Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Thực tiễn thi hành án dân sự tại tỉnh sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.54 MB, 102 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHẠM HỒNG QUYẾT

THỰC TIỄN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
TẠI TỈNH SƠN LA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHẠM HỒNG QUYẾT

THỰC TIỄN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
TẠI TỈNH SƠN LA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật Dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 8380103



Người hướng dẫn khoa học: TS ĐINH TRUNG TỤNG

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Trường đại học Luật Hà Nội.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Phạm Hồng Quyết


DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
BA, QĐ có hiệu lực

Bản án, quyết định dân sự của Tòa án, Trọng tài,

thi hành

Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh

BLTTDS năm 2015

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015


CHV

Chấp hành viên

CHXHCN

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

CQTHADS

Cơ quan Thi hành án dân sự

LTHADS năm 2014

Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi,
bổ sung năm 2014

PLTHADS năm 1989

Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989

PLTHADS năm 1993

Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993

PLTHADS năm 2004

Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004

TAND


Tòa án nhân dân

THA

Thi hành án

THADS

Thi hành án dân sự

UBND

Ủy ban nhân dân

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ .......... 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm củathi hành án và thi hành án dân sự................ 7
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của thi hành án thi hành ........................................ 7
1.1.2. Khái niệm, đặc điểmcủa thi hành án dân sự ......................................... 10
1.2. Nội dung quy định của pháp luật hiện hành về thi hành án dân sự.......16
1.2.1. Nội dung quy định của pháp luật hiện hành về việc ra quyết định
thi hành án dân sự ................................................................................... 16
1.2.1.1. Quyết định thi hành án dân sự chủ động............................................ 16

1.2.1.2. Quyết định thi hành án theo yêu cầu .................................................. 17
1.2.1.3. Quyết định thu hồi, sửa đổi, bổ sung, hủy quyết định thi hành án .... 20
1.2.2. Nội dung quy định của pháp luật hiện hành về ra các quyết định
phát sinh trong quá trình thi hành án dân sự ....................................... 21
1.2.2.1. Quyết định chuyển giao quyền và nghĩa vụ thi hành án dân sự ........ 21
1.2.2.2. Ủy thác thi hành án dân sự ................................................................. 23
1.2.2.3. Xác minh điều kiện thi hành án và xác định việc chưa có điều
kiện thi hành án dân sự ....................................................................... 24
1.2.2.4. Hoãn thi hành án dân sự ..................................................................... 25
1.2.2.5. Tạm đình chỉ thi hành án dân sự ....................................................... 26
1.2.2.6. Đình chỉ thi hành án dân sự ............................................................... 27
1.2.3. Nội dung quy định của pháp luật hiện hành về các biện pháp bảo
đảm và cưỡng chế thi hành án dân sự ................................................ 28
1.2.3.1. Nội dung quy định của pháp luật hiện hành về các biện pháp bảo
đảm thi hành án dân sự ....................................................................... 28
1.2.3.2. Nội dung quy định của pháp luật hiện hành về các biện pháp
cưỡng chế thi hành án dân sự.............................................................. 30


CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở TỈNH SƠN LA
VÀ KIẾN NGHỊ .................................................................................. 38
2.1. Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Sơn La........................................ 38
2.1.1. Kết quả đạt được trong thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Sơn La ........... 38
2.1.2. Những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành án dân sự ở
tỉnh Sơn La .......................................................................................... 40
2.1.3. Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi
hành án dân sự tỉnh Sơn La ................................................................. 56
2.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực
hiện pháp luật thi hành án dân sự ở tỉnh Sơn La ............................. 69
2.2.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự .. 69

2.2.2. Một số kiến nghị nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về thi hành án
dân sự ở Sơn La....................................................................................... 74
2.2.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng và chính quyền ...... 74
2.2.2.2. Thực hiện việc rà soát, phân loại án................................................... 75
2.2.2.3. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật thi hành án
dân sự .................................................................................................. 76
2.2.2.4. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tácthi hành án dân sự......... 77
2.2.2.5. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan Tòa án, Viện Kiểm sát,
Công an, các ngành hữu quan và cơ quan THADS ............................ 79
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 83


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thi hành án là giai đoạn tiếp nối cuối cùng của quá trình tố tụng, nếu
những phán quyết của Tòa án không được đưa ra thi hành thì các giai đoạn
trước đó của quá trình tố tụng không có ý nghĩa trên thực tế, không bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Chính vì vậy, Hiến pháp năm 2013 đã quy định rõ “Bản án, quyết định của
Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân
tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp
hành”1. Nhận thức tầm quan trọng của công tác thi hành án, Đảng đã đề ra
nhiều chủ trương, chính sách về thi hành án dân sự như: Nghị quyết hội lần
thứ chín Ban Chấp hành Trung ương đảng (khóa IX) ngày 3/2/2004 về tập
trung thực hiện tốt công tác thi hành án, nhất là thi hành án dân sự, khắc phục
cơ bản án tồn đọng kéo dài; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ
chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020: Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày

2/05/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2020.
Thể chế hoá đường lối chính sách của Đảng, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã
ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989, Pháp lệnh Thi hành án dân
sự năm 1993, Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 và Quốc hội khóa XII
kỳ họp thứ 4 đã thông qua Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và có hiệu lực
từ ngày 1/7/2009, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân
sự năm 2014 ( viết tắt là LTHADS năm 2014) và có hiệu lực từ ngày
1/7/2015. Do vậy công tác thi hành án dân sự trong những năm qua đạt được
một số kết quả đáng khích lệ, kết quả nổi bật nhất theo đánh giá của Chính
1

Điều 106 Hiến Pháp 2013


2
phủ là hệ thống cơ quan thi hành án dân sự được hình thành trong cả nước,
công tác thi hành án dân sự đã được triển khai và hoạt động bước đầu có hiệu
quả. Tuy nhiên, công tác thi hành án dân sự vẫn đang đứng trước những khó
khăn, tồn tại, bất cập đặt ra cần được giải quyết. Hiệu quả công tác thi hành
án dân sự chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.
Đối với tỉnh Sơn La, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Tư
pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự, Tỉnh ủy, UBND tỉnh, cấp ủy và chính
quyền các cấp, cùng với sự nỗ lực phấn đấu của đội ngũ chấp hành viên, cán
bộ, công chức trong ngành, công tác thi hành án dân sự tỉnh Sơn La đã đạt
được những kết quả đáng khích lệ. Kết quả thi hành án dân sự của tỉnh Sơn
La năm 2017 về việc tuy đạt cao hơn so với cùng kỳ nhưng số việc chuyển kỳ
sau tăng. Số tiền thu vượt so với cùng kỳ nhưng đạt tỷ lệ thấp so với chỉ tiêu
được giao; số tiền chuyển kỳ sau lớn. Đây là vấn đề bức xúc đặt ra trong công
tác thi hành án dân sự ở tỉnh Sơn La hiện nay. Thực trạng này, một phần xuất
phát từ nguyên nhân: ý thức tuân thủ pháp luật của một bộ phận nhân dân nói

chung và một số cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp còn yếu kém. Mặt khác sự
phối hợp giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật và các ngành hữu quan chưa
thống nhất, đồng bộ.Hệ thống văn bản pháp luật về thi hành án dân sự chưa
đầy đủ, chậm được sửa đổi, bổ sung; chế tài đối với người chây ỳ không chấp
hành án còn nhẹ; đội ngũ chấp hành viên ít về số lượng, trình độ không đồng
đều, chuyên môn, nghiệp vụ, kinh nghiệm còn hạn chế, chưa kiên quyết áp
dụng biện pháp cưỡng chế...
Từ những lý do trên khẳng định cho việc lựa chọn đề tài " Thực tiễn thi
hành án dân sự tại tỉnh Sơn La" cho luận văn thạc sĩ luật học của tác giả sẽ
góp phần đánh giá được thực tiễn và những hạn chế, bất cập trong công tác thi
hành án dân sự ở tỉnh Sơn La để từ đó tìm ra nguyên nhân và những giải pháp
nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc hiện nay.


3

2. Tình hình nghiên cứu
Thi hành án dân sự là vấn đề được nhiều nhà khoa học quan tâm trong
giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay, đã có nhiều công trình
nghiên cứu về thi hành án dân sự: Luận văn thạc sĩ Luật học của Trần Văn
Quảng (1996): Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở
Việt Nam; Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Công Long (2000): Các biện pháp
cưỡng chế thi hành án dân sự. Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện; Luận
văn thạc sĩ của Lê Xuân Hồng (2001): Xã hội hóa thi hành án dân sự; Luận
văn thạc sĩ của Nguyễn Thanh Thủy (2001): Hoàn thiện pháp luật về thi hành
án dân sự. Luận văn thạc sĩ : “Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Thái Bình”
của tác giả Đỗ Thị Lý (2010); Luận án tiến sĩ: “Cưỡng chế thi hành án dân
sự” của tác giả Lê Anh Tuấn (2017). Ngoài ra còn có nhiều công trình, nhiều
bài báo đề cập đến các lĩnh vực của công tác thi hành án dân sự như: Thực
tiễn thi hành án dân sự: vẫn nhiều án tồn đọng của tác giả Nhật Anh - Báo

Người đại biểu nhân dân số ra ngày 16/01/2010; Mô hình tổ chức thi hành án
một số nước trên thế giới- Thạc sĩ Nguyễn Văn Nghĩa - Tạp chí Nghề luật số
1 năm 2007; Để nâng cao chất lượng công tác thi hành án của tác giả Việt
Anh - Tạp chí Cộng sản số 10 (154) năm 2008; Luật thi hành án dân sự và
những điều bất cập - Báo Bình Thuận số ra ngày 05/4/2010. Đây là những
công trình nghiên cứu công phu, có nhiều đóng góp cho sự nghiệp xây dựng
và hoàn thiện pháp luật về thi hành án ở Việt Nam. Tuy nhiên, các công trình
nghiên cứu này chỉ đề cập đến các vấn đề khác nhau của THADS, riêng việc
nghiên cứu về thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Sơn La thì chưa được
nghiên cứu và đề cập. Do vậy, việc lựa chọn đề tài "Thực tiễn thi hành án dân
sự tại tỉnh Sơn La" được xem là một trong những công trình đầu tiên nghiên
cứu và đánh giá về thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Sơn La hiện nay, chỉ ra
những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Sơn La,


4
từ đó đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật THADS nói chung và
bảo đảm thực hiện pháp luật thi hành án dân sự ở tỉnh Sơn La nói riêng.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Làm rõ được thực trạng của công tác thi hành án dân sự ở tỉnh Sơn La
thông qua việc nghiên cứu, phân tích những vụ việc cụ thể, đánh giá được
những vướng mắc khó khăn hiện nay, tìm ra được nguyên nhân của những
vướng mắc. Trên cơ sở đó, đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật
THADS nói chung và bảo đảm thực hiện pháp luật thi hành án dân sự ở tỉnh
Sơn La nói riêng, đảm bảo mọi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của
Tòa án phải được đưa ra thi hành.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ giải quyết các vấn đề
chủ yếu sau:

+ Nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề chung về thi hành án
dân sự như: Khái niệm, đặc điểm của thi hành án dân sự, đánh giá nội dung
pháp luật hiện hành về thủ tục THADS, các biện pháp cưỡng chế THADS,
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong THADS.
+ Đánh giá đúng đắn và toàn diện về thực tiễn THADS trên địa bàn tỉnh
Sơn La trên cơ sở phân tích các vụ việc phức tạp, kéo dài và những vướng mắc
trong quá trình tổ chức thi hành án và giải quyết khiếu nại, tố cáo về THADS.
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật THADS nói chung
và bảo đảm thực hiện pháp luật thi hành án dân sự ở tỉnh Sơn La nói riêng.
4. Phạm vi nghiên cứu
“Thực tiễn thi hành án dân sự tại tỉnh Sơn La” là một đề tài nghiên cứu
về thực tiễn của công tác thi hành án dân sự ở tỉnh Sơn La nhưng có nội dung
rộng và phức tạp. Vì vậy trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ luật học, tác giả


5
tập trung nghiên cứu về các quy định của pháp luật và thực tiễn hoạt độngra
quyết định thi hành án, một số các quyết định phát sinh trong quá trình
THADS và thực tiễn áp dụng các biện pháp bảo đảm, cưỡng chế thi hành án
dân sự của các cơ quan THADS ở tỉnh Sơn La; đánh giá đúng thực tiễn hoạt
động thi hành án dân sự tại tỉnh Sơn La từ năm 2013 cho đến nay, trên cơ sở
đó kiến nghị một số giải pháp nhằmhoàn thiện pháp luật THADS nói chung
và bảo đảm thực hiện pháp luật thi hành án dân sự ở tỉnh Sơn La trong những
năm tiếp theo.
Do giới hạn về số trang của luận văn thạc sĩ luật học ứng dụng nên luận
văn không nghiên cứu về hệ thống CQTHADS và Thừa phát lại ở tỉnh Sơn
La, không nghiên cứu về thực tiễn thực hiện quyền và nghĩa vụ của các chủ
thể tham gia THADS.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận truyền thống

của chủ nghĩa Mác- Lê nin đó là phương pháp duy vật biện chứng và phương
pháp luận duy vật lịch sử.
- Cùng với các phương pháp trên, tác giả đã sử dụng các phương pháp
thu thập thông tin, số liệu; phương pháp phân tích, tổng hợp và nghiên cứu
thực tiễn. Đây là các phương pháp được sử dụng chủ yếu trong quá trình thực
hiện đề tài.
Phương pháp thu thập thông tin chủ yếu được thực hiện thông qua báo
cáo, các hồ sơ từng vụ việc thi hành án cụ thể của Cục và các Chi cục thi
hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Sơn La, thông qua các bài viết, tạp
chí…của các tác giả trên báo chí, internet để lấy số liệu liên quan đến quá
trình nghiên cứu…
Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng để phân tích, tổng hợp
các quy định của pháp luật về công tác thi hành án, cũng như thực tiễn áp


6
dụng pháp luật trong quá trình thi hành án ở Sơn La.
6. Ý nghĩa và những điểm mới của luận văn
- Luận văn đã làm rõ hơn một số quan điểm cơ bản về thi hành án dân
sự như khái niệm THADS, đặc điểm, bản chất của THADS, góp phần bổ
sung, làm phong phú thêm cho hoạt động nghiên cứu khoa học về pháp luật
THADS.
- Từ việc đánh giá thực trạng công tác thi hành án dân sự tại tỉnh Sơn La,
tác giả đã chỉ ra những hạn chế, khó khăn trong công tác thi hành án dân sự,
luận giải nguyên nhân, từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp
luật THADS nói chung và bảo đảm thực hiện pháp luật thi hành án dân sự ở
tỉnh Sơn La nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Nhận thức chung về thi hành án dân sự

1.2. Nội dung quy định của pháp luật hiện hành về thi hành án dân sự
Kết luận chương 1
Chương 2: THỰC TIỄN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở TỈNH SƠN LA
VÀ KIẾN NGHỊ
2.1. Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Sơn La
2.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện
pháp luật thi hành án dân sự ở tỉnh Sơn La
Kết luận chương 2
Danh mục tài liệu tham khảo


7
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm củathi hành án và thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của thi hành án thi hành
Để làm rõ khái niệm thi hành án dân sự ( viết tắt là THADS), trước hết
cần làm rõ khái niệm thi hành án ( viết tắt là THA).
Dưới góc độ ngôn ngữ “thi hành” là: "Thực hiện điều đã chính thức
quyết định"2.Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học thi “thi hành án”
được hiểu là “thực hiện bản án, quyết định của Tòa án”3, là việc đưa các bản
án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành trên thực tế. Bản
án, quyết định của Tòa án là văn bản pháp lý của Tòa án nhân danh Nhà nước
tuyên tại phiên tòa, giải quyết về các vấn đề trong vụ án hình sự, dân sự, hôn
nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính...Tuy nhiên, cách giải thích
này chưa hoàn chỉnh, bởi hiện nay THA không chỉ là việc thực hiện bản án,
quyết định của Tòa án mà còn là việc thực hiện quyết định của Trọng tài và
Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh.Dưới góc độ pháp lý, đến nay vẫn có các
quan điểm khác nhau về khái niệm THA.
Loại quan điểm thứ nhấtcho rằng THA là hoạt động tố tụng. Song, THA

là hoạt động tố tụng nào và nằm ở giai đoạn nào của quá trình tố tụng thì lại
có những ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, THA là một giai đoạn tố tụng
và là công đoạn cuối cùng của hoạt động tố tụng. Ý kiến khác cho rằng, THA
là một thủ tục tố tụng đặc biệt mang cả đặc trưng của tố tụng dân sự, tố tụng
hình sự và tố tụng hành chính, THA vừa tôn trọng quyền tự định đoạt của
đương sự, vừa biểu hiện tính cưỡng chế của Nhà nước. Có ý kiến lại cho rằng,
2

Đại từ điển Tiếng Việt, GS. TS Nguyễn Như Ý, Nxb Đại học quốc gia TP. HCM, 2013, tr 1559.
Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, trường đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1999, tr 235.

3


8
THA thuộc loại tố tụng "hỗn hợp" vì "THA có rất nhiều trình tự, thủ tục và
đặc trưng giống các loại tố tụng khác"4.
Loại quan điểm thứ hai,coi THA là hoạt động hành chính - tư pháp thì
cho rằng, quá trình tố tụng mà trọng tâm là việc xét xử của Toà án chấm dứt
khi Toà án ra phán quyết nhân danh Nhà nước, trong đó Toà án đã xác định
quyền, nghĩa vụ của các bên, còn việc thi hành phán quyết đó lại là một giai
đoạn khác, không thuộc quá trình tố tụng. THA không phải là giai đoạn tố
tụng, bởi vì THA có mục đích khác với mục đích tố tụng; tố tụng là quá trình
đi tìm sự thật của các vụ việc đã diễn ra trên thực tế, trên cơ sở đó đưa ra cách
giải quyết vụ việc theo đúng quy định của pháp luật, còn THA là quá trình
tiến hành các hoạt động nhằm thực hiện các bản án, quyết định của Toà án đã
có hiệu lực pháp luật5. Loại quan điểm thứ ba cho rằng, THA là hoạt động tư
pháp của Nhà nước nhằm đưa ra và đảm bảo thi hành các bản án, quyết định
của Toà án và các quyết định khác theo quy định của pháp luật6.
Xuất phát từ các quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn công tác

THA ở nước ta, nhiều ý kiến đồng tình với quan điểm cho rằng THA là hoạt
động đặc thù, vừa có tính chất của hoạt động hành chính, vừa có tính chất của
hoạt động tư pháp bởi những lý do sau đây:
Thứ nhất, cơ sở của hoạt động THA chủ yếu là các bản án, quyết định
dân sự của Tòa án. Các bản án, quyết định dân sự có hiệu lực thi hành bao
gồm bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất
chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án,
quyết định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Tòa
án, quyết định của Tòa án giải quyết phá sản, quyết định xử lý vụ việc cạnh
tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên
4

Chính phủ (2008), Tờ trình số 31/TTr-CP ngày 04/04/2008 về “Dự án Luật THADS, tr1.
Lê Minh Tâm (2001), "Thử bàn về lý luận THA", Luật học, số 2/2001.
6
Lê Minh Tâm (2001), "Thử bàn về lý luận THA", Luật học, số 2/2001.
5


9
phải thi hành và phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại (sau đây
gọi chung là bản án, quyết định dân sự có hiệu lực thi hành)
Thứ hai, THA là giai đoạn kế tiếp sau giai đoạn xét xử, có mối quan hệ
mật thiết, đan xen với các giai đoạn tố tụng trước đó. Tuy nhiên, THA lại có
tính độc lập tương đối thể hiện ở chỗ hoạt động này được bắt đầu bằng quyết
định THA của người có thẩm quyền. Những quyết định này mang tính bắt
buộc chấp hành đối với tất cả chủ thể có trách nhiệm và nghĩa vụ liên quan
đến việc THA.
Thứ ba, THA và các giai đoạn tố tụng trước đó có mối quan hệ nhân quả

với nhau. Nếu bản án, quyết định của Tòa án tuyên rõ ràng, cụ thể thì việc
THA sẽ dễ dàng, nhanh chóng. Ngược lại, nếu bản án, quyết định đó không
rõ ràng, không khách quan, thiếu tính khả thi sẽ gây khó khăn cho việc
THA. Đồng thời, việc THA nhanh chóng, kịp thời sẽ có tác động tích cực trở
lại đối với hoạt động xét xử, góp phần củng cố, tăng cường uy tín của cơ
quan xét xử.
Thứ tư, bản chất của THA là dạng hoạt động chấp hành nhưng là chấp
hành phán quyết của cơ quan xét xử với các cách thức và biện pháp khác nhau
nhằm buộc người có nghĩa vụ được xác định trong bản án, quyết định của Tòa
án phải thực hiện đúng các nghĩa vụ của mình. Mục đích cuối cùng của THA
là bảo đảm cho các quyết định của Tòa án được ghi trong bản án, quyết định
được thực thi trên thực tế chứ không phải là ra văn bản áp dụng pháp luật
hoặc quyết định có tính điều hành - nét đặc trưng của hoạt động hành chính.
Từ các phân tích trên, tác giả đồng tình với khái niệm về thi hành án:
“Thi hành án là thủ tục tố tụng tư pháp do cơ quan, tổ chức, người có thẩm
quyền tiến hành để thi hành bản án, quyết định của Tòa án hoặc quyết định
của cơ quan Nhà nước, tổ chức khác do pháp luật quy định, nhằm bảo đảm
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp cả các cơ quan, tổ chức và
cá nhân.”7.
7

Lê Anh Tuấn, Đổi mới thủ tục THA dân sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật Học, Hà Nội, 2004, tr 14.


10
1.1.2. Khái niệm, đặc điểmcủa thi hành án dân sự
Ngoài các đặc điểm chung của THA, THADS còn có những đặc điểm
riêng như sau:
- Thứ nhất, THADS là một dạng hoạt động mang tính hành chính – tư
pháp của nhà nước, thể hiện quyền lực nhà nước, do CQTHADS và Thừa

phát lại thực hiện, bảo đảm hiệu lực thực tế của các BA, QĐ về dân sự của
TA bằng các biện pháp cưỡng chế nhà nước. Tính quyền lực nhà nước trong
THADS được thể hiện ở chỗ, cơ quan, tổ chức THADS có quyền ra quyết
định THA dân sự, buộc các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan phải tuân
thủ, nghiêm chỉnh chấp hành. Trong trường hợp người phải THADS không tự
nguyện THADS thì cơ quan, tổ chức THADS có quyền áp dụng các biện pháp
bảo đảm và cưỡng chế THADS, buộc người phải THADS phải chấp hành bản
án, quyết định dân sự có hiệu lực thi hành.
- Thứ hai, THADS chủ yếu là thi hành các quyết định của TA mang tính
chất tài sản - đặc trưng của quan hệ dân sự, vì vậy, quyền tự định đoạt của
đương sự luôn được tôn trọng trong suốt quá trình THA. Điều này khác với
THA hình sự, người được THA trong THADS luôn giữ vai trò chủ động, có
quyền quyết định việc có đưa ra yêu cầu THA hay không? đưa ra vào thời
điểm nào (miễn là trong thời hiệu quy định), yêu cầu THA một phần hay toàn
bộ quyết định của bản án.
Trong THADS, các bên có quyền thỏa thuận với nhau về thời gian, địa
điểm, phương thức THA, song việc thỏa thuận đó phù hợp phải không trái
pháp luật và không trái đạo đức xã hội.
Thứ ba, xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của đương
sự, nên khác với THA hình sự, trong một số trường hợp cụ thể, CQTHA có
thể lựa chọn biện pháp thích hợp để việc THA được nhanh chóng, đạt hiệu
quả trên cơ sở thỏa thuận của các đương sự. Trong những trường hợp này việc


11
THA không nhất thiết phải theo đúng như nội dung quyết định của bản án mà
TA đã tuyên. Ngoài ra, trong từng loại hình cụ thể của THADS lại có những
đặc trưng riêng phù hợp với từng loại bản án, quyết định đó. Chẳng hạn, đối
với việc THA các bản án, quyết định kinh doanh, thương mại thì giá trị tài sản
phải thi hành thường rất lớn và việc thi hành có phần thuận lợi hơn so với

THADS. Bởi lẽ, người phải THA là những doanh nghiệp, tổ chức có tư cách
pháp nhân, cá nhân có đăng ký kinh doanh, có tài khoản riêng, cho nên,
CQTHA có điều kiện thuận lợi hơn trong việc điều tra, xác minh tài sản, khấu
trừ vào tài khoản hoặc phong tỏa tài khoản bảo đảm cho việc THA đạt hiệu
quả. Đối với THA lao động, thường là các quyết định cần phải được thi hành
ngay và các biện pháp cưỡng chế thường là biện pháp trừ vào thu nhập của
người phải THA...Đối với việc thi hành các quyết định về tài sản, quyền tài
sản trong các BA, QĐ của TA về hành chính nên việc THA thường được thực
hiện giữa một bên là cơ quan, tổ chức, cá nhân, còn bên kia là cơ quan nhà
nước; thủ tục THA hành chính là thủ tục hành chính và thủ tục THADS.
Trong THA hành chính, người phải THA, nếu là cơ quan nhà nước, thì việc
thi hành thường gặp rất nhiều khó khăn do các cơ quan nhà nước hoạt động
bằng ngân sách nhà nước, trong các mục chi ngân sách, chưa có khoản nào
được dành cho việc THA hành chính nên thường phải áp dụng các quy định
về hỗ trợ tài chính từ ngân sách Nhà nước.
Ở Việt Nam hiện nay có ba loại hình THA chủ yếu: THA hình sự, THA
hành chính và THADS, trong phạm vi nghiên cứu của Luận văn về thủ tục thi
hành án dân sự. So với THA hình sự và THA hành chính, THADS là cách
thức, trình tự tổ chức thi hành bản án, quyết định dân sự có hiệu lực thi hành.
Nên THADS khác với THA hình sự về đối tượng thi hành, chủ thể tổ chức
THA và thủ tục THA.


12
- Về đối tượng THADS, là những phán quyết của các cơ quan như Tòa
án, Trọng tài, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh.
Thi hành án dân sự gắn liền với hoạt động xét xử, xét xử chính là tiền đề
của thi hành án dân sự. Cơ sở của hoạt động THA chủ yếu là các bản án,
quyết định dân sự của Tòa án. Các bản án, quyết định dân sự có hiệu lực thi
hành bao gồm bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,

thương mại, lao động, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu
lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản
án, quyết định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của
Tòa án, quyết định của Tòa án giải quyết phá sản, quyết định xử lý vụ việc
cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của
bên phải thi hành và phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại (sau
đây gọi chung là bản án, quyết định dân sự có hiệu lực thi hành).
- THADS là giai đoạn kế tiếp sau giai đoạn xét xử, có mối quan hệ mật
thiết, đan xen với các giai đoạn tố tụng trước đó. Tuy nhiên, THA lại có tính
độc lập tương đối thể hiện ở chỗ hoạt động này được bắt đầu bằng quyết định
của Thủ trưởng Cơ quan THADS đối với THADS. Những quyết định này
mang tính bắt buộc chấp hành đối với tất cả chủ thể có trách nhiệm và nghĩa
vụ liên quan đến việc THA.
Hoạt động thi hành án lệ thuộc và chịu sự chi phối của hoạt động xét xử,
bởi lẽ thi hành án được tiến hành dựa trên BA, QĐ đã có hiệu lực pháp luật
của Tòa án, trọng tài, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh. Nói cách khác, căn
cứ pháp lý để thi hành án là bản án, quyết định của các cơ quan nói trên đã có
hiệu lực pháp luật. Ngược lại, THADS tiếp nối với xét xử làm cho BA, QĐ
được thực hiện trên thực tế. Sau khi có bản án, quyết định của tòa án, trọng
tài, hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh trên cơ sở của bản án, quyết định do
Tòa án và các cơ quan này chuyển giao hoặc đơn yêu cầu THA của đương


13
sự, CQTHADS ra quyết định thi hành và thụ lý, tổ chức việc thực hiện thi
hành án. THADS là giai đoạn kế tiếp sau giai đoạn xét xử, có mối quan hệ
mật thiết, đan xen với các giai đoạn tố tụng trước đó (ví dụ: việc thi hành các
quyết định khẩn cấp tạm thời của Toà án; trong quá trình thi hành án, Chánh
án Toà án, Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền yêu cầu CQTHA hoãn
việc THA, quyết định tạm đình chỉ THA để xem xét lại bản án theo trình tự

giám đốc thẩm hoặc tái thẩm...). Tuy nhiên, THA lại có tính độc lập tương đối
thể hiện ở chỗ hoạt động này được bắt đầu bằng quyết định của Thủ trưởng
CQTHADS đối với THADS. Những quyết định này mang tính bắt buộc chấp
hành đối với tất cả các chủ thể có trách nhiệm và nghĩa vụ liên quan đến việc
THA. Các cơ quan, tổ chức, công dân, trong phạm vi trách nhiệm của mình có
nghĩa vụ chấp hành và phối hợp thực hiện để thi hành án đạt hiệu quả. Nhằm
bảo đảm hiệu lực thi hành của các bản án, quyết định của các cơ quan Tòa án,
Trọng tài, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, hiện nay, nhiệm vụ, quyền hạn
của các cơ quan này được quy định tại các Điều từ Điều 465 đến Điều 467
BLTTDS năm 2015, Điều 66, 67 Luật Trọng tài thương mại, từ Điều 134 đến
Điều 135 NĐ số 116/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
Cạnh tranh và các Điều 26, 27, 28, 48, 49 và 179 LTHADS năm 2014.
Với ý nghĩa có mối quan hệ hữu cơ, mật thiết với giai đoạn khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử - thi hành án nhằm thi hành phán quyết của các cơ quan
như Tòa án, Trọng tài, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh. Cụ thể, khoản 2
Điều 121 Luật cạnh tranh năm 2004 quy định“Trường hợp quyết định xử lý
vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành thì bên
được thi hành có quyền yêu cầu cơ quan THADS tỉnh, TP trực thuộc Trung
ương nơi có trụ sở, nơi cư trú hoặc nơi có tài sản của bên phải THA tổ chức
thực hiện quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh”. Đối với việc thi hành quyết
định của Trọng tài thương mại cũng được quy định tại Điều 66, 67 Luật


14
Trọng tài thương mại năm 2010: “Phán quyết của trọng tài được thi hành
theo quy định của Pháp luật về THADS”. Như vậy, nếu mục đích của thi hành
án không đạt được thì toàn bộ hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử
trước đó cũng trở nên vô nghĩa. Nếu như một bản án, quyết định của Tòa án
có hiệu lực pháp luật không được thi hành hoặc thi hành không nghiêm thì
trật tự kỷ cương xã hội bị vi phạm, quyền lực Nhà nước bị xem thường. Chính

vì vậy, việc bảo đảm hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa án là một
yêu cầu khách quan trong hoạt động quản lý Nhà nước.
-Về chủ thể tổ chức THADS, THADS do cơ quan, tổ chức thi hành án
thực hiện.
Tùy theo mô hình THA dân sự của mỗi nước khác nhau mà cơ quan thực
hiện hoạt động tổ chức THA dân sự cũng khác nhau. Ở Việt Nam hiện nay,
ngoài cơ quan THADS của Nhà nước còn có tổ chức Thừa phát lại thực hiện
thí điểmtại thành phố Hồ Chí Minh và hiện nay nhân rộng ra phạm vi cả nước
theo Nghị quyết số 107 ngày 26/11/2015 của Quốc hội về về thực hiện chế
định Thừa phát lạithì một số thủ tục THADS do văn phòng thừa phát lại thực
hiện như: Thực hiện việc tống đạt theo yêu cầu của Tòa án hoặc CQTHADS;
lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức; xác minh điều kiện
THA theo yêu cầu của đương sự; trực tiếp tổ chức THA các BA, QĐ của
Tòa án theo yêu cầu của đương sự. Thừa phát lại không tổ chức THA các
BA, QĐ thuộc diện Thủ trưởng CQTHADS chủ động ra quyết định THA.
- Về thủ tục THADS, THADS bao gồm nhiều thủ tục khác nhau và khác
với thủ tục THA hình sự.
Thủ tục THADS do pháp luật quy định, Chấp hành viên cũng không
được đặt ra trình tự, thủ tục và không tùy tiện trong quá trình tổ chức thực hiện
THA mà phải tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Quá trình THADS thực
hiện thông qua nhiều thủ tục và theo một trình tự nhất định. Thủ tục THA bao
gồm nhiều bước để đưa một bản án, quyết định của Tòa án ra thi hành.


15
Đầu tiên là thủ tục cấp, chuyển giao BA, QĐ của Tòa án cho đương sự
và CQTHADS để thi hành; cùng với đó là thủ tục gửi và giải thích BA, QĐ
của Tòa án nhằm mục đích để các cơ quan thực thi pháp luật có cách hiểu
thống nhất đối với các BA, QĐ đảm bảo cho việc CQTHA thực thi đúng bản
chất của sự việc, đúng pháp luật, đúng phán quyết của Tòa án và các cơ quan

khác. Tiếp theo đến thủ tục yêu cầu THA của đương sự, nộp đơn yêu cầu
THA, thủ tục nhận hoặc từ chối nhận đơn của CQTHADS. Và bước quan
trọng là thủ tục ra quyết định THA của thủ trưởng CQTHADS, trong quá
trình THA có thể phát sinh các thủ tục như hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ THA,
trả lại đơn yêu cầu THA, xác minh THA… cho đến chuyển giao quyền và
nghĩa vụ THA, nộp phí thi hành án, cưỡng chế thi hành án… rồi cuối cùng kết
thúc THA. Trong quá trình THADS, ở mỗi giai đoạn thực hiện từng thủ tục là
khác nhau và các thủ tục này liên kết toàn bộ quá trình thi hành án dân sự.
Tuy nhiên, trong quá trình thi hành án, có những thủ tục không phải thực hiện
hoặc có những thủ tục phải thực hiện ngay ở giai đoạn đầu, giữa hoặc sau khi
đã thi hành xong việc thi hành án, ví dụ như thủ tục giải quyết khiếu nại hoặc
thực hiện kháng nghị của Viện kiểm sát.
Như vậy, qua những phân tích ở trên có thể rút ra khái niệm về THADS
như sau: Thi hành án dân sự là thủ tục tố tụng tư pháp do cơ quan thi hành án
dân sự, tổ chức thi hành án (Thừa phát lại) để thi hành các bản án, quyết định
về dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, quyết định về tài sản trong bản án,
quyết định về hình sự, hành chính có hiệu lực thi hành của Tòa án, quyết định
của Trọng tài thương mại, quyết định Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh theo
trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp cả các cơ quan, tổ chức thủ tục thi hành án dân sự
là trình tự thi hành và quyết định khác do Cơ quan, tổ chức thi hành án dân
sự thực hiện theo qui định pháp luật.


16
1.2. Nội dung quy định của pháp luật hiện hành về thi hành án dân sự
1.2.1.Nội dung quy định của pháp luật hiện hành về việc ra quyết định
thi hành án dân sự
Các quy định về thủ tục THADS được quy định tại Chương III
LTHADS, từ Điều 26 đến Điều 65 và quy định tại Nghị định số 62/2015/NĐCP ngày 18/7/2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của

Luật THA dân sự về thủ tục THA dân sự.
1.2.1.1.Quyết định thi hành án dân sự chủ động
Các trường hợp THADS chủ động được quy định tại Điều 36 LTHADS.
Theo đó, Thủ trưởng cơ quan THA dân sự có thẩm quyền chủ động ra quyết
định THA và phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành đối với phần bản án,
quyết định sau: a) Hình phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án
phí, lệ phí Tòa án; b) Trả lại tiền, tài sản cho đương sự; c) Tịch thu sung quỹ
nhà nước, tịch thu tiêu hủy vật chứng, tài sản; các khoản thu khác cho Nhà
nước; d) Thu hồi quyền sử dụng đất và tài sản khác thuộc diện sung quỹ nhà
nước; đ) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; e) Quyết định của
Tòa án giải quyết phá sản.
Đối với trường hợp THADS chủ độngthì cơ quan, tổ chức ban hành bản
án, quyết định dân sự có hiệu lực thi hành chủ động chuyển giao bản án,
quyết định cho cơ quan THADS theo quy định của pháp luật tố tụng và Điều
28 LTHADS. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được bản án,
quyết định quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 36, Thủ trưởng cơ
quan THA dân sự phải ra quyết định THA.Đối với quyết định quy định tại
điểm đ khoản 2 Điều 36 thì phải ra ngay quyết định THA. Đối với quyết định
quy định tại điểm e khoản 2 Điều 36 thì phải ra quyết định THA trong thời
hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định. Theo khoản 1 Điều 6
NĐ 62/2015/NĐ-CP thì Thủ trưởng cơ quan THA dân sự ra một quyết định


17
THA chung cho các khoản thuộc diện chủ động thi hành trong một bản án,
quyết định, trừ trường hợp: (i) Trong một bản án, quyết định có khoản chủ
động về trả lại tiền, tài sản thì ra một quyết định THA đối với mỗi người được
THA; (ii) Trong một bản án, quyết định có nhiều người phải thi hành nhiều
khoản chủ động khác nhau thì ra một quyết định THA chung cho các khoản
thuộc diện chủ động THA đối với mỗi người phải THA.

1.2.1.2. Quyết định thi hành án theo yêu cầu
Ngoài các trường hợp THADS chủ động, người được THA, người phải
THA muốn thi hành bản án, quyết định dân sự có hiệu lực thi hành thì phải
làm đơn yêu cầu THADS. Đối với trường hợp THADS theo đơn yêu cầu thì
cơ quan, tổ chức ban hành bản án, quyết định dân sự có hiệu lực thi hành cấp
bản án, quyết định cho người được THA và người phải THA theo quy định
của pháp luật tố tụngvà Điều 27 LTHADS.
Đơn yêu cầu THADS phải thỏa mãn các điều kiện sau:
+ Người làm đơn yêu cầu THA phải là người có quyền yêu cầu THADS.
Theo Điều 7 và Điều 31 LTHADS thì người được THA, người phải
THA hoặc người được đương sự ủy quyền THA có quyền làm đơn yêu cầu
THADS. Như vậy, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong THADS
không có quyền làm đơn yêu cầu THADS.
+ Đơn yêu cầu THADS phải được gửi đến cơ quan THADS có thẩm
quyền theo Điều 35 LTHADS8. Thông thường, cơ quan THADS có thẩm
quyền THA là cơ quan THADS cùng cấp trên cùng địa bàn với Tòa án nơi xét
xử sơ thẩm. Do luật Tổ chức TAND năm 2014 có sự thay đổi về cơ cấu, tổ
chức hệ thống cơ quan Tòa án, thành lập thêm TAND cấp cao nên thẩm
quyền THADS cũng có sự thay đổi cho phù hợp. Theo đó, cơ quan THADS
cấp huyện có thẩm quyền thi hành đối với quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm
8

Giáo trình Luật THADS, trường đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2018, tr….


18
của Tòa án nhân dân cấp cao đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương
đương nơi cơ quan THA dân sự có trụ sở. Cơ quan THADS cấp tỉnh có thẩm
quyền thi hành bản án, quyết định của TAND cấp cao.

+ Đơn yêu cầu THA phải được gửi trong thời hiệu yêu cầu THA. Thời
hiệu yêu cầu THA dân sự là thời hạn do pháp luật quy định cho người được
THA, người phải THA có quyền yêu cầu cơ quan THA dân sự, thừa phát lại
tổ chức THA dân sự. Thời hiệu yêu cầu THA dân sự chỉ đặt ra đối với phần
bản án, quyết định thi hành theo yêu cầu của đương sự. Thời hiệu yêu cầu
THA dân sự được quy định tại Điều 30 LTHADS và Điều 4 Nghị định của
Chính phủ số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015. Thời hiệu yêu cầu THADS có
thể được khôi phục trong những trường hợp này đã được quy định tại khoản 3
Điều 30 LTHADS và khoản 2, khoản 3 Điều 4 Nghị định của Chính phủ số
62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015.
+ Việc yêu cầu THADS được thực hiện bằng việc nộp, gửi đơn yêu cầu
THA cho cơ quan THADS có thẩm quyền THA qua bưu điện hoặc trực tiếp
trình bày bằng lời nói tại cơ quan THADS có thẩm quyền THA. Đơn yêu cầu
THADS phải có các nội dung quy định tại Điều 31 LTHADS. Trong đó,
người làm đơn yêu cầu THADS không bắt buộc phải cung cấp thông tin về tài
sản hoặc điều kiện THA của người phải THA, nhưng khuyến khích họ cung
cấp thông tin.Người yêu cầu THA cũng có quyền yêu cầu cơ quan THA dân
sự áp dụng biện pháp bảo đảm THA quy định tại Điều 66 LTHADS ngay khi
yêu cầu THADS.Quy định này nhằm nâng cao trách nhiệm của cơ quan
THADS trong việc tổ chức THADS và trách nhiệm của người được THA đối
với yêu cầu của mình.
So với LTHADS năm 2008, LTHADS năm 2014đã bỏ điểm đ, khoản 1
Điều 31. Điểm đ, khoản 1 của Điều 31 Luật THADS năm 2008 quy định:
người được THA khi nộp đơn yêu cầu phải cung cấp thông tin khả năng (hoàn


19
cảnh kinh tế…) về tài sản hoặc điều kiện của người phải THA và thông tin
này phải được chính quyền địa phương xác nhận. Quy định này rất khó áp
dụng trên thực tế bởi người được THA và người phải THA có thể ở những địa

phương khác nhau thì không thể biết hết được hoàn cảnh kinh tế của
nhau.Bên cạnh đó, khi xác minh được rồi, việc nhờ chính quyền địa phương
nơi bên phải THA cư trú để xác nhận đóng dấu cũng không phải dễ. Mặt
khác, thông tin do người được THA cung cấp không mang tính chính xác cao
bởi có khi người được THA cứ nghe dư luận là ghi lại còn địa phương nơi nào
dễ dãi thì cứ đóng dấu xác nhận cho xong việc, còn chấp hành viên nhiều khi
vẫn phải tiến hành xác minh lại thông tin nếu muốn tiến hành áp dụng các
biện pháp cưỡng chế.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 31 LTHADS, khi nhận đơn yêu cầu
THA, cơ quan THADS phải kiểm tra nội dung đơn và các tài liệu kèm theo,
vào sổ nhận đơn yêu cầu THA và thông báo bằng văn bản cho người yêu cầu.
Đối với trường hợp đơn yêu cầu THA không có đầy đủ các nội dung theo quy
định của pháp luật hoặc không nêu rõ thông tin về điều kiện THA của người
phải THA và không yêu cầu xác minh thì cơ quan THA dân sự thông báo để
đương sự bổ sung nội dung đơn yêu cầu THA trước khi quyết định THA. Đối
với trường hợp đơn yêu cầu THA không có đầy đủ các điều kiện THA theo
quy định của pháp luật thì cơ quan THA dân sự từ chối nhận đơn yêu cầu
THA theo Điều 34 LTHADS.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 36 LTHADS, thời hạn ra quyết định
THA trong trường hợp THA theo yêu cầu của đương sự là 05 ngày làm việc,
kể từ ngày nhận được yêu cầu THA. Tùy trường hợp, thủ trưởng cơ quan
THA dân sự có thể ra một hoặc nhiều quyết định THA. Theo quy định tại
Điều 6 và Điều 7 Nghị định của Chính phủ số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015
thì đối với trường hợp THA theo yêu cầu thì thủ trưởng cơ quan THA dân sự ra


×