Tải bản đầy đủ (.docx) (76 trang)

Nâng cao hiệu quả huy động vốn tại ngân hàng thương mại sacombank phòng giao dịch lê văn sĩ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (874.46 KB, 76 trang )

MỤC LỤC

1


2


DANH MỤC BIỂU ĐỒ

3


PHẦN MỞ ĐẦU
TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI
1.1. Lý do chọn đề tài
Quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế là tiền đề cho sự phát triển kinh
tế xã hội của đất nước, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế một cách vượt
bậc, để Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa vào năm
2020. Nhưng đồng thời chính việc đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế đã làm cho
môi trường kinh doanh trong nước ngày càng trở nên cạnh tranh gay gắt hơn, đối
với các doanh nghiệp nói riêng và các ngân hàng nói chung. Theo đó, thị trường
luôn cần một lượng vốn rất lớn để tiếp tục cho sự phát triển chung của nền kinh tế
nước nhà.
Vốn luôn là một trong những yếu tố đầu vào cơ bản, quan trọng trong quá
trình hoạt động kinh doanh của mỗi chủ thể kinh tế, nó được coi là chìa khóa đảm
bảo tăng trưởng và phát triển của mọi hình thái xã hội, thêm vào đó đảng và nhà
nước ta đều có chủ trương “phát huy nội lực bên trong, nguồn vốn trong nước đóng
vai trò quyết định.” Chúng ta có thể khẳng định rằng: không thể thực hiện được các
mục tiêu kinh tế xã hội của nhà nước nói chung, cũng như các mục tiêu kinh doanh
của doanh nghiệp nói riêng nếu như không có vốn.


Đối với các NHTM – với tư cách là một doanh nghiệp, một định chế tài chính
trung gian, hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ - thì vốn lại có một vai trò hết sức quan
trọng. Để có đủ vốn đáp ứng cho nhu cầu hoạt động kinh doanh, ngân hàng sẽ phải huy
động vốn từ bên ngoài. Vì vậy, công tác huy động vốn là một hoạt động vô cùng quan
trọng của NHTM, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Trong định
hướng phát triển, việc đẩy mạnh huy động vốn để đảm bảo đáp ứng cho nhu cầu hoạt
động kinh doanh luôn là mục tiêu ưu tiên hmàng đầu của các ngân hàng.
Trong thời gian gần đây, các NHTM Việt Nam không những phải đương đầu
với sự cạnh tranh gay gắt trong hoạt động huy động vốn mà còn phải gồng mình với
suy thoái kinh tế, lãi suất huy động vốn luôn thay đổi. Trong bối cảnh đó thì nguồn
vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế đã và đang bị phân tán qua các kênh đầu tư khác. Vì

4


vậy, các NHTM trong đó có Sacombank Phòng giao dịch Lê Văn Sĩ không tránh
khỏi tình trạng là ngày càng gặp khó khăn trong hoạt động huy động vốn. Trong
thời gian tới, khi nền kinh tế thoát khỏi sự suy thoái cùng với sự phát triển chung
của nền kinh tế, nhu cầu về vốn ngày càng tăng cao và đòi hỏi phải được đáp ứng
một cách nhanh chóng, kịp thời. Do vậy, để phát huy hơn nữa vai trò của mình, đáp
ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế cũng như bản thân ngân hàng, việc tăng
cường huy động vốn với chi phí hợp lý và sự ổn định cao là yêu cầu ngày càng trở
nên cấp thiết và quan trọng để các ngân hàng có thể tồn tại và đứng vững trong nền
kinh tế thị trường, cũng như góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhận thức được vai trò quan trọng đối với hoạt động huy động vốn trong hoạt
động kinh doanh của ngân hàng, tác giả đã lựa chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả huy
động vốn tại Ngân hàng thương mại Sacombank phòng Giao dịch Lê Văn sĩ”
để nghiên cứu.
Luận văn được xây dựng trên cơ sở những kiến thức cơ bản về kinh tế và

nghiệp vụ thực tế tại ngân hàng, kết hợp với việc tìm hiểu và tham khảo một số tài
liệu liên quan.
1.2. Tổng quan nghiên cứu
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu:
Nghiên cứu lý luận cơ bản về ngân hàng thương mại và hoạt động huy động
vốn, trong đó làm rõ tầm quan trọng và các nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy
động vốn. Luận văn sẽ tập trung phân tích, đánh giá thực trạng hiệu quả huy động
vốn của Sacombank phòng Giao dịch Lê Văn Sĩ trong những năm vừa qua (giai
đoạn 2014 – 2016).
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:
Hệ thống hóa những lý luận cơ bản hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng
thương mại.

5


Phân tích, đánh giá thực trạng, rút ra những điểm mạnh và điểm yếu trong
công tác huy động vốn và hiệu quả huy động vốn những năm gần đây tại
Sacombank phòng Giao dịch Lê Văn Sĩ.
Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại ngân hàng
Sacombank phòng Giao dịch Lê Văn Sĩ.
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu là hiệu quả hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương
mại.
Phạm vi nghiên cứu tại ngân hàng Thương mại Sacombank phòng giao dịch Lê
Văn Sĩ trong giai đoạn 2014-2016.
1.5. Phương pháp nghiên cứu.
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương
pháp thống kê phân tích, phương pháp so sánh và tổng hợp, diễn dịch và qui nạp.

Phương pháp phân tích thông tin: Sử dụng đồ thị, bảng biểu để mô tả số liệu,
so sánh số liệu giữa các năm, qua đó rút ra nhận xét. Thống kê số liệu thu thập
được, đối chiếu với số liệu thực hiện qua đồ thị, bảng biểu để từ đó rút ra kết luận.
Phương pháp thống kê: Sử dụng phần mềm Excel để tổng hợp và tính toán số
liệu, biểu thị qua đồ thị, bảng biểu.
Ngoài ra luận văn sử dụng các phương pháp khác như phân tích và tổng hợp,
diễn giải và qui nạp v.v.
Phương pháp thu thập thông tin: Thông tin lấy từ các báo cáo thường niên của
ngân hàng. Ngoài ra nguồn số liệu còn lấy từ: Thu thập từ các phòng, ban trong
ngân hàng. Các báo cáo của ngân hàng. Hội thảo, tọa đàm về nội dung liên quan.
Một phần do kinh phí có hạn, luận văn chưa có tổ chức thu thập thông tin từ
các nguồn khác như từ khách hàng, các ngân hàng khác, mà chủ yếu từ báo cáo tài
chính, báo cáo thường niên của ngân hàng. Do vậy, kết quả nghiên cứu chưa thực sự
khách quan.
1.6. Tổng quan

6


Phương pháp nghiên cứu còn hạn chế về mặt không gian. Đề tài nghiên cứu
mới chỉ bó hẹp ở cấp Phòng Giao Dịch của một ngân hàng do đó vấn đề chưa được
xem xét và giải quyết một cách toàn diện.
1.7. Bố cục luận văn.
Tên luận văn “Nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ
phần Sài Gòn Thương Tín – Phòng Giao Dịch Lê Văn Sĩ ”.
Nội dung luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả huy động vốn của
ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng thương mại
Sacombank phòng giao dịch Lê Văn Sĩ

Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng
thương mại Sacombank phòng giao dịch Lê Văn Sĩ.

CHƯƠNG 1
7


NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ HUY
ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về Ngân hàng thương mại.
1.1.1. Khái niệm về Ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại là một trong những tổ chức kinh tế quan trọng nhất của
nền kinh tế vì nó đóng vai trò như hệ thống tuần hoàn cho nền kinh tế.
Có nhiều cách tiếp cận để có được khái niệm đầy đủ về ngân hàng thương mại
như: thông qua chức năng, hoạt động, các dịch vụ hoặc thông qua vai trò của ngân
hàng thương mại.
Nếu xem xét từ các loại hình dịch vụ mà ngân hàng thương mại cung cấp các
nhà kinh tế đã cho rằng “Ngân hàng thương mại là một loại hình tài chính cung cấp
các danh mục tài chính đa dạng nhất đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh
toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất cứ một tổ chức kinh
doanh nào trong nền kinh tế”.
Ngân hàng thương mại là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong nền kinh tế,
cũng là kênh huy động vốn hiệu quả nhất. Đồng thời, ngân hàng thư ơng mại cũng
là một tổ chức cho vay chủ yếu đối với các tổ chức, cá nhân. Đây là một trung gian
tài chính quan trọng để trung chuyển vốn cho nền kinh tế sao cho nguồn vốn đó
được phân bổ và sử dụng một cách hiệu quả, hợp lý.
Hiện nay, các tổ chức bao gồm cả các công ty kinh doanh, chứng khoán, công
ty môi giới chứng khoán, công ty bảo hiểm,…đang cố gắng cung cấp các dịch vụ
của ngân hàng như các nghiệp vụ thanh toán hay cho vay,…Nhưng điểm khác biệt
là ngân hàng thương mại là “ Một loại hình tổ chức tài chính cung cấp các danh

mục và thực hiện các chức năng tài chính đa dạng nhất” so với bất cứ một tổ chức
kinh doanh nào trong nền kinh tế.
1.1.2. Chức năng của Ngân hàng thương mại.

8


1.1.2.1. Trung gian tài chính.
Ngân hàng thương mại có một chức năng rất quan trọng đối với nền kinh tế,
đó là trung gian tài chính.
Trong nền kinh tế, có hai nhóm cá nhân và tổ chức: (1) các cá nhân, tổ chức
thặng dư trong chi tiêu, thu nhập hiện tại lớn hơn chi tiêu cho hàng hóa dịch vụ, tức
họ có nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi; (2) các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi
tiêu, cần bổ sung vốn cho tiêu dùng hay cho đầu tư. Tiền sẽ được di chuyển từ nhóm
(1) sang nhóm thứ (2) nếu cả hai cùng có lợi. Khi dòng tiền di chuyển với điều kiện
phải quay lại với điều kiện lớn hơn trong một khoảng thời gian nhất định thì đó là
quan hệ tín dụng. Ngân hàng thương mại với tư cách là một trung gian tài chính của
nền kinh tế sẽ giúp quan hệ tín dụng này được thực hiện dễ dàng hơn và hiệu quả
hơn. Ngân hàng thương mại sẽ huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ nhóm
(1) và sử dụng nguồn vốn đó cho nhóm (2) vay với mức lãi suất nhất định. Sự xuất
hiện của trung gian tài chính này sẽ giảm được chi phí giao dịch, bởi quan hệ tín
dụng trực tiếp bị nhiều hạn chế về qui mô, không gian, thời gian,…Đồng thời, ngân
hàng thương mại sẽ gánh chịu các rủi ro có thể xảy ra và sử dụng các kỷ thuật
nghiệp vụ để hạn chế, phân tán rủi ro.
1.1.2.2. Tạo phương tiện thanh toán.
Theo quan điểm hiện tại, đại lượng tiền tệ bao gồm: tiền giấy trong lưu thông
(Mo), số dư trên tài khoản tiền gửi giao dịch của các khách hàng tại các ngân hàng,
tiền gửi trên các tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, tiết kiệm,…
Khi ngân hàng cho vay, số dư trên các tài khoản tiền gửi của khách hàng tại
ngân hàng tăng lên, khách hàng có thể sử dụng để thanh toán hàng hóa, dịch vụ. Do

đó, thông qua nghiệp vụ cho vay, ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán.
Mặc khác, khi khách hàng tại một ngân hàng sử dụng khoản vay ngân hàng để
chi trả cho đối tác tại một ngân hàng khác thì sẽ làm tăng số dư tiền gửi tại ngân
hàng của đối tác. Ngân hàng đó lại có các khoản vay mới. Như vậy toàn bộ hệ thống
ngân hàng cũng tạo ra phương tiện thanh toán.
1.1.2.3. Trung gian thanh toán.

9


Ngày nay, với sự phát triển của hệ thống ngân hàng, các giao dịch thanh toán
trong nền kinh tế được thực hiện nhanh chóng, dễ dàng, an toàn, tiết kiệm chi phí.
Ngân hàng thương mại cung cấp rất nhiều hình thức thanh toán như: thanh toán
bằng séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu,…tạo ra các mạng lưới thanh toán điện tử.
Với chức năng trung gian thanh toán, ngân hàng tạo ra những công cụ lưu thông và
độc quyền quản lý các công cụ đó (séc, giấy chuyển ngân, thẻ thanh toán,…) đã tiết
kiệm cho xã hội rất nhiều về chi phí lưu thông, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn,
thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hóa.
1.1.3. Hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại.
Ngày nay, các ngân hàng thương mại đang ngày càng phát triển, tham gia vào
rất nhiều lĩnh vực, nhưng xét về các hoạt động chủ yếu, tác giả có thể phân chia
thành ba nhóm hoạt động sau:
1.1.3.1. Hoạt động huy động vốn.
Huy động vốn là hoạt động quan trọng của ngân hàng thương mại. Hoạt động
này mang lại nguồn vốn để ngân hàng thực hiện các hoạt động như: cho vay, cung
cấp các dịch vụ ngân hàng cho khách hàng hoặc đầu tư.
Các ngân hàng thương mại huy động vốn theo nhiều phương thức khác nhau:
có thể phát hành thêm cổ phần ( gia tăng vốn chủ sở hữu) hay huy động vốn nợ. Tuy
nhiên trong khuôn khổ luận văn này, huy động vốn của ngân hàng thương mại được
giới hạn là hoạt động huy động vốn nợ với các hình thức huy động vốn là:

-

Nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới, hình thức

-

tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi không có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác.
Phát hành chứng chỉ tiền gửi tiền, trái phiếu và các giấy tờ có giá để huy động vốn
của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước khi được thống đốc Ngân hàng Nhà

-

nước chấp thuận.
Vay vốn từ các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của các tổ chức tín

-

dụng nước ngoài.
Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam.

10


Các ngân hàng hiện nay chủ động huy động vốn thông qua nhận tiền gửi của
các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới hình thức tiền gửi có kỳ hạn,
tiền gửi không kỳ hạn và các loại tiền gửi khác.
Theo Luật các tổ chức tín dụng thì tiền gửi được hiểu là “ số tiền khách hàng
gửi tại tổ chức tín dụng dưới hình tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi
tiết kiệm và các hình thức khác. Tiền gửi được hưởng lãi hoặc không hưởng lãi và

phải được hoàn trả cho người gửi tiền”’
Ngân hàng thu hút vốn từ các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế, trở thành
người thủ quỷ cho vô số khách hàng, đồng thời thực hiện các lệnh thu chi theo yêu
cầu. Ngày nay, ở các nước có nền kinh tế phát triển, hầu hết các tổ chức, doanh
nghiệp và cá nhân đều mở tài khoản ở ngân hàng. Các giao dịch thanh toán, thu chi
được thực hiện qua hệ thống ngân hàng bằng cách trích chuyển tài khoản. Các giao
dịch này được thực hiện thông qua các lệnh của khách hàng bằng các hình thức ủy
nhiệm chi, ủy nhiệm thu. Các chủ tài khoản ủy quyền cho ngân hàng thực hiện các
lệnh chuyển tiền trên tài khoản của mình.
Lượng tiền gửi thanh toán ngày càng tăng theo và đây là nguồn vốn huy động
rất có lợi vì ngân hàng chỉ phải trả một số tiền rất nhỏ trong khi lãi suất cho vay luôn
cao hơn nhiều, đồng thời thu được các khoản phí chuyển tiền của khách hàng. Tuy
nhiên, các nguồn vốn này luôn biến động. Với mục tiêu tập trung và tích tụ các nguồn
vốn để phát triển sản xuất kinh doanh thì bên cạnh tiền gửi thanh toán các ngân hàng
rất chú trọng đến việc huy động tiền gửi có kỳ hạn, đây sẽ là khoản nguồn vốn quan
trọng để các ngân hàng có thể đầu tư cho vay, tài trợ cho nền kinh tế.
Như vậy, bằng nghiệp vụ huy động nguồn vốn tiền gửi, có thể nói ngân hàng
thương mại đã nắm trong trong tay một phần lớn của cải xã hội về mặt giá trị, tức là
vốn tiền tệ. Để huy động được số tiền tệ như vậy các ngân hàng thương mại phải bỏ
ra một khoản chi phí nhất định đó là tiền lãi phải trả cho người gửi tiền và các
khoản chi phí khác.
Một hình thức huy động vốn khá phổ biến đối với ngân hàng thương mại hiện
nay đó là vay vốn của các tổ chức tín dụng khác cụ thể đây là các ngân hàng thương
mại khác hoặc Ngân hàng Nhà nước thông qua thị trường tiền tệ liên ngân hàng

11


Đây là thị trường cho nhau vay giữa các ngân hàng trong đó có sự tham gia của
Ngân hàng Nhà nước với tư cách là người điều tiết, chi phối thị trường. Các ngân

hàng sử dụng hình thức huy động này nhằm bổ sung khoản vốn ngắn hạn tiếu hụt
tạm thời. Do nguồn vay ở thị trường này có hạn nên có hiện tượng đầu cơ, tích trữ
khiến cho lãi suất liên ngân hàng không ngừng tăng cao. Nhiều ngân hàng thương
mại nhỏ năng lực yếu kém khi Ngân hàng Nhà nước tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên
đã rơi vào tình trạng thiếu vốn nghiêm trọng, tính thanh khoản thấp, sẵn sàng chấp
nhận các khoản vay trên thị trường liên ngân hàng với mức lãi suất cao kỷ lục 3040%/năm nhằm cải thiện khả năng thanh toán của mình. Do vậy, Ngân hàng Nhà
nước luôn kiểm soát sát sao diễn biến của lãi suất liên ngân hàng với nhiều hình
thức ví dụ như: đưa ra các mức lãi suất trần,…
1.1.3.2. Hoạt động sử dụng vốn.
Hoạt động tài trợ là hoạt động chủ thể bỏ tiền ra để nhằm đạt mục đích nào đó.
Đây là hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng thương mại. Đối với ngân hàng thương
mại sao khi huy động được tiền gửi từ nên kinh tế thì ngân hàng sẽ phải trả lãi, do đó
để khỏi bị thiệt hại đồng thời có được lợi nhuận, ngân hàng sẽ phải tìm cách sử dụng
những nguồn vốn đó để sinh lời. Từ khoản lãi thu được ngân hàng sẽ dùng nó để trả lãi
cho số vốn đã huy động, thanh toán các khoản chi phí trong hoạt động, phần còn lại sẽ
là lợi nhuận ngân hàng. Nói cách khác, hoạt động tài trợ cho nền kinh tế là hoạt động
sử dụng vốn của ngân hàng với mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
Hoạt động cho vay.
Theo quyết định số 1627/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam về việc Ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng
đối với khách hàng thì “cho vay” được định nghĩa như sau:
“Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho
khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định
để thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”.
Trong điều kiện hiện nay, cho vay là hoạt động chính của ngân hàng để tạo ra
lợi nhuận, danh mục cho vay chiếm khoảng trên dưới ½ tổng danh mục tài sản của
ngân hàng thương mại và mang lại thu nhập từ ½ đến ⅔ tổng thu nhập của ngân

12



hàng nên hoạt động này có vay trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của ngân
hàng thương mại. Tuy nhiên hoạt động cho vay luôn ẩn chứa nhiều rủi ro, do vậy
các ngân hàng hiện nay có xu hướng phát triển các mảng dịch vụ ngân hàng khác.
Góp vốn liên doanh liên kết, mua cổ phần.
Góp vốn liên doanh liên kết, mua cổ phần là hình thức ngân hàng góp vốn
cùng khách hàng để kinh doanh. Phổ biến nhất hiện nay là hình thức mua cổ phiếu
với mục đích thu cổ tức hàng năm và liên doanh liên kết với các doanh nghiệp, ngân
hàng nước ngoài. Thực hiện việc đầu tư vốn thông qua liên doanh liên kết, mua cổ
phần sẽ giúp các ngân hàng thương mại thực hiện được nhiều mục đích: đa dạng
hóa các hình thức đầu tư để gia tăng lợi nhuận; hạn chế rủi ro cho ngân hàng và để
tận dụng các ưu thế của nhau.
1.1.3.3. Các hoạt động khác
Ngoài những hoạt động trọng yếu trên, ngân hàng thương mại cũng thực hiện
các hoạt động khác như: hoạt động cho thuê, bảo lãnh, kinh doanh ngoại tệ, hoạt
động môi giới đầu tư chứng khoáng, hoạt động dịch vụ ủy thác và tư vấn, quản lý
ngân quỹ, thu hộ, chi hộ,…
Nhìn một cách tổng quan thì hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại là
nhận tiền gửi và sử dụng tiền đó để cho vay và đầu tư vào nền kinh tế. Đối với mỗi
khoản vay họ đều ấn định lãi suất và thời hạn thanh toán,nghĩa là sau một thời gian
xác định, người vay phải trả cho ngân hàng vốn gốc và một số lãi nào đó. Phần
chênh lệch giữa lợi tức tiền vay và chi phí được dùng để trả lãi tiền gửi được gọi là
lãi ròng. Để mở rộng hoạt động kinh doanh và tối đa hóa lợi nhuận, các ngân hàng
thương mại thường tìm kiếm nhiều hơn các nguồn vốn với chi phí thấp và cho vay
nhiều hơn. Trong điều kiện hiện nay, đây không phải là cách kiếm lợi duy nhất
nhưng là cách tạo ra lợi nhuận chủ yếu của ngân hàng thương mại.
1.2. Huy động vốn của ngân hàng thương mại.
1.2.1. Vai trò của nguồn vốn trong hoạt động của ngân hàng thương mại.
Nguồn vốn trong ngân hàng thương mại là toàn bộ nguồn tiền tệ mà ngân hàng
tạo lập, huy động để cho vay, đầu tư và thực thi các dịch vụ ngân hàng.


13


Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh tiền tệ với một hoạt động rất quan trọng
là kinh doanh “quyền sử dụng vốn”, tức người cần vốn phải trả lãi cho người có vốn
trên thị trường một khoản phí để có được quyền sử dụng vốn trong thời gian xác
định. Thông qua thị trường, vốn được lưu chuyển rộng rãi, từ đó mới có thể thể
hiện đủ bản chất và vai trò của mình. Vốn của ngân hàng thương mại chính là
những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập hoặc huy động được dùng để đầu tư, cho
vay hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
Bản chất của hoạt động ngân hàng là huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế
để cho vay nên nguồn vốn có vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của
ngân hàng.
Vốn là cơ sở cho các hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt với nghiệp vụ đặc trưng
là kinh doanh tiền tệ. Do vậy, vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh chính của
ngân hàng mà còn là đối tượng kinh doanh. Đây chính là cơ sở cho các hoạt động
kinh doanh của ngân hàng.
Vốn quyết định quy mô hoạt động của ngân hàng.
Hầu hết các hoạt động của ngân hàng thương mại đều phụ thuộc vào nguồn
vốn. Ngân hàng kinh doanh dựa trên việc sử dụng vốn huy động để cho vay và đầu
tư vào các lĩnh vực khác. Do vậy, quy mô hoạt động và quy mô tín dụng phụ thuộc
rất nhiều vào nguồn vốn. Đặc biệt, hoạt động tín dụng là hoạt động chính và mang
lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng. Quy mô hoạt động tín dụng phục thuộc rất nhiều
vào vốn huy động, thường bị áp đặt theo một tỷ lệ nhất định trên số vốn ngân hàng
huy động được.
Nguồn vốn càng lớn, ngân hàng càng có nhiều điều kiện để đầu tư mở rộng
hoạt động của mình về cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Ngân hàng có thể mở rộng thị
phần của mình, đầu tư nhiều hơn vào các dịch vụ tài chính, dịch vụ thanh toán,… để

tạo ra thế cạnh tranh cho riêng mình.
Nguồn vốn tạo uy tín cho ngân hàng.
Ngân hàng là một ngành kinh doanh dịch vụ, do vậy ngân hàng hoạt động dựa
trên uy tín là chủ yếu. Khách hàng cũng dựa vào niềm tin của mình vào ngân hàng

14


để gửi tiền, sử dụng các sản phẩm, dịch vụ. Uy tín là một tài sản vô hình cực kỳ
quan trọng đối với ngân hàng. Uy tín đó trước hết thể hiện ở khả năng sẵn sàng chi
trả của ngân hàng đó. Nguồn vốn càng lớn, vốn khả dụng càng nhiều thì khả năng
thanh toán của ngân hàng càng cao.
Nguồn vốn nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng.
Hiện nay với sự phát triển của hệ thống các ngân hàng thương mại, rất nhiều
các ngân hàng với quy mô lớn nhỏ ra đời nên khách hàng càng nhiều sự lựa chọn.
Nhưng điều họ quan tâm nhất chính là an toàn và chất lượng các dịch vụ mà ngân
hàng cung cấp. cả hai yếu tố này phụ thuộc rất nhiều vào quy mô và chất lượng
nguồn vốn của ngân hàng. Do vậy, một trong những giải pháp quan trọng để nâng
cao sức cạnh tranh của ngân hàng thương mại là việc tăng cường khả năng huy
động vốn.
1.2.2. Các phương thức huy động vốn của ngân hàng thương mại.
Trong cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng thương mại, vốn chủ sở hữu chiếm
một phần rất nhỏ trong tổng nguồn vốn, trong đó vốn huy động từ nền kinh tế chiếm
tỷ trọng cao. Do vậy trong luận văn này, tác giả chỉ đi sâu nghiên cứu vốn huy động
với tư cách là tài sản nợ.
Ngân hàng huy động vốn từ các nguồn chủ yếu sau:
1.2.2.1. Huy động tiền gửi.


Tiền gửi không kỳ hạn.

Đây là tiền của doanh nghiệp, cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ ngân hàng
giữ và thanh toán hộ. Tiền gửi không kỳ hạn đáp ứng nhu cầu nhận các khoản thu
về của cá nhân, tổ chức,, đồng thời đáp ứng các nhu cầu thanh toán theo yêu cầu.
Ngân hàng trả lãi suất cho loại tiền gửi này rất thấp hoặc bằng không. Đối với mỗi
tài khoản tiền gửi thanh toán, số dư duy trì không ổn định. Nhưng đối với ngân
hàng, với một khối lượng khách hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán khá lớn, thì
số vốn huy động từ nguồn tiền gửi này khá ổn định bởi vì các khách hàng không
bao giờ rút hết tất cả tiền gửi thanh toán ở ngân hàng vào cùng một thời điểm.

15




Tiền gửi có kỳ hạn.
Đây là loại tiền gửi mà khách hàng gửi tiền tại ngân hàng trong một thời gian
nhất định, chỉ được rút ra sau thời gian đó và được hưởng lãi suất cao hơn nhiều so
với tiền gửi thanh toán. Mục đích của khách hàng khi gửi kỳ hạn này là nhận lãi.
Lãi suất phụ thuộc vào kỳ hạn loại tiền gửi đó. Thông thường, kỳ hạn càng dài lãi
suất càng cao. Nhưng trong những giai đoạn đặc biệt, tình hình thị trường có nhiều
biến động khó lường về lãi suất nhu cầu về vốn tăng cao nhưng dự báo chỉ trong
ngắn hạn thì ngân hàng có thể áp dụng chính sách lãi suất theo chiều hướng ngược
lại. Tiền gửi có kỳ hạn là nguồn vốn huy động khá ổn định, có thể sử dụng cho vay
trung và dài hạn.



Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
Đây là loại tiền gửi mà khách hàng có thể gửi tiền vào nhiều lần và rút ra bất
cứ lúc nào. Phần lớn khách hàng gửi tiền không kỳ hạn là do chưa xác định được

nhu cầu chi tiêu cụ thể trong tương lai, nhưng lại muốn hưởng một mức lãi trong
thời gian khoản tiền nhàn rỗi.



Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
Đây là khoản tiền gửi mà khách hàng chỉ được rút ra khi đến hạn thanh
toán.Trên thực tế để thu hút khách hàng, ngân hàng vẫn cho phép khách hàng rút
trước hạn với điều kiện hưởng lãi suất thấp (thường bằng mức tiền gửi tiết kiệm
không kỳ hạn, thậm chí không hưởng lãi).
1.2.2.2. Huy động bằng hình thức đi vay.
Nguồn tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Tuy
nhiên tại nhiều nước, ngân hàng Trung ương thường quy định nguồn tiền huy động
và vốn chủ. Do vậy, khi khả năng huy động bị hạn chế, ngân hàng có thể vay mượn
để đáp ứng nhu cầu chi trả.



Vay ngân hàng Trung ương:
Khi thiếu hụt dự trữ bắt buộc hoặc dự trữ thanh toán, ngân hàng thương mại
vay Ngân hàng Nhà nước. Hình thức cho vay chủ yếu của Ngân hàng Nhà nước chủ
yếu là tái chiết khấu (tái cấp vốn). Cụ thể, những thương phiếu mà ngân hàng đã
chiết khấu có thể mang tái chiết khấu tại Ngân hàng Nhà nước. Những thương phiếu

16


này phải là những thương phiếu có chất lượng và việc tái chiết khấu này được Ngân
hàng Nhà nước quản lý rất chặt chẽ.



Vay các tổ chức tín dụng khác:
Các ngân hàng có thể vay mượn lẫn nhau hoặc vay từ các tổ chức tín dụng
khác. Nguồn vay này để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả các khoản thanh toán cấp
bách. Quá trình vay mượn khá đơn giản, các ngân hàng trực tiếp liên hệ với nhau
hoặc qua ngân hàng đại lý, có thể thế đảm bảo bằng chứng khoán kho bạc hoặc
không cần đảm bảo.



Vay trên thị trường vốn:
Ngân hàng có thể vay mượn bằng cách phát hành các giấy tờ có giá trên thị
trường vốn như: kỳ phiếu, trái phiếu, tín phiếu trên thị trường vốn. Đây là nguồn
huy động nhằm phục vụ cho vay trung và dài hạn. Ngân hàng sử dụng uy tín của
mình để phát hành các giấy tờ có giá. Do vậy, ngân hàng thương mại nhỏ thường
khó vay trực tiếp bằng cách này mà phải thông qua ngân hàng đại lý hoặc được bảo
lãnh của ngân hàng đầu tư. Khả năng vay mượn còn phụ thuộc vào trình độ phát
triển của thị trường tài chính, khả năng chuyển đổi các công cụ nợ dài hạn của ngân
hàng. Việc huy động vốn trên thị trường vốn khá phức tạp, đòi hỏi các ngân hàng
phải nghiên cứu kỹ thị trường để quyết định quy mô, lãi suất, thời hạn, mệnh giá,….
1.2.2.3. Huy động từ các nguồn khác.
Trong quá trình làm trung gian thanh toán, các ngân hàng thương mại cũng
được tạo một khoản vốn: vốn trên tài khoản mở thư tín dụng, tài khoản tiền séc bảo
chi, , séc định mức và cá khoản tiền phong tỏa do ngân hàng nhận hối phiếu thương
mại, thông qua nghiệp vụ đại lý, các ngân hàng thương mại cũng thu hút được một
số vốn đáng kể trong quá trình thu chi hộ khách hàng, làm đại lý cho một tổ chức
tín dụng khác, nhận chuyển vốn cho các khách hàng hay một dự án đầu tư. Vốn thu
hút từ nước ngoài dưới hình thức như nhận tiền gửi ngoại tệ, chuyển ngoại tệ, kinh
doanh ngoại hối, vốn ủy thác đầu tư, tài trợ của Nhà nước.
Tất cả các khoản tiền tạm thời dư thừa kia cũng được ngân hàng sử dụng cho

mục đích kinh doanh tiền tệ của mình.

17


Tóm lại, vốn huy động là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn
vốn của ngân hàng, giữ vị trí quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng
thương mại. Ngân hàng thương mại tuân thủ theo Luật định về mở tài khoản tiền
gửi tại Ngân hàng Nhà nước để duy trì ở đó một khối lượng dự trữ bắt buộc. Mức
vốn huy động thực chất cho các hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương
mại bị hạn chế bởi tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Nếu một ngân hàng thương mại kinh doanh
có hiệu quả thì không những nguồn lợi của ngân hàng tăng lên mà còn làm cho uy
tín của nó trên thương trường cũng tăng theo. Chính vì thế nguồn vốn huy động vào
ngân hàng cũng ngày một tăng, quy mô hoạt động ngày càng mở rộng để phục vụ
phát triển cho nền kinh tế.
1.3. Hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thương mại.
1.3.1. Khái niệm hiệu quả huy động vốn.
Khi thực hiện bất cứ công việc nào, cái đáng quan tâm là hiệu quả của công
việc đó vì vậy các nhà quản trị ngân hàng rất quan tâm đến hiệu quả huy động vốn
của ngân hàng mình.
Trong “đại từ điển tiếng việt”, hiệu quả là “kết quả đích thực”, chính là kết quả
thực của việc làm mang lại. Kết quả thực thường được đánh giá thông qua việc so
sánh mục đích đề ra và kết quả đạt được, kết quả đạt được và chi phí bỏ ra,…
Từ đó ta có thể đưa ra một khái niệm về hiệu quả huy động vốn như sau: Hiệu
quả huy động vốn của ngân hàng thương mại là kết quả thực mang lại của hoạt động
huy động vốn, được phản ánh qua các yếu tố như: sự so sánh giữa mục tiêu đề ra và
kết quả đạt được, kết quả đạt được và chi phí bỏ ra cho hoạt động huy động vốn.
Một ngân hàng muốn đạt được kết quả huy động vốn cao thì khi thực hiện huy
động vốn cần bám sát nhu cầu cho vay, đầu tư và các hoạt động quan trọng khác,…
để số vốn huy động có thể phù hợp, tương ứng về cơ cấu kỳ hạn, loại tiền với chi

phí huy động thấp nhất song vẫn đảm bảo có nguồn vốn ổn định đáp ứng nhu cầu
hoạt động kinh doanh, hạn chế rủi ro thanh khoản, rủi ro từ lãi suất, từ đó tăng lợi
nhuận và độ an toàn cho hoạt động các ngân hàng.

18


1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động vốn.
Công tác đánh giá hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thương mại thường
rất được chú trọng. Thông thường, hiệu quả huy động vốn có thể được đánh giá qua
một số chỉ tiêu chủ yếu sau:
1. Quy mô và tốc độ tăng trưởng:
Như phần trên đã phân tích, vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động
kinh doanh, vốn quyết định quy mô tín dụng cũng như toàn bộ các hoạt động khác
của ngân hàng, từ đó, vốn quyết định năng lực cạnh tranh, quy mô phát triển của
ngân hàng. Quy mô nguồn vốn huy động phải đủ lớn để tài trợ cho danh mục tài sản
đa dạng và không ngừng tăng trưởng với sự ổn định cao của ngân hàng.
Các ngân hàng thương mại thường sử dụng tỷ lệ hoàn thành kế hoạch huy
động (TLHTKH) để đánh giá quy mô huy động vốn.
TLHTKH = Tổng vốn huy động/kế hoạch huy động (%).
Nếu tỷ lệ hoàn thành kế hoạch huy động lớn hơn 100%, lượng vốn huy động
thực tế lớn hơn kế hoạch, ngân hàng sẽ phải cố gắng sử dụng hợp lý số vốn thừa.
Bởi nếu không chi phí sẽ tăng khi lượng vốn này không sinh lời mà vẫn phải trả lãi
và chi phí hoạt động khác. Ngược lại nếu không đạt chỉ tiêu đề ra (TLHTKH nhỏ
hơn 100%), ngân hàng phải huy động từ các nguồn khác nếu cần để bổ sung vốn
hoạt động. Còn nếu hoàn thành kế hoạch (TLHTKH bằng 100%) không có nghĩa là
tốt nhất mà còn phụ thuộc vào nhu cầu sử dụng vốn hiện tại.
Tuy nhiên, quy mô huy động vốn càng lớn không có nghĩa là hoạt động huy
động vốn hiệu quả vì hiệu quả huy động vốn còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như
tính an toàn của đồng vốn huy động hay chi phí vốn cao hay thấp. Đây chỉ là một

chỉ tiêu cần xem xét khi đánh giá hiệu quả huy động vốn.
Tăng trưởng nguồn vốn là một trong những mục tiêu quan trọng của ngân
hàng, đặc biệt là tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm. Một ngân hàng thương
mại cần phải xem xét đến khả năng tăng trưởng nguồn vốn, đặc biệt là trên các khía
cạnh chủ yếu như quy mô và tốc độ tăng trưởng, cơ cấu nguồn vốn, nhóm nguồn, sự
thay đổi kết cấu, kết quả thực hiện so với kế hoạch, với kỳ trước và nhân tố ảnh
hưởng, phân tích triển vọng nguồn, nhóm nguồn trong thời gian tới.

19


Tăng trưởng nguồn vốn huy động được xem là một chỉ tiêu quan trọng phản
ánh chất lượng hoạt động của các ngân hàng, từ đó, ngân hàng có thể mở rộng quy
mô hoạt động, nâng cao tính thanh khoản và tính ổn định của nguồn vốn.
2. Cơ cấu vốn huy động.
Cơ cấu vốn huy động là một chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả huy động vốn. Nhìn
vào cơ cấu vốn huy động của một ngân hàng cho ta thấy được mức độ ổn định
nguồn vốn huy động của ngân hàng đó. Một cơ cấu vốn hợp lý là một cơ cấu vốn đa
dạng, thể hiện việc duy trì một tỷ lệ hợp lý giữa vốn huy động ngắn hạn và vốn dài
hạn, giữa vốn nội tẹ và ngoại tê.
Khi xét cơ cấu vốn huy động, các ngân hàng thương mại thường sử dụng tỷ lệ
huy động từ các nguồn:
Tỷ lệ này thể hiện tỷ lệ vốn huy động từng nguồn trên tổng vốn huy động. Kỳ
hạn, lãi suất, sự ổn định từng nguồn sẽ ảnh hưởng đến lãi suất, kỳ hạn, sự ổn đinh
của nguồn vốn huy động.
Cơ cấu vốn sẽ ảnh hưởng lớn đến việc sử dụng vốn huy động (lãi suất, kỳ hạn,
quy mô cho vay hay đầu tư của ngân hàng). Cơ cấu vốn hợp lý khi cơ cấu đó phù
hợp với kế hoạch sử dụng vốn và chi phí huy động thấp.
3. Sự phù hợp giữa huy động vốn và sử dụng vốn.
Mục đích huy động vốn của ngân hàng thương mại (NHTM) trước hết và quan

trọng nhất là để đáp ứng cho nhu cầu sử dụng vốn của chính NHTM đó. Do vậy,
huy động vốn phải luôn được đặt trong mối quan hệ với sử dụng vốn. Chỉ trong mối
quan hệ đó thì được đánh giá hiệu quả huy động vốn của NHTM mới mang tính xác
thực, gắn với yêu cầu thực tiễn hoạt động của bất kỳ NHTM nào. Để một NHTM
không ngừng tăng trưởng và phát triển thì một trong những điều kiện tiên quyết là
ngân hàng đó phải có được nguồn vốn với quy mô lớn tương ứng với các hoạt động
sử dụng vốn của mình. Nếu xảy ra sự mất cân đối giữa nguồn vốn huy động và
nguồn vốn sử dụng thì ngân hàng thương mại phải thực hiện các biện pháp khác để
bù đắp cho sự thiếu hụt đó, có thể là vay Ngân hàng Nhà nước (NHNN), vay trên
thị trường tiền tệ liên ngân hàng, vay các tổ chức tín dụng khác. Việc vay nợ này

20


chủ yếu là ngắn hạn với lãi suất cao nên hiệu quả kinh doanh hạn chế vì thu nhập từ
chênh lệch giữa lãi suất đi vay và lãi suất cho vay thấp. Thêm vào đó, mức độ đi
vay ngắn hạn trên thị trường liên ngân hàng càng lớn thì rủi ro thanh khoản ở mức
độ càng cao. Khi có những biến động trên thị trường tiền tệ như NHNN tăng tỷ lệ
dự trữ bắt buộc thì các NHTM khi đó sẽ phải mua một khối lượng lớn tín phiếu bắt
buộc. Trong trường hợp đó, các ngân hàng thương mại đang cho vay sẽ tiến hành
thu hồi nợ và hạn chế hay ngừng cho vay ra, làm cho các ngân hàng thương mại
đang đi vay thiếu hụt tạm thời thanh khoản và có thể rơi vào tình trạng đi vay các
NHTM khác với bất cứ lãi suất nào hoặc tăng lãi suất huy động vốn trên thị trường.
Đây cũng chính là nguyên nhân của đợt lãi suất trên thị trường liên ngân hàng tăng
lên tới 30% thậm chí 40%/năm và lãi suất huy động vốn trên thị trường tăng lên tới
19% trong năm 2008 và năm 2011 với lãi suất huy động thực là 18-19%/năm dù lãi
suất công bố là 14%. Hiện nay, có rất nhiều NHTM, do thiếu hụt vốn hay muốn nếu
kéo vốn từ các ngân hàng khác đã đưa lãi suất huy động lên rất cao và thông thường
chỉ huy động ngắn hạn. Do vậy, tro ng cơ cấu vốn huy động, tỷ lệ vốn ngắn hạn là
rất cao và được sử dụng cho vay trung dài hạn bởi tình trạng khó khăn về vốn. Đều

này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến khả năng thanh toán của các ngân hàng.
Như vậy, cơ cấu nguồn vốn cần phải có sự phù hợp, cân đối với cơ cấu sử
dụng vốn. Để phục vụ cho công tác quản lý nguồn vốn, NHTM cần phải phân tích
cấu trúc kỳ hạn của nguồn vốn. Các nguồn vốn của NHTM tại một thời điểm nào đó
được phân chia thành các nhóm khác nhau tùy thuộc vào ngày đến hạn dự kiến của
chúng. Từ đó có thể dự báo một cách tương đối về quy mô nguồn vốn đến hạn (có
thể bị rút ra) trong khoảng thời gian tương ứng như: trả theo yêu cầu, 1-30 ngày, 1-3
tháng, 3-6 tháng, 6-12 tháng, hơn 12 tháng. Báo cáo về cấu trúc kỳ hạn là công cụ
quan trọng sử dụng để phân tích, so sánh biến động cơ cấu kỳ hạn tại các thời điểm
khác nhau, phân tích sự tương thích giữa nguồn vốn và sử dụng vốn, quản lý rủi ro
lãi suất. Tính ổn định của nguồn vốn được phản ánh qua kỳ hạn danh nghĩa của
nguồn. Thông thường, các kỳ hạn danh nghĩa càng dài thì lãi suất càng cao. Nhìn
chung, khi đã lựa chọn gửi tiền theo mục đích tiết kiệm thì những người gửi tiền
đều cố gắng duy trì kỳ hạn danh nghĩa đó để hưởng lãi suất ở mức cao nhất. Nếu

21


môi trường kinh tế vĩ mô không ổn định (lạm phát cao, tỷ giá biến động theo hướng
không có lợi cho người gửi tiền nội tệ, thu nhập dân cư thấp, thị trường tài chính
kém phát triển,…) thì việc thu hút những nguồn vốn có kỳ hạn dài rất khó khăn.
Nhìn chung, dựa vào những báo cáo về cấu trúc, kỳ hạn của nguồn huy động
để nhà quản lý ngân hàng phân tích, so sánh biến động cơ cấu kỳ hạn tại các thời
điểm khác nhau, sự tương hợp giữa các nguồn vốn và sử dụng vốn để đánh giá hiệu
suất sử dụng vốn và giúp cho việc tạo ra khe hở lãi suất tích cực để quản lý rủi ro lãi
suất. Các nguồn vốn huy động được phân chia đưa vào tài sản của ngân hàng như:
tiền mặt, tiền gửi ngân hàng khác, cho vay, mua chứng khoán sao cho phù hợp với
cơ cấu kỳ hạn của nguồn vốn. Thông thường các ngân hàng vẫn sử dụng một phần
nguồn vốn có kỳ hạn ngắn để đầu từ vào các tài sản có thời hạn dài hơn nhưng chỉ ở
một tỷ lệ nhất định vì phải chịu sức ép về khả năng thanh toán. Nhưng nếu sử dụng

vốn dài hạn để cho vay ngắn hạn thì lãi suất thu được không đủ bù đắp chi phí huy
động vốn. Do đó, qua mô hình cấu trúc kỳ hạn ngân hàng tiến hành điều chỉnh cơ
cấu nguồn vốn và danh mục tài sản để nâng cao hiệu suất sử dụng vốn tăng doanh
lợi, duy trì khả năng thanh toán (nếu thiếu dự trữ), đầu tư thêm tài sản sinh lời (nếu
thừa vốn) hoặc chuẩn bị tái đầu tư cho một số tài sản sắp đến hạn.
4. Chi phí huy động vốn
Một NHTM sẽ không thể hoạt động được nếu không tạo được nguồn vốn. Tuy
nhiên, ngân hàng cũng không thể tạo lập nguồn vốn bằng mọi giá mà sẽ phải trả lời
được hai vấn đề chủ yếu sau đây:
-

Chi phí để có thể được nguồn vốn là bao nhiêu?
Mối quan hệ phụ thuộc và rủi ro của mỗi nguồn vốn.
Mỗi NHTM trong môi trường cạnh tranh khốc liệt ngày nay cần phải biết mỗi
khoản mục chi phí bao gồm những gì. Điều này đặc biệt chính xác đối với huy động
vốn bởi vì đối với hầu hết các ngân hàng và tổ chức tín dụng, chi phí trả lãi cho
nguồn vốn là cao nhất trên cả chi phí nhân viên, chi phí quản lý gián tiếp và các
khoản chi phí nghiệp vụ khác.
Tùy theo phần mềm công nghệ cũng như quan điểm của từng ngân hàng mà
chi phí huy động vốn có thể được tính toán bằng nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên,

22


về cơ bản, chi phí huy động vốn của các NHTM nói chung có thể được xác định
theo những phương pháp phổ biến như sau:
 Phương pháp chi phí bình quân

Phương pháp chi phí bình quân là phương pháp phổ biến nhất để tính chi phí
huy động vốn của ngân hàng thương mại.

Phương pháp này chú trọng vào cơ cấu hỗn hợp của các nguồn vốn mà ngân
hàng đã huy động trong quá khứ và xem cẩn thận mức lãi suất mà thị trường đòi hỏi
ngân hàng phải trả cho mỗi nguồn vốn đi huy động. Thương số của lãi suất phải trả
và tổng mức vốn đi huy động trong quá khứ tạo thành chi phí bình quân gia quyền.
Công thức tính chi phí lãi suất bình quân như sau:
Phương pháp nói trên có ích cho ngân hàng trong việc theo dõi động thái của
chi phí huy động vốn theo thời gian và mức chi phí lãi suất bình quân cung cấp một
chuẩn mực tương đối cho việc ra quyết định nên cho vay hay đầu tư như thế nào.
Tuy nhiên, việc tính toán như trên là thực sự chưa hoàn hảo bởi vì nó chỉ dừng lại ở
mức độ xem xét giá vốn của nguồn vốn, nghĩa là vẫn còn nhiều chi phí khác cần
phải tính thêm để thực sự có được nguồn vốn. Các chi phí cấu thành này bao gồm:
Chi phí phi lãi suất:
+ Tiền lương và chi phí quản lý gián tiếp.
+ Mức dự trữ bắt buộc theo quy định.
+ Phí bảo hiểm tiền gửi.
Như vậy, tỷ suất sinh lời tối thiểu để bù đắp chi phí có thể tính như sau:

 Phương pháp chi phí vốn biên tế.

Phương pháp bình quân tuy có ưu điểm là đơn giản nhưng chỉ nhìn về quá khá
khứ để xem xét chi phí và tỷ suất sinh lợi tối thiểu đã thực hiện của ngân hàng.

23


Trong khi đó, phần lớn các quyết định kinh doanh của ngân hàng là cho hiện
tại và tương lai. Vậy để được số vốn cho yêu cầu tín dụng, ngân hàng sẽ phải tốn
phí bao nhiêu.
Nếu lãi suất có xu hướng giảm trong tương lai thì chi phí biên của vốn huy
động sẽ có thể thấp hơn nhiều so với các nguồn vốn còn lại của ngân hàng. Một số

khoản cho vay và đầu tư không có lãi khi so sánh với chi phí trung bình, sẽ có thể
có mức lời đáng kể khi so với mức chi phí biên thấp hơn vào thời điểm hiện tại để
đầu tư vào những khoản vay đầu tư mới.
Lãi suất * tổng số vốn huy động
Chi phí biên =

Lãi suất * tổng số vốn huy động
-

theo lãi suất mới

theo lãi suất cũ

 Chi phí huy động vốn hỗn hợp.

Trong thực tế mỗi tài sản đầu tư sinh lợi của ngân hàng thương mại thường
không thay đổi tương ứng với một nguồn vốn nhất định mà thực chất các chi phí là
sự tập hợp của nhiều nguồn vốn khác nhau.
Như vậy, chi phí huy động vốn không thể tách riêng biệt mà cần phải được
tính trên cơ sở một hỗn hợp gồm nhiều nguồn vốn khác nhau. Theo phương pháp
này việc tính toán chi phí nguồn vốn gồm các bước như sau:
-

Bước 1: Xác định lượng vốn dự kiến huy động mỗi nguồn để đáp ứng nhu cầu tài

-

trợ.
Bước 2: Xác định mức khả năng mỗi nguồn.
Bước 3: Xác định chi phí lãi và phi lãi của mỗi nguồn vốn.

Bước 4: Tập hợp chi phí lãi của tất cả nguồn vốn xác định tương quan với tổng
nguồn vốn huy động.
Việc lựa chọn nguồn tiền gửi hoặc phi tiền gửi của ngân hàng tùy thuộc không
chỉ vào chí phí (giá) tương đối của mỗi nguồn mà còn phụ thuộc rủi ro của chúng
đối với ngân hàng. Những nguồn vốn có chi phí thấp có thể có rủi ro cao cho ngân
hàng và do vậy, sẽ tạo khả năng thiệt hại nghiêm trọng hơn. Nhà quản trị phải
đương đầu với việc lựa chọn giữa chi phí và rủi ro, tức là việc đánh đổi giữa rủi ro

24


và chi phí huy động vốn. Nguồn vốn chi phí thấp có thể chịu rủi ro cao về lãi suất,
thanh khoản hay là vốn sở hữu. . Như thế, mỗi khi quy động vốn mới, nhà quản trị
phải lựa chọn một vị trí về tương quan ưu điểm giữa rủi ro và lợi nhuận trên bảng
đối chiếu giữa rủi ro và chi phí theo từng cách phối hợp giữa các nguồn vốn.
Như vậy, nhà quản trị có thể kết luận rằng nguồn vốn hiện đang sử dụng có chi
phí trên một đồng vốn huy động là bao nhiêu, mối tương quan với lợi nhuận thuần
của ngân hàng như thế nào, ngân hàng có cần phải có một hỗn hợp nguồn vốn kiểu
khác hay không. Từ đó, ngân hàng có thể thay đổi lối kết cấu nguồn vốn với các
mức chi phí và rủi ro khác nhau. Nhà quản trị phải quyết định vị trí rủi ro, chi phí
thích hợp nhất với mục tiêu của ngân hàng và mong muốn cổ đông góp vốn.
Như vậy, sau khi cân nhắc tác động cũng như chi phí của từng loại nguồn vốn
khác nhau dựa trên chi phí huy động vốn hay chính sách huy động vốn thì ngân
hàng mới xác định được định hướng cụ thể cho công tác huy động vốn của mình.
Nói cách khác, ngân hàng cần phải xác định quan điểm marketing để xá định nhu
cầu của khách hàng và thuyết phục khách hàng sử dụng sản phẩm, dịch vụ ngân
hàng. Như vậy, một chiến lược huy động vốn thành công (huy động được một lượng
vốn cần thiết cho hoạt động của đơn vị mình) khi nó thu hút sự quan tâm của khách
hàng.
Theo truyền thống, một ngân hàng có hai lĩnh vực kinh doanh nòng cốt: huy

động vốn và lựa chọn tài sản sinh lời để đầu tư các nguồn vốn huy động được. Các
ngân hàng luôn nổ lực để tạo ra lợi nhuận từ hai lĩnh vực này. Do đó, ngân hàng
luôn cần phải tính toán chi phí huy động vốn để xây dựng chính sách kinh doanh có
hiệu quả. Khi xác định chi phí huy động vốn, Ngân hàng cần phải quan tâm đến hai
khía cạnh chủ yếu sau:
-

Tính toán tương đối chính xác chi phí huy động vốn là yếu tố cơ bản để xác định

-

mức lợi nhuận mà ngân hàng cần thu được từ các tài sản có sinh lời.
Loại hình nguồn vốn mà ngân hàng huy động được và việc sử dụng nguồn vốn này
ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất và rủi ro vốn.
1.3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả huy động vốn của ngân hàng thương mại.
1.3.3.1. Nhân tố chủ quan

25


×