Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự từ thực tiễn tại các tòa án trên địa bàn tỉnh lạng sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 78 trang )

B GIO DC V O TO

B T PHP

TRNG I HC LUT H NI

NGUYN TH HNG

Thu thập chứng cứ
trong tố tụng dân sự từ thực tiễn
tại các Tòa án trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2018


B GIO DC V O TO

B T PHP

TRNG I HC LUT H NI

NGUYN TH HNG

Thu thập chứng cứ
trong tố tụng dân sự từ thực tiễn
tại các Tòa án trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn

LUN VN THC S LUT HC


Chuyờn ngnh : Lut dõn s v T tng dõn s
Mó s

: 8 38 01 03

Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS Trn Anh Tun

H NI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thị Hằng


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THU THẬP CHỨNG CỨ
CỦA TÒA ÁN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ


1.1.

7

Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của hoạt động thu thập chứng cứ
của Tòa án trong tố tụng dân sự

7

1.2. Quy định hiện hành về các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án
trong tố tụng dân sự

16

Chƣơng 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ THU THẬP
CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ TẠI CÁC TÒA ÁN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN VÀ KIẾN NGHỊ

34

2.1. Thực tiễn thực hiện các quy định về thu thập chứng cứ của Tòa án
trong tố tụng dân sự trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn

34

2.2. Một số kiến nghị về thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân
sự từ thực tiễn tại tỉnh Lạng Sơn

52


KẾT LUẬN

60

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHÀO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLTTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự

HĐĐGTS

: Hội đồng định giá tài sản

TAND

: Tòa án nhân dân

UBND

: Ủy ban nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu


Tên bảng

Trang

bảng
2.1

Nguyên nhân án bị hủy của các TAND trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn trong tố tụng dân sự

2.2

39

Nguyên nhân án bị sửa của các TAND trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn trong tố tụng dân sự

39

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Số hiệu

Tên biểu đồ

Trang

biểu đồ
2.1

Tình hình thụ lý, giải quyết các loại án của TAND hai cấp

tỉnh Lạng Sơn từ năm 2013 - 2017

2.2

35

Tình hình thực hiện các biện pháp thu thập chứng cứ trong
tố tụng dân sự của TAND hai cấp tỉnh Lạng Sơn từ năm
2013 - 2017

2.3

36

Tình hình vụ việc dân sự bị sửa, hủy do lỗi chủ quan của
Thẩm phán của TAND hai cấp tỉnh Lạng Sơn từ năm
2013 - 2017

2.4

38

Số vụ án dân sự tạm đình chỉ của TAND hai cấp tỉnh
Lạng Sơn từ năm 2013 - 2017

38


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) được Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 25/11/2015
và có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2016 đã thay thế BLTTDS số 24/2004/QH11
đã được sửa đổi và bổ sung theo Luật số 65/2011/QH12. Đây là văn bản có
tính pháp lý cao nhất quy định về những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân
sự; trình tự, thủ tục khởi kiện để Tòa án nhân dân (TAND) giải quyết các vụ
án về tranh chấp dân sự; trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự và
những vấn đề cơ bản khác nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự
được nhanh chóng, chính xác, công minh và đúng pháp luật.
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 ra đời đã có những quy định mới,
những sửa đổi, bổ sung quan trọng nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực
tiễn giải quyết các vụ việc dân sự trong giai đoạn hiện nay. Hoạt động thu
thập chứng cứ của Tòa án là một trong những nội dung quan trọng được điều
chỉnh bởi BLTTDS năm 2015 với những quy định mới, góp phần tạo cơ sở
pháp lý cho việc xác định sự thật khách quan của vụ án.
Trong những năm gần đây, công cuộc cải cách tư pháp được Đảng,
Nhà nước ta hết sức quan tâm, mục tiêu hướng tới xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhằm tạo sự
chuyển biến mang tính đột phá trong công cuộc đấu tranh bảo vệ công lý, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, ngày 02/6/2005 Bộ Chính trị đã
ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020, theo đó đặt ra nhiệm vụ trọng tâm mang tính đột phá của hoạt động tư
pháp là nâng cao chất lượng tranh tụng. Do vậy, hơn bao giờ hết, hoạt động
thu thập chứng cứ của Tòa án càng được quan tâm, chú trọng bởi chứng minh,
chứng cứ là cơ sở, là tiền đề của tranh tụng.


2
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã khắc phục được một số tồn tại,

hạn chế của BLTTDS năm 2004 về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án,
phù hợp hơn với thực tế áp dụng, đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân, tổ chức. Tuy nhiên, một số quy định của Bộ luật này điều chỉnh
hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án vẫn còn chưa thực sự hợp lý, thiếu
tính rõ ràng, cụ thể dẫn tới những khó khăn, vướng mắc nhất định trong thực
tiễn áp dụng tại các Tòa án trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Do vậy, việc nghiên
cứu một cách toàn diện, sâu sắc về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án
trên cơ sở pháp luật tố tụng dân sự hiện hành, từ đó đề xuất những giải pháp
cho việc hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả của hoạt động này là một
việc làm cấp thiết.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài "Thu thập chứng cứ
trong tố tụng dân sự từ thực tiễn tại các Tòa án trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn"
làm đề tài luận văn cao học luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Sau khi BLTTDS năm 2015 có hiệu lực đã có một số công trình
nghiên cứu và các bài viết trên tạp chí viết về hoạt động thu thập chứng cứ
của Tòa án. Tuy nhiên, các công trình, bài viết này chỉ thuần tuý chứngn cứu
hoạt động thu thập chứng cứ với tư cách là một giai đoạn của hoạt động
chứng minh trong tố tụng dân sự như đề tài "Thu thập chứng cứ theo quy định
của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015", của Hoàng Hải An (Luận văn cao học
bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2017) hoặc dưới khía cạnh là
hoạt động của Luật sư như đề tài "Hoạt động thu thập chứng cứ của Luật sư
trong tố tụng dân sự", của Đặng Minh Chiến (Luận văn cao học bảo vệ tại
Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2016). Về bài nghiên cứu có bài "Trình tự,
thủ tục thu thập chứng cứ", của Nguyễn Thị Thảo Trang, Trịnh Thị Minh
Trang trên Tạp chí TAND, số 8/2018. Việc nghiên cứu cho thấy các công trình
trên nghiên cứu với phạm vi rộng về các hoạt động thu thập chứng cứ nói
chung trong tố tụng dân sự hoặc nghiên cứu dưới góc độ nhiệm vụ, kỹ năng



3
của Luật sư liên quan đến hoạt động thu thập chứng cứ. Gần đây nhất là đề tài
khóa luận tốt nghiệp về "Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố
tụng dân sự và thực tiễn thực hiện" của Nguyễn Thị Thu Hằng (bảo vệ tại
Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2016) cũng nghiên cứu về hoạt động thu
thập chứng cứ trong tố tụng dân sự nhưng nội dung luận văn liên hệ thực tiễn
tới các Tòa án nói chung, không gắn với hoạt động thu thập chứng cứ của một
Tòa án địa phương cụ thể.
Bên cạnh đó, còn có các công trình nghiên cứu với những đề tài như
"Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự Việt Nam",
của Phạm Thị Hương; "Các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố
tụng dân sự", của Nguyễn Văn Thành… nhưng các công trình này đều là
những luận văn được thực hiện trước khi BLTTDS năm 2015 có hiệu lực
(Luận văn bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2013).
Cho đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách có hệ
thống, toàn diện về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân
sự theo BLTTDS năm 2015 có liên hệ đến thực tiễn các Tòa án trên địa bàn
tỉnh Lạng Sơn.
3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận cũng như
nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về
hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án (có đối chiếu, so sánh với các quy
định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam trước đó) và thực tiễn thực hiện
hoạt động thu thập chứng cứ của các Tòa án trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu chủ yếu về pháp luật hiện hành và thực
tiễn thực hiện hoạt động thu thập chứng cứ của các Tòa án trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn. Tuy nhiên, một số vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động thu thập
chứng cứ của Tòa án cũng được tiến hành nghiên cứu nhằm tạo cơ sở cho



4
việc đánh giá luật thực định và đề xuất kiến nghị. Do vậy, việc nghiên cứu đề
tài sẽ được giới hạn trong phạm vi sau đây:
- Nghiên cứu về bản chất của hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án
trong tố tụng dân sự;
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về hoạt
động thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự;
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về hoạt động thu thập chứng
cứ trong tố tụng dân sự tại các Tòa án trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
Trong phạm vi luận văn này chỉ đi sâu và nghiên cứu hoạt động chủ
động thu thập tài liệu, chứng cứ của Tòa án hoặc thu thập theo yêu cầu của
đương sự trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án, chuẩn bị xét đơn yêu cầu giải
quyết việc dân sự thông qua các biện pháp mà pháp luật quy định, qua đó liên
hệ với thực tiễn thực hiện của các Tòa án trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Luận
văn không đi sâu nghiên cứu hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án bằng
phương thức ghi nhận các chứng cứ do các chủ thể khác giao nộp, xuất trình
cho Tòa án hay hoạt động thu thập chứng cứ thông qua tranh tụng tại phiên tòa.
4. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
4.1. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là làm rõ được những vấn đề lý luận
cũng như nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện
hành về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án, chỉ ra những điểm mới
mang tính ưu việt so với BLTTDS trước đó và những nội dung còn thiếu sót,
chưa hợp lý trong các quy định hiện hành về hoạt động thu thập chứng cứ của
Tòa án. Đồng thời liên hệ với thực tế thực hiện hoạt động thu thập chứng cứ
của các Tòa án trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn, qua đó chỉ ra những vướng mắc,
khó khăn trong quá trình thực hiện. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu tổng hợp,
Luận văn sẽ đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật tố

tụng dân sự Việt Nam đối với hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án và giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án.


5
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Để thực hiện được mục tiêu trên, luận văn phải hoàn thành một số
nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về hoạt động thu thập chứng cứ
trong tố tụng dân sự;
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về
hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án.
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng dân
sự Việt Nam tại các Tòa án trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn; chỉ ra những vướng
mắc, khó khăn trong quá trình thực hiện, những điểm bất cập, thiếu hợp lý
trong các quy định của pháp luật về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án.
- Đưa ra một số đề xuất nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật tố tụng
dân sự Việt Nam về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng
dân sự và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thu thập chứng cứ của
Tòa án nói chung và các Tòa án trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn nói riêng.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Việc nghiên cứu luận văn được tiến hành dựa trên cơ sở phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử, chính sách của Đảng, Nhà nước và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và
pháp luật. Đồng thời luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa
học chuyên ngành khác như phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống
kê, quy nạp, diễn dịch v.v…
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống về
hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự Việt Nam có

liên hệ thực tiễn thực hiện với các Tòa án trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Những
đóng góp của luận văn thể hiện trên một số phương diện sau đây:
- Làm rõ được khái niệm và đặc điểm cơ bản của hoạt động thu thập
chứng cứ; chỉ ra được ý nghĩa của hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án
trong tố tụng dân sự.


6
- Là công trình nghiên cứu đánh giá về các quy định hiện hành liên
quan đến hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án và thực tiễn thực hiện tại
các Tòa án trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Do vậy, Luận văn chỉ ra được những
hạn chế của pháp luật và bất cập trong thực tiễn thực hiện các quy định của
BLTTDS năm 2015 về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án từ thực tiễn tại
tỉnh Lạng Sơn.
- Trên cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu, luận văn đề xuất những giải
pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động thu thập chứng cứ của
Tòa án, nâng cao hiệu quả của hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án nói
chung và đặc biệt là các Tòa án trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
- Luận văn được bảo vệ thành công sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích
cho giảng viên, sinh viên chuyên ngành luật, các cán bộ làm công tác thực
tiễn liên quan đến hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án. Ngoài ra, luận văn
sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan lập pháp liên quan tới việc
hoàn thiện pháp luật về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng
dân sự Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm hai chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về thu thập chứng cứ của Tòa án
trong tố tụng dân sự.
Chương 2: Thực tiễn thực hiện các quy định về thu thập chứng cứ

trong tố tụng dân sự tại các Tòa án trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn và kiến nghị.


7
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THU THẬP CHỨNG CỨ
CỦA TÒA ÁN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của hoạt động thu thập chứng
cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của hoạt động thu thập chứng cứ của
Tòa án trong tố tụng dân sự
1.1.1.1. Khái niệm về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong
tố tụng dân sự
Theo Từ điển tiếng Việt thì "hoạt động" có nghĩa là "làm những việc
khác nhau với mục đích nhất định trong đời sống xã hội". "Thu thập" là "góp
nhặt và tập hợp lại"; "chứng cứ" là "những cái cụ thể như lời nói, việc làm,
vật chứng, tài liệu tỏ rõ điều gì đó có thật".
Như vậy, dưới góc độ ngôn ngữ học thì hoạt động thu thập chứng cứ
là hoạt động phát hiện, góp nhặt và tập hợp những tình tiết, sự kiện có liên
quan đến vụ việc dân sự nhằm mục đích nghiên cứu, đánh giá và sử dụng giải
quyết vụ việc dân sự đó.
Vậy dưới góc độ lý luận thì hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án
trong tố tụng dân sự là gì? Hoạt động thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự
của Tòa án có phải là hoạt động chứng minh giải quyết vụ việc dân sự dân sự
hay không?
Trong thế giới khách quan luôn tồn tại nhiều sự vật, hiện tượng khác
nhau đòi hỏi con người phải nhận thức và đánh giá, đó chính là các hoạt động
chứng minh. Đây là hoạt động diễn ra thường xuyên trong cuộc sống khi con
người nhận thức thế giới xung quanh. Theo Từ điển tiếng Việt thì chứng minh
là nhằm "làm cho thấy rõ là có thật, là đúng bằng sự việc hoặc bằng lý lẽ".

Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án phải làm sáng tỏ những tình
tiết liên quan đến vụ việc dân sự, phải nghiên cứu những chứng cứ khác nhau


8
do đương sự cung cấp và những chứng cứ tự mình thu thập được, đây chính là
hoạt động chứng minh của Tòa án. Hoạt động chứng minh được diễn ra suốt
trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, bao gồm nhiều hoạt động khác nhau
của các chủ thể tố tụng như cung cấp, thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ
và làm rõ các cơ sở pháp lý liên quan đến các yêu cầu trong vụ việc dân sự.
Như vậy, hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự là hoạt động
mang tính chất pháp lý đặc thù được điều chỉnh bởi quy phạm pháp luật tố
tụng dân sự, do các chủ thể được pháp luật quy định thực hiện và kết quả của
hoạt động này sẽ cơ sở để Tòa án ra phán quyết giải quyết vụ việc. Chủ thể
của hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự bao gồm đương sự, người đại
diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và
Tòa án, cụ thể là Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc và Hội đồng
xét xử vụ án đó.
Nghĩa vụ chứng minh cho yêu cầu, phản đối yêu cầu trước hết thuộc
về đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ
trước Tòa án. Tòa án chỉ có trách nhiệm xác minh, thu thập chứng cứ trong
những trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập chứng cứ và có yêu
cầu. Tòa án có thể hỗ trợ đương sự thực hiện nghĩa vụ chứng minh hoặc trong
trường hợp cần thiết thì Tòa án có thể chủ động tiến hành thu thập chứng cứ
nhằm làm rõ những sự kiện pháp lý của vụ việc.
Đối với các đương sự, hoạt động chứng minh là phương tiện duy nhất
để họ có thể bảo vệ được các quyền và lợi ích của mình. Đối với Tòa án, hoạt
động chứng minh là công cụ để Tòa án có thể nhận thức được chính xác sự
việc đã xảy ra trên thực tế, làm cơ sở để đưa ra phán quyết giải quyết các vụ
việc phát sinh một cách nhanh chóng, chính xác và khách quan.

Hoạt động chứng minh được thực hiện thông qua các hoạt động cụ thể
bao gồm cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ. Trong đó,
cung cấp chứng cứ là hoạt động tố tụng của các chủ thể tố tụng trong việc đưa
lại cho Tòa án, Viện kiểm sát các chứng cứ của vụ việc dân sự. Nghĩa vụ cung


9
cấp chứng cứ thuộc về các đương sự, người đại diện của họ và cá nhân, cơ
quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ. Thu thập chứng cứ là hoạt
động do các chủ thể chứng minh thực hiện nhằm phát hiện các chứng cứ của
vụ việc dân sự. Nghiên cứu chứng cứ là hoạt động do các chủ thể tố tụng tiến
hành trong suốt quá trình tố tụng dân sự nhằm kiểm tra các thuộc tính của
chứng cứ, tài liệu thu thập được. Đây là hoạt động có tính tiền đề, cơ sở cho
hoạt động đánh giá chứng cứ. Đánh giá chứng cứ là hoạt động cuối cùng của
quá trình chứng minh do các chủ thể chứng minh thực hiện nhằm xác định giá
trị chứng minh của chứng cứ. Trong đó, việc đánh giá chứng cứ của Tòa án là
quan trọng nhất vì Tòa án là chủ thể có quyền sử dụng chứng cứ để giải quyết
vụ việc dân sự.
Như vậy, theo nghĩa hẹp thì hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án
chỉ bao gồm các hoạt động chủ động thu thập chứng cứ của Tòa án hoặc Tòa
án thu thập theo yêu cầu của đương sự. Theo nghĩa rộng, hoạt động thu thập
chứng cứ của Tòa án bao gồm cả việc Tòa án ghi nhận các chứng cứ do các
chủ thể tham gia tố tụng chủ động giao nộp, xuất trình nhằm chứng minh yêu
cầu của mình hoặc của người khác là có căn cứ.
Từ những phân tích trên có thể kết luận, hoạt động thu thập chứng cứ
của Tòa án là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, do Thẩm phán hoặc
Hội đồng xét xử tiến hành nhằm tập hợp, ghi nhận, thu giữ và bảo quản các
chứng cứ liên quan đến vụ việc dân sự theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy
định, tạo tiền đề cho việc nghiên cứu, đánh giá chứng cứ nhằm xác định sự
thật khách quan của vụ việc dân sự.

1.1.1.2. Đặc điểm của hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong
tố tụng dân sự
- Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự là
hoạt động có tính quyền lực nhà nước
Đây là đặc điểm cơ bản phân biệt hoạt động thu thập chứng cứ của
Tòa án với hoạt động thu thập chứng cứ của những người tham gia tố tụng.


10
Tính quyền lực nhà nước được thể hiện ở chỗ các biện pháp thu thập chứng
cứ mà Tòa án tiến hành có tính ràng buộc trách nhiệm với các chủ thể liên
quan. Ví dụ, đương sự có nghĩa vụ phải có mặt theo giấy triệu tập, giấy báo
của Tòa án; những người tham gia tố tụng được triệu tập phải có mặt để
tham gia đối chất; cơ quan hữu quan phải phối hợp với Tòa án trong việc
tiến hành việc xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản, cử người tham
gia Hội đồng định giá; Tòa án nhận được ủy thác có trách nhiệm thực hiện
công việc ủy thác thu thập chứng cứ trong thời hạn luật định; các chủ thể
đang quản lý, lưu giữ chứng cứ phải thực hiện yêu cầu cung cấp chứng cứ
của Tòa án đúng thời hạn và phải chịu trách nhiệm pháp lý về hành vi vi
phạm của mình v.v...
- Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự do
Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc dân sự hoặc Hội đồng xét xử
tiến hành
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án, chuẩn bị xét đơn yêu cầu giải
quyết việc dân sự Thẩm phán được phân công giải quyết là người trực tiếp
xây dựng hồ sơ vụ việc dân sự, thu thập chứng cứ thông qua các hoạt động
như lấy lời khai, đối chất, hòa giải... Đây là đặc điểm để phân biệt hoạt động
thu thập chứng cứ của Tòa án trong lĩnh vực tố tụng dân sự với lĩnh vực tố
tụng hình sự. Khác với hoạt động thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự, mục
đích của hoạt động tố tụng hình sự là truy tố những hành vi vi phạm pháp luật

có tính chất nguy hiểm cho xã hội để bảo vệ tính nghiêm minh của pháp luật.
Do vậy, việc thu thập chứng cứ trong tố tụng hình sự thuộc trách nhiệm của
cơ quan điều tra. Tòa án chỉ thu thập chứng cứ tại phiên tòa thông qua phần
xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa. Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, nếu xét thấy
các tài liệu, chứng cứ chưa đầy đủ thì Tòa án ra quyết định trả hồ sơ để điều
tra bổ sung chứ không trực tiếp thực hiện công việc thu thập chứng cứ như
trong tố tụng dân sự. Đồng thời, pháp luật tố tụng hình sự cũng không quy
định bị can, bị cáo phải có nghĩa vụ chứng minh, họ cũng không phải chịu


11
tình tiết tăng nặng nếu không khai báo hoặc khai báo gian dối. Nghĩa vụ thu
thập chứng cứ để chứng minh tội phạm trong trường hợp này thuộc về Nhà
nước mà cụ thể là các cơ quan tiến hành tố tụng. Còn tại phiên tòa, các thành
viên Hội đồng xét xử là người trực tiếp thực hiện việc thu thập chứng cứ
thông qua hoạt động xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa.
Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự do
Thẩm phán giải quyết vụ việc tiến hành. Đây cũng là đặc điểm cơ bản để phân
biệt với hoạt động thu thập chứng cứ của người tham gia tố tụng và Viện
kiểm sát. Ngoài ra, đặc điểm này là dấu hiệu để khẳng định quyền năng của
Thẩm phán trong việc thu thập chứng cứ đối với các vụ việc dân sự. Thẩm
phán được phân công trực tiếp giải quyết vụ việc dân sự là người nắm rõ nội
dung vụ việc nhất, là người chịu trách nhiệm về kết quả của việc giải quyết vụ
việc. Chánh án và Phó chánh án không có vai trò trong việc thu thập chứng cứ
để giải quyết vụ việc. Thư ký Tòa án cũng không có quyền thu thập chứng cứ
mà chỉ là người giúp việc cho Thẩm phán, hỗ trợ Thẩm phán trong một số
hoạt động thu thập chứng cứ như ghi biên bản lấy lời khai, biên bản định giá
tài sản, biên bản đối chất, nhận các tài liệu đương sự giao nộp khi được Thẩm
phán giao nhiệm vụ.
- Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án nhằm hỗ trợ cho đương sự

trong việc thực hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh, được tiến
hành theo yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự
Khi tham gia tố tụng, các đương sự có nghĩa vụ cung cấp, chứng
minh, do vậy họ phải thu thập chứng cứ nộp cho Tòa án để bảo vệ quyền lợi
của mình. Một trong các nguyên tắc cơ bản được ghi nhận trong tố tụng dân
sự là nghĩa vụ chứng minh thuộc về đương sự. Xuất phát từ nguyên tắc
"quyền tự định đoạt của đương sự" mà tố tụng dân sự ghi nhận đương sự có
nghĩa vụ chứng minh cho yêu cầu của mình, Tòa án chỉ thu thập chứng cứ
trong một số trường hợp luật định. Vì vậy, đương sự phải tiến hành thu thập
chứng cứ để cung cấp cho Tòa án, nghĩa vụ thu thập chứng cứ để chứng minh


12
trước tiên thuộc về đương sự, hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án chỉ
mang tính hỗ trợ cho đương sự và phục vụ cho việc làm rõ cơ sở, quyết định
của Tòa án. Trong nhiều vụ án, khả năng tự bảo vệ của đương sự yếu, chứng cứ
đương sự không tự thu thập được, các cơ quan, tổ chức, cá nhân lưu giữ chứng
cứ gây khó khăn, không có thiện chí cung cấp chứng cứ cho đương sự v.v...,
nếu đợi chứng cứ do đương sự giao nộp, cung cấp thì vụ việc sẽ bị kéo dài mà
không có hướng giải quyết, dẫn đến tình trạng án quá hạn luật định, và trong
nhiều trường hợp có thể sẽ làm cho vụ án thêm phức tạp, khó khăn nên cần
thiết Tòa án phải tiến hành các biện pháp hỗ trợ đương sự thu thập chứng cứ.
Không phải vụ việc dân sự nào cũng yêu cầu Tòa án tiến hành các hoạt động
thu thập chứng cứ như nhau mà tùy thuộc vào yêu cầu của từng vụ việc, Tòa
án sẽ tiến hành các hoạt động thu thập chứng cứ cần thiết, phù hợp. Ví dụ
trong vụ án hôn nhân gia đình mà các đương sự thỏa thuận được về con cái,
tài sản, nợ chung, chỉ yêu cầu Tòa án công nhận sự thuận tình ly hôn với căn
cứ rõ ràng quan hệ hôn nhân không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không
đạt được thì Tòa án không cần phải tiến hành các hoạt động thu thập chứng cứ
như thẩm định, định giá tài sản. Tuy nhiên, nếu trong trường hợp vụ án mà

các đương sự yêu cầu chia tài sản mà không tự xác định được giá trị tài sản
tranh chấp thì Tòa án sẽ phải tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ là thẩm
định, định giá tài sản để có căn cứ giải quyết vụ án.
Nếu như trong tố tụng dân sự, các bên đương sự có quyền và nghĩa
vụ ngang nhau trong việc cung cấp chứng cứ, Tòa án chỉ thu thập chứng cứ
trong một số trường hợp luật định thì trong tố tụng hành chính, do đặc thù
bên bị kiện là cơ quan nhà nước, bên khởi kiện là bên yếu thế hơn nên việc
thu thập chứng cứ của nguyên đơn có thể gặp khó khăn. Bởi vậy, trong tố
tụng hành chính, vai trò của Tòa án trong việc xác minh, thu thập chứng cứ
được đề cao hơn, giữ vai trò đặc biệt quan trọng và cần thiết nhằm đảm bảo
việc xác định sự thật khách quan, giúp cho việc giải quyết vụ án được công
bằng, minh bạch.


13
- Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án phải được tiến hành theo
quy định của pháp luật
Một trong những thuộc tính cơ bản của chứng cứ là tính hợp pháp.
Theo đó, những thông tin thực tế về vụ việc dân sự phải được Tòa án thu thập
từ các nguồn hợp pháp và theo đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định.
Đặc điểm này nhằm bảo đảm tính hợp pháp của chứng cứ, tránh sự lạm quyền
hay tùy tiện của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, ngăn ngừa các hành vi gây
tổn hại đến quyền của đương sự.
Các sự kiện, tình tiết để trở thành chứng cứ trong vụ việc dân sự có
giá trị chứng minh cho yêu cầu hay phản đối của các bên thì cần phải được
thu thập, bảo quản, củng cố, nghiên cứu và đánh giá theo một thủ tục do luật
định, trình tự này nhằm bảo đảm giá trị của chứng cứ, buộc Thẩm phán tiến
hành tố tụng dân sự một cách thận trọng, chặt chẽ, đảm bảo độ tin cậy và tính
khách quan của các chứng cứ do Tòa án thu thập và sử dụng, từ đó các phán
quyết của Tòa án có được sức thuyết phục cao, thể hiện tính công bằng,

nghiêm minh của pháp luật. Chứng cứ sẽ mất giá trị nếu trong quá trình thu
thập có sự vi phạm quy định của pháp luật. Chẳng hạn, pháp luật yêu cầu khi
Thẩm phán tiến hành lấy lời khai của người làm chứng chưa đủ chưa đủ mười
tám tuổi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi thì việc lấy lời khai phải được tiến hành với
sự có mặt của người đại diện theo pháp luật hoặc người đang thực hiện việc
quản lý, trông nom người đó. Với cách quy định chặt chẽ về thủ tục thu thập
chứng cứ như trên sẽ hạn chế được việc lập khống các biên bản lấy lời khai
hoặc giả mạo chứng cứ, đồng thời tránh được phản bác của đương sự đối lập
về tính hợp pháp của tài liệu, chứng cứ.
1.1.2. Ý nghĩa của hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố
tụng dân sự
Hoạt động giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự có được tốt hay không phụ thuộc một phần rất lớn


14
vào việc chứng cứ có được cung cấp, thu thập đầy đủ hay không. Do đó, hoạt
động thu thập chứng cứ của Tòa án giữ vai trò quan trọng trong việc giải
quyết vụ việc dân sự.
- Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án giữ vai trò là một trong
các hoạt động chứng minh hiệu quả trong tố tụng dân sự
Chứng cứ là vấn đề trung tâm và quan trọng trong hoạt động chứng
minh tố tụng dân sự. Có thể nói, mọi hoạt động trong quá trình chứng minh
chủ yếu xoay quanh vấn đề chứng cứ, chứng cứ là phần quan trọng nhất để
chứng minh vụ việc dân sự. Do vậy, hoạt động thu thập chứng cứ nói chung
và của Tòa án nói riêng là một trong các hoạt động chứng minh hiệu quả, tạo
tiền đề cần thiết cho việc giải quyết vụ việc dân sự.
Mặc dù pháp luật tố tụng dân sự ghi nhận các đương sự có nghĩa vụ
cung cấp chứng cứ để Tòa án xem xét giải quyết vụ việc, nhưng các chứng

cứ, tài liệu mà đương sự và những người tham gia tố tụng cung cấp có thể
chưa đủ để giải quyết vụ việc dân sự. Thẩm phán phải đánh giá, xác định xem
trong vụ việc dân sự cần phải chứng minh, làm rõ những sự kiện, tình tiết nào,
từ đó phải xác định cần phải thu thập chứng cứ ở đâu, từ đối tượng nào để có
thể làm rõ vấn đề cần chứng minh. Thẩm phán trực tiếp thụ lý giải quyết vụ
việc dân sự là người tiếp xúc trực tiếp với chứng cứ, với các đương sự trong
vụ việc, nghe đương sự trình bày yêu cầu và chứng minh cho yêu cầu của
mình. Do vậy, hơn ai hết Thẩm phán hiểu rõ những vấn đề khúc mắc trong vụ
việc, những vấn đề gì đã rõ và vấn đề nào cần làm rõ, từ đó bằng kỹ năng,
nghiệp vụ của mình xác định được phương hướng, vấn đề cần chứng minh,
yêu cầu đương sự cung cấp chứng cứ chứng minh hoặc tự thu thập chứng cứ
chứng minh, tránh tình trạng thu thập chứng cứ tràn lan, không có trọng tâm
dẫn đến chứng cứ thu thập được không có giá trị chứng minh.
- Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án giúp đương sự thực hiện
nghĩa vụ chứng minh và cung cấp chứng cứ
Việt Nam với đặc thù là một nước đang phát triển, trình độ hiểu biết
pháp luật của người dân còn hạn chế nên mặc dù đề cao vai trò chứng minh


15
của đương sự trong tố tụng dân sự nhưng vẫn chưa thể xóa bỏ vai trò của Tòa
án trong hoạt động chứng minh. Thực tế cho thấy khi sự hiểu biết pháp luật
của đa số đương sự ở nước ta còn thấp, khả năng tự bảo vệ còn hạn chế, chưa
có điều kiện thuê người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình, trách
nhiệm của các cơ quan, tổ chức lưu giữ chứng cứ chưa cao thì việc đương sự
tự mình thu thập toàn bộ chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình sẽ gặp
rất nhiều khó khăn, dẫn đến hậu quả là quyền và lợi ích hợp pháp của họ
không được bảo vệ. Trong khi đó, một bên đương sự khác có thể được hưởng
lợi không có căn cứ do đương sự có quyền không có khả năng chứng minh
được quyền lợi của mình. Bởi vậy, hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án

trong tố tụng dân sự sẽ giúp đương sự trong việc định hướng các nguồn chứng
cứ, thu thập những chứng cứ mà đương sự không có khả năng thu thập. Theo
đó, đương sự có quyền yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ khi có căn cứ chứng
minh mình không thể tự thu thập được theo yêu cầu của Tòa án. Căn cứ theo
yêu cầu của đương sự, Tòa án ra các quyết định như trưng cầu giám định,
định giá tài sản, yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức giao nộp chứng cứ…
Chính bởi vậy, hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án là hoạt động cần thiết
giúp đương sự thực hiện quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng
minh cho yêu cầu của mình.
- Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án nhằm giúp Tòa án thực
hiện vai trò là cơ quan bảo vệ công lý
Trong thực tế, nếu không làm sáng tỏ được các tình tiết, sự kiện của
vụ việc dân sự thì có thể dẫn tới những đánh giá sai lầm trong quá trình giải
quyết vụ việc đó. Do vậy, thu thập chứng cứ không chỉ có ý nghĩa đối với
việc bảo đảm cho quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự mà còn có ý nghĩa
đối với việc giải quyết vụ việc của Tòa án bởi đây là hoạt động chứng minh
có tính chất tiền đề cho các hoạt động chứng minh khác, giúp Tòa án giải
quyết vụ việc một cách chính xác, khách quan, bảo đảm được quyền và lợi ích
hợp pháp cho đương sự.


16
Với vai trò là cơ quan tư pháp thực hiện chức năng xét xử, cơ quan
bảo vệ công lý thì việc thu thập, đánh giá đầy đủ, toàn diện chứng cứ để giải
quyết vụ việc một cách khách quan, công tâm, bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp cho công dân là mục tiêu cao nhất để Tòa án hoàn thành nhiệm vụ chính
trị của mình.
1.2. Quy định hiện hành về các biện pháp thu thập chứng cứ của
Tòa án trong tố tụng dân sự
1.2.1. Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng

1.2.1.1. Lấy lời khai của đương sự
Đương sự trong tố tụng dân sự là người có quyền và lợi ích gắn liền
với vụ việc dân sự, hơn ai hết họ là người trực tiếp biết rõ các tình tiết, sự
kiện liên quan đến vụ việc dân sự. Mỗi đương sự ở một địa vị tố tụng khác
nhau họ có sự tiếp cận, nhận thức các tình tiết, sự kiện khác nhau. Do vậy,
biện pháp lấy lời khai của đương sự là một biện pháp có ý nghĩa quan trọng.
Tuy nhiên, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử thì Tòa án đã yêu cầu các đương
sự giao nộp tài liệu, chứng cứ. Do vậy, việc Tòa án tiến hành lấy lời khai
đương sự trong nhiều trường hợp mang tính xác minh, bổ sung. Trên cơ sở
đó, BLTTDS năm 2015 quy định: "Thẩm phán chỉ tiến hành lấy lời khai của
đương sự khi chưa có bản khai hoặc nội dung bản khai chưa đầy đủ, rõ
ràng... Việc lấy lời khai của đương sự chỉ tập trung vào những tình tiết mà
đương sự khai chưa đầy đủ, rõ ràng". Theo đó, trước khi tiến hành lấy lời
khai của đương sự, Thẩm phán phải yêu cầu đương sự viết bản tự khai. Chỉ
khi nội dung trong bản khai chưa đầy đủ hoặc chưa rõ ràng thì mới tiến hành
lấy lời khai đối với những nội dung đó. Để đánh giá được những nội dung
trong bản khai đã đầy đủ, rõ ràng hay chưa yêu cầu Thẩm phán phải nắm chắc
các tình tiết mấu chốt có ý nghĩa quan trọng.
Nếu như trước khi BLTTDS năm 2004 có hiệu lực thi hành, Thẩm
phán và cán bộ Tòa án thường hướng dẫn cho đương sự thực hiện việc tự khai
trình bày qua đơn thì đến BLTTDS năm 2015 đã quy định rõ "Đương sự phải


17
tự viết bản khai và ký tên của mình". Thẩm phán phụ trách việc giải quyết vụ
việc dân sự sẽ hướng dẫn đương sự viết bản tự khai, tập trung làm rõ những
vấn đề mà đương sự chưa khai hoặc khai chưa rõ ràng, đầy đủ; những mâu
thuẫn trong chính bản khai của đương sự hoặc giữa bản khai của đương sự
này với đương sự khác, giữa bản khai của đương sự với lời khai của nhân
chứng hoặc các tài liệu, chứng cứ có liên quan trong hồ sơ.

Quy định này có ý nghĩa thực tiễn, bảo đảm cung cấp chứng cứ một
cách chính xác, khách quan mà không bị bất cứ sự ép buộc nào, giảm bớt một
phần công việc cho Tòa án. Từ đó, Thẩm phán xác định được phương hướng
để triển khai kế hoạch giải quyết vụ việc dân sự phù hợp.
Việc viết bản khai có thể do đương sự tự viết tay hoặc đánh máy,
trong trường hợp đương sự không tự viết được thì Thẩm phán lấy lời khai của
đương sự, Thẩm phán tự mình hoặc Thư ký Tòa án ghi lại biên bản; kết thúc
quá trình lấy lời khai, người khai phải được tự đọc lại hoặc nghe đọc lại, phải
yêu cầu đương sự ký hoặc điểm chỉ vào tất cả các trang, có đoạn nào cần sửa
chữa, bổ sung thì yêu cầu đương sự ghi chú và xác nhận bằng ký tên hoặc
điểm chỉ. Biên bản phải có chữ ký của người tiến hành lấy lời khai, người
được lấy lời khai và người ghi biên bản và đóng dấu của Tòa án. Trường hợp
người khai không ký vào biên bản thì phải yêu cầu họ ghi rõ lý do vì sao
không ký. Nếu đã giải thích cho họ mà họ vẫn không ký thì Thẩm phán mời
người làm chứng đến xác nhận sự việc và ký tên vào biên bản.
Thông thường, Thẩm phán lấy lời khai của đương sự tại trụ sở Tòa án,
"trường hợp cần thiết" có thể lấy lời khai của đương sự ngoài trụ sở Tòa án
(khoản 1 Điều 98 BLTTDS năm 2015). BLTTDS không quy định rõ như thế
nào là trường hợp cần thiết nhưng trên thực tiễn thì đó có thể là những trường
hợp như đương sự mới sinh con, ốm đau, bệnh tật nặng, già yếu, đang bị giam
giữ... không có điều kiện đi lại. Trường hợp biên bản ghi lời khai của đương
sự được lập ngoài trụ sở Tòa án thì phải có người làm chứng hoặc xác nhận


18
của Ủy ban nhân dân (UBND) cấp xã hoặc công an xã, phường, thị trấn hoặc
cơ quan, tổ chức nơi lập biên bản.
Việc lấy lời khai của đương sự là người chưa đủ 6 tuổi; đương sự là
người mất năng lực hành vi dân sự; đương sự là người từ đủ 6 tuổi đến chưa
đủ 15 tuổi; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn

trong nhận thức, làm chủ hành vi phải được tiến hành với sự có mặt của người
đại diện hợp pháp của đương sự đó.
1.2.1.2. Lấy lời khai của người làm chứng
Khác với đương sự, người làm chứng không có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan gì trong vụ án nhưng họ là người biết những tình tiết có liên quan
đến vụ án. Việc lấy lời khai của người làm chứng có thể được Tòa án tiến
hành theo yêu cầu của đương sự hoặc do Tòa án chủ động tiến hành khi xét
thấy cần thiết để làm rõ sự thật của vụ việc dân sự. Về cách thức, thủ tục lấy
lời khai người làm chứng cũng thực hiện như việc lấy lời khai của đương sự.
Tuy nhiên, để bảo đảm tính xác thực của lời khai, trước khi lấy lời khai của
người làm chứng, Thẩm phán phải giải thích quyền và nghĩa vụ của người
làm chứng theo quy định của BLTTDS năm 2015 và yêu cầu người làm
chứng cam đoan về lời khai của mình. Trong trường hợp người làm chứng
khai báo sai sự thật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà có thể bị xử lý
kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định
của pháp luật.
Việc tiến hành lấy lời khai người làm chứng có thể được tiến hành tại
trụ sở Tòa án hoặc ngoài trụ sở Tòa án.
Việc lấy lời khai của người làm chứng chưa đủ mười tám tuổi, người
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc người có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi phải được tiến hành với sự có mặt của người đại diện theo
pháp luật hoặc người đang thực hiện việc quản lý, trông nom người đó.
Việc lấy lời khai là cách thức thu thập chứng cứ được áp dụng phổ
biến nhất trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự, giúp Tòa án có được


19
chứng cứ sinh động, thực tế. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều khi hoạt động này
chưa mang lại hiệu quả chứng minh như mong muốn. Nguyên nhân là do tính
tin cậy của chứng cứ thu được thông qua hoạt động lấy lời khai không được

đảm bảo. Người được lấy lời khai có thể cung cấp cho Tòa án thông tin chính
xác, trung thực nhưng cũng có thể thông tin đó không chính xác, sai sự thực
nhằm mục đích có lợi cho mình, bất lợi cho đương sự phía bên kia; hoặc với
những trường hợp người làm chứng không khách quan, có quan hệ thân thiết,
gần gũi với một bên đương sự hoặc người làm chứng có những quan hệ tiêu
cực với một bên đương sự hay có thể vì những mục đích tư lợi khác thì lời
khai của họ có thể không đúng sự thực khách quan. Bởi vậy, tất cả các chứng
cứ sau khi thu thập được từ biện pháp lấy lời khai đều cần phải được Thẩm
phán xem xét, đánh giá một cách khách quan, thận trọng, toàn diện và logic
với các chứng cứ khác.
1.2.2. Đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa đương sự với
người làm chứng
Đối chất là biện pháp thu thập chứng cứ do Tòa án tiến hành cho các
đương sự, người làm chứng gặp mặt nhau để đối chiếu, so sánh hoặc chất vấn
nhau về cùng một vấn đề để làm sáng tỏ sự thật khách quan của vấn đề đó.
Bởi lẽ, cùng một hiện tượng, sự kiện nhưng mỗi cá nhân có thể có những cách
nhìn nhận, đánh giá khác nhau, từ đó khai báo với Tòa khác nhau. Để làm rõ
những khác biệt đó, Thẩm phán cần tiến hành cho các đương sự, người làm
chứng đối chất với nhau nhằm làm rõ nguyên nhân, nội dung cụ thể của mâu
thuẫn, tính đúng đắn, tin cậy của những căn cứ mà mỗi người đưa ra chứng
minh cho lời khai của mình. Biện pháp đối chất có thể được Tòa án chủ động
tiến hành hoặc tiến hành theo yêu cầu của đương sự. Tại Điều 100 BLTTDS
năm 2015 quy định: Theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy có sự mâu
thuẫn trong lời khai của các đương sự, người làm chứng, Thẩm phán tiến
hành đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa đương sự với người làm
chứng hoặc giữa những người làm chứng với nhau. Khi đối chất Thẩm phán


×