Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số giải pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 4 5 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.91 KB, 21 trang )

1. Mở đầu
1.1.Lý do chọn đề tài.
Như chúng ta đã biết trẻ em là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương
lai của dân tộc. Việc bảo vệ và chăm sóc giáo dục trẻ em là trách nhiệm của nhà
nước, của xã hội và của mỗi gia đình. Việc giáo dục trẻ ngay từ khi còn nhỏ là
vô cùng quan trọng trong sự nghiệp giáo dục, nhằm hình thành và phát triển
nhân cách toàn diện cho trẻ sau này. Bác Hồ nói: “Không có giáo dục thì không
nói gì đến kinh tế văn hóa”. Sản phẩm của giáo dục là con người mà con người
là mục tiêu, động lực của sự phát triển đất nước trong tương lai đó chính là thế
hệ trẻ. Vậy làm thế nào để thế hệ trẻ chúng ta nhận thức và giữ vững được nền
văn hóa của dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đến nay và trong thời đại mới là
nhiệm vụ cần thiết nhất trong các mục tiêu xây dựng phát triển con người toàn
diện trong thời đại hiện nay để sớm đào tạo cho xã hội những con người tài đức
vẹn toàn. Để đạt được điều đó thì việc chăm sóc giáo dục trẻ phải có sự chung
tay góp sức của nhà trường, gia đình và xã hội.
Nhưng trước sự phát triển mạnh mẽ không ngừng của nền kinh tế hiện
nay thì rất nhiều các bậc phụ huynh có rất ít thời gian để quan tâm đến con cái,
chỉ chú trọng đến việc học kiến thức của trẻ mà không chú ý đến các kỹ năng
sống cho trẻ. Luôn bao bọc, nuông chiều, làm hộ trẻ, khiến trẻ ỷ lại, không quan
tâm đến người khác và các kỹ năng trong cuộc sống rất hạn chế. Chính vì vậy trẻ
hay thu mình và rất ít khi giao tiếp với thế giới bên ngoài. Điều này làm ảnh
hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển nhận thức, tình cảm và sự phát triển toàn diện
của trẻ, đặc biệt là hầu hết trẻ không có vốn kỹ năng sống. Vì vậy việc giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ là điều rất cần thiết để giúp trẻ khám phá thế giới tâm hồn
mình một cách có định hướng, khiến trẻ biết quý trọng bản thân, nuôi dưỡng
những giá trị sống nền tảng và hình thành những kỹ năng sống tích cực trong trẻ,
giúp trẻ cân bằng cuộc sống trên bốn lĩnh vực : Thể trạng, tâm hồn, trí tuệ, tinh
thần, từ đó xây dựng cho trẻ những kỹ năng sống hòa nhập với thế giới xung
quanh. Ở mỗi lứa tuổi thì trẻ cần có những sự tác động khác nhau đến kỹ năng
sống của trẻ. Chăm sóc và giáo dục trẻ từ lứa tuổi mầm non chính là cơ sở giúp
trẻ phát triển toàn diện về cả thể chất lẫn tinh thần, là nền tảng giúp cho quá


trình học tập lâu dài của trẻ sau này.
Giáo dục kỹ năng sống phải được đo bằng sự vận dụng những kỹ năng đó
trong cuộc sống mỗi cá nhân để sống tích cực, sống hạnh phúc, sống có ý
nghĩa. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ nhằm giúp trẻ phát triển hài hòa, toàn diện
về nhân cách. Cung cấp cho mỗi trẻ những kiến thức cần thiết về kỹ năng sống
để trẻ sống sao cho lành mạnh và có ý nghĩa. Giúp các trẻ hiểu, biến những kiến
thức về kỹ năng sống được cung cấp thành hành động cụ thể trong quá trình hoạt
động thực tiễn với bản thân, với người khác, với xã hội, ứng phó trước nhiều
tình huống, học cách giao tiếp, ứng xử với mọi người, giải quyết mâu thuẫn
trong mối quan hệ và thể hiện bản thân một cách tích cực. Trẻ có kiến thức về kỹ
năng sống thì trẻ sẽ biết mình phải giao tiếp với ông bà, bố mẹ như thế nào, biết
1


cách bảo vệ mình trước người lạ ra sao, biết cách phối hợp với các bạn chơi như
thế nào cho đúng, trẻ thiếu kinh nghiệm sống dễ bị lôi kéo, kích động...
Năm học 2017-2018 Ủy ban nhân dân huyện Quảng Xương ban hành đề án:
"Xây dựng trường học gắn với thực tiễn và giáo dục kỹ năng sống". Trường
chúng tôi đã xây dựng kế hoạch thực hiện các nội dung giáo dục các kỹ năng
sống cho trẻ thực hiện lồng ghép vào tất cả các hoạt động. Thông qua các hoạt
động, đa số trẻ biết phân biệt được nơi chơi, đồ chơi an toàn và không an toàn;
biết phân biệt được người lạ, người quen, không nhận quà hoặc đi theo người lạ
khi chưa có ý kiến của người lớn; biết gọi sự trợ giúp của người thân khi gặp
nguy hiểm, nhớ tên bố mẹ, cô giáo, địa chỉ gia đình, tên trường; không ăn, uống
các loại thức ăn chưa được nấu chín, nấu sôi...Tuy nhiên qua quá trình thực hiện
bản thân tôi nhận thấy một số hạn chế như : trong các hoạt động thực tiễn nhiều
trẻ còn thụ động, nhút nhát, rụt rè; chưa tích cực suy nghĩ, tìm tòi, khám
phá...Về kỹ năng giao tiếp: hầu hết trẻ chưa tự tin trong giao tiếp với mọi người
xung quanh; trẻ nói năng không mạch lạc, rõ ràng; một bộ phận trẻ chưa chủ
động trong việc chào hỏi người lớn, bạn bè…Các kỹ năng tự bảo vệ mình, kỹ

năng tự lập, hình thành kỹ năng làm việc nhóm còn hạn chế. Trẻ chưa được làm
quen, chưa được thực hiện nhiều các thao tác tự chăm sóc mình, giúp đỡ người
lớn, bạn bè... [1]
Năm học 2018-2019 nhà trường tiếp tục thực hiện đề án với 4 nội dung
nhưng nội dung nhà trường chú trọng là giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân và
kỹ năng tự lập. Căn cứ vào kế hoạch thực hiện đề án của nhà trường các lớp xây
dựng kế hoạch thực hiện nội dung giáo dục kỹ năng sống của lớp. Bản thân là
một giáo viên trực tiếp đứng lớp trong quá trình xây dựng kế hoạch thực hiện
nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tôi nhận thấy rằng đối với trẻ 4-5 tuổi
việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ rất cần thiết vì trẻ bắt đầu nhận thức được thế
nào là đúng, thế nào là sai, điều gì cần làm và điều gì không được làm…Giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ là giúp trẻ biết cách chăm sóc và bảo vệ bản thân
mình, tạo sự tự tin cho trẻ giúp trẻ thích nghi được với môi trường xung quanh,
không những thế còn giúp cho trẻ biết cách giao tiếp và ứng xử trong cuộc sống
hàng ngày, trẻ biết cách phối hợp với các bạn chơi trong nhóm...Chính vì vậy tôi
luôn trăn trở suy nghĩ làm thế nào để có một phương pháp truyền đạt đến trẻ
những kỹ năng sống tốt nhất? và dạy dưới hình thức nào? Từ những trăn trở suy
nghĩ trên tôi đã chọn đề tài:" Một số giải pháp giáo dục kỹ năng sống trẻ mẫu
giáo 4-5 tuổi”.
1.2. Mục đích của đề tài.
Qua thực hiện đề tài nhằm cung cấp kiến thức và hình thành những cảm
xúc, những hành vi lễ giáo của trẻ. Trẻ biết thưa gửi, vâng dạ, không nói trống
không, trẻ được tiếp cận những kỹ năng cơ bản của lứa tuổi như kỹ năng giao
tiếp ứng xử, kỹ năng tự bảo vệ bản thân, kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng hoạt động
nhóm. Giúp trẻ có kinh nghiệm trong cuộc sống, biết được những điều nên làm
và không nên làm, giúp trẻ tự tin, chủ động và biết cách xử lý các tình huống
trong cuộc sống, khơi gợi khả năng tư duy sáng tạo của trẻ, tạo cho trẻ có tinh
2



thần tập thể nhằm củng cố, rèn luyện những kỹ năng sống thông qua các hoạt
động học, chơi, hoạt động ăn, ngủ của trẻ.
1.3.Đối tượng nghiên cứu.
Đề tài tập trung vào nghiên cứu một số giải pháp giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi tại lớp Lá 2 –Trường mầm non Quảng Thái.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu tôi đã sử dụng các phương pháp:
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu
+ Phương pháp điều tra khảo sát thực tế trên trẻ.
+ Phương pháp quan sát hoạt động của trẻ.
+ Phương pháp trao đổi đồng nghiệp.
+ Phương pháp thực nghiệm
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến
Trong thời đại hiện nay, sự phát triển của kinh tế - xã hội đang đặt ra
những yêu cầu ngày càng cao đối với hệ thống giáo dục, đòi hỏi nền giáo dục
phải đào tạo học sinh phát triển toàn diện ở các cấp học, bậc học. Có đạo đức
tốt, biết yêu lao động, yêu gia đình, yêu quê hương đất nước; hình thành và bồi
dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Có tri thức, biết vận dụng kiến
thức vào thực tiễn; hình thành các hành vi và thói quen giao tiếp chuẩn mực, tự
tin; biết thực hành, lao động phù hợp với từng lứa tuổi; có sức khoẻ tốt; có thẩm
mỹ và có khả năng định hướng, lựa chọn được nghề nghiệp phù hợp.Trong đó
giáo dục kỹ năng sống là là một bộ phận có tính cốt lõi, nền tảng của công tác
giáo dục trẻ. Kỹ năng sống chính là phương tiện không thể thiếu để giúp trẻ tăng
năng lực hội nhập, tích cực, chủ động, sáng tạo, mạnh dạn, tự tin vững vàng
trước mọi khó khăn thử thách.
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ được TS Nguyễn Thu Cúc, chuyên gia
tư vấn của ABS Training cho biết: "kỹ năng sống không phải là những gì quá
cao siêu, phức tạp. Việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em bao gồm những

nội dung hết sức đơn giản, gần gũi với trẻ em, là những kiến thức tối thiểu để
các em có thể tự lập". Đúng vậy trong thời đại mới, ngoài kiến thức, mỗi
chúng ta và nhất là trẻ em rất cần trang bị những kỹ năng sống để ngày càng
hoàn thiện bản thân sao cho phù hợp với sự phát triển của xã hội. Ở lứa tuổi
mẫu giáo cũng vậy, kỹ năng sống chiếm một vị trí hết sức quan trọng nó góp
phần giúp trẻ hình thành và phát triển nhân cách con người, giúp trẻ học tập, lĩnh
hội những kinh nghiệm xã hội để trẻ vận dụng trong cuộc sống sau này. Để hình
thành và có được các kỹ năng cho trẻ trong cuộc sống hàng ngày trước tiên giáo
viên phải có kiến thức, kỹ năng về chăm sóc giáo dục trẻ. Giáo viên phải có kiến
thức để tổ chức các hoạt động cho trẻ được trải nghiệm, để trẻ được cuốn hút
vào các hoạt động đa dạng khác nhau cùng với các bạn trong nhóm lớp. Tạo ra
nhiều cơ hội để trẻ tương tác, giao tiếp với nhau trong lớp như: Thảo luận, trao
đổi ý kiến, giải quyết xung đột, chia sẻ kinh nghiệm, trải nghiệm những vai trò
3


khác nhau...Tạo ra nhiều cơ hội để trẻ được tham gia và cảm thấy mình là một
thành viên trong nhóm chơi và trẻ có cơ hội để phát triển trí tưởng tượng, sáng
tạo, mạnh dạn, tự tin, góp phần thúc đẩy sự phát triển, tình cảm, kỹ năng xã hội
cho trẻ.
Qua thực tế cho thấy đối với trẻ 4-5 tuổi những kỹ năng cần thiết để giáo
dục trẻ như:
+Trẻ biết tự bảo vệ bản thân: trẻ biết kỹ năng tránh bị xâm hại cơ thể; kỹ
năng ứng xử khi bị lạc; kỹ năng thoát hiểm khi gặp hỏa hoạn; kỹ năng đảm bảo
an toàn khi tham gia giao thông…
+ Trẻ biết cách tự lập: Giáo dục cho trẻ hiểu và biết thực hiện thành thạo
một số kỹ năng tự phục vụ trong ăn uống, sinh hoạt, học tập… hàng ngày. Biết
giúp người lớn làm một số công việc đơn giản phù hợp với lứa tuổi. Biết nói lên
nhu cầu, nguyện vọng, sở thích riêng của bản thân...
+ Trẻ biết mạnh dạn tự tin trong giao tiếp: Rèn cho trẻ kỹ năng mạnh dạn,

tự tin trước đám đông; kỹ năng nói rõ ràng, mạch lạc; kỹ năng giao tiếp thông
thường; kỹ năng sử dụng lời nói để trình bày cảm xúc, nhu cầu của bản thân…
+ Trẻ biết cách hợp tác trong các hoạt động: Rèn luyện cho trẻ biết thiết
lập quan hệ, trao đổi trò chuyện giữa các thành viên trong nhóm tổ chức các hoạt
động hàng ngày, kết hợp hài hòa làm việc theo nhóm: Biết quan tâm chia sẻ và
giúp đỡ bạn bè, người thân; biết hợp tác với người khác để hoàn thành những
công việc chung đơn giản phù hợp với lứa tuổi; biết nhận xét một số hành vi
đúng sai của con người đối với môi trường, xã hội.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.2.1. Thuận lợi.
+ Nhà trường là trường mầm non đạt chuẩn Quốc gia mức độ 1 nên có
đầy đủ đồ dùng trang thiết bị phục vụ cho việc chăm sóc giáo dục trẻ.
+ Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm đầu tư về trang thiết bị phục
vụ cho chuyên môn, bồi dưỡng phương pháp mới, triển khai nội dung chương
trình giáo dục mầm non mới, triển khai đề án và hướng dẫn giáo viên xây dựng
kế hoạch thực hiện đề án giáo dục kỹ năng sống cho từng lớp cách phù hợp với
lứa tuổi của lớp.
+ Bản thân thường xuyên được tham gia các hội nghị tập huấn chuyên đề
do Phòng giáo dục triển khai và dự giờ các chuyên đề nên bản thân đã tích lũy
được một số kinh nghiệm trong công tác rèn các kỹ năng sống cho trẻ.
+ Bản thân là một giáo viên tâm huyết với nghề, có lòng yêu thương trẻ,
tận tình với công việc. Luôn luôn có ý thức phấn đấu vươn lên, thường xuyên
tìm tòi, nghiên cứu tài liệu như tạp chí, thông tin trên mạng có liên quan đến
việc chăm sóc và giáo dục trẻ để áp dụng vào việc chăm sóc giáo dục trẻ hằng
ngày nhất là việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
+ Một số phụ huynh nhiệt tình chia sẻ với giáo viên về tình hình của trẻ ở
nhà và ở lớp để cùng phối kết hợp chăm sóc và giáo dục trẻ.
+Đa số các cháu được học qua lớp mẫu giáo 3-4 tuổi nên trẻ tương đối
ngoan, có nề nếp trong các hoạt động, có một số kĩ năng cơ bản.
4



2.2.2. Khó khăn.
+ Giáo viên còn phụ thuộc nhiều vào tài liệu chỉ chú trọng dạy các môn
học mà chưa chú ý đến việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ hàng ngày. Còn ngại
trong việc tổ chức các hoạt động tập thể, trò chơi nhằm hình thành rèn luyện kỹ
năng sống cho trẻ.
+ Một số phụ huynh chưa hiểu tầm quan trọng của giáo dục kỹ năng sống
cho con em ở lứa tuổi mẫu giáo, nên thường khoán trắng cho giáo viên.
+Trẻ được bố mẹ nuông chiều dẫn đến trẻ ngại hoạt động mà luôn có tính
ỷ lại vào người khác, chưa có những kỹ năng sống cần thiết phù hợp độ tuổi.
+ Một số cháu đến lớp với thói quen tự do, ra vào lớp tự nhiên, hay nói
leo, trả lời không trọn câu hay một số cháu rất ít nói và rụt rè trong giao tiếp...
+Trẻ bị ảnh hưởng bởi cuộc sống hiện đại như: Internet, tivi, các trò chơi
điện tử...
+Một số trẻ quá hiếu động nên cũng gây ảnh hưởng tới các bạn khác trong
lớp khi tham gia các hoạt động hàng ngày.
+ Đa số trẻ chưa biết cách phối hợp với các bạn chơi trong nhóm.
Từ thực trạng trên ngay từ đầu năm nhận lớp bản thân đã tiến hành khảo
sát trẻ và kết quả thu được thể hiện trong bảng kháo sát sau:
Số
Kết quả đầu năm
Nội dung khảo sát
STT
trẻ Đạt
Tỉ lệ Chưa Tỉ lệ %
%
đạt
1 Kỹ năng giao tiếp, chào hỏi
33 14 42,4%

19
57,6%
23
69,7%
2 Kỹ năng hợp tác, hoạt động cùng nhóm 33 10 30,3%
3 Kỹ năng tự lập, tự phục vụ
33 13 39,3%
20
60,7%
4 Kỹ năng tự bảo vệ an toàn cá nhân
33 11 33,3%
22
66,7%
5 Kỹ năng xử lý tình huống
33
9
27,2%
24
72,8%
6 Kỹ năng mạnh dạn tự tin
33 12 36,3%
21
63,7%
7 Sự tò mò và khả năng sáng tạo
33 11 33,3%
22
66,7%
Qua bảng khảo sát trên cho thấy các nội dung đưa ra để khảo sát trẻ kết
quả tỉ lệ các cháu đạt chưa cao chính vì thế bản thân suy nghĩ để tìm ra các giải
pháp phù hợp để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.

2.3.Những giải pháp.
2.3.1. Nâng cao nhận thức tự học, tự bồi dưỡng về việc dạy trẻ kỹ
năng sống.
Thực tế cho thấy, việc xác định các kỹ năng sống phù hợp với lứa tuổi sẽ
giúp giáo viên lựa chọn đúng nội dung trọng tâm để dạy trẻ. Để có thể thực hiện
tốt các mục tiêu giáo dục đã đề ra thì giáo viên mầm non không chỉ nghiên cứu
nắm vững mục tiêu cần đạt của hoạt động mà giáo viên còn cần phải nắm chắc
được các phương pháp và biện pháp thực hiện giúp trẻ lĩnh hội kiến thức một
cách nhẹ nhàng, không bị gò bó, áp đặt, giúp trẻ hiểu bài sâu và vận dụng những
điều đã học vào thực tế hàng ngày của trẻ.
Bản thân là một giáo viên được nhà trường phân công giảng dạy lớp mẫu
giáo 4-5 tuổi nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, tôi không ngừng tự học tự
5


bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng thực hiện
nhiệm vụ của mình. Đặc biệt tôi đi sâu nghiên cứu đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi
4-5 tuổi để thấu hiểu và tiếp cận với trẻ tôi đã dành nhiều thời gian đọc các tài
liệu tham khảo biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ 4 -5 tuổi ở trường mầm non
bằng nhiều hình thức như tham khảo các nội dung giáo dục kỹ năng sống của đề
án, chuyên san, tạp chí, học hỏi bạn bè đồng nghiệp, khai thác qua mạng; tự học
qua các loại sách báo như : sách giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống cho trẻ
mầm non, sách bé thực hành các tình huống giáo dục kỹ năng sống dành cho trẻ
mẫu giáo, sách các hoạt động phát triển kĩ năng xã hội dành cho trẻ mẫu giáo,
sách phương pháp giáo dục giá trị kỹ năng sống; Tôi thường xem các chương
trình như quà tặng cuộc sống, cuộc sống quanh ta trên các kênh truyền hình ...
Bên cạnh đó tôi thường tham gia các đợt tập huấn chuyên đề do Phòng giáo dục
tổ chức, tham gia các buổi họp sinh hoạt chuyên môn của khối, tổ chuyên môn
của nhà trường để chia sẻ với đồng nghiệp về các biện pháp “ Dạy kỹ năng sống
cho trẻ”. Đặc biêt trong năm học bản thân được phân công dạy đối chứng

chuyên đề giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, căn cứ vào tình hình thực tế của địa
phương, của lớp và vấn đề mà xã hội đang quan tâm đó là nạn bắt cóc trẻ em.
Chính vì thế mà tôi đã mạnh dạn chọn nội dung: “Dạy trẻ kỹ năng không nhận
quà và đi theo người lạ” thông qua hoạt động và việc tự học tự bồi dưỡng về
việc dạy kỹ năng sống cho trẻ bản thân đã nắm vững thêm những kiến thức và
lồng ghép nội dung kỹ năng sống vào các hoạt động hàng ngày của trẻ đạt hiệu
quả cao.
2.3.2. Xác định nội dung kỹ năng sống cần dạy trẻ và xây dựng kế
hoạch giáo dục kỹ năng sống cho trẻ vào các chủ đề.
*Xác định nội dung kỹ năng sống cần dạy trẻ.
Trước khi xác định được những nội dung giáo dục kỹ năng sống cho lứa
tuổi nghiên cứu, trước hết bản thân đã tìm hiểu để trả lời được câu hỏi kỹ năng
sống là gì? mục đích của việc dạy kỹ năng sống cho trẻ mầm non?
Kỹ năng sống là hành động tích cực, có liên quan đến khiến thức và thái
độ, trực tiếp hướng vào hoạt động cả cá nhân, hoặc tác động vào người khác,
hoặc hướng vào những hoạt động làm thay đổi môi trường xung quanh, giúp
mỗi cá nhân ứng phó có hiệu quả với các yêu cầu, thách thức của cuộc sống
hàng ngày.[2]
Mục đích của dạy kỹ năng sống cho trẻ mầm non nhằm giúp trẻ có kinh
nghiệm trong cuộc sống, biết được những điều nên làm và không nên làm. [2]
Căn cứ vào kế hoạch thực hiện đề án giáo dục kỹ năng sống cho trẻ của
nhà trường , căn cứ tình hình thực thế của địa phương, điều kiện cơ sở vật chất,
đặc điểm tâm sinh lý theo lứa tuổi và khả năng của trẻ tại lớp bản thân đã xây
dựng được 36 kỹ năng cho lứa tuổi 4-5 tuổi và mỗi kỹ năng có một nội dung cụ
thể như: [3],
Kỹ năng
Nội dung kỹ năng
Giáo dục gắn với kỹ năng tự bảo vệ bản thân
1
Nhận biết và phòng tránh một số nơi nguy hiểm: Lòng đường phố,

6


2
3

4
5
6
7

8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22

đường làng, đường tàu và không được chơi gần ở nơi đó.
Biết tránh những mối nguy hiểm khi tiếp xúc với các con vật.
Biết địa chỉ, số điên thoại của gia đình và một số thông tin quan

trọng về bản thân, gia đình và của gia đình(tên, tuổi, giới tính, sở
thích).Kể được tên các thành viên trong gia đình, tên cô giáo, cô HT,
PHT, tên trường.
Biết giữ gìn vệ sinh: Rửa tay sạch sẽ sau khi chơi và lao động
Nhận ra và không chơi ở những nơi nguy hiểm và đồ chơi mất an
toàn đến tính mạng. Nhận biết và gọi tên được một số đồ vật gây
nguy hiểm.
Nhận biết, phân biệt được người thân, người lạ và không đi theo
hoặc nhận quà của người lạ khi chưa được người thân cho phép.
Biết kêu cứu gọi người xung quanh giúp đỡ khi mình hoặc người
khác khi bị nạn. Biết chạy thoát hiểm khi gặp nguy hiểm. Nhớ một
số số điện thoại quan trọng như: bố mẹ, người thân, cảnh sát 113,
bệnh viện 115, số taxi...) để hỗ trợ khi cần thiết.
Biết khi trời lạnh phải mặc quần áo ấm, đi tất,quàng khăn, khi trời
nắng mặc quần áo mỏng dễ thấm mồ hôi và đi ra nắng phải đội mũ.
Biết xử lý khi bị ngã, hoặc tự xử lý vết thương.
Nhận ra ký hiệu thông thường trong cuộc sống: Nhà vệ sinh, cấm
lửa, nơi nguy hiểm.
Giáo dục gắn với kỹ năng giao tiếp –ứng xử
Trả lời rõ ràng câu hỏi, không nói ngọng, lắp. Nói với âm lượng vừa
đủ, rõ ràng
Chào hỏi, nói lời cảm ơn, xin lỗi phù hợp với hoàn cảnh
Không nói tục, không chửi bậy:
Bước đầu biết điều chỉnh giọng nói phù hợp với tình huống và nhu
cầu giao tiếp với sự động viên của người lớn
Nhìn và chăm chú lắng nghe khi cô, bạn trao đổi, giảng bài. Trẻ
thực hiện được yêu cầu do cô, bạn đặt ra.
Thích và mạnh dạn trò chuyện và giao tiếp với người xung quanh.
Trả lời và đặt các câu hỏi: Ai?; cái gì?; ở đâu?; khi nào?; để làm
gì?...

Bày tỏ tình cảm, nhu cầu và hiểu biết của bản thân bằng các câu đơn,
câu đơn mở rộng.
Nói và thể hiện cử chỉ, điệu bộ, nét mặt phù hợp với yêu cầu, hoàn
cảnh giao tiếp.
Giáo dục gắn với kỹ năng tự lập
Biết lấy và cất đồ dùng cá nhân, sách vở theo đúng ký hiệu riêng của
mình và đúng nơi quy định.
Biết vắt khăn và phơi khăn lên giá theo sự hướng dẫn của cô.
Tự buộc dây giày, Tự cài và cởi cúc quần áo: Tự mặc được quần áo
7


23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34

35
36

đúng cách, cài và mở được hết các cúc
Tập đánh răng, lau mặt, đi vệ sinh đúng nơi qui định. Rèn luyện thao

tác rửa tay sạch bằng xà phòng.
Trẻ biết cùng cô sắp xếp bàn ghế đồ dùng, chuẩn bị bữa ăn cùng cô
giáo
Biết che miệng khi ho, hắt hơi, ngáp: Lấy tay che miệng khi ho, hắt
hơi, ngáp.
Biết cùng cô chia cơm cho các bạn, tự xúc cơm, xúc bằng tay phải,
tay trái giữ bát, biết nhặt cơm rơi bỏ vào đĩa, tự lấy uống nước.
Biết gấp quần áo đúng quy trình theo sự hướng dẫn của cô .
Cố gắng hoàn thành công việc được giao ( dọn đồ chơi, cất đồ dùng
học tập..)
Trẻ biết chải hoặc vuốt lại tóc khi bù rối. Chỉnh lại quần áo khi bị
xộc xệch hoặc phủi bụi đất bị dính bẩn.
Giáo dục gắn với kỹ năng hoạt động nhóm
Quan tâm và giúp đỡ bạn
Nói được khả năng và một số sở thích của mình và người thân (thích
ăn, uống gì? thích làm gì? thích mặc quần áo như thế nào?..)
Thể hiện sự an ủi và chia vui với người thân và bạn bè: Nhận ra tâm
trạng của bạn bè, người thân (buồn hay vui), Biết an ủi chia sẻ phù
hợp với họ
Thể hiện sự thân thiện, đoàn kết với bạn bè: Chơi với bạn bè vui vẻ.
Chúc mừng động viên khen ngợi hoặc reo hò cổ vũ bạn, người thân
khi có niềm vui: ngày sinh nhật có em bé mới sinh, có bộ quần áo
mới, chiến thắng trong cuộc thi, hoàn thành một sản phẩm tao hình.
An ủi người thân hay bạn bè khi họ ốm mệt hoặc buồn rầu bằng lời
nói hoặc cử chỉ
Thích đến lớp, thích chơi cùng bạn bè, biết nhường nhịn đồ chơi cho
bạn.
Trẻ tích cực chơi cùng cô và các bạn trong trò chơi tập thể.

* Xây dựng kế hoạch giáo dục kỹ năng sống cho trẻ vào các chủ đề.

Sau khi xác định được nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ để dạy cho
trẻ đạt hiệu quả ngay từ đầu năm tôi xây dựng kế hoạch giáo dục kỹ năng sống
vào các chủ đề để dạy trẻ cho phù hợp và được Ban giám hiệu nhà trường phê
duyệt kế hoạch. Trong kế hoạch tôi đã phân chia các nội dụng cụ thể như sau:
KẾ HOẠCH THỰC HIỆN " GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG" THEO CHỦ ĐÊ

TT

Chủ đề

Nội dung kỹ nănglựa chọn
Giáo dục gắn với kỹ nặng giao tiếp - ứng xử
KN12: Chào hỏi, nói lời cảm ơn, xin lỗi phù hợp với
hoàn cảnh
Trường mầm non
Giáo dục gắn với kỹ nặng tự lập
8


1

2

3

4

Bản thân

Gia đình


Nghề nghiệp

KN22: Tự buộc dây giày, Tự cài và cởi cúc quần áo: Tự
mặc được quần áo đúng cách, cài và mở được các cúc
KN20: Biết lấy và cất đồ dùng cá nhân, sách vở theo
đúng ký hiệu riêng của mình và đúng nơi quy định.
Giáo dục gắn với kỹ nặng tự bảo vệ bản thân
KN3: Biết địa chỉ, số điên thoại của gia đình và một số
thông tin quan trọng về bản thân, và của gia đình(tên,
tuổi, giới tính, sở thích).Kể được tên các thành viên trong
gia đình, tên cô giáo, cô HT, PHT, tên trường MN.
Giáo dục gắn với kỹ năng giao tiếp và ứng xử
KN14: Bước đầu biết điều chỉnh giọng nói phù hợp với
tình huống và nhu cầu giao tiếp với sự động viên của
người lớn
KN18: Bày tỏ tình cảm, nhu cầu và hiểu biết của bản
thân bằng các câu đơn, câu đơn mở rộng.
Giáo dục gắn với kỹ năng tự lập
KN23:Tập đánh răng, lau mặt, đi vệ sinh đúng nơi qui
định. Rèn thao tác 6 bước rửa tay sạch bằng xà phòng.
Giáo dục gắn với kỹ năng hoạt động nhóm
KN33: Thể hiện sự thân thiện, đoàn kết với bạn bè: Chơi
với bạn bè vui vẻ.
Giáo dục gắn với kỹ năng tự bảo vệ bản thân
KN6: Nhận biết, phân biệt được người thân, người lạ và
không đi theo hoặc nhận quà của người lạ khi chưa được
người thân cho phép.
Giáo dục gắn với kỹ năng giáo tiếp- ứng xử
KN15: Nhìn và chăm chú lắng nghe khi cô, bạn trao đổi,

giảng bài. Trẻ thực hiện được yêu cầu do cô, bạn đặt ra.
Giáo dục gắn với kỹ năng tự lập
KN29: Trẻ biết chải hoặc vuốt lại tóc khi bù rối. Chỉnh
lại quần áo khi bị xộc xệch hoặc phủi bụi đất bị dính bẩn.
Giáo dục gắn với kỹ năng hoạt động nhóm
KN30: Quan tâm, giúp đỡ bạn
Giáo dục gắn với kỹ năng tự bảo vệ bản thân
KN8: Biết khi trời lạnh phải mặc quần áo ấm, đi tất
quàng khắn, khi trời nắng mặc quần áo mỏng dễ thấm
mồ hôi và đi ra nắng phải đội mũ.
KN4: Biết giữ gìn vệ sinh: Rửa tay sạch sẽ sau khi chơi
và lao động
Giáo dục gắn với kỹ năng giao tiếp- ứng xử
KN11: Trả lời rõ ràng câu hỏi, không nói ngọng, lắp. Nói
với âm lượng vừa đủ, rõ ràng .
9


5

Động vật

6

Thực vật

7

Giao thông


Giáo dục gắn với kỹ năng tự lập
KN28: Cố gắng hoàn thành công việc được giao (trực
nhật, dọn đồ chơi..)
Giáo dục gắn với kỹ năng hoạt động nhóm
KN31: Nói được khả năng và một số sở thích của mình
và người thân (thích ăn, uống gì? thích làm gì? thích mặc
quần áo như thế nào?..)
Giáo dục gắn với kỹ năng tự bảo vệ bản thân
KN2: tránh những mối nguy hiểm khi tiếp xúc với các
con vật
Giáo dục gắn với kỹ năng giao tiếp-ứng xử
KN17: Trả lời và đặt các câu hỏi: Ai?; cái gì?; ở đâu?;
khi nào?; để làm gì?...
Giáo dục gắn với kỹ năng tự lập
KN25: Biết che miệng khi ho, hắt hơi, ngáp: Lấy tay
che miệng khi ho, hắt hơi, ngáp.
Giáo dục gắn với kỹ năng hoạt động nhóm
KN35:Thích đến lớp, thích chơi cùng bạn bè, biết
nhường nhịn đồ chơi cho bạn.
Giáo dục gắn với kỹ năng tự bảo vệ bản thân
KN10: Nhận ra ký hiệu thông thường trong cuộc sống:
Nhà vệ sinh, cấm lửa, nơi nguy hiểm.
Giáo dục gắn với kỹ năng giáo tiếp- ứng xử
KN19: Nói và thể hiện cử chỉ, điệu bộ, nét mặt phù hợp
với yêu cầu, hoàn cảnh giao tiếp.
Giáo dục gắn với kỹ năng tự lập
KN21: Biết vắt khăn và phơi khăn lên giá theo sự hướng
dẫn của cô
Giáo dục gắn với kỹ năng hoạt động nhóm
KN36:Trẻ tích cực chơi cùng cô và các bạn trong trò

chơi tập thể
Giáo dục gắn với kỹ năng tự bảo vệ bản thân
KN1: Nhận biết và phòng tránh một số nơi nguy hiểm:
Lòng đường phố, đường làng, đường tàu và không được
chơi gần ở nơi đó.
KN9: Biết xử lý khi bị ngã, tự xử lý vết thương.
Giáo dục gắn với kỹ năng tự lập
KN24: Trẻ biết cùng cô sắp xếp bàn ghế đồ dùng, chuẩn
bị bữa ăn cùng cô giáo
Giáo dục gắn với kỹ năng hoạt động nhóm

10


KN32: Thể hiện sự an ủi và chia vui với người thân và
bạn bè: Nhận ra tâm trạng của bạn bè, người thân (buồn
hay vui), Biết an ủi chia sẻ phù hợp với họ.
Giáo dục gắn với kỹ năng tự bảo vệ bản thân.
KN7: Biết kêu cứu gọi người xung quanh giúp đỡ khi
mình hoặc người khác khi bị nạn. Biết chạy thoát hiểm
khi gặp nguy hiểm. Nhớ một số số điện thoại quan trọng
Nước và các hiện như: bố mẹ, người thân, cảnh sát 113, bệnh viện 115, số
8
taxi...) để hỗ trợ khi cần thiết. .
tượng tự nhiên
Giáo dục gắn với kỹ năng giáo tiếp- ứng xử
KN16: Thích và mạnh dạn trò chuyện và giao tiếp với
người xung quanh.
Giáo dục gắn với kỹ năng tự lập
KN27: Biết gấp quần áo đúng quy trình theo sự hướng

dẫn của cô .
Giáo dục gắn với kỹ năng tự bảo vệ bản thân
KN5: Nhận ra và không chơi ở những nơi nguy hiểm và
đồ chơi mất an toàn đến tính mạng. Nhận biết và gọi tên
được một số đồ vật gây nguy hiểm.
Giáo dục gắn với kỹ năng giáo tiếp- ứng xử
KN13: Không nói tục, không chửi bậy
Quê hương, đất
9
Giáo dục gắn với kỹ năng tự lập
nước, Bác Hồ
KN26: Biết cùng cô chia cơm cho các bạn, tự xúc cơm,
xúc bằng tay phải, tay trái giữ bát, biết nhặt cơm rơi bỏ
vào đĩa, tự lấy uống nước.
Giáo dục gắn với kỹ năng hoạt động nhóm
KN34: Chúc mừng động viên khen ngợi hoặc reo hò cổ
vũ bạn, người thân khi có niềm , An ủi người thân hay
bạn bè khi họ ốm mệt hoặc buồn rầu bằng lời nói hoặc cử
chỉ
Việc xây dựng kế hoạch giáo dục kỹ năng cho trẻ theo từng chủ đề phù
hợp với lứa tuổi của lớp tuy trong các chủ đề bản thân đều xây dựng đủ các
nhóm kỹ năng sống để thực hiện nhưng trong quá trình thực hiện đối với từng
chủ đề khác nhau tôi luôn chọn một kỹ năng để làm trọng tâm.
Ví dụ : Ở chủ điểm: “Trường mầm non” tôi chọn kỹ năng giao tiếp ứng
xử dạy trẻ biết: “Chào hỏi, nói lời cảm ơn, xin lỗi phù hợp với hoàn cảnh”. Bởi
vì ngay từ khi trẻ đến lớp trẻ biết chào hỏi cô, biết nói lời cảm ơn, xin lỗi thì
trong quá trình hoạt động của một năm trẻ sẽ mạnh dạn tự tin trong giao tiếp và
khi chơi với các bạn trong nhóm nếu trẻ có lỗi sẽ biết xin lỗi bạn, xin lỗi cô.
2.3.3. Giáo dục kỹ năng thông qua các hoạt động học.
Bản thân luôn đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự tích

cực của trẻ, luôn khai thác phát huy năng khiếu, tiềm năng sáng tạo ở mỗi trẻ.
11


Bản thân thường xuyên tổ chức các họat động giáo dục chăm sóc giáo dục
trẻ một cách thích hợp tuân theo một số quan điểm: Giúp trẻ phát triển đồng đều
các lĩnh vực: thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm xã hội và thẩm mỹ. Phát
huy tính tích cực của trẻ, giúp trẻ hứng thú, chủ động khám phá tim tòi, biết vận
dụng vốn kiến thức, kỹ năng vào việc giải quyết các tinh huống khác nhau.
+ Thông qua hoạt động phát triển thể chất :
Ví dụ: Trong giờ dạy vận động : “Chuyền bóng qua đầu” tôi tiến hành kiểm tra
sức khỏe của trẻ tổ chức hoạt động nhưng đến khi trẻ thực hiện tôi có thể trò
chuyện hỏi trẻ xem vận động này khi thực hiện cần kỹ năng gì? một mình trẻ có
thể thực hiện được không? Từ đó trẻ biết qua hoạt động rèn cho trẻ các kỹ năng
nhanh nhẹnkhéo léo khi tham gia vận động, biết hợp tác cùng các bạn khi thực
hiện và đặc biệt là biết siêng năng rèn luyện để cơ thể khỏe mạnh.
+ Thông qua hoạt động khám phá:
Ví dụ : Trong giờ hoạt động khám phá: Gia đình của bé.
Trước khi thực hiện tiết học này, tôi đã nhờ phụ huynh ủng hộ những bức ảnh
chụp cả gia đình mình. Khi vào hoạt động tôi cho cả lớp xem tất cả những bức
ảnh đó, trẻ được xem và rất hào hứng, phấn khởi khi những bức ảnh của nhà
mình được cô giáo đưa ra trưng bày. Sau đó tôi cho trẻ kể về các thành viên
trong gia đình trẻ qua các bức ảnh.Tôi nhận thấy những trẻ lên kể rất vui vẻ, rất
tự hào khi kể cho cô giáo và các bạn nghe về những thành viên trong gia đình
mình, và kỷ niệm gắn với bức ảnh đó. Kỹ năng sống trẻ học được thông qua
hoạt động này đó là: trẻ thể hiện sự tự tin của chính mình, giao tiếp cởi mở với
bạn, lắng nghe bạn nói và chờ đến lượt mình nói và nó còn kích thích sự tò mò
muốn biết sự việc đó diễn ra như thế nào, có đúng ý mình nghĩ không.
+ Thông qua hoạt động tạo hình:
Ví dụ : Đối với giờ học tạo hình: “Vẽ ngôi nhà của bé”

Khi tổ chức cho trẻ thực hiện các hoạt động này tôi đã trò chuyện cùng trẻ về
ngôi nhà của trẻ đang ở, từ đó giáo dục trẻ biết yêu quý ngôi nhà mình ở, biết
giúp bố mẹ dọn dẹp những việc vừa sức. Khi cho trẻ thực hiện vẽ tôi cho trẻ tự
lấy đồ dùng các nhân của trẻ gồm giấy A4, sáp màu, vở tập bé tạo hình trẻ có thể
vẽ tranh theo cá nhân và vẽ tranh theo nhóm .Thông qua hoạt động này kỹ năng
sống trẻ học được ở đây là được kỹ năng tự lập, kỹ năng tạo nhóm cho trẻ.

12


Hình ảnh trẻ tự lấy đồ dùng học tập
+ Thông qua hoạt động làm quen với tác phẩm văn học
Nắm bắt được đặc điểm tâm lý của trẻ ở lớp là rất thích nghe kể chuyện.
Nội dung các câu chuyện thường để lại ấn tượng cho trẻ khó phai mờ. Chính vì
vậy để trẻ hiểu được nội dung câu chuyện và liên hệ thực tế giáo dục trẻ các kỹ
năng sống là rất quan trọng
Ví dụ : Ở chủ điểm “ Nước và các hiện tượng tự nhiên” hoạt động kể chuyện :
“Giọt nước tí xíu”. Nội dung cả câu chuyện rất hay và gần gũi với trẻ bởi trẻ
được sống ở làng quê có biển nên khi kể chuyện tôi thường nhấn mạnh nội dung
đến trẻ bằng các câu hỏi : Giọt nước đến từ đâu? Từ đó liên hệ hỏi trẻ xem trẻ đã
được ra biển chơi chưa? Các con thấy sự nguy hiểm khi chúng mình xuống biển
chơi một mình, lúc này trẻ đã biết vì sao cần tránh xa biển, ao, hồ, sông suối
nguy hiểm. Kết thúc hoạt động này giáo dục cho trẻ kỹ năng tự bảo vệ bản thân
và phòng tránh những nơi nguy hiểm.
+ Thông qua hoạt động âm nhạc :
Hoạt động âm nhạc là hoạt động không thể thiếu trong trường mầm non,
đây là món ăn tinh thần giúp trẻ tự tin khi giao tiếp và giúp trẻ phát huy nhũng
khả năng riêng biệt. Trong tất cả các hoạt động của lớp tôi đều cho tất cả các trẻ
tham gia, đặc biệt khi múa hát văn nghệ, có lẽ các bạn trai cảm thấy không tự tin
tham gia tập luyện cùng các bạn gái. Tôi nghĩ là con trai hay gái đều có thể làm

tốt cho nên tôi đã động viên các bạn trai tham gia cùng, trẻ chỉ cần cô động viên
và tin tưởng ở trẻ thì trẻ có thể làm được. Có thể chỉ là những câu nói rất đơn
giản đó là động lực giúp trẻ tự tin hơn. Khi trẻ tập luyện văn nghệ có thể chưa
tốt, lúc này tôi không chê trẻ mà nhẹ nhàng hướng dẫn lại trẻ theo từng bước
một cho đến khi trẻ khá hơn rồi nhẹ nhàng động viên trẻ làm tiếp.
Ví dụ : Trong tiết vận động múa minh họa cho bài hát “ Cháu vẽ ông mặt trời”
Tôi đang tổ chức hoạt động có một cháu đứng lên nói : “Cô ơi con không biết
múa”. Lúc này tôi nhẹ nhàng đến bên trẻ động viên trẻ và dạy trẻ vận động theo
cô, cô có thể nói với trẻ: “con hãy thử đi con có thể làm được mà”, sau khi trẻ
mạnh dạn thực hiện tôi lại động viên trẻ bằng câu nói: “Con làm rất tốt”. Có thể
chỉ là những câu nói
rất đơn giản nhưng đó là động lực giúp trẻ tự tin hơn.
+ Thông qua hoạt động làm quen với toán:
Ví dụ : Đề tài “ Sắp xếp theo quy tắc” tôi sử dụng trò chơi gắn các dụng cụ của
nghề sắp xếp theo quy tắc, đội nào gắn đúng nhanh đội đó sẽ chiến thắng. Như
vậy buộc trẻ phải thảo luận với nhau, hợp tác mới hoàn thành bài tập và trong
hoạt động này giáo dục được trẻ kỹ năng biết hợp tác với các bạn khi chơi.
2.3.4. Giáo dục kỹ năng thông qua các hoạt động vui chơi.
Như chúng ta đã biết ở trẻ mẫu giáo hoạt động vui chơi giữ vai trò chủ
đạo, thông qua hoạt động vui chơi trẻ được thực hành trải nghiệm với nhiều vai
chơi khác nhau phản ảnh trong cuộc sống của người lớn, thông qua hoạt động
vui chơi tạo được sự tự tin, kích thích sự tò mò và khả năng sáng tạo cuả trẻ,
13


phát triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ, trong khi chơi trẻ biết cách hợp tác với các
bạn trong nhóm. Trong quá trình tổ chức cho trẻ chơi bản thân đã giáo dục để
phát triển các kỹ năng sống như:
* Tạo kỹ năng mạnh dạn tự tin cho trẻ.
Một người thầy đã từng nói với chúng ta: "Một người làm chủ và một

người không làm chủ thường khác nhau ở chỗ họ có hay không có ý chí và lòng
tự tin". Đúng vậy trẻ con không phải trẻ nào cũng có sự tự tin luôn mà còn rất
nhiều trẻ nhút nhát, sợ mình làm không được việc cô giáo giao và sợ bị cô mắng,
sợ các bạn cười chê cho nên dẫn đến việc trẻ không dám làm, dám nói và dám
phát biểu. Là một giáo viên hàng ngày chăm sóc giáo dục trẻ tôi luôn giúp trẻ
gây dựng sự tự tin bằng cách tạo cho trẻ thật nhiều cơ hội để rèn luyện và thành
thục các kỹ năng sống mới. Mỗi khi trẻ làm được điều hay, điều tốt tôi luôn tỏ ra
thích thú và vui mừng , luôn khen ngợi khuyến khích trẻ để lần sau cháu tự tin
hơn.
Ví dụ: Trong giờ chơi ở góc âm nhạc Cháu Thảo Nhi chơi ở góc đó nhưng
khi chơi cháu không biết tạo nhóm với các bạn để biểu diễn nên tôi đã lại cùng
trẻ hát biểu diễn và trò chuyện cùng trẻ để trẻ hiểu khi biểu diễn cùng các bạn sẽ
vui hơn từ đó trẻ mạnh dạn hơn khi biểu diễn cùng bạn, tôi đã khen trẻ và
khuyến khích cháu Thảo Nhi mạnh dạn tự tin và biết hợp tác cùng bạn khi chơi.
*Kích thích sự tò mò và khả năng sáng tạo cuả trẻ
Mỗi một đứa trẻ đều có sự tò mà, sự tò mò đó được thể hiện khi bé khám
phá thế giới xung quanh và kiểm nghiệm xem mình có thể làm gì. Để phát triển
sự tò và khả năng sáng tạo của trẻ, tôi quan sát kỹ lưỡng những đặc tính nổi bật
ở mỗi trẻ và khuyến khích trẻ tham gia vào các hoạt động thích hợp với năng
khiếu của bản thân.
Ví dụ : Giờ khám phá khoa học làm thí nghiệm: "Vật chìm, vật nổi " tôi chuẩn
bị rất nhiều vật dụng khác nhau cho trẻ thí nghiệm. Đây là hoạt động trẻ tham
gia rất hào hứng vì trẻ được thể hiện sự hiểu biết của mình cho các bạn và cô
thấy. Trước khi thí nghiệm tôi cho trẻ quyền dự đoán các vật đó khi bỏ vào nước
nó sẽ như thế nào. Đây là lúc trẻ thể hiện sự ham hiểu biết và nó còn kích thích
sự tò mò muốn khá phá sự việc đó diễn ra như thế nào, có đúng ý mình nghĩ
không.[4]

14



Hình ảnh trẻ đang làm thí nghiệm: Vật chìm, vật nổi
Với việc áp dụng biện pháp này kết hợp với sự cố gắng của trẻ đã tạo cho trẻ
một kĩ năng khám phá tìm tòi và nhiều trẻ sáng tạo hơn khi tham gia hoạt động.
* Phát triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ
Trẻ đến trường thì việc đầu tiên là trẻ phải giao tiếp với cô, rồi đến các
bạn trong lớp và mọi người trong trường học. Hình thành kỹ năng giao tiếp cho
trẻ không phải là tôi dạy trẻ nói nhiều mà dạy trẻ cách giao tiếp và ứng xử như
thế nào cho đúng. Môi trường giao tiếp mà luôn an toàn, thân thiện thì sẽ tạo cho
trẻ sự yên tâm, hưng phấn khi tham gia vào các hoạt động. Trong lớp học việc
xây dựng các góc chơi cũng rất quan trọng vì khi trẻ tham gia vào các góc chơi
cũng chính là lúc trẻ đang học cách giao tiếp với các bạn.
Ví dụ: Khi trẻ chơi bán hàng thì trẻ phải biết cách giới thiệu về các mặt hàng,
giới thiệu về giá tiền của các loại hàng và chào mời người mua hàng như thế
nào? Đây là lúc trẻ phải tự học cách giao tiếp giữa người mua hàng và người bán
hàng.Trẻ càng được giao tiếp với nhau nhiều thì trẻ càng được mở rộng vốn kiến
thức và trẻ ngày một tự tin hơn khi giao tiếp.
*Trẻ biết cách hợp tác với các bạn trong nhóm
Việt Nam có câu tục ngữ: " Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao "
Câu ca dao khẳng định cho chúng ta một điều khi biết hợp tác, liên kết nhau sẽ
tạo ra thành công lớn. Có những công việc trẻ có thể tự làm một mình như trẻ
chơi lắp ghép ngôi nhà, trẻ vẽ một bức tranh về gia đình trẻ, nhưng nếu trẻ biết
cách hợp tác với các bạn khác thì kết quả sẽ cao hơn. Kỹ năng hợp tác với các
bạn trong nhóm của trẻ được phát triển qua nhiều hoạt động như: Trẻ tham gia
chơi trò chơi đóng vai khi trẻ tham gia chơi trẻ sẽ là một thành viên của nhóm.
Để hòa thuận khi chơi thì trẻ phải học cách chia sẻ, luân phiên, điều chỉnh các
hoạt động với nhóm và giải quyết các xung đột trong nhóm mà không cần sự
giúp đỡ của người lớn. Khi trẻ chơi tôi luôn đứng bên ngoài quan sát và xem trẻ
giải quyết các tình huống xung đột giữa các bạn trong nhóm như thế nào, nếu trẻ

giải quyết tốt rồi tôi để trẻ chơi tiếp còn chưa giải quyết được tôi sẽ là người
giúp đỡ trẻ.
Ví dụ: Trong chủ điểm : Ngày Tết ở góc nghệ thuật tôi tổ chức cho trẻ được thực
hành nặn các loại bánh. Để tăng thêm tình thần đồng đội, khả năng sáng tạo của
giữa các nhóm, tôi cho các nhóm thi đua lẫn nhau, xem nhóm ai nặn bánh đẹp
nhất, nặn đươc nhiều loại bánh khác nhau, lúc này các nhóm trẻ sẽ tự biết cách
phối hợp vơi nhau để làm sao năn được nhiều bánh khác nhau, và tôi đã đưa tiêu
chí cho phần chơi là các phần thưởng khác nhau. Kết thúc buổi làm bánh, tôi
thật bất ngờ vì trẻ của lớp tôi làm rất tốt và ngoài sự mong đợi của tôi.
2.3.5. Giáo dục kỹ năng thông qua các hoạt động động khác.
* Giáo dục kỹ năng sống trong hoạt động đón trả trẻ:
Tôi cùng trò chuyện với trẻ, giáo dục trẻ kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự cất
giầy dép, cặp đúng nơi quy định ngoài ra tôi còn dạy trẻ biết chào hỏi, biết nói
15


lời xin lỗi, biết nói cảm ơi, không nói leo khi người khác nói, không tự tiện lấy
đồ và sử dụng đồ của người khác…
* Giáo dục kỹ năng sống trong hoạt động thể dục sáng:
Dưới sân trường tôi kết hợp kỹ năng đi lên, xuống cầu thang cho trẻ đi
đúng theo bước chân, chân nào trước, chân nào sau, đi theo hàng lối, không chen
lấn xô đẩy bạn, giáo dục trẻ biết tập thể dục để nâng cao sức khỏe…
* Giáo dục kỹ năng sống trong hoạt động vệ sinh:
Tôi trang trí nhà vệ sinh bằng cácc hình ảnh ngộ nghĩnh, trang trí hình ảnh
các bước rửa tay bằng xà phòng, các bước rửa mặt và đánh răng, ... Thông qua
hoạt động này dạy trẻ các kỹ năng tự phục vụ như: Rửa mặt, rửa tay bằng xà
phòng, cách trải tóc, cách gấp quần áo và đi vệ sinh đúng nơi quy định…
*Giáo dục kỹ năng sống trong giờ ăn, giờ ngủ:
Cùng với việc dạy trẻ nhận biết các ký hiệu cá nhân như : lấy khăn mặt,
lấy cốc uống nước tôi còn dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống qua đó

dạy trẻ những kỹ năng tự lao động phục vụ, rèn tính tự lập như : Biết giúp cô kê
bàn ăn, trải khăn bàn, bày lọ hoa để tạo không khí cho bữa ăn của trẻ thêm ngon
miệng, dạy trẻ biết tự đi lấy bát thìa theo số lượng của tổ mình và biết được lần
lượt ngày trực nhật của mình theo tổ, khi ăn, biết ăn uống lịch sự, không nói
chuyện trong khi ăn, và chỉ ăn uống tại bàn ăn của mình, biết cách sử dụng
những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, biết ăn hết xuất,
không làm rơi vãi khi ăn, khi ăn nhai nhỏ nhẹ không gây tiếng ồn, ngậm miệng
khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn, biết tự dọn, cất bát thìa đúng nơi quy
định, biết giúp người lớn dọn dẹp. Trong giờ ngủ tôi tự cho trẻ chuẩn bị chỗ ngủ
của mình bằng cách xếp sạp, trải chiếu giúp cô, trẻ tự lấy gối chăn của mình và
vào vị trí quy định đề nằm ngủ [5]

Hình ảnh trẻ thực hành kỹ năng sống trong giờ ăn
* Giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động ngoài trời:
Khi tổ chức hoạt động ngoài trời cho trẻ tôi cho trẻ tự tạo nhóm để chơi và
chơi theo sự hướng dẫn của cô trong quá trình hoạt động nhắc nhở các cháu
không xô đẩy nhau, nếu trẻ làm gì sai với bạn, với cô thì phải biết xin lỗi cô, xin
lỗi bạn.
16


Ví dụ: Khi cô nhìn thấy bé này xô ngã bé khác nói với bé bị xô ngã để cháu
không khóc và cô dùng lời nói để nhắc nhở trẻ xô bạn: “ Bạn không thích con xô
đẩy bạn, cánh tay là để ôm nhau, không phải là để đẩy nhau”. Và bạn xô bạn
phải biết lỗi.
* Giáo dục kỹ năng sống qua ngày hội, ngày lễ, hoạt động tham quan.
Tổ chức cho trẻ đến thăm nhà bạn trong chủ đề gia đình. Hoạt động trên
phối hợp với các bậc cha mẹ để có thể giúp trẻ phát triển kỹ năng cảm xúc và xã
hội bằng cách tạo ra các mối liên kết bạn bè tại gia đình.
Tổ chức cho trẻ tham quan các công trình công cộng ( như trạm y tế,

tượng đài liệt sỹ…) nhằm rèn luyện kỹ năng giao tiếp, giáo dục lòng yêu quê
hương đất nước.
Tổ chức cho trẻ tham gia hội thi: “ Bé khỏe –bé tài năng” tạo sự mạnh
dạn, tự tin, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng hợp tác cùng các bạn cho trẻ.
Tổ chức các hoạt động trong các ngày hội, ngày lễ như: Giỗ Tổ Hùng
Vương, ngày 20/11, Ngày Tết Trung Thu, Ngày 22/12 ... nhằm mục đích ôn lại
truyền thống của dân tộc để giáo dục trẻ lòng tự hào dân tộc, biết nhớ ơn những
người đã hy sinh cho lợi ích dân tộc. Thông qua đó trẻ có ý thức phấn đấu trong
học tập để sau này trở thành những người có ích cho xã hội.

2.3.6. Giáo dục kỹ năng sống qua góc thực hành kỹ năng sống cho trẻ
Để thực hiện tốt nhiệm vụ dạy trẻ kỹ năng sống. Ngay sau khi xây dựng
kế hoạch giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tôi đã xác định dạy trẻ kỹ năng sống tại
góc thực hành kỹ năng sống bằng việc trang bị cho lớp những góc mở có các
hộp để gắn các lô tô hình ảnh về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ theo từng chủ đề,
góc lưu sản phẩm của trẻ với hình thức trang trí đẹp mắt, mỗi trẻ có một túi
maket riêng có ký hiệu rõ ràng nhằm giúp giáo viên quan sát, ghi chép, lưu sản
phẩm hàng ngày của trẻ.
Trang trí trong lớp với khẩu hiệu: “ Cô giáo như mẹ hiền” ngay đầu lớp đẹp mắt,
sinh động.Tôi luôn chú ý tạo cảnh quan sư phạm trong phòng học, đồ dùng đồ
chơi được sắp xếp gọn gàng, ngăn nắp, từng góc riêng biệt. Trang trí các mảng
tường có nội dung Giáo dục kỹ năng sống như: Treo hình ảnh các bước rửa tay
đúng cách ngay ở dưới vòi nước rửa tay của trẻ, treo các hình ảnh các bước lau
mặt ngay tại nơi để giá khăn lau mặt, trong phòng vệ sinh, trang trí các hình ảnh
17


Góc tuyên truyền ở lớp: Tôi sưu tầm các bài tuyên truyền giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ trên mạng hay trên báo để dán ở góc tuyên truyền dành cho cha mẹ trẻ để
phụ huynh khi đưa đón trẻ đến lớp có thể đọc. Dựa vào cách trang trí và thực

hành tại góc giáo dục kỹ năng sống mà tôi đã giáo dục được trẻ đạt kết quả.
2.3.7.Tuyên truyền, phối kết hợp với phụ huynh cùng giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ.
Với phương châm “Trường học là nhà, nhà là trường học” thì việc phối
kết hợp với các bậc phụ huynh là một trong những biện pháp rất cần thiết để
giáo dục trẻ. Việc giáo viên phải tích cực giao lưu với phụ huynh để nắm bắt
tình hình của trẻ, hiểu được tính cách, hoàn cảnh sống của trẻ để từ đó phối hợp
với phụ huynh trong việc rèn luyện trẻ đúng phương pháp.
Nhận thức được tầm quan trọng của biện pháp này ngay từ đầu năm học
thông qua các buổi họp phụ huynh tôi đã chân tình cởi mở trao đổi nội dung kế
hoạch giáo dục hình thành kỹ năng sống cho trẻ để phụ huynh hiểu và thống nhất
biện pháp phối hợp cùng tôi thực hiện. Tôi đã nhấn mạnh để phụ huynh hiểu rằng
đây là một quá trình lâu dài và đòi hỏi việc giáo dục rèn luyện phải được thực hiện
ở cả nhà trường và gia đình thì mới có hiệu quả cao. Chính vì vậy tôi cũng mạnh
dạn đề nghị phụ huynh thường xuyên trao đổi với cô, đọc bảng tin phụ huynh và
gần gũi với trẻ để tìm hiểu các nội dung giáo dục kỹ năng sống trên lớp, tôi
thường trao đổi, tuyên truyền phụ huynh hiểu những việc nên và không nên đối
với trẻ để giúp trẻ có kỹ năng sống tốt, trẻ có kỹ năng tự bảo vệ bản thân, tự tin
trong cuộc sống. Vì trẻ luôn bắt chước người lớn và cha mẹ trẻ là những người
lớn gần gũi trẻ nhất. Vì vậy tôi thường trao đổi với phu huynh đừng vô tình bỏ
qua những cơ hội đơn giản và thuận lợi hàng ngày để hướng dẫn con những thói
quen tốt.
Ví dụ: Tôi trao đổi với phụ huynh cho phép trẻ vui chơi bày biện đồ chơi theo
theo ý thích của trẻ, đừng bao giờ cấm đoán hay la mắng. Điều quan trọng là hãy
để trẻ tự thu dọn đồ chơi sau khi chơi xong, tuyệt đối không bao giờ được làm
thay trẻ.
Trong các dịp lễ tết cha mẹ nên tạo cơ hội khuyến khích trẻ tham gia dọn
dẹp nhà cửa, phụ ông bà lau lá để gói bánh chưng, trang trí cây đào, cây quất, đi
chợ tết mua sắm cùng mẹ…
Tôi cũng tuyên truyền với phụ huynh quan sát những biểu hiện của trẻ

trong điều kiện và tình huống tự nhiên hàng ngày như quan sát xem trẻ có tự tin
và tự nhiên khi giao tiếp với mọi người hay không? Trẻ có tự nhiên sáng tạo khi
chơi với đồ chơi không? Trẻ có lễ phép trong cách nói năng với người lớn hay
không?… để từ đó có biện pháp rèn luyện và giáo dục trẻ thêm. Nhờ có sự phối
kết hợp chặt chẽ giữa tôi với cha mẹ trẻ mà tôi thấy trẻ lớp tôi rất mạnh dạn, tự
tin và hầu hết trẻ có kỹ năng sống cần thiết theo độ tuổi.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
*Đối với hoạt động giáo dục
18


Sau gần một năm học thực hiện cùng với sự nổ lực của cô và trò, sự phối
kết hợp nhiệt tình của phụ huynh cùng với việc áp dụng các giải pháp để giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ bản thân đã thu được kết quả như sau:
Số
Kết quả cuối năm
trẻ Đạt
STT
Nội dung khảo sát
Tỉ lệ Chưa Tỉ lệ %
%
đạt
1
Kỹ năng giao tiếp, chào hỏi
33 33 100%
0
0%
91%
3

9%
2
Kỹ năng hợp tác, hoạt động cùng nhóm 33 30
3
Kỹ năng tự lập, tự phục vụ
33 33 100%
0
0%
4
Kỹ năng tự bảo vệ an toàn cá nhân
33 30
91%
3
9%
5
Kỹ năng xử lý tình huống
33 27 81,8%
6
18,2%
6
Kỹ năng mạnh dạn tự tin
33 29 87,8%
4
12,2%
7
Sự tò mò và khả năng sáng tạo
33 28 84,8%
5
15,2%
Qua bảng khảo sát kết quả cuối năm cho chúng ta thấy:

+100% trẻ có thói quen tự lập, tự phục vụ bản thân, biết chăm sóc chính
mình như: biết giữ gìn vệ sinh thân thể sạch sẽ, biết xúc cơm và cầm bút bằng
tay phải, ăn song biết lấy đúng khăn lau miệng, biết lấy đúng cốc khi uống nước,
biết cách thay quần áo và gấp quần áo…
+ 100%trẻ mạnh dạn, tự tin khi giao tiếp với cô, các bạn và mọi người
xung quanh trẻ. Trẻ đã biết cách giao tiếp như thế nào cho đúng và điều gì
không được làm, được nói lúc giao tiếp.
+91% trẻ luôn chủ động, hào hứng tham gia cùng các bạn trong nhóm
chơi và trẻ hiểu được vì sao trẻ phải kết hợp với các bạn trong nhóm chơi.
+ Các kỹ năng khác trẻ cùng trẻ kết quả rất cao. Điều này chứng minh
rằng việc vui chơi bằng các trò chơi, các hoạt động cho trẻ thực hành trải
nghiệm cùng với các phương pháp sử dụng đa dạng, linh hoạt đã giúp trẻ tiếp
nhận kỹ năng sống một cách hiệu quả. Trẻ đã biết chuyển hóa từ hoạt động
thành ý thức, từ ý thức thành kỹ năng.
*Đối với bản thân:
Sau khi tiến hành các giải pháp giáo dục kỹ năng sống tôi nhận thấy :
Bản thân có thêm nhiều kiến thức, kinh nghiệm trong công tác giáo dục
hình thành kỹ năng sống cho trẻ.
Tự tin, sáng tạo hơn trong việc dạy kỹ năng sống cho trẻ
Kết hợp chặt chẽ với phụ huynh, tạo uy tín niềm tin đối với phụ huynh và
với trẻ, được phụ huynh tín nhiệm.
*Đối với đồng nghiệp
Qua đề tài này trong các buổi sinh hoạt tổ, khối chuyên môn bản thân chia
sẻ những giải pháp giáo dục kỹ năng sống mà tôi đã thực hiện ở đề tài để các
đồng nghiệp nắm vững hơn những kỹ năng sống cho trẻ theo từng lứa tuổi và sử
dụng các kĩ năng đó vào việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tại lớp.
*Đối với nhà trường
Với đề tài của bản thân nhà trường có thể đánh giá chất lượng của đề tài
và sử dụng đề này giới thiệu đến tất giáo viên trong nhà trường để giáo viên
19



đóng góp ý kiến và áp dụng sáng kiến này vào việc giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho trẻ tại nhà trường.
3. Kết luận, kiến nghị.
3.1. Kết luận.
Qua quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài“ Một số giải pháp giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ 4 - 5 tuổi” tại lớp Lá 2 - Trường Mầm non Quảng Thái.
Qua việc nghiên cứu tôi nhận thấy:
+ Kỹ năng sống là một yếu tố quan trọng điều khiển ý thức và hành vi của
con người. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non sẽ mang lại cho các cháu rất
nhiều lợi ích về mặt sức khỏe, giáo dục và cả văn hóa xã hội, giúp các con sớm
có một cơ thể cường tráng, lành mạnh về trí tuệ cũng như thể lực, sớm có ý thức
và khả năng thích nghi với cuộc sống, làm chủ bản thân, sống tích cực và hướng
đến những điều lành mạnh cho chính mình.
+Thực tế, kỹ năng sống của trẻ lứa tuổi mầm non chỉ đơn giản là giao tiếp
tốt, biết vui chơi với bạn, biết xin lỗi hoặc cảm ơn đúng lúc, dể thích nghi với
môi trường khác nhau….Một đứa trẻ chờ đến lượt chơi sẽ là người biết kiên
nhẫn, một đứa trẻ được tập thích nghi với đám đông sẽ trở thành người biết tự
chủ và tự tin sau này. Người lớn hãy luôn khuyến khích trẻ mạnh dạn tham gia
các hoạt động, tự tin vào bản thân. Đồng thời, khuyến khích trẻ khi tham gia vào
trò chơi, sáng tạo trong cách chơi và cố gắng đạt mục đích, đây chính là những
kỹ năng cơ bản để sống và làm việc sau này. Đó chính là những việc mà phụ
hynh cần quan tâm để trang bị kỹ năng sống cho con ngay từ tuổi mầm non.
+ Bên cạnh những lời nói khích lệ, nêu gương, khuyến khích những hành
vi, lời nói tốt của trẻ. Các bậc làm cha mẹ, cô giáo, những người lớn cần nhẹ
nhàng, khéo léo khi giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, không nên hạ thấp khả năng
của trẻ, không doạ nạt hay bắt trẻ phải làm những việc quá sức của trẻ. Người
lớn không nên nuông chiều, bao bọc trẻ thái quá, không nên nhồi nhét lượng
kiến thức quá mức so với khả năng tiếp nhận từng lứa tuổi của trẻ.

3.2.Kiến nghị.
+Đối với nhà trường
Khích lệ giáo viên viết bài tuyên truyền nội dung giáo dục kỹ năng sống
để tuyên truyền trên các bảng trong tin của nhà trường, của lớp nhằm nâng cao
nhận thức của phụ huynh.
Thường xuyên xây dựng các giờ dạy giáo dục kỹ năng sống cho trẻ để
giáo viên dự giờ và tích lũy kinh nghiệm cho bản thân.
Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi đã triển khai thực hiện đề tài.
Rất mong nhận được sự góp ý của Ban giám hiệu nhà trường, cácđồng nghiệp
để đề tài này hoàn thiện hơn, thực hiện tốt hơn trong năm học tiếp theo.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 19 tháng 4 năm 2019

Tôi xim cam đoan đây là SKKN của mình
viết không sao chép nội dung của người khác
Người viết sáng kiến
20


Trần Thị Ngọc

Tô Thị Hạnh

21



×