
quan, tổ chức không có tranh chấp nhưng yêu cầu Tòa án công nhận hoặc
không công nhận sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao động của mình
hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức khác; yêu cầu Tòa án công nhận hoặc
không công nhận cho mình quyền về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh thương mại và lao động được pháp luật quy định thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự và được Tòa án thụ lý, giải
quyết. Việc phân biệt vụ án dân sự và việc dân sự để áp dụng các thủ tục tố
tụng khác nhau để giải quyết.
Như vậy, theo nghĩa rộng, vụ án dân sự là những tranh chấp phát
sinh từ những quan hệ pháp luật dân sự dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh thương mại và lao động được Tòa án thụ lý, giải quyết theo đơn khởi
kiện của các cá nhân, cơ quan, tổ chức nhằm yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của mình, của người khác, lợi ích công cộng, lợi ích của
Nhà nước. Theo nghĩa hẹp, vụ án dân sự là những tranh chấp phát sinh từ


11
những quan hệ pháp luật dân sự dân sự được Tòa án thụ lý, giải quyết theo
đơn khởi kiện của các cá nhân, cơ quan, tổ chức nhằm yêu cầu Tòa án bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, của người khác, lợi ích công cộng,
lợi ích của Nhà nước.
Do đó, hiểu một cách khái quát nhất thì thẩm quyền giải quyết vụ án
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao động (gọi chung
là vụ án dân sự) nào thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân theo
thủ tục tố tụng dân sự và quyền quyết định khi giải quyết các vụ án dân sự đó.
Dưới góc độ nghiên cứu, đã có một số công trình nghiên cứu đưa ra
khái niệm thẩm quyền dân sự của Tòa án. Theo tác giả Ngô Thị Hương thì:
"Thẩm quyền được hiểu là quyền chính thức được xem xét để kết luận và định
đoạt, quyết định một vấn đề. Thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự của
Tòa án nhân dân là quyền thụ lý, xem xét và ban hành các quyết định khi giải
quyết vụ việc dân sự theo thủ tục tố tụng dân sự"5. Giáo trình Luật Tố tụng
dân sự của Trường Đại học Luật cho rằng: "Thẩm quyền dân sự của Tòa án là
quyền xem xét giải quyết các vụ việc và quyền hạn ra các quyết định khi xem
xét giải quyết các vụ việc đó theo thủ tục tố tụng dân sự của Tòa án"6. Có thể
thấy, các khái niệm trên đều tiếp cận khái niệm thẩm quyền dân sự dưới hai
góc độ là phạm vi xem xét loại việc và quyền hạn khi giải quyết vụ việc đó.
Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, chúng tôi chỉ nghiên
cứu về thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án nhân dân dưới góc độ
phạm vi các vụ án dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ
tục tố tụng dân sự. Luận văn không nghiên cứu các vụ án hôn nhân và gia
đình, kinh doanh thương mại và lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án nhân dân và cũng không nghiên cứu thẩm quyền giải quyết vụ án dân

sự của Tòa án dưới góc độ quyền quyết định.
5. Ngô Thị Thu Hương (2017), Thẩm quyền theo vụ việc của Tòa án nhân dân trong việc giải quyết tranh
chấp kinh doanh thương mại từ thực tiễn Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ luật học, Viện
Đại học Mở Hà Nội, tr. 6.
6. Trường Đại học Luật Hà Nội (2017) Giáo trình Luật Tố tụng dân sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 59.


12
Ở Việt Nam, xuất phát từ những đặc thù về tổ chức hệ thống Tòa án
cho nên thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án trong tố tụng dân sự
cũng có những điểm khác biệt. Khái niệm thẩm quyền của Tòa án được tiếp
cận dưới ba góc độ là thẩm quyền theo loại việc, thẩm quyền của Tòa án các
cấp và thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ. Trên nguyên tắc Tòa án không
được từ chối thụ lý, giải quyết các vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật áp
dụng nên về nguyên tắc tất cả các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình đều
thuộc thẩm quyền của Tòa án và giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự trừ
trường hợp pháp luật quy định thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan,
tổ chức khác.
Theo Điều 1 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì các Tòa án Việt
Nam không chỉ giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự những vụ việc phát sinh
từ quan hệ pháp luật dân sự mà cả những vụ việc khác phát sinh từ quan hệ
pháp luật có cùng tính chất như những vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp luật
hôn nhân và gia đình, quan hệ pháp luật kinh doanh, thương mại, quan hệ
pháp luật lao động, trình tự giải quyết vụ việc dân sự, thủ tục công nhận và
cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài...
Vì vậy, vụ án dân sự thuộc thẩm quyền dân sự của Tòa án bao gồm các tranh
chấp dân sự (theo nghĩa rộng) phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân
và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động.
Như vậy, dưới góc độ xác định phạm vi những tranh chấp thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án thì, Thẩm quyền dân sự của Tòa án là quyền của

Tòa án được xem xét, thụ lý, giải quyết các tranh chấp, yêu cầu dân sự theo
thủ tục tố tụng dân sự.
Vì vậy, thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cũng là một bộ
phận trong cấu thành nên thẩm quyền dân sự của Tòa án. Do đó, nếu đặt khái
niệm thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án trong mối tương quan
với khái niệm thẩm quyền dân sự của Tòa án thì khái niệm "thẩm quyền dân


13
sự của Tòa án " là khái niệm gốc, còn khái niệm "thẩm quyền giải quyết vụ án
dân sự của Tòa án" là khái niệm phát sinh từ khái niệm đó. Do đó thẩm quyền
giải quyết vụ án dân sự của Tòa án là một loại thẩm quyền dân sự chuyên biệt
thuộc thẩm quyền dân sự chung của Tòa án. Thẩm quyền giải quyết vụ án dân
sự của Tòa án cũng mang hai nội dung chính là phạm vi xem xét và quyền
quyết định của Tòa án trong giải quyết các vụ án dân sự. Tuy nhiên, từ góc độ
nghiên cứu của luận văn, có thể rút ra kết luận như sau:
Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án là phạm vi các tranh
chấp dân sự mà Tòa án có quyền xem xét, thụ lý, giải quyết theo thủ tục tố
tụng dân sự.
1.1.2. Đặc điểm thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án
nhân dân
Thẩm quyền giải quyết các vụ án dân sự là một loại thẩm quyền dân
sự cụ thể của Tòa án. Vì vậy, trước tiên nó có những đặc điểm chung của
thẩm quyền dân sự của Tòa án đó là:
- Tòa án nhân danh quyền lực nhà nước, độc lập trong việc xem xét
giải quyết và ra phán quyết đối với các vụ việc phát sinh từ các quan hệ mang
tính tài sản, nhân thân được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do, tự nguyện,
cam kết, thỏa thuận giữa các chủ thể với nhau.
- Thẩm quyền giải quyết các vụ án dân sự được thực hiện theo thủ tục
tố tụng dân sự. Do vậy, ngoài việc tuân thủ các nguyên tắc chung về tố tụng

như Tòa án độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, đảm bảo sự vô tư, khách
quan…thì Tòa án khi xem xét, giải quyết các vụ án dân sự phải thực hiện
nguyên tắc tôn trọng và đảm bảo quyền tự thỏa thuận, quyền tự định đoạt của
đương sự theo đúng quy định của pháp luật. Phạm vi xem xét và ra quyết định
của Tòa án khi giải quyết các vụ án dân sự được giới hạn bởi yêu cầu của
đương sự cũng như trên cơ sở sự thỏa thuận của họ về những vấn đề có tranh


14
chấp7. Khi giải quyết vụ án dân sự Tòa án không được quyền xem xét và ra
quyết định vượt quá yêu cầu của đương sự.
- Cũng giống như thẩm quyền dân sự của Tòa án, thẩm quyền giải
quyết các vụ án dân sự của Tòa án bao gồm ba loại thẩm quyền: thẩm quyền
theo loại việc, thẩm quyền theo cấp và thẩm quyền theo lãnh thổ. Trong đó,
thẩm quyền theo cấp đối với các vụ án dân sự là thẩm quyền xét xử sơ thẩm
của Tòa án cấp huyện hoặc Tòa án cấp tỉnh đối với các tranh chấp dân sự.
Theo xu thế của cải cách tư pháp thì đa số các vụ án dân sự đều thuộc thẩm
quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp huyện, trừ một số vụ án tương
đối phức tạp thì thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp
tỉnh. Thẩm quyền theo lãnh thổ giải quyết các vụ án dân sự là thẩm quyền của
một Tòa án dân sự cụ thể đối với một vụ án dân sự cụ thể. Về nguyên tắc, cơ
sở để xác định thẩm quyền theo lãnh thổ được dựa trên nguyên tắc bảo đảm
cho Tòa án đó có điều kiện thụ lý, giải quyết vụ án dân sự một cách tốt nhất
với chi phí tố tụng tiết kiệm nhất và tạo điều kiện thuận lợi cho bị đơn tham
gia tố tụng.
Như đã đề cập ở trên, trong giới hạn nghiên cứu của luận văn thạc sĩ
luật học ứng dụng nên luận văn chỉ nghiên cứu đặc điểm của thẩm quyền giải
quyết các vụ án dân sự (theo nghĩa hẹp). Qua nghiên cứu, có thể thấy thẩm
quyền giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án là thẩm quyền của Tòa án theo
thủ tục tố tụng dân sự đối với các tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật

dân sự, do Luật Dân sự điều chỉnh. Những tranh chấp này có đặc điểm
chung là phát sinh giữa các cá nhân, pháp nhân với nhau liên quan đến các
quan hệ tài sản và nhân thân với nhau. Các quan hệ này phát sinh từ các giao
dịch trong đời sống dân sự không có mục đích lợi nhuận. Những mâu thuẫn,
bất đồng, phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự, nếu sau khi thương lượng,
hòa giải không thành thì một hoặc các bên đương sự không có quyền yêu cầu
7. Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật tố tụng dân sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 59.


15
Trọng tài giải quyết mà chỉ có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố
tụng dân sự. Khác với thẩm quyền giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại
của Tòa án là các tranh chấp phát sinh từ quan hệ kinh doanh, thương mại nên
nếu sau khi thương lượng, hòa giải không thành thì một hoặc các bên đương
sự có quyền yêu cầu trọng tài hoặc khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết.
Như vậy, thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án với vai trò là
một bộ phận cấu thành nên thẩm quyền dân sự của Tòa án nên ngoài mang
những đặc điểm chung về thẩm quyền dân sự của Tòa án nó còn thể hiện
những đặc điểm riêng biệt. Do đó, việc nhận dạng các đặc điểm này có ý
nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn đối với việc xây dựng pháp
luật về thẩm quyền giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án cũng như các cấp
Tòa án khi xác định vụ tranh chấp đó có thuộc thẩm quyền giải quyết của
mình hay không.
1.1.3. Ý nghĩa của việc xác định thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự
của Tòa án.
- Xác định thẩm quyền của Tòa án là một trong những chế định quan
trọng trong pháp luật tố tụng nói chung và pháp luật tố tụng dân sự nói riêng.
Việc quy định này không chỉ có ý nghĩa đối với nhà nước mà còn có ý nghĩa
với các bên đương sự và các đối tượng có liên quan. Việc quy định thẩm
quyền của Tòa án về giải quyết vụ án dân sự cũng có ý nghĩa như vậy.

Xác định đúng quy định về thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự theo
loại việc của Tòa án là cơ sở để đương sự thực hiện quyền khởi kiện để yêu
cầu Tòa án giải quyết các tranh chấp dân sự theo thủ tục tố tụng dân sự. Trong
quá trình tham gia vào các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, việc tranh
chấp giữa các cá nhân, tổ chức phát sinh trong quá trình này là điều khó tránh
khỏi. Trong trường hợp quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại và các bên
không thể tự bảo vệ quyền lợi của mình thì có quyền khởi kiện đến Tòa án và
yêu cầu Tòa án giải quyết. Như vậy, các quy định về thẩm quyền giải quyết


16
vụ án dân sự theo loại việc của Tòa án về giải quyết vụ án dân sự sẽ giúp
đương sự nhanh chóng thực hiện được quyền khởi kiện để bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của mình, tránh được việc gửi đơn kiện ra Tòa án không có
thẩm quyền gây mất thời gian và chi phí không đáng có, đồng thời các quy
định là một bảo đảm cho việc thực hiện quyền tiếp cận công lý của công dân.
Việc xác định thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án theo
loại việc một cách hợp lý, khoa học tránh được sự chồng chéo trong việc thực
hiện nhiệm vụ giữa Tòa án với các cơ quan nhà nước, Ủy ban nhân dân, giữa
các Tòa án với nhau, đặc biệt đối với các tranh chấp đất đai. Điều đó góp
phần tạo điều kiện thuận lợi, cần thiết cho Tòa án giải quyết nhanh chóng và
đúng đắn vụ án dân sự, nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án dân sự.
Bên cạnh đó, xác định đúng, khoa học, hợp lý thẩm quyền giải quyết
vụ án dân sự theo cấp tức là thẩm quyền giữa các Tòa án tạo ra một cơ chế
pháp lý hữu hiệu để giải quyết vụ án dân sự tạo thuận lợi cho các đương sự
tham gia tố tụng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trước tòa án, giảm bớt chi
phí, khó khăn cho đương sự.
Ngoài ra, việc xác định thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự theo lãnh
thổ giữa các tòa án một cách khoa học, hợp lý còn có ý nghĩa quan trọng
trong việc đảm bảo tính chuyên sâu và thành thạo về chuyên môn, nghiệp vụ

cần thiết của đội ngũ cán bộ ở mỗi tòa án và các điều kiện khác, trên cơ sở đó có
kế hoạch đáp ứng bảo đảm cho tòa án thực hiện được chức năng, nhiệm vụ8.
1.2. Nội dung pháp luật hiện hành về thẩm quyền giải quyết vụ án
dân sự của Tòa án nhân dân
1.2.1. Nội dung pháp luật hiện hành về thẩm quyền giải quyết vụ án
dân sự theo loại việc của Tòa án nhân dân
Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự theo loại việc của Tòa án nhân
dân theo quy định của pháp luật hiện hành được quy định tại Điều 26, 28, 30, 32
8. Trường Đại học Luật Hà Nội (2017) Giáo trình Luật Tố tụng dân sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 60.


17
và 34 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên
cứu của luận văn, chúng tôi chỉ nghiên cứu về thẩm quyền giải quyết vụ án
dân sự theo loại việc của Tòa án nhân dân theo quy định tại Điều 26 Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015, tức là thẩm quyền của Tòa án đối với các tranh
chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự (theo nghĩa hẹp). Đây là các
tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự được quy định tại Điều 26
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 là những bất đồng, mâu thuẫn, xung đột
lợi ích pháp lý giữa ít nhất hai bên trong lĩnh vực dân sự, trong số các tranh
chấp dân sự quy định tại Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự, đáng chú ý là các
tranh chấp sau:
- Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản.
Quy định này là phù hợp và thống nhất với những quy định của Bộ
luật Dân sự năm 2015 về quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản 9, các
tranh chấp về quyền sử hữu tài sản bao gồm tranh chấp xác định ai là chủ sở
hữu tài sản, tranh chấp về quyền chiếm hữu, định đoạt và sử dụng tài sản, tài
sản có thể là bất động sản hoặc động sản, bất động sản hoặc động sản có thể
là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai 10, tranh chấp về các
quyền khác đối với tài sản bao gồm: quyền đối với bất động sản liền kề;

quyền hưởng dụng; quyền bề mặt.
- Tranh chấp về giao dịch dân sự, hợp đồng dân sự.
"Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm
phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự"11. Như vậy, giao
dịch dân sự đã bao hàm tranh chấp về hợp đồng dân sự, tuy nhiên, khoản 3
Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 lại phân biệt tranh chấp về giao
dịch dân sự và về hợp đồng dân sự, do đó trong thời gian tới, cơ quan có thẩm
quyền cần có văn bản hướng dẫn về vấn đề này.
9. Xem phần thứ 2 Bộ luật Dân sự năm 2015
10. Xem Điều 163 Bộ luật Dân sự năm 2005
11. Điều 116 Bộ luật Dân sự năm 2015


18
Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay
đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự, tuy nhiên, cần phân biệt hợp đồng
dân sự theo quy định của pháp luật dân sự là hợp đồng dân sự theo nghĩa rộng
(bao gồm cả hợp đồng dân sự trong lĩnh vực kinh doanh thương mại...). Thuật
ngữ hợp đồng dân sự theo khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự là hợp
đồng dân sự theo nghĩa hẹp (chủ thể hợp đồng là cá nhân, tổ chức không
đăng ký kinh doanh, mục đích giao kết không vì lợi nhuận) nhằm phân biệt
với hợp đồng kinh doanh thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh
doanh ký kết với nhau và đều có mục đích lợi nhuận được quy định tại khoản 1
Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Tranh chấp về hợp đồng dân sự rất
đa dạng: Hợp đồng vay tiền, mua bán hàng hóa, bảo lãnh, cầm cố, thế chấp...
Việc xác định chính xác các loại hợp đồng này sẽ có ý nghĩa quan trọng trong
việc xác định đúng pháp luật nội dung áp dụng cho việc giải quyết tranh chấp đó.
Hành vi pháp lý đơn phương không được định nghĩa cụ thể trong luật.
Dựa vào các quy định về giao dịch dân sự ở Bộ luật Dân sự năm 2005 cũng
như Bộ luật Dân sự năm 2015, có thể hiểu hành vi pháp lý đơn phương là

giao dịch dân sự trong đó thể hiện ý chí của một bên nhằm làm phát sinh, thay
đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự, thông thường hành vi pháp lý đơn
phương do một chủ thể thực hiện (ví dụ: lập di chúc của một cá nhân, việc từ
bỏ quyền đòi nợ của chủ nợ, việc từ chối quyền hưởng di sản...) nhưng cũng
có thể nhiều chủ thể cùng thể hiện ý chí trong giao dịch đó (ví dụ: hai cá
nhân, hai tổ chức cùng tuyên bố hứa thưởng...)12.
- Tranh chấp về thừa kế tài sản.
Tranh chấp về thừa kế di sản của người chết để lại bao gồm tranh chấp
về quyền thừa kế như quyền yêu cầu chia di sản thừa kế, yêu cầu xác nhận
quyền thừa kế của mình hoặc yêu cầu bác bỏ quyền thừa kế của người khác
12. TS. Bùi Thị Huyền (Chủ biên) (2016), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Nxb Lao
động, tr. 47.


19
đối với di sản thừa kế; tranh chấp thừa kế theo di chúc hay thừa kế theo pháp
luật đối với di sản thừa kế; tranh chấp về di sản thừa kế nhà ở, quyền sử dụng
đất; tranh chấp về việc thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại, thanh toán các
khoản chia từ di sản thừa kế...
- Tranh chấp về đất đai theo quy định của pháp luật về đất đai
Trước đây, theo quy định tại Điều 25 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2011
thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, tuy nhiên,
Luật Đất đai năm 2013 không sử dụng thuật ngữ tranh chấp quyền sử dụng
đất nữa mà sử dụng thuật ngữ tranh chấp đất đai, do đó quy định này của Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015 là để phù hợp với Luật Đất đai năm 2013. Theo
đó, "tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng
đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai"13. Trong tố tụng dân sự,
tranh chấp đất đai được hiểu là tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất,
thông thường đó là tranh chấp về ranh giới đất, lối đi chung, người cho mượn
đất, cho thuê đất tranh chấp với người được nhà nước cấp giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất.... Khoản 1 Điều 203 Luật Đất đai năm 2013 quy định:
"Tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã mà không
thành thì được giải quyết như sau:
1. Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy Chứng nhận hoặc có một
trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 100 của Luật này
và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết.
2. Tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy Chứng nhận hoặc
không có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 100
của Luật này thì đương sự chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức giải
quyết tranh chấp đất đai theo quy định sau đây:
a) Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có
thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều này;
13. Khoản 24 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013.


20
b) Khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật về tố tụng dân sự".
Như vậy, so với quy định của Luật Đất đai năm 2003, thẩm quyền giải
quyết tranh chấp về đất đai hiện nay được mở rộng hơn, Tòa án nhân dân có
thẩm quyền giải quyết những loại việc tranh chấp đất đai gồm:
- Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật Đất đai.
- Tranh chấp về tài sản gắn liền với đất.
- Tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy Chứng nhận hoặc
không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật Đất đai.
Bên cạnh tranh chấp đất đai, còn có các tranh chấp khác liên quan đến
đất đai cũng thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ tục tố tụng dân
sự, bao gồm: tranh chấp về giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất, tranh
chấp về thừa kế quyền sử dụng đất, chia tài sản chung của vợ chồng là quyền

sử dụng đất,…
Các tranh chấp đất đai bắt buộc phải hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp
xã theo quy định tại Điều 202 Luật Đất đai 2013. Ngày 05/05/2017 Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết 04/2017/NQHĐTP hướng dẫn việc vẫn thụ lý tranh chấp đất đai trong một số trường hợp
chưa tiến hành hòa giải tại cơ sở, theo đó:
- Đối với tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất mà chưa được
hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp theo
quy định tại Điều 202 Luật Đất đai năm 2013 thì được xác định là chưa có đủ
điều kiện khởi kiện quy định tại điểm b khoản 1 Điều 192 Bộ Luật Tố tụng
dân sự năm 2015.
- Đối với tranh chấp khác liên quan đến quyền sử dụng đất như: tranh
chấp về giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất, tranh chấp về thừa kế
quyền sử dụng đất, chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất,…


×