Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

Đánh giá tác dụng điều trị của điện châm kết hợp tác động cột sống trên bệnh nhân đau vai gáy do thoái hóa cột sống cổ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.73 MB, 79 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Thoái hóa cột sống cổ là tình trạng biến đổi hóa sinh học và cơ sinh học
cấu trúc của khớp, làm hư hại vi cấu trúc dẫn đến biến đổi hình thái của các
mô, liên quan đến tuổi và tác động của lực cơ học mà không do viêm. Biểu
hiện lâm sàng của hội chứng cột sống cổ, kèm theo các biến chứng do thoái
hóa cột sống cổ gây ra như hội chứng chèn ép rễ thần kinh cổ, hội chứng
chèn ép tủy cổ, hội chứng thiếu máu não mạn tính hệ động mạch đốt sống
thân nền, hội chứng rối loạn thần kinh thực vật [2], [3], [4], [5], [5].
Thoái hóa cột sống cổ (THCSC) đứng hàng thứ hai (sau THCS thắt lưng
31%) và chiếm 14% trong các bệnh thoái hóa khớp. Cột sống cổ có liên quan
giải phẫu với nhiều cấu trúc quan trọng như tủy sống, rễ thần kinh, động mạch
đốt sống, vì vậy triệu chứng lâm sàng rất phong phú nhưng phổ biến nhất là
triệu chứng đau vai gáy. Đau vai gáy không chỉ gây khó chịu cho bệnh nhân,
giảm năng suất lao động mà còn làm giảm chất lượng cuộc sống, đây là
nguyên nhân chính khiến bệnh nhân phải đi khám [2], [3], [5], [6].
Hiện nay, THCSC không chỉ phổ biến ở những người cao tuổi mà còn
hay gặp ở người trong độ tuổi lao động. Nguyên nhân là do cuộc sống tĩnh tại
và liên quan tới tư thế lao động như: ngồi, cúi cổ lâu hoặc động tác đơn điệu
lặp đi lặp lại của đầu, đòi hỏi sự thích nghi và chịu đựng của cột sống cổ [1],
[2], [5]. Tại Mỹ, hàng năm có 151000 người điều trị THCSC tại bệnh viện
với chi phí lên tới khoảng 40 tỷ USD [7]. Vì vậy, đau vai gáy do thoái hóa
cột sống cổ đang là vấn đề thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các thầy thuốc
[1], [8].
Y học hiện đại có nhiều phương pháp điều trị thoái hóa cột sống cổ
nhưng điều trị nội khoa và vật lý trị liệu vẫn là lựa chọn hàng đầu [1], [4], [8].
Y học cổ truyền (YHCT) đã có rất nhiều kinh nghiệm điều trị chứng tý, và đã
được mô tả, ghi chép từ rất xa xưa trong các y văn cổ, đặc biệt các thầy thuốc



2

thường nhấn mạnh đến vai trò của các phương pháp không dùng thuốc và
dùng thuốc trong điều trị. Trong các phương pháp không dùng thuốc được sử
dụng nhiều hiện nay để điều trị đau vai gáy do THCSC đó là châm cứu, xoa
bóp bấm huyệt và tác động cột sống [ 9], [10], [11], [12]. Việc kết hợp nhiều
phương pháp khác nhau trong y học cổ truyền và y học hiện đại trong điều trị
chứng tý mang lại nhiều kết quả tốt như dùng thuốc kết hợp châm cứu, điện
châm kết hợp với xoa bóp bấm huyệt, châm cứu kết hợp vật lý trị liệu, xoa
bóp bấm huyệt kết hợp vật lý trị liệu…[13], [14], [15], [16], [17], [18]. Tuy
nhiên, chưa có công trình nghiên cứu nào đánh giá tác dụng của điện châm
kết hợp tác động cột sống trong điều chứng bệnh này, vì vậy chúng tôi tiến
hành đề tài: “Đánh giá tác dụng điều trị của điện châm kết hợp tác động
cột sống trên bệnh nhân đau vai gáy do thoái hóa cột sống cổ” với hai mục
tiêu sau:
1. Đánh giá tác dụng điều trị của điện châm kết hợp tác động cột
sống trên bệnh nhân đau vai gáy do THCSC.
2. Theo dõi tác dụng không mong muốn của phương pháp TĐCS.


3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. THOÁI HÓA CỘT SỐNG CỔ THEO Y HỌC HIỆN ĐẠI

1.1.1. Định nghĩa
Thoái hóa cột sống (THCS) hay thoái hóa khớp nói chung và THCSC
nói riêng, được định nghĩa là tổn thương toàn bộ khớp,bao gồm tổn thương
sụn là chủ yếu, kèm theo tổn thương xương dưới sụn, dây chằng, các cơ cạnh

khớp và màng hoạt dịch. Đó là bệnh được đặc trưng các rối loạn về cấu trúc
và chức năng của một hoặc nhiều khớp (và cột sống). Tổn thương diễn biến
chậm tại sụn kèm theo các biến đổi hình thái, biểu hiện bởi hiện tượng hẹp
khe khớp, tân tạo xương và xơ xương dưới sụn [2], [3], [4], [4].
1.1.2. Giải phẫu cột sống cổ và cơ chế bệnh sinh thoái hóa cột sống cổ
1.1.2.1. Cấu trúc xương
Cột sống cổ là trụ cột chính để giữ và vận động đầu, cong ra trước, di
động nhiều, các mỏm khớp hơi nghiêng nên dễ bị tổn thương (thường gặp ở
đoạn chuyển tiếp CV- CVI).
Cột sống cổ gồm 7 đốt xương và 5 đĩa đệm, nằm giữa các đốt xương hợp
thành. Ngoài khớp gian đốt sống, các đốt sống còn liên hệ với nhau bằng
khớp mỏm móc đốt sống (cột sống lưng và thắt lưng không có). Nằm trong
ống sống là tủy sống cổ. Từ tủy sống cổ có các rễ thần kinh chui qua lỗ gian
đốt sống ra ngoài để chi phối hoạt động cho tủy. Có hai động mạch đốt sống
chui qua các lỗ ở mỏm ngang các đốt sống cổ, đi lên não, cung cấp máu cho
phần sau của bán cầu đại não, tiểu não và thân não.
* Đốt sống cổ I: (đốt đội)
Không có gai sống và thân đốt sống, có 2 cung giống như đai vòng:
Cung trước và cung sau mỏng. Đây là điểm yếu khi có chấn thương.
* Đốt sống cổ II: (đốt trục).
Có thân đốt như các đốt CIII đến CVII nhưng còn có thêm mỏm nha.


4

Mỏm nha dính liền vào thân đốt làm trục tựa để đốt C I quay quanh mỏm
nha nên biên độ xoay cổ rất rộng.
* Đốt sống cổ dưới (CIII - CVII).
Có chung những đặc tính: Thân đốt sống có bề mặt hình bầu dục, chiều
cao nhỏ hơn chiều rộng. Mỏm ngang ở 2 bên và có lỗ ở giữa, lỗ ở mỏm ngang

cho động mạch đốt sống đi qua. Mỏm gai CVII dài và lớn nhất.
Cột sống cổ dưới có các đơn vị vận động giống như đoạn cột sống thắt
lưng. Thành phần cơ bản của đoạn vận động gồm: đĩa đệm, hai nửa thân đốt
sống lân cận, dây chằng dọc trước, dọc sau, dây chằng vàng, khớp đốt sống,
lỗ gian đốt sống, các phần mềm ở cùng đoạn cột sống tương ứng.
* Khớp mỏm móc- đốt sống:
Mặt trên thân đốt sống có thêm hai mỏm móc (hay mẩu bán nguyệt) ôm
lấy góc dưới của thân đốt sống phía trên hình thành khớp mỏm móc đốt sống.
Các khớp này được phủ bằng sụn và cũng có một bao khớp chứa dịch, có
tác dụng giữ cho đĩa đệm không bị lệch sang hai bên, khi khớp này bị thoái
hoá gai xương của mỏm móc nhô vào lỗ gian đốt sống sẽ chèn ép vào rễ thần
kinh ở đó.

Hình 1.1. Các đốt sống cổ


5

Hình 1.2: Đốt sống CI

Hình 1.3: Đốt sống CIV
* Lỗ gian đốt sống
To dần từ CII đến CV và nhỏ dần ở CVI và CVII. Khi khớp gian đốt sống bị
thoái hóa, các gai xương thường làm hẹp lỗ gian đốt sống và chèn ép vào rễ
thần kinh.
* Khớp đốt sống
Là khớp động, mặt khớp phẳng và nghiêng theo chiều trước sau một góc
450 cho nên có thể cúi ngửa cổ dễ dàng [1], [2], [8], [19], [20].



6

1.1.2.2. Cấu trúc mô mềm:
* Đĩa đệm cột sống cổ
Đĩa đệm là bộ phận chính cùng với các dây chằng đảm bảo sự liên kết
chặt chẽ giữa các thân đốt sống và đóng vai trò hấp thu chấn động. Ở phía
trước đĩa đệm dầy hơn phía sau nên cột sống cổ có chiều cong sinh lý ưỡn ra
trước. Chiều cao đĩa đệm ở người bình thường trưởng thành là 3mm.
Dưới 20 tuổi đĩa đệm được nuôi dưỡng trực tiếp từ các mạch máu, sau
đó mạch máu trở nên bị đặc do sự Calci hoá. Từ 30 tuổi trở lên đĩa đệm được
nuôi dưỡng chủ yếu bằng sự thẩm thấu của các ion hoà tan trong chất nuôi
dưỡng đĩa đệm [1], [8].
* Các dây chằng
Cùng với đĩa đệm, các dây chằng đảm bảo sự liên kết chặt chẽ giữa các
thân đốt sống và đóng vai trò hấp thu chấn động. Vai trò của các dây chằng
đoạn cổ trên có tác dụng hạn chế sự chuyển động để bảo vệ các thành phần
trong ống tuỷ. Bao gồm các loại: Dây chằng dọc trước, dây chằng dọc sau,
dây chằng vàng, dây chằng liên gai và dây chằng trên gai.
* Các cơ ở cổ
Được chia thành 2 vùng chính các cơ ở vùng cổ trước bên và các cơ ở
vùng cổ sau, tác dụng nâng đỡ, bảo vệ cột sống cổ và vùng đầu [4], [8], [19], [20].

Hình 1.4: Đĩa đệm cột sống cổ [1]


7

Hình 1.5: Dây vùng cột sống cổ [19]

Hình 1.6: Các nhóm cơ vùng cổ [21]



8

Hình 1.7: Các nhóm cơ vùng cổ vai [21]
1.1.2.3. Cấu trúc thần kinh và mạch máu:
Tuỷ sống cổ có 8 khoanh, tách ra 8 đôi rễ trước chi phối vận động, 8 đôi
rễ sau chi phối cảm giác.
Dây thần kinh cổ khi ra khỏi lỗ gian đốt sống được chia thành 2 nhánh,
một số nhánh tạo thành đám rối thần kinh cánh tay chi phối vận động và cảm
giác chi trên.
Động mạch đốt sống sau khi tách ra từ động mạch dưới đòn chạy qua lỗ
ngang của các đốt sống, chạy sát mỏm móc, khi mỏm móc bị thoái hoá các
gai xương của nó thường đè vào động mạch đốt sống [1], [8], [19].


9

Hình 1.8: Bề mặt của đốt sống cổ, tuỷ sống, các rễ thần kinh, thần kinh sống
1.1.2.4. Chức năng cột sống cổ.
Cột sống cổ có 3 chức năng:
- Chức năng vận động: Cột sống cổ có tầm vận động linh hoạt hơn cột
sống thắt lưng là do: Khớp đốt sống cổ có góc nghiêng phù hợp, do khả năng
đàn hồi của đĩa đệm, do đốt sống CI có thể quay quanh CII. Vì vậy đảm bảo
cho đầu chuyển động nhanh và dễ dàng [20].
- Chức năng chịu tải trọng và bảo vệ tuỷ: ở cột sống cổ các thân đốt sống
nhỏ, đĩa đệm không chiếm toàn bộ bề mặt thân đốt, do đó tải trọng tác động
lên đĩa đệm cột sống cổ lớn hơn các phần khác của cột sống. Tải trọng dẫn tới
sự giảm chiều cao gian đốt [20], [22]. Khoang gian đốt C V- CVI, CII - CIII là
những nơi chịu tải trọng nhất ở cột sống cổ, do đó hay gặp thoái hoá ở những

đoạn đốt sống cổ này.


10

Hình 1.9. Các động tác vận động của cột sống cổ [Error: Reference source
not found]
1.1.3. Yếu tố thuận lợi và cơ chế bệnh sinh của thoái hóa cột sống cổ
1.1.3.1. Yếu tố thuận lợi
THCSC thường xuất hiện ở những người tuổi cao hoặc có công việc
gây tình trạng chịu áp lực quá tải kéo dài của cột sống cổ. Ngoài ra,THCSC
còn có các yếu tố nguy cơ như di truyền, rối loạn chuyển hóa, rối loạn nội
tiết, bệnh tự miễn…[1], [8], [Error: Reference source not found], [Error:
Reference source not found].
1.1.3.2. Cơ chế bệnh sinh của thoái hóa cột sống cổ
Phần lớn các tác giả đều cho rằng THCSC là kết quả của sự thoái hoá
tổng hợp của 2 quá trình: thoái hoá sinh học theo tuổi và thoái hoá bệnh lý
mắc phải.
Quá trình THCSC tiến triển theo tuổi (thoái hoá sinh học) liên quan đến
yếu tố vi chấn thương và các yếu tố khác: rối loạn chuyển hoá, nội tiết, dị
dạng cột sống, thừa cân... thúc đẩy thêm (thoái hoá bệnh lý), làm quá trình
thoái hóa tiến triển nhanh và biến đổi về hình thái đa dạng hơn. Quá trình
thoái hoá này có thể khởi phát từ bất kỳ khớp nào trong các khớp của đơn vị
chức năng của cột sống. Thoái hoá thường bắt đầu từ biến đổi thân đốt đến
biến dạng thân đốt. Khoang gian đốt còn giữ được chiều cao của nó khá lâu
sau đó mới dần dần đóng vôi dây chằng đĩa đệm.


11


Theo thời gian các tế bào sụn sẽ già đi, khả năng tổng hợp các chất để
tạo nên Mucopolysaccarid và sợi Collagen bị giảm sút và rối loạn. Sụn sẽ mất
dần tính đàn hồi và chịu lực giảm. Mặt khác tế bào sụn của người trưởng
thành lại không có khả năng sinh sản và tái tạo, tư thế đứng thẳng sẽ làm cho
quá trình thoái hoá tăng dần theo tuổi và diễn ra liên tục trong suốt cuộc đời.
Khớp mỏm móc đốt sống thoái hoá do tổn thương nguyên phát vi thể
gây tổn thương tế bào sụn của mặt khớp, bao hoạt dịch và xương, dẫn đến mất
tính đàn hồi của khớp.
Người cao tuổi phần lớn đều bị thoái hóa đĩa đệm, cột sống vì đĩa đệm rất
nghèo mạch máu nuôi dưỡng, không có khả năng tái tạo [8], [20], [26], [27].

Hình 1.10. Những biến đổi thoái hóa ở cột sống cổ [28]
1.1.3.3. Cơ chế gây đau trong THCSC
Luschka đã phát hiện một nhánh của rễ thần kinh cổ xuất phát từ hạch
cạnh sống. Nhánh này được bổ sung những sợi giao cảm thuộc chuỗi hạch
giao cảm cạnh cột sống cổ quay trở lại chui qua lỗ gian đốt sống vào trong


12

ống sống. Các dây thần kinh này chi phối cho bao khớp gian đốt sống, cốt
mạc đốt sống, dây chằng dọc sau, các màng của tuỷ sống và mạch máu. Khi
dây này bị kích thích sẽ gây ra triệu chứng đau.
Khớp mỏm móc đốt sống cũng được phủ bằng sụn và cũng có một bao
khớp chứa dịch. Nhiệm vụ của khớp là giữ cho đĩa đệm không bị lệch sang
hai bên. Khi khớp này bị thoái hoá, gai xương của mỏm móc nhô vào lỗ gian
đốt sống và chèn ép vào rễ thần kinh ở đó gây đau.
Đĩa đệm được các nhánh màng tuỷ phân bố cảm giác. Đây là một nhánh
ngọn của dây thần kinh sống từ hạch sống phân bố các nhánh cảm giác cho
những lớp ngoài cùng của vòng sợi đĩa đệm bằng những sợi ly tâm và giao

cảm. Khi đĩa đệm bị thoái hoá hay thoát vị chiều cao khoang gian đốt sẽ giảm
gây chùng lỏng các khớp, dẫn tới sai lệch vị trí khớp, chèn ép vào các thành
phần cảm nhận đau như rễ thần kinh, tuỷ, dây chằng dọc sau khi dây này bị
kích thích sẽ gây đau.
Phì đại dây chằng vàng là nguyên nhân chính gây hẹp ống sống cổ từ
phía sau, gây chèn ép vào màng cứng, gây đau.
Ở các tổ chức dây chằng, gân, màng xương và tổ chức cạnh khớp có rất
nhiều điểm nhận cảm thực vật, khi tổ chức này bị kích thích bệnh nhân sẽ đau
âm ỉ, rất khó chịu, đau ở đây không liên quan đến khu vực cảm giác của rễ
thần kinh cổ.
Đám rối thần kinh cánh tay và động mạch dưới đòn bình thường phải
chui qua khe cơ bậc thang, khi khe này bị hẹp sẽ chèn ép vào đám rối thần
kinh cánh tay, dây trụ và dây giữa rất rễ bị tổn thương, bệnh nhân sẽ đau như
kim châm dọc mặt trong cánh tay lan đến ngón 4, 5. Đau có thể lan lên vùng
chẩm, tới ngực.


13

Các hạch giao cảm cổ còn chia nhánh vào các rễ, cho các nhánh tim,
đám rối giao cảm quanh động mạch và các cơ quan nội tạng khác, khi các
nhánh này bị chèn ép hoặc kích thích sẽ gây đau [20], [22].


14

1.1.4. Triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng
1.1.4.1. Triệu chứng lâm sàng
Triệu chứng lâm sàng của THCSC phụ thuộc vào vị trí, mức độ và biến
chứng của bệnh (chèn ép thần kinh, mạch máu…).

 Hội chứng cột sống cổ:
Triệu chứng thường gặp nhất trong hội chứng cột sống cổ là đau vùng
cột sống cổ, thường xuất hiện sau khi cúi lâu, nằm gối cao, làm việc căng
thẳng kéo dài, hay đột ngột sau khi vận động cột sống cổ. Bệnh nhân có điểm
đau tại cột sống cổ hoặc hai bên cột sống cổ; co cứng cơ cạnh sống cổ và có
thể có tư thế chống đau: nghiêng đầu về bên đau và vai bên đau nâng cao hơn
bên lành. Bệnh nhân hạn chế vận động cột sống cổ [1], [4], [8].
 Hội chứng rễ thần kinh:
Khi có hội chứng rễ, bệnh nhân thường có các rối loạn cảm giác kiểu rễ
như đau âm ỉ lan dọc theo đường đi của rễ thần kinh, đau tăng khi ho, hắt hơi,
rặn (dấu hiệu Dèjerine), đau tăng khi trọng tải trên cột sống cổ tăng (khi đi,
đứng, ngồi lâu) và khi vận động. Bệnh nhân có thể có các dị cảm vùng da do
rễ thần kinh bị chèn ép chi phối như tê bì, kiến bò, nóng rát…Nặng hơn, bệnh
nhân có thể có rối loạn vận động kiểu rễ gây giảm vận động một số cơ chi
trên (thường ít khi liệt) hoặc giảm hay mất phản xạ gân xương do rễ thần kinh
chi phối bị chèn ép. Triệu chứng teo cơ chi trên ít gặp [1], [8], [29].
 Hội chứng động mạch đốt sống (HC giao cảm cổ sau Barré Liéou):
Bệnh nhân có hội chứng động mạch đốt sống thường có các triệu chứng
nhức đầu hoặc đau đầu vùng chẩm từng cơn; chóng mặt; hoa mắt, giảm thị
lực thoáng qua; rung giật nhãn cầu; ù tai, tiếng ve kêu trong tai, đau tai;
loạn cảm thành sau họng, bệnh nhân nuốt vướng hoặc đau [5], [8], [20].
Trên lâm sàng, có thể định hướng chẩn đoán cho bệnh nhân không phải
thoát vị đĩa đệm cột sống cổ hoặc THCSC có HC tủy cổ nếu khám không có
dấu hiệu Spurling và Lhermitte.


15

Dấu hiệu Spurling: Khi ấn đầu xuống trong tư thế ngửa cổ và nghiêng
đầu về bên đau, tạo ra đau nặng từ vùng cổ lan xuống vai, cánh tay, cẳng tay

và bàn tay. Đây là dấu hiệu quan trọng đánh giá đau kiểu rễ. Đau ở đây xuất
hiện do động tác làm hẹp lỗ gian đốt sống và tăng thể tích phần đĩa đệm lồi ra.
Dấu hiệu Lhermitte: Cảm giác như điện giật đột ngột lan từ cột cống cổ
xuống cột sống lưng khi cúi cổ. Trong THCSC, dấu hiệu này chỉ gặp ở nhóm
bệnh nhân có hội chứng tủy cổ [30], [31].
1.1.4.2. Cận lâm sàng
Chụp X- Quang quy ước là xét nghiệm đầu tiên khi lâm sàng có biểu hiện
của THCSC, X- Quang chụp ở tư thế thẳng, nghiêng, chếch 3/4 phải, trái.
Phim thẳng: Thấy rõ từ CIII đến đốt sống ngực đầu tiên, bờ bên đốt C V và
CVI có hình chồng lên của sụn giáp trạng, các sụn này đôi khi có vôi hóa. Ở
CIII có hình xương móng chồng lên.
Phim nghiêng: Thấy rõ từ CI đến CVI, CVII hoặc DI. Việc thấy CVII hoặc DI
sẽ phụ thuộc vào sự chồng lên mỏm vai nhiều hay ít. Các mỏm gai có kích
thước khác nhau, mỏm gai CII và CVII là dài hơn cả.
Phim chếch: Thấy được hình các lỗ liên hợp, các lỗ này bình thường có
hình bầu dục [6], [32].
*Trên phim X-Quang quy ước có các hình ảnh thường gặp sau:
Thay đổi đường cong sinh lý đơn thuần: Cột sống thẳng hoặc ưỡn quá mức.
Mọc gai xương, mỏ xương: Gai mọc ở phần tiếp giáp giữa xương, sụn, ở
rìa ngoài của thân đốt sống, gai xương có hình thô, dày đậm, hình móc có thể
ở phía trước hoặc phía sau thân đốt sống.
Hẹp lỗ liên đốt: Đường kính lỗ gian đốt bình thường khoảng 5mm, lỗ ở
CII - CIII có kích thước nhỏ hơn ở nơi khác.
Đặc xương dưới sụn: Tăng mật độ xương ở bờ dưới sụn, nơi thân xương
tiếp giáp với đĩa đệm.
Mờ, hẹp khe khớp đốt sống: Khi đĩa đệm bị thoái hóa hoặc thoát vị chiều
cao khoang gian đốt sẽ giảm, khe không đồng đều, bờ không đều. Bình


16


thường khoảng cách giữa các thân đốt sống bằng 1/4 - 1/6 chiều cao thân đốt
sống (3 mm).
Trên phim X- Quang quy ước, đĩa đệm là phần không cản quang nên
không nhìn thấy trực tiếp đĩa đệm, chỉ có thể đánh giá gián tiếp thông qua
những thay đổi của khoang gian đốt sống và các đốt sống kế cận. Vì vậy, đây
là hình ảnh của THCSC giai đoạn muộn [24].
* Chụp cắt lớp vi tính: Có thể phát hiện hầu hết các chi tiết của đốt sống,
hẹp lỗ gian đốt sống, các tổ chức gây hẹp, mức độ hẹp.
* Chụp cộng hưởngtừ động mạch đốt sống: Cho biết chính xác vị trí, hình
dạng của các biến đổi bệnh lý do quá trình THCSC gây ra, hình ảnh động
mạch đốt sống bị đè đẩy [5], [6], [33], [34], [35].

A

B

C

Hình 1.11. X - quang cột sống cổ bình thường [36]
Tư thế chụp trước sau (A), tư thế chụp nghiêng (B), tư thế chụp chếch (C)
1. Thân đốt sống 2. Mỏm răng
3. Diện khớp
5. Mỏm gai
6. Mỏm ngang 7. Thân đốt trục (C2)
9. Cung trước đốt đội (C1)
C. Mỏm móc
D. Mảnh

4. Lỗ gian đốt sống

8. Khe gian đốt sống
E. Cuống


17

D

E

Hình 1.12. X - quangcột sống cổ bị thoái hóa [37]
1.1.5. Chẩn đoán đau vai gáy do thoái hóa cột sống cổ
 Chẩn đoán xác định: Bệnh nhân đau vai gáy (có triệu chứng đau hoặc tê
sau gáy lan xuống vai tay, thường có co cứng cơ vùng vai gáy và hoặc có thể
kèm theo yếu, giảm trương lực các cơ tương ứng với các rễ thần kinh bị tổn
thương chi phối) đáp ứng tiêu chuẩn chẩn đoán THCSC gồm HC cột sống cổ
trên lâm sàng và hình ảnh thoái hóa cột sống cổ trên phim X – quang [4],
[Error: Reference source not found], [32], [36], [38].
 Chẩn đoán phân biệt: THCSC cần được chẩn đoán phân biệt với các bệnh
lý cột sống cổ như khối u cột sống cổ, viêm cột sống cổ nhiễm khuẩn, chấn
thương cột sống cổ, TVĐĐ cột sống cổ; các bệnh lý trong ống sống cổ như u
tủy, xơ cứng cột bên teo cơ, xơ cứng rải rác; bệnh lý ngoài cột sống cổ như
viêm đám rối thần kinh cánh tay…[1], [8].
1.1.6. Điều trị và phòng bệnh thoái hóa cột sống cổ theo Y học hiện đại
1.1.6.1. Điều trị nguyên nhân
Hiện nay trong lâm sàng sử dụng rộng rãi các loại thuốc chống thoái hoá
khớp với thành phần chính là glucosamin sulphate được coi là có hiệu quả tốt
khi dùng thời gian dài. Biệt dược: Viatril- S, Golsamin…



18

Gần đây tại hội nghị hàng năm lần thứ 17 Hội cột sống Bắc mỹ
(North American Spine Socity) đề cập đến BMP- 2 trong điều trị đĩa đệm
thoái hoá, được sử dụng với hai mục đích khác nhau: sửa chữa tái tạo tế bào
mô sụn đĩa đệm bị thoái hoá và kích thích phát triển xương làm cứng khớp
trong phẫu thuật cột sống [1], [5], [20].
1.1.6.2. Điều trị bằng phương pháp phẫu thuật
Là phương pháp điều trị thoái hoá gây ra thoát vị đĩa đệm. Phương pháp
này được áp dụng khi điều trị nội khoa không đỡ, đau tăng lên, có triệu chứng
chèn ép tuỷ- rễ.
1.1.6.3. Điều trị bằng phương pháp không phẫu thuật
* Thuốc thường dùng:
Nhóm kháng viêm Non-steroid: chống viêm, giảm phù nề như
Piroxicam, Celecoxib, Diclofenac...
Corticoides: dùng tiêm trực tiếp vào khoang ngoài màng cứng hoặc
phong bế thần kinh trong các chỉ định điều trị tại chỗ.
Thuốc giảm đau: dùng trong đau kéo dài.
Thuốc giãn cơ: thuốc thường dùng Mydocalm, Liozenal... [5], [8], [39],
[40], [41].
* Các phương pháp vật lý trị liệu phục hồi chức năng thường dùng:
+ Nhiệt trị liệu nông:
Các phương pháp thường sử dụng: Phương pháp truyền nhiệt trực tiếp
(túi nóng ẩm, parafin), phương pháp nhiệt đối lưu (nước nóng trị liệu),
phương pháp bức xạ nhiệt (hồng ngoại).
+ Nhiệt trị liệu sâu: Nhiệt trị liệu sâu được sử dụng bằng siêu âm, sóng ngắn,
vi sóng.
+ Điện trị liệu: Điện trị liệu là sử dụng năng lượng điện qua bề mặt cơ thể để
kích thích thần kinh, cơ hoặc cả hai bằng cách sử dụng điện cực trên bề mặt



19

cơ thể. Các dòng điện trị liệu: Dòng điện một chiều và điện xung; điện phân
thuốc.
+ Kéo giãn cột sống cổ: Kéo giãn cột sống là áp dụng lực thích ứng để kéo cột
sống cổ hoặc cột sống thắt lưng.
+ Vận động trị liệu: Mục đích của vận động trị liệu là phục hồi tầm vận động
của khớp, làm mạnh cơ, điều hợp các động tác, tái rèn luyện cơ bị liệt, bị mất
chức năng, tạo thuận lợi cho cảm thụ bản thể cơ thần kinh, đề phòng các
thương tật thứ cấp, tạo thuận lợi cho khả năng thăng bằng.
Có nhiều loại tập vận động: Tập vận động thụ động, tập vận động có trợ
giúp, tập có kháng trở, tập chủ động. Trong điều trị THCSC tập chủ động, tập có
kháng trở là hình thức tập chính do chính người bệnh thực hiện [5], [8], [42].
1.1.6.4. Phòng bệnh
Những người có THCSC cần lưu ý chống các tư thế xấu trong sinh hoạt
và lao động; tránh các động tác quá mạnh, đột ngột, sai tư thế khi mang vác,
xách, nâng các đồ vật…; giữ ấm vùng cổ vai, tránh nhiễm mưa, gió, lạnh… và
tránh giữ lâu cổ ở tư thế cúi cổ ra trước, ưỡn ra sau hay nghiêng về một
bên. Khi ngồi làm việc lâu hoặc ngồi xe đường dài, bệnh nhân cần dùng ghế
có tấm đỡ cổ và lưng hoặc đeo đai cổ để giữ tư thế sinh lý thích hợp và tránh
các vận động quá mức của cột sống cổ.
Đối với những người làm việc có liên quan tới tư thế bất lợi của cột
sống cổ, cần có chế độ nghỉ ngơi thích hợp để thư giãn cột sống cổ, xoa bóp
và tập vận động cột sống cổ nhẹ nhàng; kiểm tra định kỳ phát hiện sớm các
biểu hiện bệnh lý và điều trị kịp thời.
Để tránh thoái hóa khớp thứ phát, cần phát hiện sớm các dị dạng cột
sống cổ để có biện pháp chỉnh hình phù hợp [5], [6], [38].



20

1.1.7. Hậu quả về sức khỏe của THCSC
THCSC có thể gây những thương tổn cho bệnh nhân về cả thể chất và
tinh thần. Về thể chất, THCSC làm bệnh nhân đau, hạn chế vận động, gây ảnh
hưởng đến sinh hoạt, lao động. THCSC ảnh hưởng đến tinh thần thông qua
việc đau kéo dài gây ra lo lắng, mất ngủ,bệnh nặng có thể làm cho bệnh nhân
bị suy nhược cơ thể.
Nếu bệnh nhân có hội chứng tủy cổ, có thể bị liệt cứng nửa người hoặc
liệt cứng tứ chi tăng dần, nếu không được điều trị hợp lý có thể để lại di chứng.
Bệnh nhân cũng có thể gặp các tác dụng phụ không mong muốn của thuốc
điều trị khi dùng kéo dài như nhóm chống viêm giảm đau không steroid gây
loét dạ dày, tá tràng…[5], [8], [34].
1.2. THOÁI HÓA CỘT SỐNG CỔ THEO Y HỌC CỔ TRUYỀN

1.2.1. Y học cổ truyền về đau vai gáy do thoái hóa cột sống cổ
YHCT không có bệnh danh thoái hóa cột sống cổ. Nhưng theo đặc điểm
các triệu chứng đau vai gáy do thoái hóa cột sống cổ được miêu tả theo y văn
YHCT, thì bệnh thuộc phạm vi các chứng “Lạc chẩm”, “chứng Kiên tý” của
YHCT [43], [44].
1.2.2. Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh:
Theo YHCT, chứng tý thường do 3 nhóm nguyên nhân gây ra:
* Ngoại nhân: Do phong hàn, phong thấp, phong nhiệt thừa lúc tấu lý sơ
hở xâm nhập làm cho khí huyết không lưu thông gây đau, lâu ngày sẽ làm
hư tổn chính khí.
* Nội nhân: Do chính khí cơ thể suy yếu rối loạn chức năng tạng phủ,
nhất là tạng can và tạng thận. Can tàng huyết, chủ cân có liên quan biểu lý
với đởm, can hư không tàng được huyết, không nuôi dưỡng được cân, cân yếu
mỏi hoặc co rút, ảnh hưởng đến đởm. Thận chủ cốt tuỷ, tuỷ tạo huyết, thận hư
xương cốt yếu, huyết ít, thận có liên quan biểu lý với phủ bàng quang.



21

* Bất nội ngoại nhân:
Do lao động quá mức, như bê vác nặng hoặc do bị chấn thương làm
huyết ứ khí trệ, gây bế tắc kinh khí của các kinh vùng gáy cổ, tay gây đau,
hạn chế vận động.
Như vậy theo YHCT, nguyên nhân phát sinh bệnh thoái hóa cột sống cổ
thường do tuổi cao, thận hư tổn, tinh khí bất túc, cốt tủy mất đi sự nuôi
dưỡng, dẫn đến xương cốt thoái hóa. Thương tổn lâu ngày là cho khí hư huyết
ứ, hoặc do chấn thương vùng cổ gáy, lâu ngày xâm nhập vào lạc mạch dẫn
đến khí trệ huyết ứ. Huyết ứ tắc trở lạc mạch, gây ra khí huyết không được
lưu thông tốt, khí huyết không thông tốt thì gây đau, cho nên trên lâm sàng
thường thấy chứng cổ, gáy, vai đau nhức. Nếu huyết ứ tắc trở lạc mạch, làm
cho huyết vận hành không tốt sẽ dẫn đến não mất đi sự nuôi dưỡng mà thấy
chứng hoa mắt, chóng mặt. Hoặc huyết ứ tắc trở lạc mà cân mạch mất đi sự
nuôi dưỡng thì thấy chứng chân tay tê bì. Cho nên huyết ứ tắc trở lạc mạch là
cơ chế bệnh sinh chính.
Bệnh diễn biến lâu ngày, chính khí của cơ thể suy yếu cũng dễ làm
phong hàn thấp thừa lúc hư tổn xâm nhập gây tắc trở kinh lạc, khí trệ huyết ứ
tạo ra những đợt bệnh tái phát cấp tính [8], [9], [43], [44].
1.2.3. Các thể lâm sàng
Theo YHCT chứng Tý vùng vai gáy được chia thành các thể.

Thể phong hàn tà gây bế tắc kinh lạc:
Triệu chứng: Đau nhức vùng đầu, cổ, vai và ngực lưng, có điểm đau cố
định ở cổ, có thể sờ thấy co cơ ở cổ vai gáy, cứng cổ hạn chế vận động. Đau, tê
và nhức tứ chi, có thể có cảm giác nặng và yếu hai chi trên, đau nặng đầu. Người
thích nóng, sợ lạnh, lưỡi nhợt, rêu trắng mỏng, mạch phù hoãn hoặc sáp.

Pháp điều trị: Trừ phong tán hàn, thông kinh hoạt lạc
Bài thuốc thường dùng: “Quế chi gia Cát căn thang” gia giảm.


22

Châm các huyệt Hậu khê (VI.3), Phong trì (XI.20), Đại chùy (XIII.14),
Liệt khuyết (I.7) [43], [44].

Thể đàm thấp làm bế tắc kinh lạc:
Triệu chứng: chính của thể đàm thấp là đau nhức vùng đầu, cổ, vai và
ngực lưng, đau đầu chóng mặt; đau cảm giác nặng đầu, cơ thể nặng nề, không
có sức lực; buồn nôn; ngực sườn đầy tức. Lưỡi nhợt, rêu trắng nhớt, mạch
huyền hoạt. Trên lâm sàng, thể đàm thấp thường kết hợp với các thể khác của
chứng Tý vùng vai gáy.
Pháp điều trị: Hóa đàm trừ thấp, hoạt huyết thông mạch.
Bài thuốc thường dùng: Phục linh hoàn gia giảm.
Châm các huyệt Hậu khê (VI.3), Phong trì (XI.20), Đại chùy (XIII.14),
Âm lăng tuyền (IV.9), Phong long (III.40) [43], [44].

Thể khí trệ huyết ứ:
Triệu chứng: Đau nhức, tê vùng đầu, cổ, vai và ngực lưng; tê, đau nhói
cố định, đau tăng về đêm, ban ngày đỡ đau, đau cự án, co cứng cơ tại chỗ và
tứ chi, kích thích khó chịu. Miệng khô, lưỡi tím, có thể có điểm ứ huyết, mạch
huyền hoặc sáp. Thể khí trệ huyết ứ thường ít xuất hiện đơn thuần mà kết hợp
với các thể lâm sàng khác của chứng Tý vùng vai gáy.
Pháp điều trị: Hoạt huyết hóa ứ, thông kinh hoạt lạc chỉ thống.
Bài thuốc thường sử dụng: Đào hồng ẩm gia giảm.
Châm các huyệt Hậu khê (VI.3), Thân mạch (VII.62), Hợp cốc (II.4),
Tam âm giao (IV.6), A thị huyệt [43], [44].


 Thể khí huyết hư kèm huyết ứ:
Triệu chứng: Đau đầu và cổ, hạn chế vận động vùng cổ và yếu tứ chi
đặc biệt hai chi trên, tê vùng vai và cánh tay. Mệt mỏi, mất ngủ, hay mơ, ra
mồ hôi trộm, hoa mắt chóng mặt, hồi hộp trống ngực, hơi thở ngắn; sắc mặt
xanh. Rối loạn kinh nguyệt ở nữ. Lưỡi nhợt, rêu trắng mỏng, mạch tế nhược.


23

Pháp điều trị: Bổ khí dưỡng huyết, thông kinh hóa ứ.
Bài thuốc thường dùng: Hoàng kỳ Quế chi Ngũ vật thang gia vị.
Châm các huyệt Túc tam lý (III.36), Đại chùy (XIII.14), Cách du (VII.17),
Can du (VII.18), Tỳ du (VII.20), Tam âm giao (IV.6), Hợp cốc (II.4) [43], [44].

Thể can thận âm hư:
Triệu chứng: Đau nhức vai gáy và ngực lưng, đau căng đầu, tê và yếu
tứ chi, đau mỏi lưng gối,hoa mắt chóng mặt, nhìn mờ. Triều nhiệt, ra mồ hôi
trộm. Miệng họng khô, lưỡi đỏ ít rêu; mạch tế sác.
Pháp điều trị: Tư dưỡng can thận, hoạt huyết thông kinh lạc.
Bài thuốc thường dùng: Hổ tiềm hoàn gia vị.
Châm các huyệt Thái khê (VIII.3), Đại trữ (VII.11), Huyền chung (XI.39)
[43], [44].
* Do các thể đàm thấp và khí trệ huyết ứ đơn thuần ít gặp mà thường
phối hợp với các thể khác nên trên lâm sàng thường chia thành các thể:
-Thể Phong hàn thấp tý: THCSC giai đoạn đầu chủ yếu biểu hiện vùng
cổ gáy đau nhức, cứng khó vận động; đau tăng lên khi gặp lạnh, gió, mưa,
ẩm; đau giảm khi chườm ấm hoặc xoa bóp. Ngoài ra có các triệu chứng đau
đầu, đau lan xuống vai, tay; vận động nặng nề, khó khăn, không sưng nóng đỏ
các khớp. Rêu lưỡi trắng mỏng hoặc hơi nhớt, mạch phù hoạt.

-Thể Phong hàn thấp tý kèm can thận hư: Bệnh lâu ngày, thể chất hư
yếu, tà khí làm tổn thương tạng phủ.Can thận hư gây cân cơ co rút, xương
khớp nhức đau, biến dạng, vận động khó khăn [43], [44].
1.2.4. Một số nghiên cứu về lý luận và phương pháp điều trị chứng Tý
theo Y học cổ truyền
Điều trị chứng Tý theo YHCT gồm: khu phong, tán hàn, trừ thấp, thông
kinh hoạt lạc, tư bổ can thận nhằm khôi phục lại sự thăng bằng âm dương,
phù chính khu tà, thông kinh hoạt lạc và khôi phục lại hoạt động sinh lý bình


24

thường của vùng vai gáy [11],[43],[44],[51],[52]. Dựa vào pháp trên, có hai
phương pháp điều trị chính là dùng thuốc và không dùng thuốc.
Nền YHCT có nhiều bài thuốc cổ phương có giá trị trên lâm sàng trong
điều trị chứng Tý, tùy thuộc vào mỗi thể bệnh mà có một bài thuốc phù hợp.
[50], [51],[52],[53].
Về điều trị không dùng thuốc, châm cứu là một trong những phương
pháp chữa bệnh có lịch sử lâu đời của YHCT phương Đông, được sử dụng để
chữa bệnh ở Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên và nhiều quốc gia
trên thế giới. Cơ chế tác dụng của châm cứu là điều hòa âm dương, và điều
chỉnh cơ năng hoạt động của hệ kinh lạc để điều trị bệnh tật [10],[11]. Châm
cứu có bổ có tả, tác dụng của hai thủ thuật này là để điều khí, khi khí được
điều hòa thì huyết sẽ hòa, khí huyết hòa thì kinh mạch thông sướng, âm
dương được nuôi dưỡng tốt, gân xương vững chắc, các khớp vận động được
linh hoạt. Điện châm là phương pháp chữa bệnh phối hợp tác dụng chữa bệnh
của châm với tác dụng của dòng điện qua máy điện châm nhằm tăng tác dụng
đắc khí và dẫn khí khi châm cứu [11].
Ngoài châm cứu, xoa bóp bấm huyệt thì tác động cột sống cũng là
phương pháp thường được dùng trong điều trị đau cổ vai gáy do THCSC.

Theo YHCT, xoa bóp thông qua tác động vào các huyệt vị, kinh lạc để khu tà,
điều hòa được dinh vệ, thông kinh hoạt lạc và điều hòa chức năng tạng phủ;
tác động từ nông đến sâu, từ ngoài vào trong; có tác dụng làm giãn mạch, tăng
tuần hoàn tại chỗ, giãn cơ, đặc biệt là những nhóm cơ bị co cứng trước đó.
Xoa bóp giúp cải thiện các tình trạng trên và làm tăng tính linh hoạt của các
khớp. Một số động tác cơ bản được tiến hành ở vùng CS cổ như: xoa, xát,
day, ấn huyệt (Giáp tích, Kiên tỉnh, Phong trì, Đại chùy, Kiên ngung, A thị
huyệt…), vận động CS cổ...


25

Tác động cột sống sử dụng phần mềm ở đầu ngón tay tác động cơ học
lên hệ cột sống để chẩn bệnh, phòng bệnh và trị bệnh. Tác động cột sống là áp
dụng các thủ thuật tác động trực tiếp tại các trọng điểm hay ổ rối loạn. Giải
tỏa trọng điểm hay ổ rối loạn, cột sống trở lại cân bằng theo đúng trạng thái
sinh lý, bệnh nhẹ dần và tiến tới khỏi [55].
1.3. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ ĐIỀU TRỊ THOÁI HÓA CỘT SỐNG CỔ
TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM

1.3.1. Trên thế giới
Thoái hóa cột sống cổ đã được nhiều tác giả trên thế giới nghiên cứu về
đặc điểm lâm sàng và các phương pháp điều trị, bao gồm cả phương pháp Y
học hiện đại và Y học cổ truyền.
Witt C. M. và cộng sự (2006) đã tiến hành một thử nghiệm lâm sàng
ngẫu nhiên có đối chứng đa trung tâm và một nghiên cứu thuần tập trên hơn
14000 bệnh nhân đau cổ gáy mạn tính trên 6 tháng ở Đức (chọn ngẫu nhiên
1880 BN vào nhóm điều trị châm cứu và 1886 bệnh nhân vào nhóm chứng
không châm cứu, 10395 bệnh nhân vào nhóm châm cứu nghiên cứu thuần
tập). Bệnh nhân nhóm châm cứu được châm 15 lần trong 3 tháng. Kết quản

nghiên cứu cho thấy nhóm châm cứu có kết quả giảm đau và giảm hạn chế
vận động tốt hơn nhóm chứng với p<0,001 và duy trì trong suốt 6 tháng sau
đó. Nhóm nghiên cứu thuần tập có mức độ đau trước điều trị nặng hơn nhóm
ngẫu nhiên, nhưng mức độ phục hồi sau điều trị tốt hơn [56].
He D. và cộng sự (2005) ở khoa Y, Đại học tổng hợp Oslo, Nauy đã
nghiên cứu tác dụng giảm đau cột sống cổ và đau vai mạn tính của châm
cứu ở 24 phụ nữ làm công việc văn phòng (47 ± 9 tuổi) có thời gian đau từ
3 - 21 năm. Kết quả cho thấy châm cứu ngoài tác dụng giảm đau, còn có
tác dụng cải thiện giấc ngủ, giảm các triệu chứng lo lắng, trầm uất và cải
thiện chất lượng cuộc sống. Theo dõi tiếp tục trong 6 tháng đến 3 năm các


×