Tải bản đầy đủ (.docx) (56 trang)

Thực trạng và giải pháp phát triển làng nghề truyền thống gỗ mộc kha lâm – kiến an hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.19 MB, 56 trang )

MỤC LỤC

1

1


2

2


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu và làm khoá luận tốt nghiệp, ngoài sự cố gắng của bản
thân. Tác giả đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ của thầy cô giáo trong tổ Địa Lý.
Qua đây, tác giả xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới ban lãnh đạo trường Đại học Hải
Phòng, Khoa Ngữ văn - Địa Lý và các thầy cô giáo trong tổ bộ môn Địa Lý đã trang bị
cho tác giả kiến thức cần thiết trong suốt quá trình học tập.
Và đặc biệt tác giả muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới Thầy giáo – Thạc sỹ
Nguyễn Xuân Hiệp. Thầy đã không quản thời gian, công sức tận tình hướng dẫn và
hướng dẫn tác giả trong suốt thời gian thực hiện khoá luận.
Với kiến thức, khả năng còn hạn chế và điều kiện thời gian không cho phép, nên
đề tài nghiên cứu sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong các thầy cô giúp đỡ
tác giả sửa chữa, bổ sung những thiếu sót đó để nội dung khóa luận của tác giả được
hoàn thiện hơn.
Tác giả xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn

Đỗ Thị Hương

3



3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Làng nghề truyền thống Việt Nam đã có từ hàng trăm năm, gắn liền với bản sắc văn
hóa dân tộc và góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế xã hội của đất nước.
Các làng nghề tại Việt Nam hiện nay đã góp phần giúp kinh tế tại các làng quê
ngày một phát triển hơn, giúp giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho nông dân trong
lúc nông nhàn.
Hải Phòng là vùng đất có nhiều ngành nghề thủ công nổi tiếng trong cả nước, đã
giao lưu với quốc tế và Gỗ Mộc Kha Lâm cũng không nằm ngoại lệ trong đó các làng
nghề truyền thống đóng một vai trò rất lớn trong việc nâng cao đời sống người dân và
phát triển kinh tế địa phương.
Tuy nhiên vấn đề phát triển các làng nghề ở Hải Phòng nói riêng cũng giống như
những vấn đề về phát triển làng nghề của nước ta nói chung đều vẫn còn những hạn chế
cần được quan tâm nghiên cứu.
Giai đoạn những năm 1980-2008 làng nghề gỗ Kha Lâm nổi lên nhanh chóng,
phát triển vượt bậc đây làng nghề tạo được tiếng vang trong nước, đời sống nhân dân địa
phương cũng ngày được nâng cao một cách đáng kể. Tuy vậy kinh tế làng nghề Kha Lâm
vẫn mang đậm nét của nông thôn Việt Nam. Chính vì vậy làng nghề tuy phát triển
nhưng chưa có định hướng lâu dài và ổn định. Đến giai đoạn 2008 tới nay tình hình làng
nghề đã không còn phát triển như trước thị trường gỗ mộc Kha Lâm đã trầm lắng, số hộ
kinh doanh giảm xuống mạnh do khủng hoảng kinh tế giai đoạn năm 2008- 2009. Làng
nghề gỗ mộc Kha Lâm đang đứng trước nguy cơ thất truyền.
Và vấn đề đáng chú ý nữa là song song với việc phát triển kinh tế xã hội địa
phương cần gắn liền với việc bảo vệ môi trường. Làng nghề gỗ mộc Kha Lâm hoạt động
khí thải trong quá trình sán xuất sản phẩm làng nghề đã gây ảnh hưởng tới môi trường
sinh sống của người dân.


4

4


Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Kha Lâm với lịch sử bề dày kinh nghiệm về sản
xuất đồ gỗ mộc, okan Kha Lâm nổi tiếng, tác giả rất tự hào về người dân nơi đây. Những
con người chân chất, chăm chỉ, tỉ mỉ từng chi tiết nhỏ trong từng khâu sản xuất để sản xuất ra
được những sản phẩm với sự tinh tế cao, chất lượng tốt và với cả tấm lòng yêu nghề của
người thợ mộc Kha Lâm. Nhưng song song đó vấn đề tác giả băn khoăn rất nhiều đó là làm
sao để hồi phục lại làng nghề truyền thống đã hơn trăm năm lịch sử quê hương.
Do đó Tôi chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp phát triển làng nghề truyền thống
Gỗ mộc Kha Lâm – Kiến An Hải Phòng” làm chuyên đề luận văn tốt nghiệp.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
2.1. Mục đích của luận văn
- Làm rõ cơ sở thực tiễn về việc phát triển làng nghề truyền thống Gỗ mộc Kha Lâm.
- Phản ánh tình hình phát triển của làng nghề truyền thống.
- Xây dựng giải pháp để phát triển làng nghề truyền thống gỗ mộc Kha Lâm
2.2. Nhiệm vụ
- Phân tích đánh giá đúng thực trạng sản xuất kinh doanh và các vấn đề môi
trường ở làng nghề truyền thống Gỗ mộc Kha Lâm.
- Nghiên cứu sự cần thiết của việc phát triển làng nghề truyền thống gắn liền với
bảo vệ môi trường tại địa phương cũng như vùng lân cận xung quanh.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm gắn kết giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi
trường nhằm hướng tới sự phát triển bền vững của làng nghề truyền thống Gỗ mộc Kha Lâm
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu về tình hình hoạt động và phát triển tại
làng nghề truyền thống Gỗ mộc Kha Lâm, các nhân tố ảnh hưởng tới phát triển làng nghề,

quy mô, cơ cấu, quy trình sản xuất và một số vấn đề khác.

5

5


3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian nghiên cứu: Tìm hiểu, nghiên cứu tại Làng nghề gGỗ mộc
Kha Lâm, Phường Nam Sơn- Kiến An- Hải Phòng
- Phạm vi thời gian nghiên cứu: Thời gian nghiên cứu và thu thập số liệu từ năm
2005- 2015.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra, phỏng vấn: Từ việc chuẩn bị câu hỏi phỏng vấn liên quan đến
đề tài tiến hành phỏng vấn trực tiếp các hộ kinh doanh và sản xuất tại làng nghề Kha Lâm để
đưa ra ý kiến chung về thực trạng phát triển tại làng nghề.
- Phương pháp thu thập, tổng hợp và xử lí số liệu: Thu thập số liệu về cơ cấu kinh
tế địa phương cụ thể ở đây là Phường Nam Sơn, làng nghề gỗ mộc Kha Lâm. Thu thập số
liệu thống kê từ các hộ và cơ sở sản xuất. Nghiên cứu thông tin cơ bản và xử lí số liệu do
cơ quan nhà nước, các nghiên cứu cá nhân, tổ chức về phát triển làng nghề truyền thống ở
nông thôn.
- Phương pháp kế thừa các kết quả nghiên cứu: tìm hiểu các kết quả nghiên cứu đi
trước để vận dụng vào bài nghiên cứu của cá nhân, chọn lọc đúng ý, không sao chép, từ
những nghiên cứu đi trước mà rút ra những kinh nghiệm cho bản thân.
- Phương pháp thực địa: Trên cơ sở khảo sát thực tế tại làng nghề Kha Lâm, được
tiếp cận đối tượng một cách trực tiếp, tiến hành tìm hiểu, phân tích tình hình phát triển,
quá trình sản xuất của các hộ các cơ sở sản xuất và kinh doanh tại làng nghề một cách
chính xác và đưa ra biện pháp hữu hiệu nhất để làng nghề ngày càng phát triển và vươn
xa hơn mang lại nguồn lợi kinh tế lớn hơn cho người dân địa phương cũng như lao động
nông thôn.

- Phương pháp so sánh: Phương pháp được sử dụng để so sánh số liệu giữa các năm
từ đó đánh giá được tình hình phát triển kinh tế xã hội tại làng nghề.

6

6


5. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Các công trình nghiên cứu về thủ công nghiệp, nghề truyền thống và vấn đề môi
trường gắn bó với làng nghề. Các công trình nghiên cứu về tình hình sản xuất và kinh
doanh của làng nghề và làng nghề truyền thống như:
- Công trình “Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình CNH, HĐH ở vùng
ven thủ đô Hà Nội”, Luận án tiến sỹ kinh tế của Mai Thế Hởn, Hà Nội, năm 2000.
- Công trình “Xây dựng thương hiệu sản phẩm làng nghề truyền thống ở đồng bằng
sông Hồng hiện nay”, Đề tài khoa học cấp Bộ, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chi Minh, do
TS Nguyễn Vĩnh Thanh làm chủ nhiệm, Hà Nội, 2006.
- Công trình “Những giải pháp nhằm phát triển làng nghề ở một số tỉnh đồng bằng sông
Hồng”, Đề tài khoa học cấp Bộ của Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, do GS,
TS Nguyễn Trí Dũng làm chủ nhiệm, Hà Nội, 2005.
- Công trình “Xây dựng và phát triển mô hình làng nghề du lịch sinh thái tại một
số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ”, Đề tài khoa học cấp Bộ của Bộ giáo dục và đào tạo, do
GS.TS Hoàng Văn Châu làm chủ nhiệm, Hà Nội, 2006.
- Công trình “Làng nghề truyền thống đồng bằng sông Hồng sau Khi Việt Nam gia
nhập tổ chức thương mại Thế giới”, Đề tài khoa học của Viện Kinh tế - Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2009. Do TS Vũ Thị Thoa làm chủ nhiệm.
Các công trình nêu trên đều tiến hành ngiên cứu về Làng nghề truyền thống trên
nhiều khía cạnh khác nhau, có liên quan mật thiết tới đề tài của các tác giả.
6. Đóng góp của đề tài
- Nghiên cứu lí thuyết làng nghề truyền thống gắn với một điểm, lãnh thổ cụ thể,
đề xuất một số giải pháp cụ thể.

- Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng tới phát triển kinh tế làng nghề địa phương, từ
đó xác định được vai trò quan trọng của làng nghề đối với địa phương. Từ đó xác định
được vai trò quan trọng của làng nghề đối với địa phương nói riêng và cả nước nói chung.
- Phân tích được hiện trạng phát triển của làng nghề truyền thống gỗ mộc Kha Lâm.

7

7


- Xây dựng biện pháp phát triển phù hợp, xác thực tới đời sống nhân dân, sát với
mục tiêu và định hướng phát triển của địa phương.
- Là tư liệu giáo dục địa lí địa phương ở trường phổ thông.
7. Kết cấu đề tài
Mở đầu
Nội dung
Chương 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn phát triển làng nghề truyền thống Gỗ mộc
Kha Lâm- Kiến An
Chương 2. Thực trạng phát triển làng nghề truyền thống Gỗ mộc Kha Lâm
Chương 3. Đề xuất các giải pháp phát triển làng nghề truyền thống Gỗ mộc
Kết luận, đề xuất giải pháp

8

8


NỘI DUNG
Chương 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn phát triển làng nghề truyền thống
Gỗ mộc Kha Lâm- Kiến An

1.1. Khái niệm và phân loại làng nghề
1.1.1. Khái niệm làng nghề truyền trống
Cho đến nay vẫn chưa có khái niệm chính thống về “Làng nghề”. Lâu nay khái
niệm làng nghề thường được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Có nhà nghiên cứu cho
rằng “Làng nghề là một thiết chế kinh tế- xã hội ở nông thôn, được cấu thành bởi hai yếu
tố làng và nghề, tồn tại trong một không gian địa lý nhất định, trong đó bao gồm nhiều hộ
gia đình sinh sống bằng nghề thủ công là chính, giữa họ có mối liên kết về kinh tế, xã hội
và văn hóa” [1]
Có nhà nghiên cứu định nghĩa“Làng nghề truyền thống là làng nghề cổ truyền làm
nghề thủ công. Ở đây không nhất thiết tất cả dân làng đều sản xuất hàng thủ công. Người
thợ thủ công nhiều trường hợp cũng đồng thời làm nghề nông. Nhưng yêu cầu chuyên
môn hóa cao đã tạo ra những người thợ chuyên sản xuất hàng truyền thống ngay tại làng
quê mình” [2]
Theo giáo sư Trần Quốc Vượng thì “Làng nghề là một làng tuy vẫn còn trồng trọt
theo lối tiểu nông và chăn nuôi nhưng cũng có một số nghề phụ khác như đan lát, gốm
sứ, làm hương…song đã nổi trội một nghề cổ truyền, tinh xảo với một tầng lớp thợ thủ
công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, có phường( cơ cấu tổ chức ), có ông cả, có
trưởng nghề… cùng một số thợ và phó nhỏ, đã chuyên tâm, có quy trình công nghệ nhất
định “sinh ư nghệ, tử ư nghệ”, “ nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, sống chủ yếu được bằng
nghề đó và sản xuất ra những mặt hàng thủ công, những mặt hàng này đã có tính mỹ
nghệ, đã trở thành sản phẩm hàng hóa và có quan hệ tiếp thị với một thị trường là vùng
rộng xung quanh và với thị trường đô thị và tiến tới mở rộng ra cả nước rồi có thể xuất

9

9


khẩu ra cả nước ngài” [3]. Định nghĩa này hàm ý về các làng nghề truyền thống, đó là
những làng nghề nổi tiếng từ hàng nghìn năm.

Các làng nghề phải đáp ứng các tiêu chí sau mới được gọi là làng nghề truyền thống.
Làng nghề truyền thống đạt 03 tiêu chí sau được quy định tại Thông tư số 116/2006/TT-BNN
ngày 18/12/2006 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn thực hiện một số
nội dung của Nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày 07/7/2006 của Chính phủ về phát triển
ngành nghề nông thôn.
- Nghề đã xuất hiện tại địa phương từ trên 50 năm tính đến thời điểm đề nghị
công nhận.
- Nghề tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn hoá dân tộc.
- Nghề gắn với tên tuổi của một hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi của làng nghề.
1.1.2. Phân loại
1.1.2.1. Phân loại
Cũng đã có những cách phân loại làng nghề khác nhau. Nhiều nhà nghiên cứu nhất
trí hai cách phân loại như sau:
- Phân loại theo số lượng làng nghề:
+ Làng nghề một nghề là những làng ngoài nghề nông ra, chỉ có thêm một nghề
thủ công duy nhất.
+ Làng nghiều nghề, là những làng ngoài nghề nông ra còn có thêm một số hoặc
nhiều nghề khác.
- Phân loại theo tính chất nghề:
+ Làng nghề truyền thống là làng nghề xuất hiện từ lâu đời trong lịch sử và còn
tồn tại đến ngày nay.
+ Làng nghề mới là những làng nghề xuất hiện do sự phát triển lan tỏa của các
làng nghề truyền thống du nhập từ các địa phương khác. Một số làng mới được hình
thành do chủ trương của một số địa phương cho người đi học nghề ở nơi khác về dạy cho
dân địa phương nhằm đào tạo việc làm cho người dân địa phương của mình.

10

10



1.1.2.2. Các nhóm làng nghề
Theo thống kê năm 2004, cả nước có 2017 làng nghề , trong đó có khoảng 300
làng nghề truyền thống, bao gồm 1,4 triệu cơ sở sản xuất với nhiều loại hình tổ chức sản
xuất từ hộ gia đình đến tổ sản xuất, tổ hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân và các loại hình
công ty.
Số làng nghề được phân bố như bảng sau(số liệu năm 2004)

11

11


Bảng 1: Phân bố làng nghề các vùng trong cả nước( năm 2004) [4]
Vùng
Đồng bằng sông Hồng
Đông Bắc
Tây Bắc
Bắc Trung Bộ
Nam Trung Bộ
Đông Nam Bộ
Đồng bằng sông Cửu Long

Số làng nghề
866 làng
164 làng
247 làng
341 làng
87 làng
101 làng

211 làng

Như vậy, có thể thấy làng nghề tập trung chủ yếu ở Đồng bằng sông Hồng, nơi đây
có đến 866 làng nghề, có đến 80% hộ nông dân tham gia làm hàng thủ công. Riêng tỉnh
Hà Tây cũ có đến 258 làng nghề được coi là “đất trăm nghề”. Nơi có những làng nghề
nổi tiếng từ lâu đời như lụa Vạn Phúc, Mây tre đan Phú Vinh, khảm Chuyên Mỹ,v.v…
Đáng chú ý từ năm 2004 đến nay, tình hình làng nghề ở các địa phương khác đã có
nhiều thay đổi, nhiều làng nghề đã hình thành, có các làng nghề được địa phương công
nhận chính thức bằng văn bản, có làng chưa được công nhận chính thức. Song cho đến
nay, chưa có thống kê chính thức cập nhật về số lượng làng nghề hiện có trong cả nước,
do đó : số liệu hiện đang dùng (2017 làng) có thể thấp so với thực tế (ví dụ theo số liệu
năm 2004, Thừa Thiên Huế chỉ có 04 làng nghề, nhưng thực tế đã có đến 88 làng nghề .
Làng nghề có thể chia thành 14 nhóm. Việc phân nhóm trên đây chỉ là quy ước, vì
cho đến nay, chúng ta chưa có nghiên cứu đầy đủ về phương pháp luận phân nhóm làng
nghề. Năm 2004, dự án của cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) hợp tác với Bộ
Nông nghiệp và phát triển nông thôn chỉ phân 11 nhóm thuộc ngành nghề thủ công
nghiệp không đề cập đến các làng nghề chế biến nông sản thực phẩm, cây cảnh…có thể
thấy: do nhu cầu của thị trường, có những ngành nghề mới đã xuất hiện và hình thành
làng, làm phong phú thêm danh mục các làng nghề.
Trong các làng nghề hiện nay, đang có nhiều tổ chức sản xuất, kinh doanh rất đa
dạng, đó là các loại doanh nghiệp (các loại công ty, doanh nghiệp tư nhân) hợp tác xã, tổ
sản xuất, hộ gia đình thuộc các lĩnh vực sản xuất buôn bán, dịch vụ, du lịch. Hoạt động
của các tổ chức kinh doanh này (gọi chung là doanh nghiệp) đang trong bước phát triển,
năng động, đa dạng, giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong các cuộc khôi phục và phát triển

12

12



làng nghề. Trong các doanh nghiệp đó, cơ cấu như sau: thủ công nghiệp, xây dựng chiếm
33%. Chế biến chiếm 27% dịch vụ chiếm 40% (chủ yếu là cửa hàng bán lẻ).
Về thành phần kinh tế, trong các nghành nghề nông thôn hiện nay, kinh tế tư nhân
chiếm 71,8 %, kinh tế hợp tác xã chiếm 18,2%, kinh tế nhà nước chiếm 10%. Khu vực
kinh tế tư nhân đang có nhiều triển vọng, do suất đầu tư thấp, kinh doanh năng động, hiệu
quả cao. Thời gian gần đây, nhiều tổ chức xã hội dân sự trong các làng nghề đã được tổ
chức dưới nhiều hình thức, như hội ngành nghề, hiệp hội

(Hiệp Hội làng nghề Việt

Nam) kể cả câu lạc bộ.
1.1.2.3. Tổng quan về làng nghề gỗ của Việt Nam
Đến năm 2010 cả nước có trên 300 làng nghề gỗ, dự kiến đến năm 2015 sẽ phát
triển trên 350 làng nghề chủ yếu các làng nghề tập trung ở vùng Đồng Bằng sông Hồng
(Bảng 2 mô tả phân bố của các làng nghề) So sánh với các làng nghề khác, làng nghề gỗ
có vai trò quan trọng về kinh tế, theo HRPC năm 2009 cho thấy, mặc dù số lượng làng
nghề gỗ chỉ chiếm dưới 10% trong tổng số làng nghề của cả nước, giá trị sản xuất tổng
doanh thu của các làng nghề cao. Nhiều làng nghề gỗ có sản phẩm xuất khẩu. Năm 2009,
kim ngạch xuất khẩu của các làng nghề gỗ và lâm sản ngoài gỗ đạt 200 triệu USD, tương
đương với 25% tổng số kim ngạch của tất cả làng nghề Việt Nam [4].
Hiện các làng nghề gỗ cung cấp tới 80% đồ gỗ nội thất và đồ gỗ xây dựng cho thị
trường nội địa. Với lượng lao động rồi dào (trên 300.000 lao động), làng nghề gỗ đã tạo
ra công ăn việc làm cho rất nhiều lao động địa phương.

13

13


Bảng 2. Phân bố các làng nghề chế biến gỗ năm 2009 [4]

Vùng phân bố
Đồng Bằng Sông Hồng
Đông Bắc
Tây Bắc
Bắc Trung Bộ
Nam Trung Bộ
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
Đồng Bằng Sông Cửu Long
Tổng

Tổng làng nghề gỗ
130
40
18
40
18
20
14
22
302

1.2. Vai tṛ làng nghề đối với phát triển kinh tế xă hội làng nghề truyền thống gỗ mộc
Kha Lâm
Làng nghề có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội của làng Kha Lâm
nói riêng và đóng góp phần không hề nhỏ trong cơ cấu kinh tế của thành phố nói chung. Làng
nghề đóng góp tích cực về nhiều mặt phát triển kinh tế -xã hội của làng như trong việc giải
quyết việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống của cư dân nông thôn, trong việc chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, góp phần quan trọng phát triển kinh tế, ổn định xã hội, đồng thời có ý nghĩa to
lớn về bảo tồn các giá trị văn hóa của dân tộc và góp phần quan trọng việc phát triển du lịch.

1.2.1. Tạo việc làm cho người lao động và giảm thời gian nông nhàn ở địa phương
Làng nghề phát triển kéo theo sự phát triển của nhiều ngành nghề khác, dịch vụ
khác, qua đó tạo thêm việc làm, thêm thu nhập cho dân cư nhiều vùng nông thôn. Số lao
động làm nghề mộc tại làng nghề Kha Lâm hiện nay khoảng 1283 lao động, nghề mộc
góp phần giải quyết 16 % số lao động trên địa bàn phường Nam Sơn.
Mức lương thu nhập của mỗi lao động khoảng 5-7 triệu đồng/tháng. Số hộ làm giàu từ
kinh doanh sản xuất gỗ mộc tính đến thời điểm này là 168 hộ kinh doanh.
Những năm 1980 - 2008 là giai đoạn phát triển thịnh vượng của làng nghề gỗ mộc
Kha Lâm. Làng nghề Kha Lâm có đến 100 cơ sở sản xuất mộc lớn nhỏ, giải quyết việc làm
cho khoảng 15 - 20 lao động trên một cơ sở vừa, các cơ sở quy mô nhỏ chỉ sử dụng 4 - 6 lao
động và cơ sở quy mô lớn từ 15 - vài chục lao động.

14

14


Làng nghề đóng góp tích cực về việc tạo việc làm ở Phường Nam Sơn. Vì đặc
điểm chủ yếu của làng nghề là sản xuất thủ công và sử dụng nhiều sức lao động. Số
lượng lao động của mỗi cơ sở sản xuất rất đa dạng, tùy theo quy mô của cơ sở sản xuất và
ngành nghề cảu làng nghề gỗ mộc. Các cơ sở sản xuất có quy mô nhỏ dử dụng lao động
thường xuyên từ 4- 6 người. Tuy nhiên, các cơ sở sản xuất với quy mô lớn ở Kha Lâm sử
dụng lao động lên đến hàng chục người.
Số lượng lao động tham gia sản xuất phi nông nghiệp còn nhiều hơn nếu tính cả lao
động thời vụ. Trung bình mỗi hộ sản xuất thu hút thêm 3 - 6 lao động, còn mỗi cơ sở sản
xuất thu hút từ 8 - 10 lao động thời vụ (làm việc ngắn hạn)
Làng nghề gỗ so với các làng nghề chế biến nông sản về việc thu hút nhân công
thì thấp hơn. Làng nghề sản xuất chế biến nông sản do tính chất thời vụ nên số lao động
thời vụ rất lớn, thậm chí gấp từ 4 - 7 lần số lao động thường xuyên [5].
Làng nghề còn có nhiều đóng góp ý nghĩa khác, tạo việc làm cho lao động lớn

tuổi, lao động trình độ văn hóa thấp hay lao động có hoàn cảnh khó khăn. Những lao
động này nếu không tham gia sản xuất phi nông nghiệp sẽ khó tìm được việc làm ở các
khu công nghiệp hay những công việc khác. Các cơ sở sản xuất thu nhận những lao động
cao tuổi vào làm trong những công đoạn sản xuất sản phẩm nhẹ như gắn các mảnh hoa
văn trang trí lên sản phẩm, công đoạn đánh bóng sản phẩm, tạo thêm công việc cho người
có tuổi và lao động nông nhàn ở địa phương và tăng thu nhập cho họ.
Bên cạnh đó làng nghề gỗ mộc Kha Lâm không chỉ tạo việc làm cho lao động địa
phương mình mà còn tạo việc làm cho các lao động phổ thông các địa bàn lân cận khác. Mỗi
năm làng nghề thu nhận khoảng 150- 200 lao động ở địa phương khác tới làm việc như lao
động các phường Văn Đẩu, Đẩu Phượng, Lệ Tảo…
1.2.2. Tăng thu nhập và cải thiện đời sống và bộ mặt địa phương
Cùng với vai trò tạo việc làm cho người lao động, các làng nghề còn góp phần
tăng thu nhập cho cơ sở sản xuất và người lao động, làng nghề rất linh hoạt, tạo việc làm
mang lại thu nhập cho nhiều đối tượng lao động khác nhau, như lao động lớn tuổi, lao
động trình độ thấp, lao động có tay nghề, đặc biệt là lao động nông nhàn không thể rời bỏ
nông nghiệp ở nông thôn. Nếu so sánh với thu nhập của lao động nông nghiệp thì thu

15

15


nhập của lao động ngành nghề phi nông nghiệp cao hơn khoảng 2-4 lần, đặc biệt là chi
phí về lao động và diện tích sử dụng đất thấp hơn nhiều so với sản xuất nông nghiệp [6].
Nếu dân cư ở khu vực phường Nam Sơn chỉ sống dựa vào thu nhập từ nghề nông
thì thu nhập không ổn định, dư thừa một số lượng lớn lao động và cuộc sống dân cư
nhiều vất vả, khổ cực. Chỉ có làng nghề mới giúp dân cư địa phương nơi đây có việc làm
và thu nhập để ổn định đời sống.
Làng nghề tạo thu nhập ổn định cho người dân nơi đây. Với mức thu nhập khá cao
bình quan là 5 - 6 triệu đồng/tháng cho các lao động phổ thông, còn đối với lao động có

tay nghề làm trong các cơ sở sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ tinh xảo mức lương trung bình từ 7
- 8 triệu đồng/tháng. Với mức thu nhập cao mức sống của người dân địa phương nơi đây
người dân khá là ổn định. Đã có rất nhiều hộ lao động thoát nghèo nhờ việc mạnh dạn
đầu tư sản xuất và kinh doanh đồ gỗ mộc Kha Lâm.
Điển hình như các xưởng, hộ kinh doanh phát triển, các cơ sở sản xuất như:
+ Cơ sơ sản xuất Vân Hiền (391/ Trần Nhân Tông, Kha Lâm)
+ Cơ sở sản xuất Lý Lực (381/ Trần Nhân Tông, Kha Lâm)
+ Cơ sở sản xuất Thành Đoài (337/ Trần Nhân Tông, Kha Lâm)
Làng nghề gỗ mộc Kha Lâm còn tạo ra cơ hội phát triển cho nhiều ngành nghề có liên
quan khác như: cung ứng nguyên vật liệu sản xuất hay tiêu thụ sản phẩm làng nghề. Khảo sát
tại phường Nam Sơn đã cho thấy nhiều doanh nghiệp, hộ gia đình có nguồn thu nhập chính
từ cung ứng nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm gỗ như doanh nghiệp: Sơn Hà (Trụ sở Sơn
Hà tại 129-131 Chợ Hàng) vừa sản xuất và cũng là nhà cung ứng nguyên vật liệu, phân phối
sản phẩm ra thị trường.
Các hộ kinh doanh các nguyên vật liệu sản xuất nhỏ và vừa khác toàn làng nghề
gồm có 5 hộ. Điển hình là hộ Thành Loan 576 Trần Nhân Tông – Kha Lâm, Nam Sơn.
Cơ Sở bán buôn bán lẻ vật liệu sản xuất Khuyên Ngọc số 9/Nguyễn Mẫn, Kha Lâm.
Rõ ràng, làng nghề gỗ Kha Lâm không chỉ mang lại thu nhập cho lao động trực
tiếp tham gia sản xuất mà còn tạo ra thu nhập cho lao động làm việc trong ngành nghề
liên quan với làng nghề gỗ.
Làng nghề gỗ Kha Lâm còn góp phần cải thiện đời sống của dân cư ở làng nghề,
thúc đẩy quá trình hiện đại hóa nông thôn và xây dựng nông thôn mới. Theo tìm hiểu cho
thấy mức sống của dân cư ở làng nghề thường cao hơn dân cư ở làng thuần nông. Nhiều
hộ gia đình ở Kha Lâm có nhà cửa khang trang, mua sắm các vật dụng gia đình đầy đủ và

16

16



tiện nghi hơn các hộ gia đình thuần nông. Hầu hết các hộ gia đình sản xuất đồ gỗ ở Kha
Lâm đều có nhà mặt tiền ở ngoài đường rất tiện lợi bày bán sản phẩm sản xuất và 1 cơ sở
chuyên sản xuất sản phẩm để chuyển đến cửa hàng cung cấp cho thị trường, rất tiện lợi.
Tỷ lệ hộ nghèo ở khu vực có nghề phi nông nghiệp phát triển (trên cả nước) là 3,7%
thấp hơn nhiều so với tỷ lệ hộ nghèo bình quân trên cả nước là 10,4%.
Tỷ lệ hộ nghèo ở Kha Lâm- Nam Sơn giảm đáng kể, năm 2015 toàn xã chỉ còn 14
hộ nghèo (neo đơn). Đời sống các hộ đã đi lên đáng kể nhờ nghề mộc truyền thống của
địa phương.
Hệ thống cơ sở hạ tầng gồm đường xá, điện ,nước và cầu cống ở làng nghề Kha
Lâm được đầu tư kiên cố hiện đại hơn so với các làng khác trong khu vực. Cửa hàng bày
bán và cơ sở sản xuất đồ gỗ được đặt cách riêng biệt. Cửa hàng được đặt ngay ngoài mặt
đường chính (đường Trần Nhân Tông), để tiện bán sản phẩm còn sơ sở sản xuất được đặt
cách không xa với cửa hàng khoảng 1 km – 2 km để đảm bảo về qúa trình vận chuyển
sản phẩm nhanh gọn.
1.2.3. Khai thác các nguồn lực và nguyên vật liệu tại địa phương
1.2.3.1. Khai thác các nguồn lực và nguyên vật liệu tại địa phương
Với dân sô 10.991 (năm 2015) cung cấp nguồn lao động dồi dào cho làng nghề mộc.
Làng nghề truyền thống gỗ mộc Kha Lâm hàng năm còn thu hút hàng trăm nhân công lao
động tham gia sản xuất đồ gỗ mộc đem lại hiệu quả kinh tế cao cho địa phương, tận dụng
nguồn lao động nhàn dỗi cũng như lao động trình độ thấp, không có tay nghề và lao động có
tuổi vào các cơ sở sản xuất.
Vốn kinh doanh của cơ sở sản xuất ở các làng nghề gỗ khá là cao. Tùy thuộc vào
hướng kinh doanh và quy mô cơ sở sản xuất nhưng đa số các ngành nghề kinh doanh sản
xuất và quy mô, vốn đầu tư của ngành gỗ rất lớn .
Chẳng hạn như trung bình để hình thành nên 1 cơ sở sản xuất đồ gỗ mộc Kha Lâm
cần phải có vốn từ 300- 500 triệu đồng để đầu tư cơ sở, mua máy móc, nguyên liệu.
Còn đối với cơ sở sản xuất vừa có bác Phạm Tiến Thịnh, ở tổ 3, phường Nam Sơn,
Kiến An, đã gắn bó với nghề mộc truyền thống gần 20 năm nay. Để phát triển nghề mộc
truyền thống, bác đã mạnh dạn đầu tư trên 1 tỷ đồng xây xưởng, mua máy móc, nguyên
liệu gỗ để sản xuất đồ gỗ nội thất okal. Hiện nay hàng năm cơ sở đem lại nguồn thu nhập

khá cao cho gia đình.

17

17


Làng nghề gỗ Kha Lâm sử dụng nhiều sản phẩm gỗ đầu vào khác nhau, chủ yếu
nguồn nguyên liệu gỗ được cung cấp từ trong nước bao gồm gỗ thịt, gỗ dăm công
nghiệp, gỗ tròn, gỗ ván nhân tạo…
Trước kia, người làng Kha Lâm chủ yếu sản xuất các sản phẩm gỗ từ gỗ thịt như:
cột kèo nhà, giường, sập gụ, bàn ghế, hoành phi, câu đối…
Tuy nhiên, thời gian gần đây do nạn khai thác rừng bừa bãi, gỗ thịt khan hiếm, các
cơ sở sản xuất phải đi tìm nguồn nguyên liệu mới. Phần lớn các xưởng mộc chuyển sang
sản xuất đồ gỗ ép hay còn gọi là gỗ okal. Đồ gỗ ván dăm hay đồ gỗ okal là sản phẩm
công nghệ “thân thiện với môi trường” của làng nghề Kha Lâm với đa dạng kiểu dáng,
chủng loại, kiểu dáng đẹp bền, phù hợp với nhiều loại đối tượng khách hàng đã đem lại
chỗ đứng cho sản phẩm gỗ mộc Kha Lâm trên thị trường đồ gỗ.
1.2.3.2. Các loại gỗ chính trong sản xuất đồ gỗ Kha Lâm
Gỗ dùng trong sản xuất thường là gỗ công nghiệp dung để sản xuất đồ nội thất văn
phòng, tủ quầy, mặt hậu nội thất, hộc tủ, ngăn tủ. Vách ngăn, ván nội thất và xây
dựng,ván sàn, cửa, thùng loa…
Chúng ta tìm hiểu về các loại gỗ cơ bản được sử dụng trong làng nghề sau :
- Gỗ Okal hay còn gọi là Ván dăm là gỗ nhân tạo được sản xuất từ nguyên liệu gỗ
rừng trồng (bạch đàn, keo, cao su...), có độ bền cơ lý cao, kích thước bề mặt rộng, phong
phú về chủng loại. Ván dăm được sản xuất bằng quá trình ép dăm gỗ đã trộn keo, tương
tự như MDF nhưng gỗ được xay thành dăm, nên chúng có chất lượng kém hơn ván sợi.

18


18


Hình1.1: Gỗ

Okal (Ván dăm)
Gỗ thịt là các loại gỗ tự nhiên như gỗ xoan, gỗ đào, hương,…với độ bền cao, chất
lượng gỗ tốt. Gỗ thịt hay là gỗ tự nhiên có vân tự nhiên rất đẹp, màu sắc đa dạng, ít thấm
nước. Gỗ tự nhiên thì độ to nhỏ khác nhau, và độ dẻo bền rất tốt nên những họa tiết điêu
khắc, trạm trổ được thực hiện dễ dàng hơn so với gỗ ván dăm.

Hình 1.2: Gỗ thịt (gỗ tự nhiên)
Song song với phát triển làng nghề truyền thống thì các ngành kinh doanh có lợi
gián tiếp từ nghề gỗ nội thất cũng rất phát triển. Các ngành dịch vụ như sửa chữa tủ, lắp
ráp nội thất, vận chuyển đồ gỗ cũng rất thịnh hành và đang có xu hướng mở rộng. Hiện
tại trên địa bàn có khoảng 11 cơ sở chuyên lắp ráp đồ nội thất như cơ sở Thành Đoài (335
Trần Nhân Tông), Phú Lệ, Huệ Toản,Vân Trang… các cơ sở đều nằm trên tuyến đường
chính Trần Nhân Tông.

19

19


1.2.4. Bảo tồn các giá trị văn hóa địa phương
Lịch sử phát triển làng nghề luôn gắn liền với quá trình phát triển kinh tế- xã hội
của Việt Nam. Làng nghề là phương thức sản xuất truyền thống, có bề dày lịch sử lâu đời,
là nơi hội tụ, kết tinh những tinh hoa văn hóa truyền thống đặc trưng của Việt Nam. Mỗi
làng nghề có lịch sử về nguồn gốc hình thành khác nhau phát triển và tạo nên bản sác
riêng biệt cho mỗi làng nghề.

Trong làng nghề, đã tồn tại từ lâu đời các ngành nghề truyền thống rất đặc biệt
gắn với trí thông minh, bàn tay khéo léo và kỹ thuật tinh xảo của các nghệ nhân được lưu
truyền từ hàng trăm năm nay được gìn giữ, kế thừa và khôi phục phát triển. Có những sản
phẩm còn mang dấu ấn thời đại, đặc điểm làng nghề, phong cách nghệ nhân khá đậm nét .
Cũng là làng nghề về gỗ, như làng nghề truyền thống gỗ mộc okan Kha Lâm Kiến An khác với làng nghề gỗ Đồng Kỵ, làng nghề Vạn Điềm, La Xuyên. Trong đó
Làng nghề truyền thống gỗ mộc Kha Lâm với hơn trăm năm bề dày lịch sử, làng nghề
Mộc Kha Lâm sản xuất với mẫu mã chỉ riêng đồ gỗ Kha Lâm mới có, làm từ nhiều loại
gỗ đa dạng về mẫu mã, có giá trị nổi bật độc đáo mang bản sắc riêng của làng nghề. Mỗi
làng nghề có lịch sử phát triển, có sản phẩm phi vật thể và vật thể truyền thống có những
nghệ nhân tiêu biểu tạo nên giá trị văn hóa riêng biệt cho làng nghề Kha Lâm.
Làng nghề có khoảng 50 thợ tay nghề cao, với kinh nghiệm 20-30 năm trong nghề
mộc như: Ông Đỗ Doãn Vân (Kha Lâm 1, Nam Sơn, Kiến An), ông cũng là chủ của cơ sở
Vân Hiền, là một trong các hộ sản xuất đi đầu về cải tiến chất lượng mẫu mã sản phẩm gỗ
mộc Kha Lâm. Ông Phạm Văn Bôn, ông Nguyễn Văn Toản.
Làng nghề gỗ Kha Lâm đã có lịch sử hơn trăm năm nay, với các sản phẩm đa dạng
được phổ biến rộng dãi trên khắp đất nước và cả sang nước bạn. Dưới đây là hình ảnh của
các sản phẩm đồ gỗ làng nghề truyền trống gỗ mộc Kha Lâm.

20

20


Hình 1.3: Tủ kệ, bàn ghế gỗ okal

Hình 1.4 : Nội thất văn phòng
Không chỉ mẫu mã đa dạng đẹp mắt mà sản phẩm làng nghề gỗ mộc Kha Lâm còn
phản ánh sự tỉ mỉ công phu từng chi tiết trong sản phẩm nội thất khảm trai, tinh tế mang
đậm nét riêng chỉ có làng nghề gỗ mộc Kha Lâm mới có.
Khảm trai xuất hiện từ rất lâu đời, các thế hệ đời sau luôn học hỏi và phát huy

những giá trị truyền thống xưa.

21

21


Hình 1.5. Các sản phẩm được khảm trai tinh xảo
Một số sản phẩm khảm trai, không chỉ có các đồ nội thất như tủ, kệ, sập gụ ….
được khảm trai mà các sản phẩm nhỏ như bình gỗ, lọ tăm nhỏ nhắn đều được các công
nhân tỉ mỉ thêm chi tiết vào khiến sản phẩm độc đáo, sinh động hơn, thu hút thị hiếu
khách hàng hơn.
Nhiều nước ưa chuộng hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam vì những kiểu dáng độc
đáo, từ hàng thủ công mỹ nghệ như đồ sứ, hàng thổ cẩm, mây tre đan trau truốt tinh tế
bằng bàn tay khéo léo của nghệ nhân đến những sản phẩm nội thất bằng gỗ, đá mỹ nghệ
làm đẹp thêm những ngôi nhà và những tượng đá tôn thêm những vẻ đẹp của những công
viên. Mỗi sản phẩm thủ công mỹ nghệ đều mạng vẻ đẹp văn hóa dân tộc, chứa đựng
những quan niệm, tư tưởng đặc điểm nhân văn, trình độ khoa học kỹ thuật rất độc đáo
của dân tộc Việt Nam. Hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu mang trong mỗi sản phẩm tinh
hoa văn hóa của dân tộc ta, đóng góp vào kho tàng văn hóa nhân loại, làm phong phú
thêm văn hóa thế giới. Chúng ta đang cố gắng vừa giới thiệu với bạn bè thế giới những

22

22


sản phẩm độc đáo mang tính truyền thông dân tộc, vừa sáng tạo thêm những mẫu mã mới
theo thị hiếu thị trường của khách hàng từng châu lục, từng nước, kể cả theo từng thời vụ.
Như vậy làng nghề góp phần vào việc bảo tồn giá trị văn hóa riêng biệt của

địa phương.
1.2.5. Góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và quá tŕnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở nông thôn
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nước ta từ nông nghiệp là chủ yếu chuyển sang cơ cấu mới: tỷ trọng của khu vực công
nghiệp và xây dựng tăng dần lên, nhất là tỷ trọng của khu vực dịch vụ tăng nhanh, tỷ
trọng của nông nghiệp giảm dần. Trong nội bộ kinh tế nông thôn cũng vậy, tỷ trọng của
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ sẽ tăng lên, tỷ trọng của nông nghiệp sẽ
giảm xuống. Phát triển ngành nghề nông thôn, làng nghề chính là con đường chủ yếu để
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng đó, chuyển từ lao động nông nghiệp
năng suất thấp, thu nhập thấp sang lao động năng suất và chất lượng cao với thu nhập cao
hơn. Mục tiêu nâng cao đời sống của dân cư lao động nông thôn một cách toàn diện cả về
kinh tế văn hóa cũng chỉ có thể đạt được nếu trong nông thôn, có cơ cấu hợp lý của nông
thôn mới, có nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ có nông thôn vận động và phát triển
thanh bình với hệ thống làng nghề tiếp nối truyền thống văn hóa làng nghề với chuỗi đô
thị nhỏ văn minh, lành mạnh.
Làng nghề cũng góp phần thay đổi cơ cấu thu nhập ở địa phương. Nhờ có làng
nghề mà nhiều hộ gia đình và lao động ở làng nghề Kha Lâm có việc làm và thu nhập để
ổn định đời sống. Làng nghề mộc truyền thống Kha Lâm phát triển, giúp cho số hộ khá,
giàu tăng nhanh, chiếm trên 75%. Từ địa phương có trên 80% số hộ thu nhập trông vào
sản xuất nông nghiệp, Kha Lâm bứt phá đi lên, nâng tỷ trộng công nghiệp – tiểu thủ công
nghiệp, thương mại, dịch vụ chiếm hơn 80%, tỷ trọng nông nghiệp chỉ chiếm dưới 20%.
Doanh thu từ nghề mộc hằng năm đạt trên 50- 60 tỷ đồng, chiếm 70% giá trị tổng
thu nhập của địa phương.
Làng nghề còn thay đổi cơ cấu sản xuất hàng hóa của địa phương theo hướng tăng
giá trị sản xuất tiểu thủ công nghiệp và giảm tỷ trọng giá trị nông nghiệp. Bộ NN&PTNT

23

23



tổng kết: “giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề nông thôn của
nhiều địa phương đã tăng lên rõ rệt đạt trên 20% năm.”
Ở làng nghề gỗ Kha Lâm đã xuất hiện các cơ sở sản xuất đầu tư vốn, máy móc và
thuê số lượng lớn lao động để sản xuất với quy mô lớn. Trong đó, một số cơ sở sản xuất
đã phát triển lên thành hộ doanh nghệp tư nhân :
+ Cơ sơ sản xuất : Vân Hiền, Lý Lực, Thành Đoài
Các công ty, xưởng kinh doanh phát triển như :
+ Công ty TNHH xây dựng Quyết Huyền, Công ty cổ phần thương mại Kim
Phát, Doanh nghiệp tư nhân Minh Ngọc, Kha Lâm, Nam Sơn.
+ Xưởng chế biến và sấy gỗ Thắng Lợi, Xưởng chế biến và sấy gỗ Tân Hà

Hình 1.6: Cơ sở hạ tầng xưởng sản xuất gỗ công ty Tân Hà
Với mặt bằng rộng, không gian thoáng, xưởng sản xuất được xây dựng kiên cố, đầu
tư trang thiết bị máy móc hiện đại. Xưởng chế biến và sấy gỗ Tân Hà là một trong những
doanh nghiệp tiêu biểu đi đầu trong việc đầu tư vốn, khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Như vậy làng nghề Kha Lâm góp phần thay đổi cơ cấu sản xuất, lao động, việc
làm, giá trị sản xuất và thu nhập của dân cư theo hướng tăng dần tỷ trọng sản xuất tiểu
thủ công nghiệp, chuyển bớt lao động từ sản xuất nông nghiệp sang các ngành nghề phi
nông nghiệp có thu nhập cao hơn.
Doanh thu từ nghề mộc hằng năm đạt trên 50- 60 tỷ đồng, chiếm 70% giá trị tổng
thu nhập của địa phương. Năm 2009, lô hàng đồ gỗ mộc Kha Lâm đầu tiên được xuất
khẩu sang nước Lào với tổng giá trị là 800 triệu đồng.

24

24



Tuy lượng hàng xuất khẩu còn chưa cao, lợi nhận còn hạn chế nhưng sản phẩm
của làng nghề được xuất khẩu sang nước bạn đã là một kết quả rất ý nghĩa, cần được thúc
đẩy và phát huy. Sản phẩm gỗ mộc Kha Lâm được xuất khẩu sang nước bạn: Lào,
Cambuchia, Trung Quốc, Mianma.

25

25


×