Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh điện biên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.91 MB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LÊ ANH HƯNG

NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐIỆN BIÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LÊ ANH HƯNG

NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐIỆN BIÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành : Luật hiến pháp và Luật hành chính
Mã số



: 8 38 01 02

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thủy

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Lê Anh Hưng


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT

7


1.1. Cơ sở lý luận về phổ biến, giáo dục pháp luật

7

1.2. Cơ sở pháp lý về phổ biến, giáo dục pháp luật

25

Chương 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN VIỆC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐIỆN BIÊN TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

2.1. Khái quát tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh Điện Biên

34
34

2.2. Thực tiễn thực hiện việc phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn
tỉnh Điện Biên

34

2.3. Kết quả triển khai thực hiện các Chương trình, Đề án về phổ biến,
giáo dục pháp luật
2.4. Những hạn chế, bất cập còn tồn tại và nguyên nhân

46
54


Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC PHỔ BIẾN,
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐIỆN BIÊN

61

3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật trên địa bàn tỉnh Điện Biên

61

3.2. Những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Điện Biên

63

KẾT LUẬN

75

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

HĐND

: Hội đồng nhân dân

HĐPH


: Hội đồng phối hợp

PBGDPL

: Phổ biến, giáo dục pháp luật

QPPL

: Quy phạm pháp luật

UBND

: Ủy ban nhân dân


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Số hiệu

Tên biểu đồ

Trang

biểu đồ
2.1

Số lượng các cuộc phổ biến pháp luật trực tiếp trên địa bàn tỉnh
Điện Biên trong thời gian 5 năm (từ 2013-2017)


2.2

41

Cơ cấu nguồn nhân lực thực hiện công tác PBGDPL năm 2017
của tỉnh Điện Biên

45


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua công tác tổ chức thực hiện pháp luật, mà khâu đầu
tiên là phổ biến, giáo dục pháp luật luôn được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm.
Các cấp ủy Đảng, chính quyền, địa phương trên địa bàn tỉnh Điện Biên đã quan tâm
chỉ đạo, tổ chức triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật có trọng tâm, trọng
điểm, gắn với việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và chức năng,
nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, địa phương; các cơ quan, đơn vị, địa phương đã xác
định công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị và nhận thức rõ vai
trò, trách nhiệm của ngành, cấp mình trong việc phổ biến các văn bản pháp luật
thuộc phạm vi, lĩnh vực quản lý. Nhờ đó, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
trong thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả quan trọng; kịp thời phổ biến hầu hết
các văn bản Luật, văn bản quy phạm pháp luật bằng hình thức phù hợp đến từng
nhóm đối tượng trên địa bàn. Qua đó, từng bước nâng cao nhận thức pháp luật và ý
thức chấp hành pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân, góp phần
tích cực vào việc phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội và tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật tại địa phương.
Tuy nhiên, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Điện

Biên vẫn còn những tồn, tại, hạn chế nhất định. Xuất phát từ vị trí, vai trò của công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong bối cảnh xây dựng và hoàn thiện nhà nước
pháp quyền hiện nay, tôi lựa chọn và thực hiện đề tài "Nâng cao hiệu quả công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Điện Biên" với mong muốn tìm
hiểu thực trạng, qua đó đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Điện Biên.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật có vai trò vô cùng to lớn, quan trọng
trong việc đảm bảo các quy định pháp luật thâm nhập vào thực tế đời sống và nâng
cao ý thức pháp luật của công dân. Vì vậy, vấn đề này đã được nhiều nhà khoa học


2
pháp lý, nhiều học giả và những người thực tế làm công tác pháp luật quan tâm,
nghiên cứu. Trong số đó có thể kể đến một số công trình nghiên cứu khoa học pháp
lý tiêu biểu như:
* Nhóm các công trình khoa học chung về phổ biến, giáo dục pháp luật
nghiên cứu khái niệm và cơ sở lý luận về phổ biến, giáo dục pháp luật
Trong nhóm này có thể kể đến một số công trình khoa học như: Luận án
tiến sĩ luật học với đề tài "Ý thức pháp luật và giáo dục pháp luật ở Việt Nam" của
tác giả Nguyễn Đình Lộc; "Bàn về giáo dục pháp luật" của các tác giả Trần Ngọc
Đường và Dương Thanh Mai; Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật, của
Trường Đại học Luật Hà nội; Đề tài "Cơ sở khoa học của việc xây dựng ý thức và
lối sống theo pháp luật" của Viện Nhà nước và Pháp luật; "Xây dựng ý thức và lối
sống theo pháp luật" của tác giả Đào Trí Úc; "Giáo dục pháp luật hay giáo dục ý
thức pháp luật?" của tác giả Ngọ Văn Nhân; "Một số vấn đề về phổ biến, giáo dục
pháp luật trong giai đoạn hiện nay" của Nguyễn Duy Lãm.
Các tác phẩm, công trình nêu trên đã đề cập đến tính cấp thiết của việc xây
dựng ý thức và lối sống theo pháp luật ở nước ta trong bối cảnh hiện nay; các khái
niệm, cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn thực hiện công tác giáo dục pháp luật.

* Nhóm các công trình khoa học nghiên cứu về thực trạng công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật
Luận văn Thạc sĩ Luật học của Phạm Văn Trưởng với đề tài "Bộ đội Biên
phòng với việc giáo dục pháp luật cho đồng bào khu vực biên giới" (1998, trường
Đại học Luật Hà Nội), Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Đinh Công Sĩ với đề
tài "Phổ biến giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên dân tộc thiểu số vùng Tây
bắc, thực trạng và giải pháp" (2006, trường Đại học Luật Hà Nội), Luận văn Thạc
sĩ Luật học của Lê Thanh Bình với đề tài "Thực hiện pháp luật ở các tỉnh miền núi
phía bắc nước ta hiện nay - Thực trạng và các phương hướng, giải pháp" (2002,
trường Đại học Luật Hà Nội).
Các công trình trên đã nghiên cứu cụ thể thực trạng và đưa ra các giải pháp
thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đối với từng nhóm đối tượng và địa
bàn nhất định.


3

*Nhóm các công trình khoa học nghiên cứu về hiệu quả công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật
Đề tài "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong công
cuộc đổi mới" của Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý; "Một số vấn đề về giáo dục
pháp luật ở miền núi và vùng dân tộc thiểu số" của tác giả Nguyễn Duy Lãm (1996,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội); "Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp - hình
thức đặc thù của giáo dục pháp luật" của Dương Thanh Mai; "Hoạt động phổ biến,
giáo dục pháp luật tại một số nước trên thế giới" của Vụ Phổ biến, giáo dục pháp
luật - Bộ Tư pháp.
Các công trình kể trên đã hệ thống hóa, đánh giá thực trạng và đưa ra một
số hình thức, phương pháp thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật hiệu quả.
* Nhóm các công trình khác về quản lý hành chính nhà nước có nội
dung về phổ biến, giáo dục pháp luật

Có thể kể đến một số công trình như Luận án Tiến sĩ Quản lý hành chính
công "Giáo dục ý thức pháp luật cho cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay" của
Trần Công Lý; "Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính
trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam" của tác
giả Nguyễn Quốc Sửu; "Xã hội học pháp luật" của tác giả Ngọ Văn Nhân; "Nâng
cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính ở nước ta hiện nay"
của Lê Đình Khiên; "Tác động của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật của đội
ngũ cán bộ cấp cơ sở" của tác giả Ngọ Văn Nhân.
Nhóm các công trình khoa học nêu trên đã chỉ ra vai trò và tầm quan trọng
của việc đẩy mạnh thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán
bộ, công chức nhằm nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ này.
* Nhóm công trình nghiên cứu chung về phổ biến, giáo dục pháp luật
trên địa bàn tỉnh Điện Biên
Luận văn Thạc sĩ Luật học của Trần Thanh Hưng với đề tài "Vai trò của
phổ biến, giáo dục pháp luật đối với việc xóa bỏ các phong tục tập quán lạc hậu
của đồng bào dân tộc Thái tại Điện Biên" (2009, trường Đại học Luật Hà Nội); Đề


4
tài khoa học "Khảo sát thực trạng và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công
tác tư pháp trên địa bàn tỉnh Điện Biên" của Sở Tư pháp tỉnh Điện Biên.
Có thể nói, những công trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập tương đối toàn
diện đến vị trí, vai trò của hoạt động PBGDPL trong việc nâng cao nhận thức và ý
thức pháp luật của công dân. Một số công trình nghiên cứu đã đề cập đến việc phổ
biến, giáo dục pháp luật cho đối tượng là người dân trên địa bàn tỉnh Điện Biên và
bước đầu đã đưa ra các kết luận về mặt khoa học về vị trí, vai trò của hoạt động phổ
biến giáo dục pháp luật và việc triển khai hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật tại
một số địa bàn và một số nhóm đối tượng. Tuy nhiên, để hoạt động phổ biến, giáo
dục pháp luật luôn thể hiện được vai trò của mình và thực sự phát huy hiệu quả, làm
chuyển biến nhận thức của công dân theo hướng tích cực đòi hỏi phải thực hiện

nhiều biện pháp, mô hình phổ biến, giáo dục pháp luật đặc thù phù hợp với đặc
điểm của từng vùng miền, từng đối tượng. Tuy nhiên, hiện nay hệ thống pháp luật
quy định về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đã có sự thay đổi, hơn nữa cho
đến nay chưa có đề tài khoa học nào nghiên cứu chuyên biệt về thực trạng công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Điện Biên và giải pháp để nâng cao
hiệu quả công tác này trên địa bàn tỉnh. Bởi vậy, thực tiễn đang đặt ra yêu cầu cần
phải tiến hành nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống về cơ sở lý luận, bản chất,
nội dung, hình thức phổ biến giáo dục pháp luật, đặt trong bối cảnh cụ thể của địa
phương tỉnh Điện Biên; nhằm tìm ra giải pháp mang tính đặc thù để đẩy mạnh hoạt
động phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Điện Biên.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Về đối tượng nghiên cứu của luận Văn: Đối tượng nghiên cứu của luận văn
là các quy định của pháp luật về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và thực trạng
triển khai thi hành tại tỉnh Điện Biên.
Phạm vi nghiên cứu của Luận văn: Luận văn phân tích các quy định hiện
hành về phổ biến, giáo dục pháp luật và đánh giá thực trạng thực hiện công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Điện Biên.
Phạm vi về thời gian nghiên cứu: Đề tài Luận văn về công tác PBGDPL và
thực tiễn thi hành tại tỉnh Điện Biên được tác giả nghiên cứu trong phạm vi từ năm
2013 đến nay.


5
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
* Mục tiêu nghiên cứu
Làm rõ những kết quả đã đạt được, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của
công tác PBGDPL trên địa bàn tỉnh Điện Biên để từ đó đưa ra các kiến nghị, đề
xuất sửa đổi các quy định của pháp luật về công tác này, cũng như đề xuất các giải
pháp cụ thể để nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác PBGDPL trong quá trình
triển khai thi hành tại tỉnh Điện Biên.

* Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích cơ sở lý luận về công tác PBGDPL; thực tiễn thực hiện các quy
định của pháp luật về công tác PBGDPL và vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công
tác này trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền hiện nay.
Đánh giá tình hình triển khai thực hiện các quy định của pháp luật về công
tác PBGDPL trên địa bàn tỉnh Điện Biên.
Đánh giá, phân tích, làm sáng tỏ những kết quả đã đạt được, những tồn tại,
hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại hạn chế đó trong quá trình triển khai thi
hành các quy định của pháp luật về PBGDPL tại tỉnh Điện Biên.
Kiến nghị một số nội dung để hoàn thiện thể chế về công tác PBGDPL trên
phạm vi cả nước cũng như việc hoàn thiện thể chế tại địa phương.
Đề xuất một số phương hướng, giải pháp, mô hình cụ thể, có hiệu quả để
triển khai công tác PBGDPL nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của
công tác này trên địa bàn tỉnh Điện Biên.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và vận dụng
quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về việc đề cao vai
trò của pháp luật, góp phần hình thành nhận thức, ý thức pháp luật cho nhân dân,
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân.
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu
khoa học cụ thể như phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh, thống kê,
tổng kết thực tiễn…để giải quyết nội dung của đề tài.


6
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình khoa học đầu tiên, nghiên cứu chuyên biệt và toàn
diện về việc đẩy mạnh hoạt động PBGDPL trên địa bàn tỉnh Điện Biên.
Luận văn nêu ra những hình thức PBGDPL điển hình, có hiệu quả, đang

được các cơ quan, tổ chức, các ngành chức năng áp dụng tại tỉnh Điện Biên.
Thông qua luận văn tác giả chỉ ra những mô hình, biện pháp nhằm đẩy
mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động PBGDPL, góp phần nâng cao
nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân.
Luận văn có thể được dùng làm cơ sở khoa học và thực tiễn hoặc làm tài
liệu tham khảo giúp các cơ quan, ban ngành, tổ chức, cá nhân nghiên cứu, hoạt
động trong lĩnh vực PBGDPL xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật về
công tác PBGDPL; đề ra những mô hình, hình thức triển khai thực hiện công tác
PBGDPL đạt hiệu quả cao trong thực tiễn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về phổ biến, giáo dục pháp luật;
Chương 2: Thực tiễn thực hiện việc phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa
bàn tỉnh Điện Biên trong giai đoạn hiện nay;
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật trên địa bàn tỉnh Điện Biên.


7

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ
VỀ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
1.1. Cơ sở lý luận về phổ biến, giáo dục pháp luật
1.1.1. Khái niệm phổ biến, giáo dục pháp luật
Trong khoa học pháp lý hiện nay, có nhiều quan điểm, quan niệm khác nhau
về khái niệm phổ biến, giáo dục pháp luật. Nội hàm của khái niệm phổ biến, giáo dục
pháp luật ở những quan điểm, quan niệm khác nhau đó sẽ dẫn đến hệ quả: Các nhà
quản lý, các chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật sẽ có những lựa chọn khác nhau về

nội dung, hình thức và phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật. Vì vậy, việc tiếp cận
khái niệm phổ biến, giáo dục pháp luật một cách đúng đắn, khoa học sẽ giúp cho việc
lựa chọn nội dung, hình thức và phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp.
Trên thực tế phổ biến, giáo dục pháp luật ít được các nhà nghiên cứu, các
học giả nhắc đến như một khái niệm mang tính học thuật, mà chủ yếu được biết đến
với phạm trù giáo dục pháp luật. Tuy nhiên, trong hầu hết các văn kiện của Đảng,
các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước, các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ
chuyên môn có liên quan đến lĩnh vực phổ biến, giáo dục pháp luật đều đề cập một
cách phổ biến, thường xuyên đến khái niệm phổ biến, giáo dục pháp luật. Vì vậy,
trong phạm vi nghiên cứu của Luận văn này, tác giả sử dụng thuật ngữ phổ biến,
giáo dục pháp luật với ý nghĩa chung đó.
Trong tài liệu "Tìm hiểu Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, Luật Giám định
tư pháp và Luật Xử lý vi phạm hành chính" của Bộ Tư pháp có đưa ra khái niệm về
phổ biến pháp luật. Cụ thể, phổ biến, giáo dục pháp luật là một cụm từ ghép của hai
cụm từ "phổ biến pháp luật" và "giáo dục pháp luật". Phổ biến pháp luật có hai nghĩa.
Theo nghĩa hẹp, phổ biến pháp luật là giới thiệu tinh thần văn bản pháp luật cho đối
tượng của nó. Theo nghĩa rộng, phổ biến pháp luật là truyền bá pháp luật cho mọi tầng
lớp nhân dân trên cả nước (hiện nay, nghĩa này được sử dụng nhiều hơn nghĩa hẹp).
Cho đến nay khái niệm giáo dục pháp luật còn nhiều quan điểm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng giáo dục pháp luật là một bộ phận của giáo dục chính
trị, tư tưởng và giáo dục đạo đức, nên nếu tiến hành giáo dục chính trị, tư tưởng và


8
đạo đức tốt thì đã giáo dục pháp luật tốt. Do đó phải tích cực tuyên truyền đường lối
của Đảng. Quan điểm thứ hai đồng nhất giữa giáo dục pháp luật với tuyên truyền,
phổ biến pháp luật, nên chỉ cần sử dụng phương tiện thông tin đại chúng để tuyên
truyền phổ biến pháp luật là đủ mà không cần phải giáo dục pháp luật. Quan điểm
thứ ba cho rằng không cần giáo dục pháp luật, pháp luật là các quy tắc có tính bắt
buộc chung, mọi người có nghĩa vụ phải nắm bắt, hiểu và tuân theo, cái gọi là giáo

dục pháp luật thực chất là phổ biến, tuyên truyền pháp luật.
Quá trình nghiên cứu và thực tiễn làm công tác quản lý, đồng thời trực tiếp
thực hiện các hoạt động PBGDPL tại địa phương, tôi nhất trí với khái niệm về giáo
dục pháp luật của tác giả Trần Ngọc Đường và Dương Thanh Mai trong tác phẩm
Bàn về giáo dục pháp luật: "Bản chất của giáo dục pháp luật đó là hoạt động định
hướng có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục, tác động lên đối tượng giáo
dục nhằm mục đính hình thành ở họ tri thức pháp lý, tình cảm và hành vi phù hợp
với các đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành"1.
Khái niệm giáo dục pháp luật xuất phát từ khái niệm giáo dục trong khoa
học sư phạm sẽ cho ta thấy được mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Do vậy
sẽ thấy được ngoài việc sử dụng hình thức, phương pháp chung của giáo dục phải
sử dụng những hình thức, phương pháp, xác định mục đích riêng của giáo dục pháp
luật, đồng thời chủ thể của giáo dục pháp luật cũng có nét riêng là phong phú và đa
dạng hơn chủ thể giáo dục trong sư phạm.
Từ các nhận định và phân tích nêu trên, tôi nhất trí với quan điểm cho rằng
PBGDPL có hai nghĩa2:
- Nghĩa thứ nhất: là truyền đạt tinh thần, nội dung pháp luật, giúp cho đối
tượng tác động hiểu và hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm, hành vi phù hợp
với các đòi hỏi của các quy định pháp luật hiện hành.
- Nghĩa thứ hai: là công tác, lĩnh vực hoạt động, bao gồm tất cả các công
đoạn phục vụ cho việc thực hiện PBGDPL (xây dựng chương trình, kế hoạch
PBGDPL; triển khai chương trình, kế hoạch PBGDPL thông qua việc áp dụng các
1. Trần Ngọc Đường và Dương Thanh mai (1995), Bàn về giáo dục pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, tr.13.
2. Bộ Tư pháp (2012), Tìm hiểu Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, Luật Giám định tư pháp và Luật Xử lý vi
phạm hành chính, Nhà xuất bản Tư pháp, tr.9-10.


9
hình thức, biện pháp PBGDPL; hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc

thực hiện chương trình, kế hoạch PBGDPL).
Từ những phân tích và khái niệm nêu trên, có thể quan niệm phổ biến, giáo
dục pháp luật là hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền nhằm
truyền đạt tinh thần, nội dung pháp luật, giúp cho đối tượng tác động hiểu và hình
thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm, hành vi phù hợp với các đòi hỏi của các quy
định pháp luật hiện hành.
1.1.2. Mục đích của phổ biến, giáo dục pháp luật
1.1.2.1. Nâng cao hiểu biết pháp luật cho đối tượng
Pháp luật của Nhà nước không phải khi nào cũng được mọi người trong xã
hội biết đến, tìm hiểu, đồng tình ủng hộ và thực hiện nghiêm chỉnh. Tuy rằng bản
chất pháp luật của Nhà nước ta là tốt đẹp, nó phản ánh ý chí, nguyện vọng, mong
muốn của đông đảo quần chúng nhân dân trong xã hội. Tuy nhiên, dù những quy
định của pháp luật có tốt đẹp nhưng không được nhân dân biết đến thì vẫn không đi
vào cuộc sống. PBGDPL chính là phương tiện truyền tải những thông tin, những
yêu cầu, nội dung và các quy định pháp luật đến với người dân, giúp cho người dân
hiểu biết, nắm bắt pháp luật kịp thời mà không mất quá nhiều thời gian, công sức
cho việc tự tìm hiểu, tự học tập. Đó chính là phương tiện hỗ trợ tích cực để nâng cao
hiểu biết pháp luật cho nhân dân.
1.1.2.2. Hình thành lòng tin vào pháp luật của đối tượng
Pháp luật chỉ có thể được mọi người thực hiện nghiêm chỉnh khi họ tin
tưởng vào những quy định của pháp luật. Pháp luật được xây dựng là để bảo vệ
quyền và lợi ích của nhân dân, đảm bảo lợi ích chung của cộng đồng, đảm bảo công
bằng và dân chủ của xã hội. Tạo lập niềm tin vào pháp luật cho mỗi người và cả
cộng đồng đòi hỏi sự kết hợp của nhiều yếu tố. Một trong các yếu tố đóng vai trò
quan trọng là PBGDPL để mọi người hiểu biết về pháp luật, hiểu biết về quá trình
thực thi pháp luật. Pháp luật cũng như mọi hiện tượng khác trong xã hội bao giờ
cũng có hai mặt, không phải lúc nào cũng phản ánh được đầy đủ nguyện vọng,
mong muốn của tất cả mọi người trong xã hội. Quá trình điều chỉnh pháp luật sẽ lấy
lợi ích của đông đảo nhân dân trong xã hội làm tiêu chí, thước đo, do đó sẽ có một
số ít không đáp ứng được. Chính các yếu tố hạn chế và mặt trái của các quy định



10
pháp luật càng tạo nên sự cần thiết của công tác PBGDPL để mọi người hiểu đúng
pháp luật, đồng tình ủng hộ pháp luật. Có như vậy mới hình thành lòng tin vào pháp
luật của đông đảo nhân dân trong xã hội.
1.1.2.3. Nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của đối tượng
Ý thức pháp luật của người dân được hình thành từ hai yếu tố đó là tri thức
pháp luật và tình cảm pháp luật. Tri thức pháp luật là sự hiểu biết pháp luật của các
chủ thể có được qua việc học tập, tìm hiểu pháp luật, qua quá trình tích lũy kiến
thức của hoạt động thực tiễn và công tác. Tình cảm pháp luật chính là trạng thái tâm
lý của các chủ thể khi thực hiện và áp dụng pháp luật, họ có thể đồng tình ủng hộ
với những hành vi thực hiện đúng pháp luật, lên án các hành vi vi phạm pháp luật.
Ý thức tự giác chấp hành pháp luật của nhân dân chỉ có thể được nâng cao
khi công tác PBGDPL cho nhân dân được tiến hành thường xuyên, kịp thời và có
tính thuyết phục. PBGDPL không đơn thuần là phổ biến các văn bản pháp luật đang
có hiệu lực mà còn lên án các hành vi vi phạm pháp luật, đồng tình ủng hộ các hành
vi thực hiện đúng pháp luật, hình thành dư luận và tâm lý đồng tình ủng hộ với hành
vi hợp pháp, lên án các hành vi vi phạm pháp luật. PBGDPL nhằm hình thành, củng
cố tình cảm tốt đẹp của con người với pháp luật, đồng thời ngày càng nâng cao sự
hiểu biết của con người đối với các văn bản pháp luật và các hiện tượng pháp luật
trong đời sống, từ đó nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của nhân dân.
1.1.2.4. Góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý
xã hội
Nội dung này bắt nguồn từ chính vai trò và giá trị xã hội của pháp luật là
phương tiện hàng đầu để quản lý nhà nước, quản lý xã hội. PBGDPL giúp cho mọi
người có tri thức pháp lý, tình cảm pháp luật đúng đắn và hành vi hợp pháp, tạo tiền
đề cho việc sử dụng quyền lực nhà nước, tăng cường pháp chế, phát huy dân chủ và
quyền tự do của mỗi người.
PBGDPL đồng thời tạo ra khả năng đổi mới các quan hệ xã hội trong môi

trường quản lý nhà nước bằng pháp luật, hình thành các điều kiện và nhân tố thuận
lợi cho quá trình quản lý nhà nước, quản lý xã hội; tạo ra khả năng phát hiện và loại
trừ những hiện tượng tiêu cực, chống đối pháp luật diễn ra trong quá trình quản lý.


11
1.1.3. Nội dung, hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật
1.1.3.1. Nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật
Về nguyên tắc, nội dung PBGDPL phải bảo đảm bao quát tất cả các văn
bản quy phạm pháp luật được ban hành. Tuy nhiên, do số lượng văn bản quy phạm
pháp luật được ban hành hằng năm là quá lớn lại thuộc mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội nên để công tác PBGDPL đem lại hiệu quả thiết thực thì cần lựa chọn các
lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến người dân.
Bên cạnh các quy định của pháp luật, nội dung PBGDPL còn bao gồm các
điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; các thỏa thuận quốc tế; ý thức tôn
trọng và chấp hành pháp luật; ý thức bảo vệ pháp luật; lợi ích của việc chấp hành
pháp luật; gương người tốt việc tốt trong thực hiện pháp luật nhằm góp phần tạo
niềm tin vào pháp luật, xây dựng con người mới vừa có hiểu biết pháp luật, vừa có
ý thức chấp hành pháp luật.
1.1.3.2. Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật
Nhà nước, xã hội thực hiện trách nhiệm chủ động PBGDPL cho công dân,
đáp ứng quyền được thông tin về pháp luật của người dân thông qua các hình thức:
- Họp báo, thông cáo báo chí;
- Phổ biến pháp luật trực tiếp; tư vấn, hướng dẫn tìm hiểu pháp luật; cung
cấp thông tin, tài liệu pháp luật;
- Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, loa truyền thanh, internet,
pa-nô, áp-phích, tranh cổ động; đăng tải trên Công báo; đăng tải thông tin pháp luật
trên trang thông tin điện tử; niêm yết tại trụ sở, bảng tin của cơ quan, tổ chức, khu
dân cư;
- Tổ chức thi tìm hiểu pháp luật;

- Thông qua công tác xét xử, xử lý vi phạm hành chính, hoạt động tiếp công
dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và hoạt động khác của các cơ quan
trong bộ máy nhà nước; thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý, hòa giải ở cơ sở;
- Lồng ghép trong hoạt động văn hóa, văn nghệ, sinh hoạt của các tổ chức chính
trị và các đoàn thể, câu lạc bộ, tủ sách pháp luật và các thiết chế văn hóa khác ở cơ sở;
- Thông qua chương trình giáo dục pháp luật trong các cơ sở giáo dục của
hệ thống giáo dục quốc dân.


12
Bên cạnh đó người dân cũng có quyền yêu cầu nhà nước cung cấp thông tin
pháp luật, chủ động tìm hiểu các quy định của pháp luật. Và Nhà nước, xã hội có
trách nhiệm đáp ứng các yêu cầu này của công dân.
1.1.3.3. Nội dung, hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật cho một số đối
tượng đặc thù
Việc xác định nội dung, hình thức PBGDPL cho một số đối tượng đặc thù
nhằm tập trung nguồn lực trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Đây là các
đối tượng còn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp nhận thông tin, tìm hiểu, học tập
pháp luật. Đối với mỗi nhóm đối tượng đặc thù, họ cần được cung cấp những nội
dung pháp luật thiết thực, liên quan trực tiếp đến họ và với hình thức phù hợp. Đồng
thời cũng cần phải có những chính sách về PBGDPL cho các đối tượng đặc thù và
khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong xã hội đầu tư, hỗ trợ công tác PBGDPL
cho các đối tượng này.
a) Phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân ở vùng dân tộc thiểu số,
miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, ven biển, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn
Việc PBGDPL cho người dân ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu,
vùng xa, biên giới, ven biển, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn căn cứ vào đặc điểm của từng đối tượng mà tập trung vào các quy định pháp
luật về dân tộc, tôn giáo, trách nhiệm tham gia bảo vệ, giữ gìn an ninh, quốc phòng,
biên giới, chủ quyền quốc gia, tài nguyên, khoáng sản và các lĩnh vực pháp luật

khác gắn liền với đời sống, sản xuất của người dân. Hoạt động PBGDPL cho người
dân ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, ven biển, hải
đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được chú trọng thực hiện
thông qua hòa giải ở cơ sở, trợ giúp pháp lý lưu động; tư vấn pháp luật, cung cấp
miễn phí thông tin, tài liệu pháp luật bằng tiếng dân tộc cho đồng bào dân tộc thiểu
số; lồng ghép PBGDPL trong các hoạt động văn hóa truyền thống.
b) Phổ biến, giáo dục pháp luật cho người lao động trong các doanh nghiệp
Việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho người lao động trong các doanh
nghiệp tập trung vào quyền và nghĩa vụ của người lao động, người sử dụng lao
động, pháp luật về việc làm, an toàn vệ sinh lao động, chế độ tiền lương, bảo hiểm


13
xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, pháp luật công đoàn và các quy định
khác của pháp luật về lao động. Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho người
lao động trong doanh nghiệp được chú trọng thực hiện thông qua việc phổ biến trực
tiếp, niêm yết các quy định pháp luật tại nơi làm việc, tủ sách pháp luật, giỏ sách
pháp luật, tờ gấp, lồng ghép trong các hoạt động văn hóa, văn nghệ.
c) Phổ biến, giáo dục pháp luật cho nạn nhân bạo lực gia đình
Việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho nạn nhân bạo lực gia đình tập trung
vào các quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng,
chống bạo lực gia đình, trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong việc hỗ trợ, bảo
vệ nạn nhân bạo lực gia đình. Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho nạn nhân
bạo lực gia đình được chú trọng thực hiện thông qua hòa giải ở cơ sở, trợ giúp pháp
lý lưu động, tư vấn pháp luật miễn phí, phổ biến, giáo dục pháp luật trực tiếp tại nơi
tạm lánh, cơ sở bảo trợ xã hội, cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình.
d) Phổ biến, giáo dục pháp luật cho người khuyết tật
Việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho người khuyết tật tập trung vào các
quy định pháp luật về quyền của người khuyết tật; chế độ, chính sách của Nhà nước,
trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong việc tạo điều kiện, hỗ trợ người khuyết

tật và các quy định khác của pháp luật liên quan đến người khuyết tật. Phổ biến,
giáo dục pháp luật cho người khuyết tật được chú trọng thực hiện bằng hình thức,
phương thức, phương tiện, tài liệu phù hợp với từng loại đối tượng người khuyết tật.
đ) Phổ biến, giáo dục pháp luật cho người đang chấp hành hình phạt tù,
người đang bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt
buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc
Việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho người đang chấp hành hình phạt tù,
người đang bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt
buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc, tùy theo từng đối tượng mà tập trung vào các quy
định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của công dân, pháp luật về hình sự, thi hành án
hình sự, xử lý vi phạm hành chính; pháp luật về phòng, chống ma túy và các tệ nạn
xã hội. Phổ biến, giáo dục pháp luật cho người đang chấp hành hình phạt tù, người
đang bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ
sở cai nghiện bắt buộc được chú trọng thực hiện thông qua chương trình học pháp


14
luật, giáo dục công dân và lồng ghép trong chương trình học văn hóa, học nghề,
giáo dục tái hòa nhập cộng đồng; phổ biến thông tin thời sự, chính sách; sinh hoạt
câu lạc bộ, nhóm đồng đẳng và các hình thức phù hợp khác.
e) Phổ biến, giáo dục pháp luật cho người đang bị áp dụng biện pháp giáo
dục tại xã, phường, thị trấn, người bị phạt tù được hưởng án treo
Việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho người đang bị áp dụng biện pháp
giáo dục tại xã, phường, thị trấn, người bị phạt tù được hưởng án treo tập trung vào
các quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của công dân, pháp luật về hình sự, thi
hành án hình sự, xử lý vi phạm hành chính. Phổ biến, giáo dục pháp luật cho người
đang bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, người bị phạt tù được
hưởng án treo được chú trọng thực hiện thông qua hình thức phổ biến pháp luật trực
tiếp; sinh hoạt câu lạc bộ và các hình thức phù hợp khác.
1.1.4. Tiêu chí lựa chọn hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật

Tính phù hợp với đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật
PBGDPL phải xuất phát từ đối tượng được PBGDPL; nắm được họ là ai,
trình độ nhận thức đến đâu, điều kiện hoàn cảnh sống của họ như thế nào? họ có
quan tâm tới pháp luật không? họ quan tâm thì quan tâm những vấn đề gì? đó là
những đòi hỏi của hoạt động PBGDPL.
PBGDPL có thể là nhu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh, của việc
thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân, của một đối tượng cụ thể đang tham gia tố
tụng hoặc của đa số nhân dân muốn tìm hiểu pháp luật. Sự hiểu biết và nhận thức
của các tầng lớp nhân dân về văn hóa và pháp luật trong xã hội là hết sức đa dạng
và khác nhau, do đó khi PBGDPL phải xuất phát từ các yêu cầu sau:
- Xuất phát từ yêu cầu phổ biến của chính những văn bản cần phổ biến đến
nhóm dân cư nhất định;
- Xuất phát từ trình độ văn hóa và nhận thức của đối tượng được phổ biến
pháp luật;
- Xuất phát từ điều kiện kinh tế, địa lý và hoàn cảnh thực tế khác để quyết
định một hình thức phổ biến như tuyên truyền miệng, truyền thanh cơ sở, xây dựng
tủ sách pháp luật. Hay kết hợp các hình thức với nhau;
- Xuất phát từ thực lực đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên.


15
Tính khả thi trong điều kiện của địa bàn thực hiện
PBGDPL vừa là yêu cầu, vừa là mục tiêu của điều chỉnh pháp luật; là hoạt
động vừa mang tính thời sự, vừa mang tính lâu dài, thường xuyên, do đó khi tiến hành
PBGDPL phải tính tới tính khả thi trong điều kiện của địa bàn thực hiện. Tính khả thi
trong điều kiện của địa bàn thực hiện trong công tác PBGDPL dựa trên mấy tiêu chí sau:
- Khi sử dụng hình thức đó, có thể huy động phương tiện, sách báo, tài liệu
tham khảo và đặc biệt là lực lượng tiến hành phổ biến.
- Sử dụng hình thức đó, có thể tiến hành ở đâu, bao nhiêu lần.
- Điều kiện địa lý, kinh tế, kỹ thuật trong địa bàn.

Tính hiệu quả
PBGDPL phải tính tới hiệu quả, diện bao quát của hình thức được lựa chọn
đối với đối tượng được phổ biến. Tính hiệu quả, diện bao quát của PBGDPL được
thể hiện ở một số tiêu chí sau:
- Số lượt người được phổ biến về văn bản pháp luật hoặc một vấn đề pháp
luật; Tác động của những vấn đề pháp luật được phổ biến trong việc thực hiện pháp
luật và thực hiện các chính sách của Nhà nước ở địa phương, cơ quan;
- Sau khi PBGDPL những biểu hiện tiêu cực về khiếu nại, tố cáo, mâu
thuẫn tranh chấp trong các quan hệ được giảm đi;
- Những biểu hiện tích cực về người tốt, việc tốt ở những địa bàn được
tuyên dương, các phong trào về an ninh trật tự, nếp sống văn minh, gia đình văn hóa
có chiều hướng phát triển tốt;
- Thông qua công tác PBGDPL nhân dân tại khu vực quan tâm hơn tới việc
tìm hiểu pháp luật, đọc báo, nghe đài…
1.1.5. Nguyên tắc, yêu cầu của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
1.1.5.1. Các nguyên tắc phổ biến, giáo dục pháp luật
Các nguyên tắc phổ biến, giáo dục pháp luật bao gồm:
- Chính xác, đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu, thiết thực.
- Kịp thời, thường xuyên, có trọng tâm, trọng điểm.
- Đa dạng các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật, phù hợp với nhu cầu,
lứa tuổi, trình độ của đối tượng được phổ biến, giáo dục pháp luật và truyền thống,
phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc.


16
- Gắn với việc thi hành pháp luật, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước, của địa phương và đời sống hằng
ngày của người dân.
- Phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan, tổ chức, gia đình và xã hội.
1.1.5.2. Yêu cầu chung đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật

- Đề cao tính Đảng trong phổ biến, giáo dục pháp luật:
Pháp luật và đường lối chính sách của Đảng có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Pháp luật bao giờ cũng là sự thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng, đường lối chính sách của Đảng là "linh hồn" của pháp luật. Do đó
PBGDPL cũng chính là việc phổ biến, giáo dục đường lối, chính sách của Đảng.
Thực hiện không đúng pháp luật hay vi phạm pháp luật đều làm tổn hại tới
Nhà nước và xã hội, tổn hại tới vai trò lãnh đạo của Đảng. Pháp luật được thực hiện
nghiêm minh, chính xác và đầy đủ thì uy tín lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
và xã hội được khẳng định. Do đó công tác phổ biến, giáo dục pháp luật bao giờ
cũng đề cao tính Đảng.
- Bảo đảm tính khoa học, tính chuẩn xác, truyền đạt trung thành văn bản:
PBGDPL không giống với việc tuyên truyền phổ biến về văn hóa văn nghệ. Khi
tuyên truyền phổ biến về văn hóa văn nghệ người ta có thể nhân cách hóa, hư cấu
thành những hình tượng nghệ thuật để phục vụ cho mục đích của họ. PBGDPL khác
với các loại hình phổ biến khác, nội dung được phổ biến giáo dục là pháp luật, là
những quy tắc xử sự chung được nhà nước ban hành có cấu trúc chặt chẽ từ câu chữ tới
nội dung và yêu cầu của các quy định đó, do đó PBGDPL phải tuân thủ các nguyên
tắc nhất định, bảo đảm khoa học, tính chuẩn xác, truyền đạt trung thành văn bản.
- Bảo đảm tính đại chúng, phù hợp với đối tượng, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ áp
dụng: PBGDPL không những phải xuất phát từ đối tượng được phổ biến, họ đang
thiếu cái gì, cần cái gì mà còn phải phù hợp với trình độ văn hóa, nghệ thuật, giới
tính, lứa tuổi, dân tộc… và sử dụng ngôn ngữ đại chúng, hành văn giản dị, ngắn gọn.
- Chọn được hình thức phù hợp.
Có nhiều hình thức PBGDPL khác nhau, mỗi hình thức có sự phù hợp với
một hoặc nhiều đối tượng nhất định, do đó khi PBGDPL phải xuất phát từ đối tượng
được PBGDPL để chọn hình thức tối ưu.


17
Ngoài ra, hình thức PBGDPL còn phải phù hợp với từng địa bàn, điều kiện

kinh tế xã hội nhất định, do đó khi PBGDPL cũng cần phải xuất phát từ địa bàn điều
kiện kinh tế của nơi tiến hành PBGDPL.
- Đảm bảo tính liên tục, tính hệ thống trong việc PBGDPL. Bảo đảm tính hệ
thống tức là đặt văn bản pháp luật đó trong hệ thống pháp luật, trong ngành luật
hoặc lĩnh vực pháp luật có liên quan tới văn bản. Điều đó giúp đối tượng hiểu vấn
đề sâu sắc hơn. Bảo đảm tính liên tục nghĩa là theo phương châm "mưa dầm thấm
lâu" tránh làm theo hình thức, theo phong trào.
- Gắn việc PBGDPL với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị trong địa bàn.
Điều đó, một mặt phát huy tác dụng của PBGDPL, mặt khác làm tăng hiệu quả của
công tác PBGDPL.
Tóm lại, trong rất nhiều hình thức như vậy khi tiến hành PBGDPL cần chọn
một hình thức phù hợp cho đối tượng được phổ biến hoặc kết hợp đan xen các loại
hình thức.
1.1.5.3. Yêu cầu đối với người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
- Có kiến thức pháp lý nhất định.
- Có nhiệt tình, tâm huyết, tận tụy với công tác PBGDPL.
PBGDPL là một hoạt động mang tính chất xã hội, đối tượng phục vụ của
PBGDPL là quảng đại quần chúng nhân dân, do đó một trong các yêu cầu đầu tiên và
hết sức quan trọng của người làm công tác PBGDPL là có tinh thần nhiệt tình, tận tụy
với công tác. Tinh thần nhiệt tình trong công tác PBGDPL được thể hiện là không quản
ngại khó khăn, gian khổ, luôn phấn khởi, hăng say trong công tác, lấy công tác
PBGDPL làm niềm vui, là niềm say mê; nó không đơn thuần là trách nhiệm được giao
phó mà việc PBGDPL được cho nhiều người, nhiều đối tượng với chất lượng và hiệu
quả là niềm vui của người làm công tác PBGDPL. Người làm công tác PBGDPL còn
cần phải tận tụy với công việc, luôn phấn khởi phục vụ cho mọi đối tượng, không quản
ngại đối với những vấn đề mới, văn bản pháp luật mới; bản thân luôn phải cố gắng
học tập, phấn đấu vươn lên; tích lũy kiến thức pháp luật, kiến thức xã hội, kiến thức
chuyên ngành, tài liệu, số liệu, dẫn chứng minh họa để hoàn thành công việc được giao.
- Có khả năng nói và viết: PBGDPL là truyền đạt thông tin pháp luật và giải
thích pháp luật cho người khác, chính vì thế ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết đóng



18
vai trò rất quan trọng cho sự thành công của người làm công tác PBGDPL. Sự kết
hợp giữa khả năng nói và viết trong người làm công tác PBGDPL sẽ đem lại hiệu
quả cao trong công tác.
- Có khả năng hòa đồng và giao tiếp: Làm công tác PBGDPL là làm công
tác vận động quần chúng, nó không thuần túy là đi thông tin và giải thích pháp luật
cho các đối tượng được tuyên truyền. Trước khi thực hiện công tác PBGDPL người
làm công tác PBGDPL cần phải biết đối tượng được PBGDPL là ai, họ cần gì, công
việc của họ ra sao, họ đang cần lĩnh vực pháp luật nào và mình phải quan hệ công
tác với họ như thế nào?
PBGDPL là một hoạt động mang tính chất hai chiều, không đơn thuần là sự
truyền đạt thông tin và giải thích pháp luật của người làm công tác PBGDPL mà có sự
phản hồi của đối tượng được tuyên truyền. Họ có lắng nghe thông tin về pháp luật
không? đồng thời, họ có thể đặt câu hỏi hay thể hiện chính kiến về việc giải thích pháp
luật đúng hay không đúng của người đi giải thích không? Sự cọ xát hai chiều về cùng
vấn đề được trao đổi sẽ làm cho công tác PBGDPL đạt chất lượng và hiệu quả cao.
Chính các yếu tố được nêu và phân tích trên đòi hòi người làm công tác
PBGDPL phải có khả năng hòa đồng và giao tiếp.
- Biết tích lũy tư liệu, kiến thức: Hoạt động PBGDPL vừa mang tính thời sự
vừa mang tính lâu dài. Chỉ có thể tham gia vào hoạt động PBGDPL khi có đủ kiến
thức, trình độ, kinh nghiệm về công tác pháp luật. Để đạt được các điều kiện đó thì
người làm công tác PBGDPL cần phải tích lũy tư liệu, kiến thức; bao gồm kiến thức
pháp lý, pháp luật hiện hành, đường lối chính sách của Đảng, kiến thức chuyên
ngành, kiến thức xã hội, kinh nghiệm thực tiễn ở Việt Nam và nước ngoài.
- Có kiến thức nhất định về tâm lý học tuyên truyền: Hiểu được tâm lý học
tuyên truyền chính là hiểu được các quy luật tâm lý phát sinh, vận động trong quá
trình tiếp nhận thông tin pháp luật của các loại đối tượng được thể hiện trong tất cả
các giai đoạn tiến hành PBGDPL đối với các đối tượng. Trong quá trình PBGDPL

còn phải nắm bắt sự phản ứng, sự tiếp nhận của họ như thế nào về nội dung được
phổ biến. Sau khi PBGDPL cho một loại đối tượng, chủ thể thực hiện còn phải biết
nghe dư luận xã hội và sự phản ứng tích cực, tiêu cực của các đối tượng về nội dung
được phổ biến. Tất cả những động thái như vậy, người làm công tác PBGDPL đều


19
cần phải nắm bắt để dự liệu, để chuẩn bị hành trang cho mình. Sự chuẩn bị về kiến
thức cho công tác PBGDPL là cần thiết, đồng thời người làm công tác PBGDPL
còn phải hiểu biết trạng thái tâm lý khác nhau của các đối tượng được tuyên truyền,
đó chính là tâm lý học tuyên truyền mà người làm công tác PBGDPL cần phải có.
- Tùy từng vị trí công tác, địa bàn hoạt động, cần phải có những hiểu biết về
xã hội, phong tục, tập quán của mỗi dân tộc, mỗi địa phương nhất định. Pháp luật
luôn gắn với đời sống xã hội, nó quan hệ mật thiết tới các hiện tượng khác của xã
hội như đạo đức, phong tục tập quán của mỗi dân tộc, mỗi địa phương. Pháp luật
thực chất là các quy tắc xử sự trong các quan hệ xã hội được Nhà nước thừa nhận,
do đó nó có mối liên hệ với các phong tục, tập quán khác. Chính vì thế khi làm công
tác PBGDPL ở từng địa phương, ở mỗi dân tộc, người làm công tác PBGDPL cũng
cần phải biết được phong tục tập quán của dân tộc đó và địa phương đó để so sánh,
để giải thích, để phân biệt.
Những phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp của dân tộc cũng sẽ được
Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật để mọi người tôn trọng thực hiện, mặt khác
nhiều quy định của luật pháp khi ban hành đã bao hàm những phong tục, tập quán
tốt đẹp. Ngược lại, những phong tục, tập quán còn lạc hậu, bảo thủ thì khi PBGDPL
cũng cần phải lưu ý kết hợp giải thích có ngọn ngành cho nhân dân để họ vừa tôn
trọng pháp luật, vừa hiểu biết thêm về mối quan hệ giữa pháp luật và phong tục, tập
quán, từ đó hạn chế, bài trừ, xóa bỏ các phong tục, tập quán lạc hậu.
1.1.5.4. Các hành vi bị cấm trong phổ biến, giáo dục pháp luật
- Truyền đạt sai lệch, phê phán nội dung pháp luật được phổ biến; không
cung cấp thông tin, tài liệu theo quy định của pháp luật; cung cấp thông tin, tài liệu

có nội dung sai sự thật, trái pháp luật, trái đạo đức xã hội, truyền thống tốt đẹp của
dân tộc.
- Lợi dụng PBGDPL để xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, pháp
luật của Nhà nước; tuyên truyền chính sách thù địch, gây chia rẽ khối đại đoàn kết
toàn dân tộc; xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức, cá nhân.
- Cản trở việc thực hiện quyền được thông tin, tìm hiểu, học tập pháp luật
của công dân, hoạt động PBGDPL của cơ quan, tổ chức, cá nhân.


×