Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

tiểu luận hình thái kinh tế xã hội hay nhất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.28 KB, 18 trang )

Tiểu luận Triết học

Hình thái kinh tế - xã hội

MỤC LỤC
Phần I -

LỜI MỞ ĐẦU

Trang 02

Phần II - NỘI DUNG

Trang 03

I. Nội dung học thuyết hình thái kinh tế - xã hội

Trang 03

1. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội

Trang 03

2. Sự phát triển của hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên
Trang 04
3. Ý nghĩa của Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội

Trang 06

II. Sự vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội trong việc xây dựng
hình thái kinh tế - xã hội XHCN ở nước ta



Trang 09

1. Lựa chọn con đường đi lên CNXH bỏ qua Chế độ Tư bản Chủ nghĩa
Trang 09
2. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN

Trang 12

3. Phát triển lực lượng sản xuất bằng việc thực hiện Công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đi đôi với hoàn thiện QHSX XHCN ở nước taTrang 14
4. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN và các mặt khác của đời sống xã hội

Trang 15

Phần III - KẾT LUẬN

Trang 17

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trang 18

Trang 1/18


Tiểu luận Triết học


Hình thái kinh tế - xã hội

PHẦN I
LỜI MỞ ĐẦU
Học thuyết “Hình thái kinh tế - xã hội” là lý luận cơ bản và giữ một vị trí hết sức
quan trọng trong Chủ nghĩa duy vật lịch sử do C.Mác xây dựng nên. Học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội đã được thừa nhận là lý luận khoa học, là phương pháp lý luận cơ
bản để nghiên cứu tất cả các mặt của xã hội và là nền tảng lý luận của Chủ nghĩa xã
hội khoa học. Nhờ có lý luận hình thái kinh tế - xã hội, lần đầu tiên trong lịch sử xã
hội học C.Mác đã chỉ rõ nguồn gốc, động lực bên trong, nội tại của sự phát triển xã
hội, chỉ rõ được bản chất của từng chế độ xã hội. Như vậy, qua học thuyết hình thái
kinh tế - xã hội giúp chúng ta nghiên cứu một cách đúng đắng và khoa học sự vận
hành của xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.
Nhưng ngày nay, đứng trước những sự kiện lớn như sự sụp đổ của các nước Xã
hội chủ nghĩa ở Đông Âu, đặc biệt là Liên Xô – Đã từng được coi là “Ngọn cờ đầu”
của Chủ nghĩa xã hội. Theo đó, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đã bị phê phán từ
rất nhiều phía; sự phê phán không chỉ từ phía đối lập của Chủ nghĩa Mác - Lênin mà
còn cả một số người đã từng đi theo con đường của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Nói
chung họ cho rằng: Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là lỗi thời, lạc hậu không thể
áp dụng vào điều kiện hiện nay mà phải thay thế bằng một lý luận khác.
Trước tình hình đó buộc chúng ta phải làm rõ thực chất của học thuyết hình thái
kinh tế - xã hội và giá trị về mặt khoa học, tính thời đại của nó là rất cần thiết. Về
thực tiễn nước ta đang trong quá trình xây dựng đất nước theo định hướng Xã hội chủ
nghĩa. Do vậy, việc nghiên cứu và vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là
cực kỳ quan trọng đối với sự nghiệp đổi mới và xây dựng đất nước ta hiện nay.
Trong phạm vi bài viết nầy, chúng ta sẽ nghiên cứu về “Sự vận dụng của Đảng
Cộng sản Việt Nam đối với Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội”.

Trang 2/18



Tiểu luận Triết học

Hình thái kinh tế - xã hội

PHẦN II
NỘI DUNG
I. Nội dung học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
1- Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để
chỉ ra một xã hội cụ thể tồn tại trong một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, với
một phương thức sản xuất đặc trưng của nó, tức là với một kiểu đặc trưng của quan
hệ sản xuất phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của một lực lượng sản xuất
và một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất
ấy.
Xã hội không phải là tổng số những hiện tượng, sự kiện rời rạc những cá nhân
riêng lẻ. Xã hội là một chỉnh thể toàn vẹn có cơ cấu phức tạp. Trong đó có những mặt
cơ bản nhất là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi
mặt có vai trò nhất định và tác động đến mặt khác tạo nên sự vận động của cơ thể xã
hội. Chính tính toàn vẹn của nó được phản ánh bằng khái niệm hình thái kinh tế - xã
hội.
Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã
hội. Sự hình thành và phát triển của mỗi hình thái kinh tế - xã hội liên tục trong sự
phát triển của xã hội loài người.
Quan hệ sản xuất - quan hệ giữa người và người trong quá trình sản xuất - là
những quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định tất cả mối quan hệ xã hội khác, không
có mối quan hệ đó thì không thành xã hội và qui luật xã hội. Mỗi hình thái kinh tế xã hội lại có một kiểu quan hệ sản xuất của nó tương ứng với trình độ nhất định của
lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất, đó là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt xã hội
cụ thể này với xã hội cụ thể khác, đồng thời tiêu biểu cho một giai đoạn phát triển
nhất định của lịch sử.

Những quan hệ sản xuất là bộ xương của cơ thể xã hội hợp thành cơ sở hạ tầng.
Trên cơ sở những quan hệ sản xuất đó hình thành nên những quan điểm về chính trị,
pháp lý, đạo đức, triết học v.v… và những thiết chế tương ứng hợp thành kiến trúc
thượng tầng xã hội mà chức năng xã hội của nó là bảo vệ, duy trì và phát triển cơ sở
hạ tầng sinh ra nó.
Ngoài những mặt cơ bản của xã hội đề cập ở trên - lực lượng sản xuất, quan hệ
sản xuất và kiến trúc thượng tầng - thì còn có những quan hệ dân tộc, quan hệ gia
đình và các quan hệ sinh hoạt xã hội khác.
Tóm lại, hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù chỉ một kiểu hệ thống xã hội
ở một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, có tính xác định về chất, là sự thống nhất
giữa các yếu tố, một cơ cấu hoàn chỉnh luôn luôn vận động thông qua sự tác động
Trang 3/18


Tiểu luận Triết học

Hình thái kinh tế - xã hội

biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng. Trong quá trình tiến triển của các hình thái kinh tế - xã hội, hình
thái mới không xoá bỏ mọi yếu tố cấu thành hình thái cũ mà trong khi phá vỡ cấu trúc
của hệ thống cũ lại bảo tồn, kế thừa và đổi mới những yếu tố của nó, vừa đảm bảo
tính liên tục, vừa tạo ra bước phát triển; do đó, tạo ra tình trạng chồng chất, đan xen
những yếu tố của nhiều hình thái kinh tế - xã hội khác nhau của nhiều thời kỳ lịch sử.
2- Sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử tự
nhiên
Xã hội loài người đã phát triển trải qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp
nhau. Trên cơ sở phát hiện ra các qui luật vận động phát triển khách quan của xã hội.
C.Mác đã đi đến kết luận: “Sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một
quá trình lịch sử tự nhiên”.

Lý luận hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác đã chỉ rõ: xã hội không phải là sự
kết hợp ngẫu nhiên các mặt, các yếu tố với nhau theo ý muốn chủ quan, mà là một hệ
thống. Trong đó, các mặt, các yếu tố thống nhất với nhau, tác động qua lại lẫn nhau
và không ngừng tác động qua lại với tự nhiên.
Trong hệ thống các quan hệ xã hội hết sức phức tạp đó, C.Mác đã chỉ ra và
khẳng định quan hệ sản xuất là quan hệ khởi nguyên, cơ bản của xã hội, được hình
thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất và là cơ sở của các quan hệ xã
hội khác, quy định bản chất của mỗi chế độ xã hội trong lịch sử nhân loại, là tiêu
chuẩn khách quan để phân chia xã hội này với xã hội khác.
Việc xem xét quan hệ sản xuất lại không thể tách rời lực lượng sản xuất. Lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt thống nhất biện chứng, tạo thành
phương thức sản xuất mà trong đó, lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất,
quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và tác
động tích cực trở lại lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất chính là cơ sở vật chất
của hình thái kinh tế - xã hội. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một lực lượng sản xuất
nhất định. Từ đó, Ông đi đến kết luận về cấu trúc xã hội: “Toàn bộ những quan hệ sản
xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực, trên đó xây
dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý, chính trị và những hình thái ý thức xã
hội nhất định tương ứng với cơ sở thực tại đó. Phương thức sản xuất đời sống vật chất
quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung”.
Lực lượng sản xuất thay đổi là nguyên nhân sâu xa của mọi cải biến xã hội. Sự
phát triển khách quan của lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến việc xã hội phải xoá bỏ
bằng cách này hay cách khác quan hệ sản xuất cũ và thay nó bằng một kiểu quan hệ
sản xuất mới phù hợp với sự phát triển đó của lực lượng sản xuất, mở đường cho lực
lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Việc xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế nó bằng
Trang 4/18


Tiểu luận Triết học


Hình thái kinh tế - xã hội

quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là sự duyệt vong của cả một phương thức sản
xuất lỗi thời và sự ra đời của một phương thức sản xuất mới. Và do vậy có thể nói,
khi lực lượng sản xuất thay đổi sẽ dẫn đến sự thay đổi của một hình thái kinh tế - xã
hội.
Ngoài quan hệ sản xuất là quan hệ khởi thuỷ, cơ bản, là tiêu chuẩn khách quan
để phân biệt các chế độ xã hội, khái niệm hình thái kinh tế - xã hội còn bao gồm cả
những quan hệ xã hội khác về chính trị, tinh thần, … Các quan hệ sản xuất khác tạo
thành một kết cấu kinh tế - xã hội nhất định, là cơ sở hạ tầng của xã hội; còn các quan
hệ xã hội về chính trị, tinh thần, … được hình thành và phát triển trên cơ sở hạ tầng
tạo thành kiến trúc thượng tầng của xã hội. C.Mác viết: “Toàn bộ những quan hệ sản
xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng
lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị, và những hình thái ý thức xã hội
nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó”.
Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, kiến trúc thượng tầng phù hợp
với cơ sở hạ tầng; song kiến trúc thượng tầng có tính độc lập tương đối và có tác
động tích cực trở lại đến cơ sở hạ tầng, đến kinh tế. Khi kiến trúc thượng tầng không
còn phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế thì tất yếu kinh tế sẽ tự mở đường đi,
nó đòi hỏi phải thay đổi kiến trúc thượng tầng cho phù hợp với yêu cầu phát triển
kinh tế.
Các mặt của hình thái kinh tế - xã hội không ngừng tác động qua lại lẫn nhau,
làm cho hình thái kinh tế - xã hội không ngừng vận động, phát triển. Dựa trên phân
tích một cách khoa học C.Mác đã rút ra kết luận: “Sự phát triển của những hình thái
kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”. Kết luận đó của C.Mác cho thấy, sự
phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội diễn ra theo các qui luật khách quan, chứ
không phải theo ý muốn chủ quan của con người. V.I. Lênin đã viết: “Mác coi sự vận
động xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên chịu sự chi phối của những qui luật
không những không phụ thuộc vào ý chí, ý thức và ý định của con người, mà trái lại,
còn quyết định ý chí, ý thức và ý định của con người”.

Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội bắt nguồn từ cơ sở sâu xa của nó
là sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định sẽ làm cho quan hệ
sản xuất mà trước đó là hình thức phát triển trở nên lỗi thời, kìm hãm sự phát triển
của nó. Khi đó, lực lượng sản xuất đòi hỏi phải thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng
quan hệ sản xuất mới phù hợp với sự phát triển của nó. Đến lượt mình, quan hệ sản
xuất thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng. Bằng cách đó các
hình thái kinh tế - xã hội vận động, phát triển từ thấp đến cao, từ hình thái kinh tế - xã
hội này lên hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn. Và theo V.I. Lênin, “chỉ có đem
quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ
sản xuất vào trình độ của lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững
Trang 5/18


Tiểu luận Triết học

Hình thái kinh tế - xã hội

chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”.
Như vậy, quá trình lịch sử tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra
bằng con đường phát triển tuần tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ qua, trong những điều
kiện nhất định, một hoặc một vài hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
3- Ý nghĩa của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
Theo V.I.Lênin, “tính qui luật chung của sự phát triển trong lịch sử toàn thế giới
đã không loại trừ mà trái lại, còn bao hàm một số giai đoạn phát triển mang những
đặc điểm về hình thức hoặc trình tự của sự phát triển đó”.
Khi nghiên cứu lý luận hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác, một số người đã
nhầm tưởng lý luận đó chỉ ra rằng, xã hội loài người nhất thiết lần lượt trải qua 5 hình
thái kinh tế - xã hội: nguyên thuỷ, nô lệ, phong kiến, tư bản và cộng sản chủ nghĩa.
Thực ra, trong lịch sử phát triển của nhân loại, một số nước đã lần lượt trải qua 5 hình
thái kinh tế - xã hội đó như Italia, Pháp, Tây Ban Nha, ...; một số nước khác lại có thể

bỏ qua hình thái kinh tế - xã hội này hay hình thái kinh tế - xã hội khác, như Đức, Ba
Lan, Nga, … đã không qua chế độ chiếm hữu nô lệ. Ngay cùng một hình thái kinh tế
- xã hội thì ở các nước khác nhau, hình thức biểu hiện cũng khác nhau.
Theo quan điểm biện chứng, tất các các con đường phát triển cụ thể của các
nước đều là con đường riêng mà trong đó, bao hàm những qui luật chung, những quá
trình có tính phổ biến của sự phát triển xã hội. Ngược lại, những qui luật phổ biến
của sự phát triển xã hội bao giờ cũng đóng vai trò chi phối trong các con đường phát
triển riêng của mỗi quốc gia, dân tộc. Con đường phát triển riêng là biểu hiện cụ thể
của các qui luật phổ biến trong điều kiện lịch sử - cụ thể của mỗi quốc gia, dân tộc.
Như vậy, có thể nói, lý luận hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác đã vạch rõ tiêu
chuẩn khách quan để phân chia các chế độ xã hội trong lịch sử, cũng như mối quan
hệ lẫn nhau giữa các mặt trong đời sống xã hội, vạch rõ các qui luật vận động, phát
triển khách quan của các hình thái kinh tế - xã hội, qui luật thay thế hình thái kinh tế
- xã hội này bằng hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn. Nó là lý luận khoa học, là
phương pháp luận tổng quát để nghiên cứu một cách cụ thể đời sống xã hội. Trong
thời đại ngày nay, lý luận đó vẫn giữ nguyên giá trị. Tuy nhiên, việc nghiên cứu đời
sống xã hội phải luôn được bổ sung bằng phương pháp tiếp cận khoa học khác. Đúng
như V.I.Lênin đã khẳng định: “Nếu thuyết biến chủng đã không hề có tham vọng giải
thích “toàn bộ” lịch sử hình thành các loài mà chỉ đặt những phương pháp giải thích
ấy trên một cơ sở khoa học thôi thì theo Mác: chủ nghĩa duy vật lịch sử cũng thế, nó
không bao giờ có tham vọng giải thích tất cả, mà chỉ có ý muốn vạch ra một phương
pháp “khoa học duy nhất” để giải thích lịch sử.

Trang 6/18


Tiểu luận Triết học

Hình thái kinh tế - xã hội


Trên cơ sở lý luận hình thái kinh tế - xã hội, C.Mác đã nghiên cứu một xã hội
hiện thực là xã hội tư bản, vạch ra các qui luật phát sinh, phát triển và diệt vong tất
yếu của nó, đồng thời dự báo về sự ra đời tất yếu của một hình thái kinh tế - xã hội
cao hơn - hình thái cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
V.I.Lênin đã kế thừa và phát triển quan điểm của C.Mác trong điều kiện mới, trong
đó đặc biệt chú ý tới con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản ở
các nước lạc hậu.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, xã hội tư bản ra đời thay thế xã hội
phong kiến là một bước tiến bộ, cách mạng trong lịch sử phát triển nhân loại. Nó đã
“cách mạng hoá những quan hệ sản xuất” và do đó, đã “cách mạng hoá toàn bộ
những quan hệ xã hội”, “đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn
lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”. Lực lượng sản xuất mà chủ
nghĩa tư bản tạo ra chính là nền đại công nghiệp và gắn liền với nó là giai cấp vô sản.
Đó là lực lượng sản xuất có tính xã hội. Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì nền đại
công nghiệp và giai cấp vô sản càng phát triển. Sự ra đời của nền đại công nghiệp đã
quyết định sự thắng lợi của chủ nghĩa tư bản đối với phong kiến; đến lượt nó, sự phát
triển của nền đại công nghiệp lại mâu thuẫn với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa. C.Mác đã phát hiện ra mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản là mâu thuẫn giữa
tính chất xã hội của sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Mâu
thuẫn đó là cơ sở sâu xa của các mâu thuẫn khác và chi phối sự vận động, phát triển
của xã hội tư bản. Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì mâu thuẫn đó càng tăng lên và
đòi hỏi phải thủ tiêu nó. “Bản thân những lực lượng sản xuất, - Ph. Ăngghen khẳng
định, - với một sức mạnh ngày càng tăng, cũng mong muốn đạt tới chỗ thủ tiêu mâu
thuẫn ấy, đến chỗ tự giải thoát khỏi cái tính chất tư bản của chúng, đến chỗ thực tế
nhận thức tính chất của chúng là những lực lượng sản xuất xã hội”. Điều đó có nghĩa
là, phải xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, xác lập chế độ chiếm hữu
có tính xã hội – chế độ công hữu và do đó, một xã hội mới ra đời thay thế chủ nghĩa
tư bản - đó là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Giá trị có ý nghĩa lớn nhất của lý luận hình thái kinh tế - xã hội là sự diệt vong
của chủ nghĩa tư bản và sự ra đời của chủ nghĩa xã hội là tất yếu. Qua lý luận hình

thái kinh tế - xã hội, Mác và Ăngghen đã dự đoán về sự phát triển của xã hội loài
người trong tương lai tất yếu phải tiến đến hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ
nghĩa mà chủ nghĩa xã hội là giai đoạn thấp của hình thái ấy. Với sự ra đời của chủ
nghĩa xã hội, tiến bộ xã hội được thực hiện theo nguyên tắc thống nhất về căn bản lợi
ích xã hội và cá nhân. Cơ sở kinh tế của sự thống nhất đó là chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất. Sự thay thế chế độ sở hữu tư nhân bằng chế độ công hữu xã hội chủ
nghĩa là một quá trình thống nhất giữa tiến hoá và cách mạng xã hội mà bản chất của
cách mạng xã hội là giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
Trang 7/18


Tiểu luận Triết học

Hình thái kinh tế - xã hội

xuất, thực hiện sự biến đổi về chất căn bản của xã hội, đưa đến hình thái kinh tế - xã
hội cao hơn, trải qua những bước trung gian, giai đoạn quá độ. Qua kinh nghiệm thực
tiễn cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Lênin đã nhấn mạnh rằng: “Các nước
kém phát triển càng phải trải qua nhiều nấc thang trung gian, quá độ, … Vì chúng ta
chưa có điều kiện để chuyển trực tiếp nền tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội. Do vậy
trong một chừng mực nào đó, chủ nghĩa tư bản là không thể tránh khỏi, chúng ta phải
lợi dụng chủ nghĩa tư bản làm phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để
tăng lực lượng sản xuất lên”.
Mác khẳng định, sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình
lịch sử tự nhiên, song không phải quốc gia, dân tộc nào cũng nhất thiết phải trải qua
tất cả các hình thái kinh tế - xã hội đã có trong lịch sử. Do những điều kiện khách
quan và chủ quan nhất định, một quốc gia, dân tộc nào đó có thể bỏ qua một hình thái
kinh tế - xã hội nào đó. C.Mác còn lưu ý rằng, một xã hội ngay cả khi đã phát hiện
được qui luật tự nhiên trong sự vận động của nó, cũng không thể nào nhảy qua các
giai đoạn phát triển tự nhiên hay dùng sắc lệnh để xoá bỏ chúng, nhưng chúng có thể

được rút ngắn và được làm dịu bớt “cơn đau đẻ”. Ăngghen đã khẳng định “con đường
phát triển rút ngắn như vậy không chỉ đúng với nước Nga, mà với tất cả các nước
đang ở trong giai đoạn phát triển tiền tư bản chủ nghĩa”. V.I.Lênin đã đi đến kết luận,
con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội có thể có những hình thức khác nhau, điều đó
tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Theo Người, hình thức quá
độ trực tiếp là con đường phát triển tuần tự từ Chủ nghĩa tư bản lên Chủ nghĩa xã hội;
còn hình thức quá độ gián tiếp là con đường phát triển rút ngắn, phát triển bỏ qua Chế
độ tư bản chủ nghĩa - con đường từ tiền tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội. Tuy
nhiên, dù là phát triển tuần tự hay phát triển rút ngắn thì cũng đều là sự phát triển liên
tục của lực lượng sản xuất, nghĩa là không thể bỏ qua được sự phát triển của lực
lượng sản xuất.
Trong thời đại ngày nay, lý luận hình thái kinh tế - xã hội vẫn còn giữ nguyên giá
trị. C.Mác đã tiếp cận lịch sử từ điểm chọn lực lượng sản xuất với trình độ sản xuất
công nghiệp tiến bộ nhất thời bấy giờ để phát triển hình thái kinh tế - xã hội. Việc tiếp
cận lịch sử theo 3 nền văn minh: nông nghiệp, công nghiệp hay tin học hiện nay về
thực chất không có gì sáng tạo hơn. Mặc dù trình độ của lực lượng sản xuất ngày nay
được bổ sung thêm lực lượng sản xuất tin học hoá, vai trò của tri thức, trí tuệ được đề
cao, chúng ta không thể bỏ qua vấn đề bản chất về chế độ chính sách và cách mạng
xã hội tức là hình thái kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, việc nghiên cứu đời sống xã hội
phải được bổ sung phát triển bằng thực tiễn lịch sử và phương pháp tiếp cận khoa học
khác. Khi vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội của Mác vào thực tiễn cần lưu ý:
Mọi sự phát triển rút ngắn đều phải nhằm mục đích cuối cùng là tạo ra sự phát triển
vượt bậc, thậm chí là nhảy vọt của lực lượng sản xuất. Và, do vậy, về thực chất, phát
Trang 8/18


Tiểu luận Triết học

Hình thái kinh tế - xã hội


triển rút ngắn chỉ có thể là rút ngắn các giai đoạn hay bước đi trong tiến trình phát
triển liên tục của lực lượng sản xuất.
Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản không phải là ý muốn chủ
quan của ai đó, mà là tất yếu, khách quan trên cơ sở của những tiền đề vật chất do chủ
nghĩa tư bản tạo ra, và là kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn vốn có trong lòng xã
hội tư bản. Do đó, nó phải kế thừa, phát triển các thành tựu văn minh mà nhân loại đã
đạt được trong lòng xã hội tư bản; phải xoá bỏ tính chất tư bản của nó, giải phóng con
người khỏi áp bức, bóc lột, mang lại quyền tự do, bình đẳng và các giá trị đích thực
của con người.
II. Sự vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội vào sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
1- Lựa chọn con đường tiến lên Chủ nghĩa xã hội bỏ qua Chế độ Tư bản chủ
nghĩa
Việc vận dụng lý luận hình thái kinh tế xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin vào việc
đề ra chiến lược cho cách mạng việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đường lối cách
mạng do chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta nêu ra là sự vận dụng sáng tạo hình thái
kinh tế - xã hội vào điều kiện Việt Nam. Đảng ta đã khẳng định rằng sau khi Việt
Nam tiến hành công việc cách mạng dân chủ nhân dân sẽ tiến lên làm cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa.
Ở nước ta, lịch sử đã đặt vấn đề lựa chọn con đường phát triển bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa từ những năm 20 của thế kỷ XX, khi chủ nghĩa yêu nước truyền thống
Việt Nam bắt gặp con đường Cách mạng tháng Mười Nga, hoà nhập xu hướng tiến
hoá chung của nhân loại: quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Qua thực tiễn đấu tranh cách mạng và nhất là từ khi tiếp cận bản Sơ thảo luận cương
của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Hồ Chí Minh đã đi đến kết luận: Muốn
cứu nước, giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản; rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân
tộc bị áp bức và những người nô lệ trên thế giới khỏi ách nô lệ.
Cương lĩnh đầu tiên (1930) của Đảng ta cũng đã khẳng định: sau khi hoàn thành
cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, nước ta sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đó là sự

lựa chọn dứt khoát và đúng đắn của Đảng, đáp ứng nguyện vọng thiết tha ngàn đời
của dân tộc, phản ánh đúng xu thế của thời đại, phù hợp với quan điểm cách mạng và
khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Sự lựa chọn này chẳng những là sự khẳng định
dứt khoát mục tiêu lý tưởng của những người cộng sản, khẳng định phương hướng
phát triển của đất nước, mà còn là cả vấn đề trân trọng quá khứ, thừa nhận công lao
của những thế hệ ông cha đi trước.
Khi miền Bắc đã được giải phóng nhưng miền Nam còn phải tiếp tục chiến đấu
vì độc lập tự do của Tổ quốc, tình hình lúc đó đặt ra câu hỏi: Miền Bắc có nên bước
ngay vào thời kỳ quá độ để xây dựng chủ nghĩa xã hội hay không, khi mục tiêu độc
Trang 9/18


Tiểu luận Triết học

Hình thái kinh tế - xã hội

lập dân tộc chưa được giải quyết xong ở miền Nam ? Đảng ta khẳng định phải đồng
thời tiến hành hai nhiệm vụ cách mạng: Tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở
miền Nam và tiến hành xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Sự lựa chọn này đã
được thực tiễn xác nhận là hoàn toàn đúng đắn. Không có sự hậu thuẫn của chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc, cách mạng miền Nam sẽ không có những đảm bảo vật chất và tinh
thần cần thiết cho thắng lợi.
Khi miền Nam đã được giải phóng, đất nước thống nhất, một vấn đề cũng được
đặt ra là miền Nam sẽ cùng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội hay tạm thời dừng lại
một thời gian để phục hồi sau chiến tranh ? Có thể nói, sự lựa chọn này là một thử
thách không kém phần phức tạp. Đảng quyết định cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã
hội. Quyết định này đã được thực tiễn xác nhận hoàn toàn đúng đắn.
Vào những năm 80, kinh tế xã hội nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng trầm
trọng, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu đang chao đảo, chủ nghĩa xã
hội khi ấy được xây dựng theo mô hình kế hoạch hoá tập trung. Mô hình đó đã phát

huy vai trò tích cực trong một giai đoạn lịch sử nhất định, nhưng đến cuối những năm
80 của thế kỷ XX đã rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng, dẫn đến chủ nghĩa xã hội
hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Từ đó, có quan điểm khẳng định chủ nghĩa
tư bản là vĩnh viễn và phủ nhận chủ nghĩa xã hội. Nhưng cũng chính vào lúc ấy, Đảng
ta đã quyết định đường lối đổi mới, chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập và mở cửa với bên ngoài. Một lần nữa sự
khẳng định của Đảng ta về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã được thực tiễn xác
nhận là đúng đắn.
Hiện nay, khi chủ nghĩa xã hội bị sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, trong khi chủ
nghĩa tư bản vẫn tiếp tục phát triển và đạt được nhiều thành tựu trong kinh tế, khoa
học và công nghệ, … đã xuất hiện những quan điểm phủ nhận chủ nghĩa xã hội, lý
tưởng hoá chủ nghĩa tư bản. Trong số đó, ngoài những thế lực thù địch với chủ nghĩa
Mác, chủ nghĩa xã hội, còn có một số người do sai lầm về nhận thức, về phương pháp
tiếp cận nên đã đồng nhất chủ nghĩa xã hội với mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung
quan liêu, đồng nhất với những thành tựu mà nhân loại đã đạt được trong thời đại lịch
sử hiện nay với chủ nghĩa tư bản.
Thực ra, chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã được
xác lập trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt và nó đã đóng vai trò quan trọng trong
điều kiện lịch sử đó. Khi điều kiện lịch sử thay đổi, mô hình đó đã không còn phù
hợp nữa, nhưng lại không sớm phát hiện để đổi mới, khiến các mâu thuẫn kinh tế - xã
hội càng trở nên sâu sắc, nên đã dẫn đến khủng hoảng và sụp đổ. Đây là sự sụp đổ
của một mô hình cụ thể, chứ không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội với tính
cách là giai đoạn thấp của hình thái cộng sản chủ nghĩa. Việc xây dựng một hình thái
kinh tế - xã hội mới là công việc hết sức khó khăn. Những vấp váp, thậm chí đỗ vở
Trang 10/18


Tiểu luận Triết học


Hình thái kinh tế - xã hội

tạm thời là điều khó tránh khỏi. Những đổ vỡ đó không phải là luận cứ để bác bỏ một
xu hướng phát triển tất yếu của xã hội.
Những thành tựu đạt được ở các nước tư bản trong thời gian qua là thành tựu
chung của văn minh nhân loại; nó không hề chứng minh chủ nghĩa tư bản là vĩnh
viễn. Chính những thành tựu đó lại trở thành đối lập với chủ nghĩa tư bản, thành
những tiền đề vật chất cho sự ra đời chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Nếu như
cuộc cách mạng công nghiệp ở các nước Tây Âu thế kỷ XVIII - XIX đã tạo ra nền
tảng vật chất cho chủ nghĩa tư bản chiến thắng chế độ phong kiến, thì ngày nay, cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ đang tạo ra những tiền đề vật chất cần thiết để thay
thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Dựa trên cơ sở phân tích xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể ở nước ta,
Đảng ta kiên định con đường lên chủ nghĩa xã hội với mục tiêu: “Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, khi đưa ra nhận định Chủ nghĩa tư bản hiện đang nắm ưu thế về vốn, khoa học và
công nghệ, thị trường, song nó không thể khắc phục nổi những mâu thuẫn vốn có của
xã hội tư bản, đặc biệt là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao của lực
lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất,
mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển; cùng với đó là
cuộc đấu tranh để tự lựa chọn và quyết định con đường phát triển của các quốc gia
độc lập, và hơn nữa, “Chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học thành công và
thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và khả
năng tạo ra bước phát triển mới” và “theo qui luật tiến hoá của lịch sử, loài người
nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”, Đảng ta đã khẳng định: “Con đường đi lên của
nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa,
tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng
tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt
được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển
nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”. Rằng, “xây dựng chủ nghĩa

xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả
các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ
quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính
chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh
giữa các mới và cái cũ”. Việc Đảng ta luôn luôn kiên định con đường tiến lên Chủ
nghĩa xã hội là phù hợp với xu thế thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta.
“Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản
xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành
tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và
công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Trang 11/18


Tiểu luận Triết học

Hình thái kinh tế - xã hội

Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về
chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên
phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đương, nhiều hình thức tổ
chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn
ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ”.
Có thể nói, những quyết sách của Đảng ta ở thời kỳ này thể hiển sự năng động
về tư duy lý luận gắn liền với sự mẫn cảm về thực tiễn cùng bản lĩnh chính trị vững
vàng. Đó là sự khẳng định tính tất yếu của sự đổi mới theo định hướng xã hội chủ
nghĩa: đổi mới để phát triển, để thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, để vượt qua những
kìm hãm của mô hình cũ mô hình hành chính bao cấp, để giải phóng và khai thác mọi
tiềm năng phát triển của xã hội nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng văn minh. Đối mới không phải là từ bỏ Chủ nghĩa xã hội, mà là khẳng

định tính qui luật của con đường phát triển đó làm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội công bằng văn minh, đúng với qui luật khách quan hơn phù hợp với hoàn
cảnh, điều kiện thực tế của đất nước với xu thế, đặc điểm của thế giới hiện đại.
Như vậy, đi lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan, và nó được thể hiện
trong công cuộc đổi mới của Đảng ta, đổi mới để xác lập một sự ổn định mới nhằm
làm cho đất nước đạt tới sự phát triển bền vững, xây dựng một xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh mà trong đó ai cũng được mưu cầu hạnh phúc, ai cũng được cơm no,
áo ấm, ai cũng được học hành và ngày càng phát triển toàn diện như Bác Hồ từng
mong ước.
2. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN
Từ khi cả nước thống nhất bước vào chủ nghĩa xã hội cho đến trước đại hội VI
của Đảng Cộng Sản Việt Nam (1975-1986), chúng ta không những không phát triển
lý luận về chủ nghĩa xã hội cho phù hợp với sự biến đổi của thực tiễn mà còn mắc sai
lầm nghiêm trọng trong việc xác định mục tiêu và biện pháp xây dựng cơ sở vật chất
- kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội đặc biệt là chính sách quản lý kinh tế do xuất phát từ
nhận thức ấu trĩ và ảo tưởng về con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Sau thắng
lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, chúng ta có ngay chủ nghĩa xã hội đích thực:
thắng đế quốc, thực dân được thì thắng nghèo nàn, lạc hậu cũng chỉ là vấn đề thời
gian, không phải suy nghĩ, không hề khó khăn; rằng chúng ta có thể dễ dàng tiến lên
Chủ nghĩa xã hội bỏ qua Tư bản chủ nghĩa. Theo văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VI thì nguyên nhân sai lầm chủ yếu là chưa nắm bắt được thực tế khách quan, dẫn
đến không đi đúng qui luật. Tư duy của Đảng ta lúc này cho rằng kinh tế thị trường là
đồng nhất với chủ nghĩa tư bản, còn kinh tế kế hoạch hoá tập trung được đồng nhất
với chủ nghĩa xã hội. Và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thế giới mấy thập
niên gần đây đã chứng minh tư duy đó không còn phù hợp với thực tế.

Trang 12/18



Tiểu luận Triết học

Hình thái kinh tế - xã hội

Đảng ta nhận định những khuyết điểm sai lầm đó không thuộc về bản chất của
Chủ nghĩa xã hội; không vì lý do sai lầm trong một số chủ trương thuộc về chỉ đạo
thực hiện hoặc sự đỗ vỡ của một mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực nào đó mà phủ
nhận Chủ nghĩa xã hội. Thực tế đó đòi hỏi Đảng ta phải nhận thức lại chủ nghĩa xã
hội, tiến hành đổi mới một cách toàn diện, sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn của chủ
nghĩa xã hội trong đó nổi bật nhất là đổi mới về kinh tế, tại đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VI Đảng ta chủ trương chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang
nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa.
Đến đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX Đảng ta một lần nữa khẳng định mô hình tổng
quát con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là “Nền kinh tế thị trường,
định hướng Xã hội chủ nghĩa”.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta có các đặc điểm nổi bật sau:
Thứ nhất, nền kinh tế thị trường ở nước ta là một kiểu tổ chức nền kinh tế trong
quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, kinh tế còn ở trình
độ kém phát triển. Biểu hiện ở kết cấu hạ tầng kỹ thuật còn ở trình độ thấp, qui mô
sản xuất nhỏ, năng suất lao động thấp. Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị
thị trường trong nước và quốc tế còn yếu, đội ngũ cán bộ quản lý, kinh doanh giỏi
còn thiếu; sức mua hàng hoá chưa cao. Những điều kiện ấy, yếu tố ấy đảm bảo cho
kinh tế thị trường hiện đại hoạt động mới đang ở giai đoạn sơ khai ban đầu.
Thứ hai, nền kinh tế thị trường ở nước ta có sự tham gia của nhiều thành phần
kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng kinh tế tập thể ngày càng
trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Các thành phần kinh tế tồn tại
đan xen, hợp tác và đấu tranh, mỗi thành phần kinh tế là bộ phận cấu thành quan
trọng của nền kinh tế cùng nhau thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Thứ ba, nền kinh tế thị trường ở nước ta thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế
vừa dựa trên những nguyên tắc và qui luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên những

nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Thứ tư, nền kinh tế thị trường ở nước ta là mô hình kinh tế mở, đa phương hoá,
đa dạng hoá trong quan hệ kinh tế đối ngoại, mở rộng giao lưu kinh tế với tất cả các
nước, không phân biệt chế độ chính trị, xã hội, dựa trên nguyên tắc tôn trọng, bình
đẳng đôi bên cùng có lợi.
Ngày nay, tất cả các nước đều phải xây dựng và phát triển kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, trong mỗi chế độ xã hội khác nhau, kinh tế thị trường được sử dụng với
mục đích khác nhau. Trong các nước tư bản, đó là kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Ở nước ta đó là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn minh nhân loại. Nó là kết quả của
sự phát triển lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định, kết quả của quá trình
phân công lao động xã hội, đa dạng hoá các hình thức sở hữu, đồng thời nó là động
lực mạnh mẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Trang 13/18


Tiểu luận Triết học

Hình thái kinh tế - xã hội

Theo quan điểm của Đảng ta, “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền
tảng vững chắc”.
Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa
phù hợp với xu hướng phát triển chung của nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu phát
triển của lực lượng sản xuất ở nước ta; với yêu cầu của quá trình xây dựng nền kinh
tế độc lập, tự chủ kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đảng ta khẳng định:
“Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực
lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa

xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền
với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân
phối”.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không thể tách rời vai trò quản
lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa. “Nhà nước ta là Nhà nước Xã hội chủ nghĩa quản
lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách sử dụng
cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế
thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn
chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao
động, của toàn thể nhân dân”.
Tóm lại, để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần sử
dụng một cách tổng hợp nhiều điều kiện:
Về kinh tế, tiếp tục thực hiện chính sách nhất quán sáu thành phần kinh tế, trong
đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể là nền
tảng và các thành phần kinh tế khác là nội lực của kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Về nhà nước, phải xây dựng nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân, quản
lý bằng pháp luật xã hội chủ nghĩa, bằng chính sách kinh tế, bằng bộ máy tổ chức
hiệu quả.
Về chính trị, thực hiện khối đại đoàn kết mặt trận thống nhất, trong đó Đảng
Cộng Sản Việt Nam là hạt nhân lãnh đạo.
3. Phát triển lực lượng sản xuất bằng việc thực hiện Công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đi đôi với hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN ở nước ta
Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ,
lao động thủ công là phổ biến. Cái thiếu thốn nhất của chúng ta là một nền đại công
nghiệp. Chính vì vậy, chúng ta phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong
thời đại ngày nay, công nghiệp hoá phải gắn liền với hiện đại hoá. Công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở nước ta là nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã
hội. Đó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở
Trang 14/18



Tiểu luận Triết học

Hình thái kinh tế - xã hội

nước ta. Đại hội VII với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã khẳng
định: “phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại,
gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm, nhằm
từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng
cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân”.
Tiếp tục tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định: “Nhiệm vụ đề ra
trong chặng đường đầu của thời ký qua độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hoá đã
cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước”. Đại hội cũng đưa ra hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng Chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá để đến năm 2020,
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp. Việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá không chỉ là quá trình kinh tế kỹ thuật đơn thuần, mà là quá trình xây dựng một
xã hội mới - cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cả cơ sở hạ tầng lẫn kiến trúc
thượng tầng, …
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta đã chỉ ra: “Con đường công
nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những
bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng
mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và
công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ
biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh
tế tri thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam; coi
phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Từ năm 1996, đất nước ta đã chuyển sang giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá,

hiện đại hoá phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Đây
cũng là yếu tố có ý nghĩa quyết định chống lại “nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so
với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới”. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta chỉ thực sự thành công chừng nào thực hiện thành công sự nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.
4. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN và các mặt khác của đời sống xã hội
Gắn liền với phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phải không ngừng
đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây
dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, nâng cao vai trò của các tổ chức quần
chúng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã khẳng định: “Tiến hành cách mạng
xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá, làm cho thế giới quan Mác - Lênin
và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã
Trang 15/18


Tiểu luận Triết học

Hình thái kinh tế - xã hội

hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của tất cả các dân tộc
trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ,
văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức,
thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao”.
Đồng thời với phát triển kinh tế, phải phát triển văn hoá, xây dựng nền văn hoá
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của
nhân dân; phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và
bồi dưỡng nhân tài; giải quyết tốt các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội nhằm

thực hiện mục tiêu, “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Tóm lại, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một học thuyết khoa học. Trong
điều kiện hiện nay, học thuyết đó vẫn giữ nguyên giá trị. Nó đưa lại một phương pháp
thực sự khoa học để phân tích các hiện tượng trong đời sống xã hội để từ đó vạch ra
phương hướng và giải pháp đúng đắn cho hoạt động thực tiễn. Học thuyết đó đã được
Đảng ta vận dụng một cách sáng tạo trong điều kiện cụ thể của nước ta, vạch ra
đường lối đúng đắn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nghị quyết Đại hội IX đã chỉ ra: “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm
2001 – 2010 nhằm: ”đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta
cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người,
năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng an
ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được
hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao”.

Trang 16/18


Tiểu luận Triết học

Hình thái kinh tế - xã hội

PHẦN III
KẾT LUẬN
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một trong những thành tựu khoa học mà
C.Mác đã để lại cho nhân loại. Lý luận đó đã chỉ ra: Xã hội là một hệ thống mà trong
đó quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất, và các quan hệ sản xuất nhất định mà trên đó dựng lên một kiến trúc thượng
tầng pháp lý và chính trị cũng như các hình thái xã hội tương ứng. Đồng thời lý luận
cũng chỉ ra rằng sự vận động và phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là một quá

trình lịch sử tự nhiên. Thông qua cách mạng xã hội, các hình thái kinh tế - xã hội
thay thế nhau từ thấp đến cao. Tuy nhiên, sự vận động và phát triển của các hình thái
kinh tế - xã hội vừa bị chi phối bởi các quy luật chung, vừa bị tác động bởi điều kiện
lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia.
Ngày nay, xã hội loài người đã có những tiến bộ vượt bật về khoa học – kỹ thuật
so với thời C.Mác. Nhưng sự phát triển đó vẫn không nằm ngoài lý luận về hình thái
kinh tế - xã hội, lý luận về học thuyết này vẫn giữ nguyên giá trị của nó trong mọi
giai đoạn lịch sử phát triển của xã hội loài người. Tuy nhiên, lý luận hình thái kinh tế
- xã hội không có tham vọng giải thích tất cả các hiện tượng của đời sống xã hội mà
nó đòi hỏi được bổ sung bằng các phương pháp tiếp cận mới về xã hội.
Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội đã chỉ ra con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội
là một tất yếu khách quan và chính nó đã đề ra những hướng đi đúng đắn và từ đó
đưa ra những giải pháp cho công cuộc xây dựng đất nước ta ngày càng phát triển tới
đỉnh cao mới. Đây cũng là cơ sở lý luận của các Đảng cộng sản trong việc xây dựng
hình thái kinh tế - xã hội XHCN và CSCN.
Xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta trên nền tảng Chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh mà lý luận hình thái kinh tế - xã hội là một trong những lý
luận nền tảng là hoàn toàn đúng đắn. Sự sụp đổ của hệ thống Xã hội Chủ nghĩa ở
Đông Âu và Liên Xô trong thời gian qua chỉ là sự thất bại của một mô hình cụ thể
chứ không phải là sự cáo chung của Chủ nghĩa Xã hội. Chủ nghĩa Xã hội sẽ mãi mãi
là một thực tế khách quan, là mục đích của xã hội loài người và nhất định sẽ thắng lợi
trên phạm vi toàn thế giới./.

Trang 17/18


Tiểu luận Triết học

Hình thái kinh tế - xã hội


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 – Giáo trình “Triết học dùng cho nghiên cứu sinh và học viên cao học không
thuộc
chuyên ngành triết học” – NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội, 1999.
2 – Giáo trình “Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam” - NXB Chính trị Quốc gia,
Hà nội, 2001.
3 – Giáo trình “Triết học Mác – Lênin” - NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội,
1999
4 – Các “Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc” (Lần thứ VI, VII, VIII, IX).

Trang 18/18



×