Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Đánh giá tác động chính sách của dự án luật chuyển đổi giới tính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.03 MB, 119 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ MINH HƯỜNG

ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CHÍNH SÁCH
CỦA DỰ ÁN LUẬT CHUYỂN ĐỔI GIỚI TÍNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Định hướng ứng dụng

Hà Nội - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ MINH HƯỜNG

ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CHÍNH SÁCH
CỦA DỰ ÁN LUẬT CHUYỂN ĐỔI GIỚI TÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và luật hành chính
Mã ngành: 8380102

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Định hướng ứng dụng

Người hướng dẫn khoa học: TS. Đoàn Thị Tố Uyên

Hà Nội - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận Văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình này khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn theo đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn
này./.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Minh Hường


LỜI CẢM ƠN
Qua trang viết này tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến tập thể Lãnh đạo
Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Đào tạo Sau đại học đã tạo điều kiện cho
tôi hoàn thành tốt công việc học tập, nghiên cứu và thực hiện luận văn thạc sĩ.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến toàn thể quý thầy cô giáo đã
tận tình hướng dẫn, truyền dạy những kiến thức quý báu cho tôi trong suốt quá
trình học tập, nghiên cứu và rèn luyện tại Trường Đại học Luật Hà Nội.
Tôi xin tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến cô giáo TS. Đoàn Thị
Tố Uyên đã trực tiếp tận tình hướng dẫn cũng như cung cấp tài liệu thông tin
khoa học cần thiết để tôi hoàn thành luận văn này.

Tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến Lãnh đạo Vụ Pháp chế - Bộ
Y tế và toàn thể các anh chị em đồng nghiệp đã luôn quan tâm giúp đỡ và tạo
mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và thực
hiện luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời yêu thương đến gia đình, bạn bè đã chia sẻ, động
viên tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện luận văn này./.
Hà Nội, ngày 26 tháng 12 năm 2018
Tác giả

Nguyễn Thị Minh Hường


DANH MỤC VIẾT TẮT

Cụm từ/thuật ngữ

Cách viết tắt

Nghị định số 88/2008/NĐ-CP ngày 05/8/2008 của Chính
Nghị định số
phủ về xác định lại giới tính
88/2008/NĐ-CP
Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính
Nghị định số
phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành
34/2016/NĐ-CP
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Đánh giá tác động chính sách

ĐGTĐCS


Văn bản quy phạm pháp luật

VBQPPL

Cơ quan nhà nước
Viện Nghiên cứu kinh tế, xã hội và môi trường

CQNN
iSEE

Ủy ban nhân dân

UBND

Tổ chức hợp tác và phát triền kinh tế Châu Âu

OECD


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ............................................................................................... 1
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI ........................................................................... 2
3. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ........................ 4
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................................................................ 4
5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ................................................... 4
6. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN ......................................................................................... 5
CHƯƠNG 1................................................................................................................... 6
KHÁI QUÁT VỀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CHÍNH SÁCH ............................. 6

1.1 KHÁI NIỆM ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CHÍNH SÁCH ................................................. 6
1.1.1 Khái niệm chính sách .................................................................................... 6
1.1.3 Mục đích của việc đánh giá tác động chính sách.....................................10
1.2. CÁC BƯỚC ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CHÍNH SÁCH ...............................................14
1.2.1 Xác định vấn đề bất cập ..............................................................................14
1.2.2. Xác định mục tiêu ......................................................................................15
1.2.3 Lựa chọn các phương án giải quyết vấn đề bất cập ...............................15
1.2.4 Đánh giá tác động các phương án.............................................................17
1.3. NỘI DUNG ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CHÍNH SÁCH ................................................19
1.3.1 Tác động về kinh tế ......................................................................................19
1.3.2 Tác động về xã hội.......................................................................................21
1.3.3 Tác động về giới...........................................................................................22
1.3.4 Tác động về thủ tục hành chính .................................................................24
1.3.5 Tác động đối với hệ thống pháp luật .........................................................25
CHƯƠNG 2.................................................................................................... 27
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MỘT SỐ CHÍNH SÁCH CỦA ........................ 27
DỰ ÁN LUẬT CHUYỂN ĐỔI GIỚI TÍNH VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN
THIỆN ............................................................................................................ 27
2.1. KHÁI NIỆM CHUYỂN ĐỔI GIỚI TÍNH ...................................................... 27
2.2. CÁC BƯỚC ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MỘT SỐ CHÍNH SÁCH CỦA DỰ ÁN LUẬT
CHUYỂN ĐỔI GIỚI TÍNH ............................................................................... 28


2.2.1. Xác định vấn đề bất cập .................................................................. 28
2.2.2 Mục tiêu của chính sách .................................................................. 38
2.2.3. Lựa chọn các phương án chính sách .............................................. 39
2.2.4. Đánh giá tác động chính sách ........................................................ 41
2.3. KIẾN NGHỊ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG 68
2.3.1 Kiến nghị đối với việc xây dựng Dự án Luật Chuyển đổi giới tính ..... 68
2.3.2 Kiến nghị đối với báo cáo đánh giá tác động chính sách của Dự án

Luật Chuyển đổi giới tính ......................................................................... 72
KẾT LUẬN .................................................................................................... 74


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chính sách là một công cụ quan trọng của quản lý nhà nước. Thông
qua việc ban hành và thực thi chính sách, những mục tiêu của Nhà nước được
hiện thực hóa. Để có thể đi vào cuộc sống, chính sách được thể chế hóa thành
các quy định pháp luật. Khi Việt Nam chuyển sang phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, việc ban hành các
chính sách để tạo ra nhân tố, môi trường cho sự chuyển đổi trở thành cấp
bách. Vì vậy, trong một thời gian khá dài, Nhà nước tập trung vào việc xây
dựng và ban hành các thể chế, nhằm tạo hành lang pháp lý cho mọi lĩnh vực
kinh tế, xã hội. Việc ban hành hàng loạt văn bản pháp luật trong không ít
trường hợp dẫn đến tình trạng chồng chéo, trùng lắp, thậm chí mâu thuẫn
nhau giữa các quy định mà sự chi phối của chúng đối với các hoạt động kinh
tế - xã hội theo các chiều khác nhau khiến cho những hoạt động này không
đạt được mục tiêu mong muốn. Do đó, để xây dựng được một chính sách tốt,
có hiệu quả thì việc đánh giá tác động chính sách trước khi ban hành văn bản
quy phạm pháp luật nhằm thể chế hóa chính sách là một việc rất cần thiết
trong quy trình xây dựng chính sách nói chung và xây dựng văn bản quy
phạm pháp luật nói riêng.
Bộ luật Dân sự năm 2015 đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10
thông qua ngày 24/11/2015 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017. Tại
Điều 37 Bộ luật Dân sự quy định: “Việc chuyển đổi giới tính được thực hiện
theo quy định của luật”. Như vậy, kể từ 01/01/2017, Việt Nam đã cho phép
thực hiện chuyển đổi giới tính, tuy nhiên cá nhân nào được thực hiện chuyển

đổi giới tính, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nào được phép thực hiện chuyển
đổi giới tính, quy trình chuyển đổi giới tính như thế nào, thủ tục công nhận
người chuyển đổi giới tính để thay đổi giấy tờ hộ tịch ra sao… thì chưa được
quy định cụ thể. Do vậy, việc công nhận đối với người chuyển đổi giới tính
hiện nay mới chỉ là trên giấy mà chưa được triển khai thực hiện trong thực tiễn.
Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền con người,
quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp


2

cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo
đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Bên cạnh đó, Khoản 2 Điều 2 Bộ luật
Dân sự 2015 cũng quy định: “Quyền dân sự chỉ có thể bị hạn chế theo quy
định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc
gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Khoản 1
Điều 3 Bộ luật Dân sự 2015 quy định “Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình
đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử; được pháp luật
bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản”.
Mặc dù vậy, khi xây dựng Bộ luật Dân sự 2015, chính sách về chuyển
đổi giới tính chưa được đánh giá tác động, do đó, để thực hiện được Điều 37
Bộ luật Dân sự 2015, khi xây dựng Dự án Luật Chuyển đổi giới tính, các
chính sách đưa ra trong dự án Luật trên phải được đánh giá theo đúng quy
định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.
Bên cạnh đó, thực trạng người chuyển đổi giới tính ngày một gia tăng
(được phân tích tại phần sau của luận văn) do xã hội ngày càng cởi mở hơn,
con người ngày càng muốn sống thật với bản thân mình, với giới tính thật của
mình.
Nằm trong khuôn khổ chương trình học tập tại trường Đại học Luật Hà
Nội, chương trình Thạc sỹ Luật Ứng dụng, tác giả nhận thấy việc áp dụng bài

học về "Đánh giá tác động chính sách" vào việc "Đánh giá tác động chính
sách của dự án Luật Chuyển đổi giới tính" là thật sự cần thiết để tác giả có thể
ứng dụng bài học vào công việc hiện tại đang thực hiện tại một cơ quan nhà
nước xây dựng chính sách thực hiện trên phạm vi toàn quốc.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, các vấn đề liên quan đến đánh giá tác động chính sách nói
chung và đánh giá tác động chính sách đối với dự án Luật chuyển đổi giới
tính nói riêng vẫn là đề tài còn rất mới mẻ trong nghiên cứu ứng dụng không
những ở trong nước mà còn cả ở nước ngoài.
Đã có một số công trình nghiên cứu có đề cập đến đánh giá tác động
chính sách chung theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp
luật cũng như nội dung về chuyển đổi giới tính như:


3

Về chính sách và đánh giá tác động chính sách
- Nguyễn Anh Phương (2015), Chính sách, chính sách công và khoa
học chính sách />- Lasswell, H 1951, The policy orientation, In Lerner & Lasswell
(eds), The Policy Sciences, pp. 3-15, Stanford University Press.
- Anderson, J 1994, Public policymaking, Princeton.
- Đoàn Thị Tố Uyên (2016) "Đánh giá tác động pháp luật trong quán
trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí
Luật học (5)
- Lê Duy Bình,Tô Văn Hòa, Đoàn Thị Tố Uyên, Phân tích chính sách và
đánh giá tác động chính sách trong xây dựng pháp luật, được hỗ trợ bởi Dự án
Quản trị nhà nước nhằm tăng trưởng toàn diện (GiG-USAID), Hà Nội 2017
- Luận văn Thạc sĩ Luật học: "Đánh giá tác động của văn bản quy phạm
pháp luật - Lý luận và thực tiễn" của Thạc sĩ Nguyễn Thế Anh tại Đại học
Luật Hà Nội năm 2016;

Về chuyển đổi giới tính
- Luận văn Thạc sĩ Luật học: "Thực trạng vấn đề chuyển đổi giới tính ở
Việt Nam hiện nay" của Thạc sĩ Bùi Thị Xuân Hoa tại trường Đại học Luật
Hà Nội năm 2017;
- Luận văn Thạc sĩ Xã hội học: "Nhận thức, thái độ của người chuyển
giới về quyền chuyển giới tại Việt Nam" của Thạc sĩ Nguyễn Thị Thanh
Phượng tại Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia
Hà Nội năm 2016;
- Công trình nghiên cứu khoa học "Kinh nghiệm của một số quốc gia trên
thế giới về pháp luật chuyển đổi giới tính và bài học cho Việt Nam" của PGS.
TS. Vũ Công Giao và tập thể giảng viên Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội;
- Trương Hồng Quang (2014), Người đồng tính, song tính, chuyển giới
tại Việt Nam và vấn đề đổi mới hệ thống pháp luật, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội;


4

- Bùi Ai Giôn (2015), "Bàn về quyền chuyển đổi giới tính" quy định tại
Bộ luật Dân sự năm 2015, Tòa án nhân dân, số 22/2017.
Tuy nhiên, đến nay chưa có bất kỳ một công trình nghiên cứu về đánh
giá tác động chính sách trong đó áp dụng thực tiễn với việc đánh giá tác động
chính sách của dự án Luật Chuyển đổi giới tính đang được soạn thảo.
3. Mục đích, đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu với mục đích tìm hiểu về đánh giá tác động chính
sách từ quy trình, cách thức, phương thức, phương pháp, nội dung đánh giá,
từ đó áp dụng với một chính sách cụ thể là chính sách về chuyển đổi giới tính.
Theo đó, đề xuất kiến nghị cho việc đánh giá tác động chính sách trong dự án
Luật Chuyển đổi giới tính.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là việc đánh giá tác động chính sách
với phạm vi áp dụng đánh giá tác động chính sách cụ thể trong Dự án Luật

Chuyển đổi giới tính.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài đã được sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp trên
một số tài liệu liên quan đến đánh giá tác động chính sách, tài liệu liên quan
đến cộng đồng người chuyển giới nhằm thu thập những thông tin khách quan,
khoa học để đánh giá tác động tổng quan hai (02) chính sách dự kiến quy định
trong dự án Luật Chuyển đổi giới tính.
Phương pháp thống kê nhằm xử lý các thông tin thu được một cách
chính xác để đưa ra các đánh giá tác động với từng đối tượng chịu tác động
của chính sách trong dự án Luật Chuyển đổi giới tính.
Bên cạnh đó, đề tài còn được sử dụng một số phương pháp như diễn
dịch, quy nạp…
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Tác giả hi vọng, với đề tài nghiên cứu "Đánh giá tác động chính sách
của dự án Luật Chuyển đổi giới tính" sẽ giúp cho việc nghiên cứu lý thuyết về
đánh giá tác động chính sách và có nội dung thực hành áp dụng để người đọc
dễ hiểu, dễ áp dụng khi phân tích một chính sách mới. Bên cạnh đó, luận văn
cũng có thể là tư liệu để cơ quan chủ trì soạn thảo xây dựng Dự án Luật


5

Chuyển đổi giới tính sử dụng cho các bước trong quá trình trình Chính phủ và
Quốc hội thông qua dự án Luật này nhằm bảo đảm quyền cơ bản của người
chuyển đổi giới tính.
6. Bố cục của luận văn
Bố cục của luận văn bao gồm 02 chương:
Chương 1. Khái quát về đánh giá tác động chính sách
Chương 2. Đánh giá tác động một số chính sách của Dự án Luật
Chuyển đổi giới tính và kiến nghị hoàn thiện.



6

Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CHÍNH SÁCH
1.1 Khái niệm đánh giá tác động chính sách
1.1.1 Khái niệm chính sách
Chính sách là thuật ngữ đa nghĩa và đa cấp độ. Có nhiều quan điểm
khác nhau về khái niệm chính sách. Theo Từ điển tiếng Việt “chính sách”
được hiểu là “sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định,
dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế mà đề ra chính sách…”
Theo Tác giả Nguyễn Anh Phương, trong một bài viết của mình 1 đã
liệt kê một số ghi chú ngắn của một số học giả nước ngoài khi bàn về khái
niệm chính sách như sau:
 Chính sách là thiết kế sự lựa chọn quan trọng nhất (đã) được làm ra
(thực thi), đối với các tổ chức, cũng như đời sống cá nhân 2;
 Chính sách là một chuỗi (tập hợp) những hành động có mục đích
nhằm giải quyết một vấn đề 3;
 Chính sách là những gì mà Chính phủ làm, lý do làm, và sự khác biệt
nó tạo ra 4;
 Chính sách là những gì mà Chính phủ làm hoặc bỏ qua không làm 5;
 Chính sách là một hành động mang tính quyền lực nhà nước nhằm sử
dụng nguồn lực để thúc đẩy một giá trị ưu tiên 6;
 Chính sách là một công việc được thực hiện liên tục, bởi những
nhóm hoạch định, nhằm sử dụng các thể chế công để kết nối, phối hợp và
biểu đạt giá trị họ theo đuổi 7;
Nguyễn Anh Phương (2015), Chính sách, chính sách công và khoa học chính sách
/>2
Lasswell, H 1951, The policy orientation, In Lerner & Lasswell (eds), The Policy

Sciences, pp. 3-15, Stanford University Press.
3
Anderson, J 1994, Public policymaking, Princeton.
4
Dye, T 1972, Understanding public policy, Prentice-Hall
5
Klein R., Marmor T. R.. Moran M., Reid M., Goodin R. E.. Reflections on policy
analysis: putting it together again, The Oxford Handbook of Public Policy, 2008Toronto,
Canada Oxford University Press.
6
Considine, M 1994, Public policy: A critical approach, Macmillan, Melbourne.
7
Considine, M 1994, Public policy: A critical approach, Macmillan, Melbourne.
1


7

 Chính sách là quá trình mà một xã hội tạo ra và quyết định có tính
bắt buộc những hành vi nào được chấp nhận và hành vi nào không 8;
Từ khái niệm trên cho thấy, nội dung chính sách gồm có 03 yếu tố cấu
thành chính là: Vấn đề thực tiễn cần giải quyết; định hướng, mục tiêu giải
quyết vấn đề và các giải pháp của Nhà nước để giải quyết vấn đề theo mục
tiêu đã xác định.
Vấn đề thực tiễn cần giải quyết là một thực tế của xã hội đã và đang
xảy ra, có ảnh hưởng, tác động theo chiều hướng tiêu cực đến đời sống, hoạt
động của một hoặc một số nhóm đối tượng trong xã hội, tác động đến tổ chức,
hoạt động của cơ quan nhà nước. Một vấn đề thực tiễn phải được giải quyết
bằng chính sách, pháp luật khi vấn đề đó có nội dung và phạm vi tác động
nhất định đến các đối tượng chịu ảnh hưởng về thời gian, không gian.

Mục tiêu chính sách là mức độ giải quyết vấn đề thực tiễn mà Nhà nước
mong muốn hướng tới theo lộ trình cụ thể được đặt ra trong khoảng thời gian
ngắn hoặc lâu dài (mục tiêu ngắn hạn, mục tiêu dài hạn) nhằm hạn chế các tác
động tiêu cực đối với các đối tượng chịu tác động hoặc chịu trách nhiệm tổ
chức thi hành chính sách, pháp luật.
Một vấn đề có thể phát sinh do nhiều nguyên nhân gây ra và có thể tác
động tiêu cực đến các đối tượng trên các khía cạnh khác nhau như kinh tế, xã hội,
môi trường… Do đó, mục tiêu chính sách trước tiên cần hướng tới giải quyết
những nguyên nhân chính gây nên tác động tiêu cực chủ yếu cho các đối tượng.
Giải pháp thực hiện chính sách là các phương án khác nhau để giải
quyết vấn đề thực tiễn theo mục tiêu đã xác định. Giải pháp phải phù hợp, cân
xứng với vấn đề về quy mô, phạm vi, đối tượng tác động, khắc phục được
trúng và đúng các nguyên nhân trực tiếp và nguyên nhân gián tiếp gây ra vấn
đề; đồng thời giải pháp phải hiệu quả nghĩa là đạt được mục tiêu đặt ra với chi
phí hợp lý, khả thi đối với các đối tượng phải thực hiện, tuân thủ.9
1.1.2. Khái niệm đánh giá tác động chính sách
Khái niệm đánh giá tác động chính sách được sử dụng xuất phát từ khái
niệm mang tính công cụ đó là đánh giá tác động quy định (pháp luật). Trong
8
9

Wheelan, C 2011, Introduction to Public Policy, New York
Bộ Tư pháp (2018), "Tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ Đánh giá tác động chính sách", tr.9


8

giai đoạn tiền chính sách, việc đánh giá những tác động dự kiến để chọn lựa
được chính sách tốt chính là thuật ngữ “đánh giá tác động chính sách”. Trong
giai đoạn soạn thảo văn bản QPPL, công cụ này được gọi tên “đánh giá tác

động quy định” hoặc “đánh giá tác động của dự thảo”…
Đánh giá tác động quy định/pháp luật (Regulation Impact Assessment RIA) được áp dụng lần đầu tiên trên thế giới vào giữa thập niên 70 của thế kỷ
XX tại Mỹ, dưới thời tổng thống Ford, do có lo ngại về gánh nặng quy định
pháp luật đè lên vai xã hội, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ, cộng với lo
ngại về sự gia tăng lạm phát. Đến nay, RIA đã được áp dụng ở đại đa số các
quốc gia thuộc Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), RIA đã được sử
dụng như một công cụ hữu hiệu nhằm bảo đảm chất lượng và tính hiệu quả
của môi trưởng pháp lý. Theo quan điểm của OECD, pháp luật là quá trình
phân tích các tác động có thể của sự thay đổi về chính sách và đưa ra hàng
loạt các lựa chọn để thực hiện các chính sách đó.
Trong hai năm qua, ít nhất 13 quốc gia đa dạng như Phần Lan, Việt
Nam và Zambia đã tạo ra hoặc cải cách RIA thủ tục. Điều này ngày càng phổ
biến, nhưng không phải là mới, quan tâm không phải ngẫu nhiên. Quy định
chất lượng cao cho phép bền vững tăng trưởng, đầu tư, đổi mới và mở cửa thị
trường (OECD 2015a). Các quốc gia từ tất cả các cấp thu nhập cần các quy
định hiệu quả để hỗ trợ các quy định của pháp luật như là quy định kém quản
trị làm hại lòng tin của công dân trong các tổ chức và khuyến khích tham
nhũng trong lĩnh vực công cộng (OECD 2015a). Trong sự tôn trọng này, RIA
cho phép các nhà sản xuất quy tắc cải thiện quy định quản trị bằng cách phát
triển một khuôn khổ toàn diện trong các tùy chọn chính sách và quy định nào
được đánh giá hiệu quả và minh bạch. Mặc dù giới thiệu RIA từ đầu không
phải là một cam kết dễ dàng, nhiều quốc gia đã có những tác động tích cực
ngay sau khi cải cách quy định của họ khuôn khổ.10
Cách tiếp cận về RIA của các tác giả Việt Nam cũng có sự tương đồng
với quan điểm trên. Cụ thể, theo tác giả Võ Thị Lan Hương, chuyên gia về RIA
Đoàn Thị Tố Uyên (2016) "Đánh giá tác động pháp luật trong quá trình xây dựng văn
bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Luật học (5), tr. 67-94.
10



9

đã đưa ra khái niệm về RIA: “Đánh giá tác động pháp luật là quá trình phân tích
và đánh giá thông tin một cách hệ thống, qua đó xác định được rõ ràng, chính
xác vấn đề bất cập cũng như giải pháp chính sách tốt nhất để giải quyết vấn đề”.
Ở Việt Nam, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp, yêu cầu về đánh giá tác
động pháp luật trong quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật được quy
định trong một đạo luật - đó là Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm
2008 và đến nay được gọi tên là đánh giá tác động chính sách trong Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015. Để hướng dẫn việc đánh giá tác
động chính sách, Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ
quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật đã quy định chi tiết về việc đánh giá tác động chính sách.
Đánh giá tác động của chính sách (ĐGTĐCS) là việc phân tích, dự báo
tác động của chính sách đang được xây dựng đối với các nhóm đối tượng
khác nhau nhằm lựa chọn giải pháp tối ưu thực hiện chính sách11.
Từ khái niệm trên cho thấy ĐGTĐCS có thể hiểu là một quá trình phân
tích, dự báo các tác động có thể của một sự thay đổi về chính sách. Đặc điểm
của việc đánh giá tác động chính sách là tìm ra một giải pháp tối ưu, giải pháp
có thể đưa ra câu trả lời đáng tin cậy đối với các vấn đề mà thực tiễn điều
hành chính sách đặt ra. Điều đó phải được làm một cách khẩn trương, hiệu
quả, minh bạch và không tốn kém.
Theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, nội dung
của từng chính sách trong đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật
(VBQPPL) phải nêu rõ: vấn đề cần giải quyết; mục tiêu của chính sách; giải
pháp để thực hiện chính sách; tác động tích cực, tiêu cực của chính sách; chi
phí, lợi ích của các giải pháp; so sánh chi phí, lợi ích của các giải pháp; lựa
chọn giải pháp của cơ quan, tổ chức và lý do của việc lựa chọn; thủ tục hành
chính (TTHC) (nếu có); tác động về giới (nếu có)12.
Để ĐGTĐCS một cách toàn diện nhất thì cần phải đánh giá tác động về

kinh tế, tác động về xã hội, tác động về giới (nếu có), tác động của TTHC
11

Khoản 2 Điều 2 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP

12

Khoản 2, Điều 35 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015


10

(nếu có) và tác động đối với hệ thống pháp luật 13 bằng phương pháp định
lượng và định tính 14.
Các chủ thể ĐGTĐCS theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
năm 2015 bao gồm cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm xây dựng
chính sách khi lập đề nghị xây dựng VBQPPL hay khi soạn thảo VBQPPL
đồng thời chịu trách nhiệm ĐGTĐCS. Đối với đề nghị xây dựng VBQPPL
hoặc dự thảo VBQPPL do Chính phủ, Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh
trình thì Chính phủ phân công cho các cán bộ, ngành; UBND phân công cho
các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thực hiện việc xây dựng chính sách và
ĐGTĐCS nhưng Chính phủ và UBND vẫn là cơ quan có quyền hạn và chịu
trách nhiệm về chính sách, ĐGTĐCS trong đề nghị xây dựng VBQPPL và
trong dự thảo VBQPPL.
1.1.3 Mục đích của việc đánh giá tác động chính sách
Chính sách sẽ giúp cơ quan có thẩm quyền có cái nhìn tổng thể, toàn
diện về vấn đề sẽ giải quyết trong văn bản quy phạm pháp luật. Không chỉ
riêng Việt Nam mà rất nhiều các quốc gia trên thế giới từ rất lâu đã đề cao vai
trò của việc đánh giá tác động chính sách. Quá trình này là yêu cầu bắt buộc
tại 13 quốc gia thành viên của tổ chức hợp tác và phát triền kinh tế Châu Âu

(OECD). Sở dĩ, đánh giá tác động của chính sách ngày càng được nhiều quốc
gia quan tâm và sử dụng bởi nó mang lại những hiệu quả vô cùng thiết thực.
a) Đánh giá tác động chính sách là công cụ hoạch định chính sách và
lập pháp hữu hiệu
Quá trình thực hiện ĐGTĐCS buộc các cơ quan soạn thảo phải xác định
rõ ràng mục tiêu của đề xuất thay đổi chính sách trong VBQPPL cũng như
đánh giá đầy đủ các tác động của những thay đổi chính sách và ảnh hưởng nằm
ngoài dự kiến đối với các nhóm không phải là mục tiêu của những thay đổi đó.
Cơ quan tổ chức soạn thảo phải xây dựng báo cáo đánh giá tác động của chính
sách dự báo sẽ đưa ra, trong đó nêu rõ các vấn đề cần giải quyết, giải pháp đối
với từng vấn đề, chi phí lợi ích của các giải pháp. Đây chính là tiền đề quan
13

Điều 6 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP

14

Điều 7 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP


11

trọng cho việc hoạch định phương án giải quyết, phương án thay thế nhằm đạt
được mục tiêu chính sách đã đề ra. Điều này bảo đảm cho nội dung của chính
sách có tính đa chiều, bám sát quy trình vận động phát triển của nền kinh tế xã
hội, giảm bớt các sai lầm về chính sách.
Trên thế giới, việc ĐGTĐCS đã trở thành công cụ hoạch định chính
sách quan trọng để đánh giá đầy đủ và toàn diện về các chính sách. Nó là một
bức tranh sinh động phản ánh trung thực các mối quan hệ xã hội và phương
án giải quyết bài toán chính sách được đặt ra. Với tính năng ưu việt,

ĐGTĐCS sẽ phân tích, đo lường đầy đủ cụ thể tác động tích cực, tiêu cực,
lượng hóa chi phí và lợi ích của các phương án và chính sách trong mối quan
hệ tổng thể với chính sách pháp luật khác ở các văn bản quy phạm pháp luật
liên quan của Nhà nước, điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên và nguồn lực bảo đảm thực hiện.
Như vậy, ĐGTĐCS giúp cơ quan có thẩm quyền đánh giá một cách
khách quan, chính xác khi xem xét, cân nhắc lựa chọn giải pháp hợp lý, khả
thi và hiệu quả để giải quyết vấn đề thực tiễn dựa trên việc phân tích chi phí,
lợi ích, tác động tích cực và tiêu cực đối với cá nhân, tổ chức và cơ quan nhà
nước do thi hành chính sách nếu được ban hành.
b) ĐGTĐCS bảo đảm chính sách tốt, nâng cao chất lượng chính sách do
việc phân tích, đánh giá được thực hiện bằng các phương pháp khoa học dựa trên
thông tin, dữ liệu, số liệu được thu thập từ các nguồn rõ ràng, tin cậy, đồng thời
cải thiện tình trạng lạm phát về VBQPPL để thể chế hóa các chính sách
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, ĐGTĐCS đã trở thành khâu bắt buộc
trong quá trình lập pháp với ý nghĩa như một công cụ kiểm soát chất lượng
VBQPPL. Một chính sách được xem là chất lượng tốt khi chính sách thể hiện
bằng VBQPPL đạt được mục tiêu đề ra khi ban hành, phù hợp với đường lối
chính trị chung, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính đồng nhất đồng bộ và
tính khả thi trong thực tiễn nhằm điều chỉnh kịp thời các vấn đề bức thiết của
đời sống kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Nói một cách chi tiết hơn thì
ĐGTĐCS là phân tích toàn diện, tổng thể về các phương án chính sách trong
mối tương quan giữa chi phí và lợi ích, đánh giá tiềm năng tác động trên cơ sở


12

kết hợp chặt chẽ, thống nhất hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã
hội và bảo đảm, nâng cao chất lượng môi trường, lồng ghép các yếu tố phát
triển bền vững vào nội dung pháp luật. Từ đó, giúp cơ quan có thẩm quyền

lựa chọn được phương án chính sách tối ưu và tạo ra sản phẩm lập pháp có
tính bền vững, ổn định và khả thi.
ĐGTĐCS còn giúp giảm thiểu việc ban hành các VBQPPL kém chất
lượng và tạo ra tính bền vững cho chính sách. Cụ thể là nó góp phần giảm
thiểu tác động tiêu cực của pháp luật, hạn chế việc làm tăng gánh nặng pháp
luật tới các đối tượng chịu tác động, hạn chế chi phí quản lý ở mức tối thiểu
nhưng đem lại hiệu quả vì đạt được mục tiêu đề ra. Vì vậy, nếu làm tốt, việc
ĐGTĐCS sẽ nâng cao hiệu quả chi phí của quyết định liên quan đến quản lý
nhà nước, qua đó giảm được số lượng quy định có chất lượng thấp và không
cần thiết. Sau quá trình đánh giá tác động, nếu chính sách chưa thực sự cần
thiết thì Nhà nước có thể thực hiện các công cụ khác điều chỉnh góp phần
giảm chi phí cho ngân sách nhà nước mà vẫn đem lại hiệu quả cho xã hội.
Như vậy, có thể thấy rằng ĐGTĐCS giúp nâng cao chất lượng của
chính sách do việc phân tích, đánh giá được thực hiện bằng các phương pháp
khoa học dựa trên thông tin, dữ liệu, số liệu được thu thập từ các nguồn rõ
ràng, tin cậy từ đó hệ thống VBQPPL thể hiện chính sách đó được nâng cao
chất lượng.15
c) ĐGTĐCS bảo đảm quy trình xây dựng pháp luật được công khai,
minh bạch thông qua việc lấy ý kiến nhân dân, các đối tượng chịu tác động trực
tiếp trong suốt quá trình xây dựng, thẩm định, thông qua chính sách cũng như
trong quá trình soạn thảo, thẩm định, thẩm tra và thông qua dự thảo VBQPPL
Xây dựng pháp luật dựa trên cơ sở đánh giá tác động là quá trình học hỏi
và tham vấn ý kiến các bên liên quan, thể hiện trách nhiệm của cơ quan ban hành
với đối tượng chịu tác động. Tính minh bạch của chính sách cũng được bảo đảm
dựa trên cơ sở tham vấn ý kiến đối tượng chịu tác động rất đa dạng. Thực tế, nếu
không có sự tham vấn ý kiến, quá trình xây dựng chính sách sẽ không nhìn thấy
hết được những ưu điểm, mặt hạn chế đối với xã hội. Và như vậy khi đi vào cuộc
15

Bộ Tư pháp (2018), "Tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ Đánh giá tác động chính sách", tr.13



13

sống sẽ không phù hợp, dễ dẫn đến việc đối tượng chịu tác động không tuân thủ,
từ đó hiệu quả chính sách pháp luật không được như mong muốn. Quá trình này
góp phần củng cố niềm tin của dân chúng vào luật pháp và chính sách, giảm
được rủi ro cho khu vực tư nhân, giảm độc quyền thông tin.
Quá trình ĐGTĐCS phải bảo đảm thu hút được sự tham gia của công
chúng vào việc hoạch định chính sách, bởi pháp luật tác động đến nhiều chủ
thể trong xã hội. Do đó, để bảo đảm tính khả thi, gần gũi và dễ chấp nhận thì
chính sách phải được thảo luận, lấy ý kiến trong nhân dân. Việc tham vấn,
trao đổi, phản biện giữa các nhóm lợi ích khác nhau liên quan đến chính sách,
pháp luật không chỉ phát huy quyền làm chủ của nhân dân mà còn nâng cao
độ minh bạch của chính sách, pháp luật; xây dựng và củng cố niềm tin của
công chúng vào quyết sách của Chính phủ; tăng cường trách nhiệm giải trình
của cơ quan chủ trì soạn thảo, cơ quan xây dựng chính sách; tạo sự đồng
thuận cao trong xã hội, giảm bớt tác động của nhóm có đặc quyền đối với quá
trình xây dựng chính sách trong đó đặc biệt là xây dựng VBQPPL, làm cho
quy trình lập pháp trở nên công khai, minh bạch hơn.
Bên cạnh đó, ĐGTĐCS cũng giúp thay đổi văn hóa và tư duy quản lý
nhà nước, giảm những can thiệp không cần thiết và các quy định mang tính
hình thức. Qua đó tăng trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước đối với
dân chúng và xã hội, thúc đẩy văn hóa quản lý theo hướng phục vụ. Từ đó có
thể xây dựng một Chính phủ năng động, sử dụng các phương pháp quản lý
hợp lý hơn, phù hợp hơn với điều kiện đã thay đổi.
d) Nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế, bảo đảm công bằng xã hội
ĐGTĐCS góp phần hình thành một nền kinh tế có tính cạnh tranh cao,
một xã hội công bằng, văn minh, bảo đảm mục tiêu phát triển bền vững.
Thông qua hoạt động này, những quy định không cần thiết, tạo ra gánh nặng

cho xã hội, làm “méo mó” hoạt động của thị trường, làm giảm sức cạnh tranh
của doanh nghiệp và nền kinh tế sẽ bị loại bỏ. Ngày nay, trong bối cảnh hội
nhập kinh tế, quốc tế thì việc sử dụng công cụ ĐGTĐCS càng góp phần cải
thiện năng lực điều hành kinh tế của Chính phủ trong việc cắt giảm chi phí,


14

rủi ro từ quy định của pháp luật và rào cản thương mại để tạo ra một môi
trường đầu tư tích cực cho doanh nghiệp.
Ngoài ra việc ĐGTĐCS còn tiết chế tác động tiêu cực đến cạnh tranh,
giúp nhà hoạch định chính sách so sánh được lợi ích của cộng đồng với những
chi phí bỏ ra, phù hợp tình hình thực tế và không tạo chi phí phát sinh quá
lớn. Chính sách không nên hạn chế cạnh tranh trừ khi bảo đảm được: "Lợi ích
của cộng đồng từ việc hạn chế cạnh tranh lớn hơn chi phí."
Thông qua quá trình ĐGTĐCS, cơ quan chủ trì soạn thảo cũng thể chế
hóa được chính sách bằng VBQPPL một cách thống nhất, phù hợp với lợi ích
quốc gia và bảo đảm tuân thủ các điều ước quốc tế. Có thể nói rằng ĐGTĐCS
sẽ góp phần tạo nên hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, tạo ra hành lang pháp lý rõ
ràng, thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo hướng tích cực. Kết quả cao nhất của
việc ĐGTĐCS là hình thành một nền kinh tế có tính cạnh tranh cao, hội nhập
sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu trong nền tảng duy trì một xã hội công bằng.
1.2. Các bước đánh giá tác động chính sách
1.2.1 Xác định vấn đề bất cập
Xác định vấn đề bất cập là bước đầu tiên và quan trọng nhất trong nội
dung thực hiện ĐGTĐCS. Một vấn đề bất cập trong thực tiễn đòi hỏi phải được
giải quyết bằng chính sách, pháp luật khi và chỉ khi vấn đề đó có nội dung và
phạm vi tác động nhất định về thời gian, không gian đến các đối tượng chịu ảnh
hưởng.
Trước khi ĐGTĐCS, cần xác định chính xác vấn đề bất cập mà Nhà

nước can thiệp bằng pháp luật thông qua việc xác định hiện trạng, nguyên
nhân dẫn đến bất cập và hậu quả của vấn đề bất cập.
Để xác định vấn đề bất cập trong thực tiễn, cần làm rõ các nội dung sau:
Thứ nhất, xác định hiện trạng của vấn đề
Khi xác định vấn đề bất cập trước hết phải xác định và đánh giá được
hiện trạng của vấn đề với những biểu hiện cụ thể, chú trọng đến quy mô, xu
hướng, mức độ nghiêm trọng của vấn đề, qua đó đánh giá được xu hướng
phát triển của vấn đề diễn biến tích cực hay tiêu cực để từ đó làm rõ sự cần
thiết phải can thiệp điều chỉnh các vấn đề bất cập đang xảy ra trong xã hội.


15

Thứ hai, xác định những ảnh hưởng, hậu quả của vấn đề bất cập
Việc xác định những ảnh hưởng, hậu quả của vấn đề bất cập là một
trong những bước quan trọng khi xác định vấn đề bất cập trong thực tiễn. Phải
xác định rõ hậu quả của vấn đề bất cập là gì, hậu quả đó tác động đến những
đối tượng nào, với các số liệu, dẫn chứng cụ thể.
Thứ ba, nguyên nhân của vấn đề bất cập
Nguyên nhân của vấn đề bất cập cần phải được phân tích, nhận diện bởi
nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp gây ra hiện trạng (vấn đề), tìm kiếm giải pháp
phù hợp khắc phục triệt để các nguyên nhân đó. Cần phải xác định nguyên nhân
ở nhiều cấp độ, bảo đảm tính chi tiết, chính xác.
1.2.2. Xác định mục tiêu
Một vấn đề có thể phát sinh do nhiều nguyên nhân gây ra và có thể tác
động tiêu cực đến các đối tượng trên các khía cạnh khác nhau như kinh tế, xã
hội, môi trường… Do đó, mục tiêu chính sách trước tiên cần hướng tới giải
quyết những nguyên nhân chính gây nên tác động tiêu cực chủ yếu cho các
đối tượng, giải quyết được vấn đề bất cập trong thực tiễn mà Nhà nước hướng
tới trong thời gian trước mắt hoặc lâu dài nhằm hạn chế, giảm thiểu tác động

tiêu cực đối với đối tượng chịu tác động hoặc chịu trách nhiệm tổ chức thi
hành chính sách, pháp luật.
Mục tiêu của chính sách là mong muốn đạt được để giải quyết bất cập
của cuộc sống sau khi xác định chính xác hậu quả của vấn đề bất cập gây ra.
Trong khi xác định mục tiêu của chính sách cần nêu rõ các vấn đề cuối cùng
mà đề xuất xây dựng chính sách mong muốn đạt được dựa trên nguồn lực
thực tế của các bên liên quan.
1.2.3 Lựa chọn các phương án giải quyết vấn đề bất cập
Đây là bước có vai trò quan trọng để đạt được mục tiêu đã đặt ra. Trên cơ
sở thông tin về hiện trạng, nguyên nhân của vấn đề bất cập, nhà hoạch định
chính sách sẽ hình thành được các phương án khác nhau. Thông thường có 3
phương án, trong đó phải có một phương án là “giữ nguyên hiện trạng”, một
phương án “sửa đổi, ban hành VBQPPL để thực hiện chính sách” - biện pháp
can thiệp trực tiếp và có một biện pháp khác không mang tính pháp lý, là


16

phương án nhà nước can thiệp gián tiếp thông qua nhiều biện pháp khác ngoài
pháp luật.
Các phương án thường được đưa ra để đánh giá tác động bao gồm:
a) Phương án giữ nguyên hiện trạng
Bước đầu tiên hãy nghĩ đến giải pháp “Giữ nguyên hiện trạng”. Đây là
giải pháp luôn luôn được đặt lên hàng đầu để giúp nhà hoạch định chính sách
cân nhắc xem liệu can thiệp của cơ quan Nhà nước có thể khiến tình hình tốt
lên không. Đồng thời giải pháp này cũng cung cấp một mốc chuẩn để đo các
tác động. Tất cả các giải pháp về sau được so sánh với giải pháp này để có thể
thấy rõ những lợi ích hay chi phí do các giải pháp khác mang lại so với việc
giữ nguyên hiện trạng.16
b) Phương án sử dụng biện pháp can thiệp gián tiếp (phi truyền thống)

Phương án phi truyền thống được thực hiện bao gồm giải pháp cải thiện
việc thực thi các quy định hiện hành nếu chính sách đã được quy định bởi
VBQPPL và sử dụng biện pháp thay thế không can thiệp trực tiếp tức là
không đưa ra quy định pháp luật để giải quyết vấn đề bất cập.
Trong phương án này, việc cải thiện công tác thực thi quy định hiện
hành chính là rà soát toàn bộ quy định có liên quan để tìm hiểu nguyên nhân
quy định hiện hành không thể giải quyết được thực trạng cấp bách của vấn đề,
từ đó tham vấn cho các cơ quan thực thi quy định và đối tượng chịu tác động.
Cuối cùng đề xuất giải pháp nâng cao hiệu lực của các quy định hiện hành.
Giải pháp sử dụng biện pháp thay thế không can thiệp trực tiếp là việc
không đưa ra các quy định giải quyết vấn đề bất cậpmà thay vào đó thực hiện
các biện pháp như các tổ chức tự quy định; phối hợp, chỉ đạo các cơ quan có liên
quan; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục ; thực hiện biện pháp kinh tế là ưu đãi tài
chính; chuẩn hóa các tiêu chuẩn và kêu gọi xã hội hóa; dán nhãn để bảo đảm
chất lượng sản phẩm hoặc thực hiện chương trình dự án thông qua các tổ chức
xã hội…

Lê Duy Bình,Tô Văn Hòa, Đoàn Thị Tố Uyên, Phân tích chính sách và đánh giá tác
động chính sách trong xây dựng pháp luật, được hỗ trợ bởi Dự án Quản trị nhà nước nhằm
tăng trưởng toàn diện (GiG-USAID), Hà Nội 2017, trang 13.
16


17

c) Phương án can thiệp trực tiếp bằng pháp luật
Đây là phương án can thiệp chính sách trực tiếp bằng một văn bản mới
và là phương án mang tính truyền thống hiện nay. Phương án này nhằm thay
đổi hành vi của tổ chức, cá nhân bằng cách mô tả cụ thể cách thức mà họ phải
thực hiện hoặc không được thực hiện, áp dụng các chế tài về xử phạt nếu có

vi phạm thông qua việc kiểm tra, giám sát.
Cách xác định phương án này trước tiên là nêu một số nội dung chính
sách cần phải đánh giá tác động, sau đó liệt kê tất cả các giải pháp có thể sử dụng
và mô tả rõ nội dung biện pháp để giải quyết vấn đề bất cập của chính sách.
Tuy nhiên, phương án này có những hạn chế nhất định đó là không linh
hoạt và dễ lạc hậu trước những thay đổi của xã hội; tốn kém trong việc tổ
chức thực hiện để bảo đảm tuân thủ pháp luật; tạo ra rào cản gia nhập thị
trường; không khuyến khích thực hiện tốt hơn, sáng tạo hơn và đặc biệt là sẽ
tạo ra một "rừng" văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh một chính sách.
Mặc dù vậy, đây là phương án được rất nhiều cơ quan chủ trì soạn thảo
đặc biệt lựa chọn để đánh giá tác động chính sách nhằm giải quyết các vấn đề
bất cập hiện nay còn tồn tại.
1.2.4 Đánh giá tác động các phương án
Tùy vào mỗi vấn đề cần giải quyết mà cơ quan chủ trì soạn thảo quyết
định đánh giá các phương án đã được lựa chọn dựa trên phương pháp phân tích
định lượng, hay phương pháp phân tích định tính, hoặc kết hợp cả hai. Dữ liệu
cho quá trình phân tích này có thể được thu thập bằng nhiều hình thức khác
nhau: dựa vào nguồn tài liệu sẵn có, tham khảo các công trình nghiên cứu, kinh
nghiệm liên quan, thông qua phỏng vấn, lập bảng hỏi… Sau khi đã xác định
được mặt tích cực và tiêu cực của các phương án, cơ quan soạn thảo văn bản
phải so sánh các tác động này và đưa ra lựa chọn. Khi so sánh thống nhất các
phương án đã đề xuất, cần trình bày các ưu điểm, nhược điểm của từng phương
án một cách thuyết phục để chứng minh phương án được lựa chọn rõ ràng có ưu
thế so với các phương án khác.
Theo quy định tại Điều 6, Nghị định số 34/2016/NĐ-CP, nội dung của
VBQPPL cần được đánh giá tác động trên nhiều phương diện: kinh tế, xã hội,


18


thủ tục hành chính (nếu có), bình đẳng giới (nếu có) và tác động đối với hệ
thống pháp luật. (Các nội dung ĐGTĐCS được phân tích ở phần sau luận văn).
Sau khi thực hiện xong từng loại đánh giá tác động, cơ quan chủ trì
đánh giá tổng hợp kết quả của từng loại đánh giá tác động để có thể so sánh
các giải pháp chính sách. Công tác tổng hợp cần mô tả đầy đủ kết quả đánh
giá tác động của từng loại: kinh tế, xã hội, thủ tục hành chính, bình đẳng giới
và hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, một phần kết quả của đánh giá tác động về
kinh tế, xã hội, thủ tục hành chính và bình đẳng giới cho từng giải pháp chính
sách cũng là một phần của đánh giá tác động về hệ thống pháp luật (điều kiện
bảo đảm thi hành). Do đó, khi thực hiện việc tổng hợp các lĩnh vực đánh giá
tác động thì việc đánh giá tác động đối với hệ thống pháp luật sẽ có nội dung
về điều kiện bảo đảm thi hành được trích ra từ bốn loại tác động này cùng với
các nội dung riêng biệt của hệ thống pháp luật.
Để so sánh giữa các giải pháp, việc tổng hợp có thể được thực hiện theo
phương pháp xếp hạng hoặc theo phương pháp mô tả hoặc kết hợp cả hai
phương pháp để giúp cho cơ quan có thẩm quyền quyết định chính sách, nắm
bắt được nội dung của từng loại tác động đối với mỗi giải pháp chính sách;
xem xét và so sánh những giải pháp lựa chọn của đơn vị đánh giá và giải pháp
đề xuất giải quyết vấn đề của cơ quan xây dựng chính sách.
1.2.5 Lấy ý kiến góp ý
Bước lấy ý kiến đóng góp là một nội dung của trong bước ba của lấy ý
kiến về chính sách, đề nghị xây dựng VBQPPL. Theo Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật năm 2015 và Nghị định số 34/2016/NĐ-CP quy định
trách nhiệm của cơ quan soạn thảo trong việc tổ chức lấy ý kiến đối với dự
thảo báo cáo ĐGTĐCS 17.
Để bảo đảm tính khoa học và tăng cường quyền của người dân tham gia
ý kiến vào quá trình dự thảo chính sách và VBQPPL, việc lấy ý kiến góp ý
trong quá trình ĐGTĐCS được thực hiện theo hai (02) giai đoạn sau:
- Giai đoạn 1: Lấy ý kiến trong quá trình thực hiện ĐGTĐCS;
- Giai đoạn 2: Lấy ý kiến góp ý, phản biện dự thảo báo cáo ĐGTĐCS;

tiếp thu, chỉnh lý dự thảo báo cáo theo quy định của pháp luật.
17()

Luật Ban hànhVBQPPL năm 2015, Điều 35.


×