Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Một số giải pháp rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh lớp 2 qua môn tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (471.09 KB, 12 trang )

MỤC LỤC
Trang
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1
I. Lý do chọn đề tài 1
II. Mục đích, phương pháp nghiên cứu 2
1. Mục đích nghiên cứu 2
2. Phương pháp nghiên cứu 2
III. Giới hạn của đề tài 2
IV. Kế hoạch thực hiện 2
B. PHẦN NỘI DUNG
3
I. Cơ sở lý luận 3
II. Cơ sở thực tiễn 4
III. Thực trạng và những mâu thuẫn 5
1. Thuận lợi 5
2. Khó khăn 5
IV. Các biện pháp giải quyết vấn đề 5
V. Hiệu quả 7
C. KẾT LUẬN
9
I. Ý nghĩa của đề tài đối với công tác 9
II. Khả năng áp dụng 9
III. Bài học kinh nghiệm 9
TÀI LIỆU THAM KHẢO
11
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Thực hiện Quyết định số 2994/QĐ-BGDĐT ngày 20 tháng 7 năm 2010 của Bộ
giáo dục và Đào tạo triển khai giáo dục kĩ năng sống trong một số môn học và hoạt
động giáo dục ở các cấp học; dựa trên cơ sở những định hướng của đợt tập huấn tăng


cường giáo dục kĩ năng sống trong các môn học của Bộ cho các cấp học trong hệ
thống giáo dục phổ thông.
Ở Việt Nam, để thực hiện việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ,
đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học. Giáo dục phổ
thông đã và đang từng bước đổi mới theo hướng từ chủ yếu là trang bị kiến thức sang
trang bị những năng lực cần thiết cho các em học sinh, phát huy tính tích cực, tự giác,
chủ động, sáng tạo của người học, phù hợp với từng lớp học, tăng cường khả năng làm
việc theo nhóm, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm
vui, hứng thú học tập cho học sinh. Qua đó, cho thấy tầm quan trọng và cần thiết của
việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh phổ thông nói chung, học sinh tiểu học nói
riêng.
Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở tiểu học nhằm đạt mục tiêu trang bị
cho học sinh những kiến thức, giá trị, thái độ và kĩ năng phù hợp; tạo cơ hội thuận lợi
cho học sinh sử dụng quyền và bổn phận của mình và phát triển toàn diện về thể chất,
trí tuệ, tinh thần và đạo đức. Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở tiểu học được
tập trung chủ yếu ở 4 môn học: Tiếng Việt, Đạo đức, Khoa học và Tự nhiên xã hội.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa nội dung giáo dục kĩ năng sống lồng ghép vào các
môn học ở bậc tiểu học. Đây là một chủ trương cần thiết và đúng đắn. Tuy nhiên, để
giáo dục kĩ năng sống cho học sinh đạt hiệu quả đòi hỏi nhiều yếu tố chứ không chỉ từ
các bài giảng. Thực chất của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là nhằm trang bị
cho học sinh các kĩ năng sống cơ bản là: Học để biết, Học để làm, Học để tự khẳng
định mình và Học để cùng chung sống.
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là một nội dung được đông đảo phụ huynh
và dư luận quan tâm, bởi đây là một chương trình giáo dục hết sức cần thiết đối với
học sinh.
Nhiều ý kiến cho rằng, các trường học hiện nay đã quá nặng về dạy kiến thức, ít
quan tâm đến việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh dẫn đến có một bộ phận học
sinh trong các trường thiếu hụt hiểu biết về môi trường xung quanh, ứng xử cần thiết
2
trong cuộc sống. Điều này cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến những bất

cập trong hành vi, lối sống đạo đức của nhiều học sinh.
Chính sự cần thiết ấy, tôi đã cố gắng thử nghiệm nhiều biện pháp để giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh song theo bản thân tôi nhận thấy việc giáo dục và rèn luyện kĩ
năng sống cho học sinh được thể hiện rõ nét nhất trong môn Tiếng Việt. Vì thế tôi đã
chọn đề tài “Các biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 2 qua môn Tiếng Việt ”.
II. Mục đích, phương pháp nghiên cứu
1. Mục đích nghiên cứu
- Giúp học sinh ý thức được giá trị của bản thân trong mối quan hệ xã hội; Giúp
học sinh hiểu biết về thể chất, tinh thần của bản thân; có hành vi thói quen ứng xử có
văn hóa, hiểu biết và chấp hành pháp luật,…
- Giúp học sinh có đủ khả năng tự thích ứng với môi trường xung quanh, tự
chủ, độc lập, tự tin khi giải quyết công việc.
- Tìm hiểu một số đặc điểm cơ bản của kĩ năng sống được hình thành qua việc
học tập môn tiếng Việt tại lớp 2G trường Tiểu học An Thạnh 1, thị xã Hồng Ngự, tỉnh
Đồng Tháp.
2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp phỏng vấn.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp thực hành.
III. Giới hạn của đề tài
Tìm hiểu về hình thức giáo dục hình thành kĩ năng sống cho học sinh thông qua
lồng ghép nội dung giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong môn tiếng Việt của học
sinh lớp 2G trường Tiểu học An Thạnh 1, thị xã Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp.
IV. Kế hoạch thực hiện
- Chọn đề tài.
- Lập đề cương nghiên cứu.
- Đọc, thu thập tài liệu viết đề tài.

- Thâm nhập thực tế.
- Hoàn thành sáng kiến.
3
B. PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận
Kĩ năng sống thúc đẩy phát triển cá nhân và xã hội, có thể nói kĩ năng sống
chính là nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái độ, hành vi và thói quen
tích cực, lành mạnh.
Giáo dục kĩ năng sống là yêu cầu cấp thiết đối với thế hệ trẻ.
Giáo dục kĩ năng sống nhằm thực hiện yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông.
Hiện nay việc đưa giáo dục kĩ năng sống vào nhà trường đã được thực hiện ở
hầu hết các nước trên thế giới. Theo tài liệu của UNICEF, hiện nay có 153 nước đã đưa
giáo dục kĩ năng sống vào nhà trường, hơn 140 nước đã thực hiện giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh với các phương thức khác nhau. Xu hướng hội nhập và phát triển
không cho phép giáo dục nước ta giậm chân với những cách làm cũ, lạc hậu và trì trệ.
Môn Tiếng Việt ở tiểu học có nhiệm vụ hình thành và phát triển ở học sinh kĩ
năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong môi trường
hoạt động của lứa tuổi.
Kĩ năng đặc thù, thể hiện ưu thế của tiếng Việt là kĩ năng giao tiếp, sau đó là kĩ
năng nhận thức, bao gồm nhận thức thế giới xung quanh, tự nhận thức, ra quyết định,

kĩ năng sống có thể hình thành tự nhiên, học được từ những trải nghiệm của
cuộc sống và do giáo dục mà có. Không phải đợi đến lúc được học kĩ năng sống một
con người mới có những kĩ năng sống đầu tiên. Chính cuộc đời, những trải nghiệm, va
vấp, thành công và thất bại giúp con người có được bài học quý giá về kĩ năng sống.
Tuy nhiên, nếu được dạy dỗ từ sớm, con người sẽ rút ngắn thời gian học hỏi qua trải
nghiệm, sẽ thành công hơn.
Kĩ năng sống cần cho suốt cả cuộc đời và luôn luôn được bổ sung, nâng cấp để
phù hợp với sự thay đổi của cuộc sống biến động. Người trưởng thành cũng vẫn cần
học kĩ năng sống.

Ở học sinh bậc tiểu học, để giúp các em có tinh thần tự học, sáng tạo và biết vận
dụng linh hoạt những điều đã học vào thực tiễn, trong quá trình dạy người giáo viên
phải luôn tìm tòi, sáng tạo ra những phương pháp hay. Chẳng hạn như phương pháp
“học mà chơi, chơi mà học”. Giúp các em vui chơi giải trí nhằm thay đổi trạng thái
của các em sau những giờ học căng thẳng và để bắt đầu một tiết học mới tốt hơn.
4
Thường xuyên đặt câu hỏi cho các em, tạo điều kiện để các em tham gia hoạt động
nhóm, giải quyết vấn đề nào đó cụ thể,… trên cơ sở nền tảng là kiến thức cơ bản đã
được học.
Ngày nay, rèn luyện kĩ năng sống cho thế hệ trẻ mà tiêu biểu là các em học sinh
là trách nhiệm chung của gia đình, nhà trường và xã hội. Trong đó, người giáo viên giữ
vai trò quyết định. Đây cũng là một trong những nội dung của phong trào thi đua “Xây
dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực” mà Bộ Giáo dục đã đề ra.
II. Cơ sở thực tiễn
Học tập là một nhu cầu thường trực của con người trong mọi thời đại. Học tập
không chỉ dừng lại ở các tri thức khoa học thuần túy mà còn được hiểu là mọi tri thức
về thế giới trong đó có cả những mối quan hệ, cách thức ứng xử với môi trường sống
xung quanh. Kĩ năng sống là một trong những vấn đề quan trọng đối với mỗi cá nhân
trong quá trình tồn tại và phát triển. Chương trình học hiện nay đang gặp phải nhiều
chỉ trích do quá nặng về kiến thức hàn lâm trong khi những tri thức vận dụng cho đời
sống hàng ngày bị thiếu vắng. Hơn nữa, người học đang chịu nhiều áp lực về học tập
khiến cho không còn nhiều thời gian cho các hoạt động ngoại khóa, hoạt động xã hội.
Điều này đã dẫn đến sự “xung đột” giữa nhận thức, thái độ và hành vi với những vấn
đề xảy ra trong cuộc sống. Do vậy, kĩ năng sống với mỗi người sẽ có cách hiểu khác
nhau:
- Đối với học sinh: kĩ năng sống là một cái gì mơ hồ, không
thiết thực, chưa có ý thức trau dồi kĩ năng sống.
- Đối với giáo viên: giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là ở phân môn đạo đức,
là công việc của người khác, giáo viên chỉ lo trang bị kiến thức cho học sinh.
- Đối với phụ huynh: Nhiều phụ huynh cho rằng việc giáo dục con em chủ yếu

là ở nhà trường, nhà trường dạy như thế nào thì các em sẽ như thế đó phụ huynh không
nhất thiết phải quan tâm nhiều.
Thế nhưng giáo dục kĩ năng sống trong trường học là một việc làm cần thiết,
không thể thiếu, bên cạnh đó việc khắc sâu và tạo thành kĩ năng thuần thục cho học
sinh là việc làm thường xuyên không ai hết chính là những người gần gũi học sinh
nhất đó là giáo viên và phụ huynh học sinh.
III. Thực trạng và những mâu thuẫn
5
1. Thuận lợi
- Được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường, tổ khối và các thầy cô
trong nhà trường thường xuyên trao đổi phương pháp dạy học qua các tiết dự giờ,
thao giảng, hội giảng đã giúp tôi có nhiều kinh nghiệm trong công tác giảng dạy .
- Đa số học sinh có điều kiện học tập tốt, được gia đình quan tâm.
- Lứa tuổi của các em học mà chơi, chơi mà học nên các em rất
dễ thâm nhập tiếp thu các kiến thức một cách năng động và sáng tạo.
2. Khó khăn
- Nội dung các bài học vốn đã nhiều, thời lượng lại ít nên khó lồng ghép giáo
dục kĩ năng sống vào.
- Học sinh cũng chưa có nhận thức đầy đủ và ý thức trau dồi kĩ năng sống, chưa
tích cực chủ động tham gia các họat động trải nghiệm để tạo lập, rèn luyện kĩ năng
sống.
- Một số gia đình học sinh chưa thật sự kết hợp với nhà trường, có thái độ
không đúng trong công tác giáo dục học sinh, chưa quan tâm đúng mức đến việc tập
của con em mình.
- Qua thực tế giảng dạy lớp 2, tôi thấy kĩ năng sống của học sinh chưa cao. Chỉ
một số học sinh có hành vi, thói quen, kĩ năng tốt. Còn phần lớn các em có nhận xét
đánh giá về sự việc nhưng chưa có thái độ và cách ứng xử, cách xưng hô chuẩn mực.
Bảng số liệu các kĩ năng sống của học sinh lớp 2G.
Các kĩ năng sống Tốt Bình thường Chưa tốt
Số

lượng
Tỉ lệ
Số
lượng
Tỉ lệ
Số
lượng
Tỉ lệ
Diễn đạt trước đám đông. 9 28% 11 34% 12 38%
Tương trợ nhóm khi làm việc. 8 25% 12 37,5% 12 37,5%
IV. Các biện pháp giải quyết vấn đề
1. Nghiên cứu kĩ năng sống cần rèn luyện qua từng bài dạy cho học sinh. Xác
định rõ nhiệm vụ của môn học và nhiệm vụ giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
trong môn học
Dạy học sinh học tiếng Việt mà cụ thể là phân môn tập làm văn là giúp cho các
em nói viết lưu loát. Học sinh phát triển vốn từ ngữ, bồi dưỡng cảm xúc tình cảm lành
mạnh trong sáng, khả năng lựa chọn sắp xếp ý rõ ràng. Rèn khả năng tư duy, trí tưởng
6
tượng phong phú. Qua đó vốn sống của các em được tăng lên giúp các em tự tin, có
khả năng ứng xử linh hoạt trong cuộc sống.
2. Nghiên cứu mục tiêu cần đạt của giờ học, chú trọng cung cấp kĩ năng phù
hợp với từng nội dung bài dạy cụ thể là việc chuẩn bị giáo án có lồng ghép cẩn thận
Khả năng giáo dục kĩ năng sống của môn Tiếng Việt không chỉ thể hiện ở nội
dung môn học mà còn thể hiện qua phương pháp giảng dạy của giáo viên. Để hình
thành các kiến thức và rèn luyện kĩ năng mà chương trình môn Tiếng Việt đặt ra với
học sinh tiểu học, người giáo viên cần vận dụng nhiều phương pháp dạy học phát huy
tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh,…Thông qua các hoạt động học tập học
sinh có cơ hội rèn luyện, thực hành nhiều kĩ năng sống cơ bản, cần thiết.
3. Thực hiện mô hình dạy học có 4 giai đoạn
a. Giai đoạn 1: Khám phá

Tìm hiểu kĩ năng hiểu biết của học sinh về những việc làm hoặc sự kiện diến ra
trong cuộc sống.
b. Giai đoạn 2: Kết nối
Giới thiệu thông tin kiến thức và kĩ năng mới thông qua việc tạo “cầu nối” liên
kết giữa cái đã biết và cái chưa biết.
c. Giai đoạn 3: Vận dụng
Tạo cơ hội cho người học vận dụng kiến thức rèn kĩ năng mới học vào hoàn
cảnh điều kiện có ý nghĩa.
d. Giai đoạn 4: Thực hành
-Nâng cao mức độ vận dụng kiến thức và kĩ năng.
-Điều chỉnh hiểu biết và kĩ năng còn sai lệch.
-Luyện tập thực hành kĩ năng.
4. Để làm tốt việc dạy học như đã nêu trên, người giáo viện cần chuẩn bị những
công việc sau:
a. Chọn những kĩ năng cần thiết phù hợp địa phương:
Chọn những kĩ năng phù hợp, gần gũi với học sinh. Các em có khả năng trực
tiếp thực hành kĩ năng sau khi tiếp cận.
VD: Thực hành kĩ năng: Giao tiếp, ứng xử lịch sự, xưng hô đúng mực trong
giao tiếp với bạn.
7
b. Học sinh dự đoán các kĩ năng, yêu cầu của các kĩ năng cần đạt được sau khi
học tiết học.
c. Gợi ý học sinh nêu các kĩ năng thông qua bài học:
Giáo viên cho học sinh nêu các yêu cầu, kĩ năng sau khi đọc trước bài học
d. Hướng dẫn học sinh nắm được yêu cầu cần đạt sau bài học. Từ đó xác định các
kĩ năng cần đạt:
Tạo ra hứng thú, cảm xúc, lưu ý đó phải là cảm xúc riêng, thật, phải có sự liên
tưởng từ đó xác định những yêu cầu của kĩ năng cần đạt.
e. Giáo viên phải chuẩn bị các câu hỏi gợi ý hướng dẫn học sinh tự xác định các
kĩ năng sống cần đạt:

VD: Bài yêu cầu gì ?
- Theo em cần phải làm gì để đạt được điều đó?
- Trọng tâm bài ở chỗ nào?
- Em cần có kĩ năng gì để thực hiện các vấn đề đó?
- Sau khi học xong bài này em rút ra điều gì?
- Em sẽ ứng dụng như thế nào, làm gì trong cuộc sống hàng ngày khi gặp
trường hợp như trong bài?
5. Tổ chức cho học sinh thực hành kĩ năng sống vừa được học
Tuỳ theo bài, giáo viên tổ chức cho các em hoạt động ngay tại lớp với tình huống
tương tự bài học để học sinh tự tìm ra hướng giải quyết vấn đề, sau đó học sinh tự nêu
các kĩ năng mà em đã ứng dụng để giải quyết vấn đề đó.
Nếu không thể tổ chức thực hành được thì giáo viên hướng dẫn học sinh tự tìm
hiểu các tình huống tương tự mà các em đã gặp ở cuộc sống thường ngày, ghi chép lại
và nêu cách giải quyết của bản thân để hôm sau trình bày trước lớp cho các bạn nghe
và bổ sung chọn cách giải quyết tốt nhất.
V. Hiệu quả
Nhờ việc vận dụng các phương pháp như đã trình bày, kết quả giảng dạy giáo
dục rèn kĩ năng sống cho học sinh của tôi tốt hơn nhiều. Điều đáng mừng là trong các
tiết học này học sinh hào hứng hơn, tích cực hoạt động hơn. Học sinh biết chăm chú
lắng nghe, thực hành kĩ năng một cách tương đối chính xác. Mạnh dạn, tự tin trình bày
trước lớp. Trong các hoạt động nhóm các em biết tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau cùng
hoàn thành công việc được giao. Biết lắng nghe ý kiến và tôn trọng lẫn nhau Đăc biệt
8
học sinh tự tin cố gắng vươn lên trong học tập, rất nhiều học sinh tiến bộ. Số học sinh
khá, giỏi tăng rõ rệt.
Các kĩ năng sống Tốt Bình thường Chưa tốt
Số
lượng
Tỉ lệ
Số

lượng
Tỉ lệ
Số
lượng
Tỉ lệ
Diễn đạt trước đám đông. 20 62,5% 10 31,3% 2 6,2%
Tương trợ nhóm khi làm việc. 22 68,8% 9 28,1% 1 3,1%
9
C.KẾT LUẬN
I. Ý nghĩa của đề tài đối với công tác
“ Các biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua môn Tiếng Việt” đã góp
phần giúp giáo viên có những định hướng cơ bản, những việc cần phải chuẩn bị để tiết
dạy có tích hợp kĩ năng sống diễn ra một cách nhẹ nhàng qua đó giáo dục cho học sinh
những kĩ năng sống cơ bản,cần thiết mà không mang tính áp đặt hay hình thức.
Học sinh có ý thức hơn trong việc tự trang bị cho mình những kĩ năng sống cơ
bản, gần gũi để học tập và giao tiếp trong môi trường hoạt động của lứa tuổi.
II. Khả năng áp dụng
Đề tài có thể được áp dụng với tất cả các tiết dạy có tích hợp kĩ năng sống ở môn
Tiếng Việt lớp 2.
III. Bài học kinh nghiệm
Qua việc nghiên cứu đề tài, tôi việc giáo dục và rèn kĩ năng sống cho học sinh
tiểu học là một việc làm rất khó. Tuy vậy, tôi cũng tự rút ra cho mình bài học kinh
nghiệm.
Giáo viên cần nắm được phương pháp đặc trưng việc giáo dục và rèn kĩ năng sống
cho học sinh, biết lựa chọn phương pháp, kĩ thuật dạy học phù hợp, kết hợp hình thức
dạy học hợp lý nhằm phát huy tính chủ động của học sinh sẽ giúp các em phát huy cao
độ trí tuệ, cảm xúc, năng động, sáng tạo trong học tập và giao tiếp.
Tôi thấy đây cũng là cơ sở bước đầu khẳng định rằng: Để tổ chức giờ học dạy
lồng ghép giáo dục và rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 2, đòi hỏi người giáo viên
phải vận dụng tri thức, kĩ năng nghiệp vụ sư phạm một cách hợp lý. Đồng thời đưa ra

áp dụng là hoàn toàn có cơ sở khoa học và phù hợp với thực tế giảng dạy hiện nay.
Một trong những yêu cầu quan trọng để thực hiện việc lồng ghép giáo dục kĩ
năng vào bài học trên lớp là giáo viên phải tìm ra được mối liên hệ giữa các kỹ thuật
dạy học với nội dung rèn luyện kĩ năng sống. Chẳng hạn, với học sinh tiểu học, để
hình thành nhóm kĩ năng nhận thức bao gồm: nhận thức bản thân, xây dựng kế hoạch,
xác định điểm mạnh, điểm yếu của bản thân, khắc phục khó khăn để đạt mục tiêu, tư
duy tích cực và tư duy sáng tạo,… giáo viên cần sáng tạo rất nhiều tình huống trong
bài học để học sinh qua đó tự hình thành các kĩ năng này. Để làm tốt nhiệm vụ này, đòi
hỏi ở giáo viên một tinh thần trách nhiệm và khả năng sáng tạo rất cao.
10
Giáo dục kĩ năng sống chỉ thật sự có hiệu quả khi người thầy có tâm huyết, sự
kiên nhẫn và nhất là phải có thời gian. Giáo dục kĩ năng sống không phải chỉ là công
việc của giáo viên, nhà trường mà của cả xã hội, cộng đồng. “Phải kết hợp cả gia
đình, nhà trường và xã hội mới mong đào tạo được những học sinh phát triển toàn
diện”.
Nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
phổ thông trong các nhà trường chính là các thầy cô giáo. Đối với cộng đồng thì đó là
các bậc phụ huynh, ông bà, họ hàng thân thích, những người lớn tuổi,…
Trên đây là những suy nghĩ và kinh nghiệm của bản thân về việc rèn kĩ năng
sống cho học sinh qua môn Tiếng Việt. Chắc chắn đây chưa phải là giải pháp hay nhất
nhưng nó sẽ giúp cho giáo viên một số kinh nghiệm để giáo dục và rèn luyện kĩ năng
sống cho học sinh.
HỘI ĐỒNG XÉT DUYỆT CỦA TRƯỜNG An Thạnh, ngày 15 tháng 04 năm 2012
Xếp loại:…………… Người viết
CTHĐ



11
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở Tiểu học lớp 2 – Tài liệu dành cho
giáo viên (NXB giáo dục Việt Nam).
2. Sách giáo viên tiếng Việt lớp 2 – tập 1, 2 (NXB giáo dục Việt Nam).
3. Sách giáo khoa tiếng Việt lớp 2 (NXB giáo dục).
4. Quyết định số 2994/QĐ-BGDĐT ngày 20 tháng 7 năm 2010 của Bộ Giáo dục
và Đào tạo.
12

×