Tải bản đầy đủ (.doc) (181 trang)

Nghiên cứu dự phòng sâu răng vĩnh viễn giai đoạn sớm bằng nước xúc miệng fluor cho học sinh 7 8 tuổi ở tỉnh phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.74 MB, 181 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trên thế giới, sâu răng hiện vẫn được coi là một trong hai gánh nặng hàng
đầu của chăm sóc sức khỏe răng miệng, bên cạnh bệnh nha chu. Theo báo cáo
sức khỏe răng miệng của WHO năm 2003, bệnh sâu răng ảnh hưởng tới 60-90%
học sinh và phần lớn người trưởng thành ở hầu hết các nước công nghiệp, là
bệnh răng miệng có tỷ lệ mắc cao nhất ở một số nước châu Á và Mỹ La tinh
[81]. Tại Việt Nam, tỷ lệ mắc bệnh đang ở mức độ cao và có chiều hướng tăng
lên nhất là các vùng nông thôn và miền núi. Theo điều tra răng miệng toàn quốc
năm 2001: trẻ 6-8 tuổi sâu răng chiếm 25,4%, trẻ 9-11 tuổi sâu răng chiếm
54,6%, ở trẻ 12 tuổi có 56,6% bị sâu răng, DMFT = 1,87 [22]. Năm 2010,
Trương Mạnh Dũng và cộng sự – Viện Đào tạo Răng Hàm Mặt, Trường Đại học
Y Hà Nội điều tra tại 5 tỉnh thành trong cả nước cho thấy: tỷ lệ sâu răng sữa của
trẻ 4 – 8 tuổi là 81,6%, chỉ số dmft là 4,7 [5].
Trước đây, chẩn đoán bệnh sâu răng sử dụng gương, thám châm, có thể hỗ
trợ bằng Xquang và việc điều trị thường là loại bỏ tổn thương sâu răng và phục
hồi bằng chất hàn theo nguyên tắc của Black khiến mô răng bị mất đi lớn hơn
nhiều so với tổn thương thực sự. Ngày nay nhờ tìm ra được nguyên nhân, cơ chế
bệnh sinh của bệnh sâu răng, cùng với việc áp dụng các thiết bị tiên tiến (như
Laser) và phương pháp chẩn đoán, tiêu chuẩn chẩn đoán mới đã cho phép chẩn
đoán sớm sâu răng (ngay từ giai đoạn tổn thương ban đầu khi chưa hình thành lỗ
sâu). Chính những tiến bộ này đã dẫn tới sự thay đổi trong dự phòng và điều trị
sâu răng, nhằm giảm chi phí và tăng hiệu quả điều trị [43].
Vai trò của Fluor nói chung, nước xúc miệng fluor nói riêng trong dự
phòng và điều trị sâu răng ngày càng được hiểu rõ và khẳng định những đóng
góp của Fluor trong việc làm hạ thấp tỷ lệ và mức độ trầm trọng của sâu răng
trên toàn cầu. Nghiên cứu của Marinho VC và cộng sự (2003), qua phân tích
tổng hợp các nghiên cứu can thiệp bằng fluor thấy dung dịch nước xúc miệng
fluor 0,05% làm giảm sâu răng là 45% (95%CI, 35% - 50%) [68]. Súc miệng
dung dịch fluor là một liệu pháp tại chỗ với nhiều ưu điểm: cung cấp ion fluor




2

trực tiếp cho tất cả các bề mặt của răng ngay khi súc miệng (nhờ fluor tồn tại
dạng ion trong dung dịch), dễ sử dụng, chi phí thấp, nhận được sự chấp nhận
rộng rãi của cộng đồng. Với những ưu điểm này nước xúc miệng fluor trở nên
phổ biến ở các nước phát triển như Nhật Bản và Châu Âu. Trong khi đó ở nước
ta, cho trẻ em tiểu học sử dụng nước xúc miệng fluor 0,05% hoặc 0,2% tại
trường để phòng sâu răng, được coi là một trong bốn nội dung chính của chương
trình nha học đường toàn quốc. Nghiên cứu của Trịnh Đình Hải (2000), cho trẻ
6-15 tuổi súc miệng hàng tuần bằng dung dịch NaF 0,2%, sau 8 năm thấy sâu
răng vĩnh viễn giảm 45% [6]. Sử dụng nước xúc miệng 0,05% có ưu điểm cung
cấp được ion fluor thường xuyên hơn (do số lần súc miệng nhiều) và giảm thiểu
nguy cơ nhiễm độc fluor cho trẻ. Tuy nhiên việc thực hiện nội dung này tại đa số
các trường tiểu học miền núi như tại Phú Thọ vẫn chưa thực hiện được. Đối
tượng học sinh này thiếu thốn hơn học sinh tại thành phố và đồng bằng về các
yếu tố bảo vệ nhằm giảm bớt nguy cơ sâu răng. Ở nước ta những nghiên cứu về
tình trạng sâu răng giai đoạn sớm của trẻ em cũng như việc sử dụng nước xúc
miệng fluor để can thiệp dự phòng và điều trị sâu răng ngay từ giai đoạn này còn
rất hạn chế. Việc nghiên cứu chuyên sâu nhằm tìm ra hiệu quả của nước xúc
miệng fluor trên các đối tượng có nguy cơ sâu răng khác nhau là rất cần thiết
nhằm tạo cơ sở cho việc áp dụng nước xúc miệng fluor vào thực tế cộng đồng.
Xuất phát từ các vấn đề trên chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “Nghiên
cứu dự phòng sâu răng vĩnh viễn giai đoạn sớm bằng nước xúc miệng fluor
cho học sinh 7-8 tuổi ở tỉnh Phú Thọ” với mục tiêu:
1. Xác định tình trạng sâu răng vĩnh viễn giai đoạn sớm và một số yếu tố
liên quan ở học sinh 7-8 tuổi tại 2 trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng và Tân Dân,
tỉnh Phú Thọ, năm 2015.
2. Đánh giá hiệu quả sử dụng nước xúc miệng fluor (NaF 0,05%) trên

nhóm học sinh có tổn thương sâu răng vĩnh viễn giai đoạn sớm (D1, D2).
Trên cơ sở đó đề xuất sử dụng nước xúc miệng fluor (NaF 0,05%) dự
phòng và điều trị bệnh sâu răng cho trẻ em.


3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. Một số đặc điểm bộ răng sữa, răng vĩnh viễn và bệnh lý răng trẻ em
1.1.1. Đặc điểm bộ răng sữa và răng vĩnh viễn
Theo hiệp hội Răng trẻ em Mỹ (1999): Răng trẻ em là một khái niệm
chuyên biệt về tuổi, bao gồm chăm sóc răng miệng ban đầu và chuyên khoa,
toàn diện cả về điều trị và dự phòng ở trẻ em đến tuổi vị thành niên.
Có nhiều cách để phân chia các giai đoạn phát triển của trẻ dựa vào giai
đoạn phát triển thể chất, vận động, tâm lý và dựa theo sự phát triển của hàm
răng... Do đó sự phát triển của trẻ em được phân chia làm bốn giai đoạn như sau:
Giai đoạn từ thụ thai đến 3 tuổi: hàm răng sữa mọc lên hoàn chỉnh
trong miệng
Giai đoạn từ 3 đến 6 tuổi: hàm răng sữa
Giai đoạn từ 6 đến 12 tuổi: hàm răng hỗn hợp
Giai đoạn từ 12 đến 18 tuổi: hàm răng vĩnh viễn [16]
* Giai đoạn từ thụ thai đến 3 tuổi:
Trước khi sinh:
- 3 tháng đầu: tuần đầu tiên gọi là giai đoạn mầm, sự biệt hóa của nội bì
và ngoại bì xảy ra trong tuần lễ thứ 2 và sự biệt hóa trung bình xảy ra tuần thứ
3. Tuần thứ 4 được đánh dấu bởi sự hình thành lá răng. Vào khoảng tuần thứ
6, mầm răng sữa phát triển trong mô ngoại bì của lá răng và sự xâm nhập của
mô liên kết bên dưới bắt đầu hình thành nhú răng. Cuối tháng thứ 3, xuất hiện
phổi tim và mẩu khẩu cái đóng kín [16].



4

Hình 1.1. Sự phát triển của lá răng [88]
- 3 tháng giữa: Thân răng sữa bắt đầu vôi hóa khoảng tuần thứ 14 đối
với răng cửa và răng cối thứ nhất, khoảng tuần thứ 16-18 với răng nanh và
răng cối thứ 2. Trình tự vôi hóa răng sữa: răng của giữa, răng cối thứ nhất,
răng cửa bên, răng nanh và răng cối thứ 2. Cùng với sự vôi hóa, các mầm răng
vĩnh viễn bắt đầu phát triển ở phía lưỡi của răng sữa.
- 3 tháng cuối: là thời kỳ đánh giá khả năng sống của thai nhi.
Từ năm đầu đến 3 tuổi:
Đối với răng sữa:
8 răng cửa: thân răng hoàn tất vào khoảng 4-6 tháng trước khi mọc
12 răng còn lại: thân răng hoàn tất vào khoảng 6-12 tháng trước khi mọc
Chân răng hoàn tất vào một năm sau
Răng: khi trẻ được 24 đến 30 tháng thì trẻ có đủ 20 răng sữa.
Sự vôi hóa thân răng vĩnh viễn bắt đầu lúc sinh với những răng cối thứ
nhất, giữa 3-12 tháng tuổi đối với những răng trước và giữa 1,5 – 3 năm cho
những răng còn lại trừ răng cối thứ 3.
*Giai đoạn từ 3 - 6 tuổi:
Thân răng vĩnh viễn hoàn tất vào khoảng 3 năm trước trước khi răng đó
mọc. Do đó, các răng cửa vĩnh viễn và răng cối thứ nhất hoàn tất sự thành lập
men trong thời kỳ này.


5

*Giai đoạn từ 6 – 12 tuổi:
Là giai đoạn chuyển giao từ răng sữa sang răng vĩnh viễn. Sự chuyển

giao này được gọi là thời kỳ răng hỗn hợp, trong thời kỳ này tất cả 20 răng
sữa rụng đi và 28 răng vĩnh viễn mọc.
Sự hoàn tất chân răng của mỗi răng vĩnh viễn xảy ra khoảng 3 năm sau
khi răng sữa rụng đi và 28 răng vĩnh viễn mọc.
Sự mọc các răng vĩnh viễn được chia làm 4 giai đoạn:
Giai đoạn 1: mọc răng cối lớn thứ nhất và các răng cửa giữa vĩnh viễn
Giai đoạn 2: mọc các răng cửa bên vĩnh viễn
Giai đoạn 3: Mọc răng nanh, răng hàm nhỏ và răng hàm lớn thứ 2 bắt
đầu từ 10 đến 12-13 tuổi.
Giai đoạn 4: Mọc răng khôn [16].
1.1.2. Đặc điểm khác nhau giữa răng sữa và răng vĩnh viễn

Hình 1.2. Cấu trúc răng [54]


6

1.1.2.1. Hình thể ngoài
Thân răng [15]
- Răng sữa có kích thước thường nhỏ hơn răng vĩnh viễn, trừ răng hàm
sữa có kích thước gần xa lớn hơn răng vĩnh viễn thay thế tương ứng.
- Thân răng sữa thấp hơn thân răng vĩnh viễn, kích thước theo chiều
gần xa lớn hơn chiều cao, tỷ lệ đường kính gần xa/chiều cao thân răng lớn
hơn răng vĩnh viễn.
- Thân răng sữa có chiều cao chiếm tỷ lệ 1/3 chiều cao toàn bộ của răng
trong khi đó thân răng vĩnh viễn chiếm khoảng 35 đến 45%.
- Mặt nhai thu hẹp nhiều hơn do vậy sự khác nhau giữa đường kính lớn
nhất của thân răng và đường kính lớn nhất của mặt nhai rõ hơn ở răng sữa.
- Mặt nhai nông hơn, các múi răng ngắn và hầu như phẳng, gờ cắn
không rõ và các hố rãnh không sâu như ở răng vĩnh viễn.

- Răng hàm sữa thứ hai lớn hơn răng hàm sữa thứ nhất, khác với ở hàm
răng vĩnh viễn.
- Thân răng sữa được phủ bởi một lớp men mỏng hơn, đều đặn hơn
và đục hơn răng vĩnh viễn nên có màu như sữa. Ngà răng sữa mỏng và đều
đặn hơn.
- Chiều dày lớp ngà ở hố rãnh tương đối dày dặn hơn so với răng vĩnh
viễn (có tính chất tương đối khi so sánh ở thân răng sữa).
- Gờ cổ răng nhô cao (nhất là mặt ngoài), gờ này rõ ràng ở mặt má các
răng cối sữa, đặt biệt là ở các răng hàm sữa thứ nhất. Mặt lưỡi của các răng
cửa sữa thường không có các hố và mamelons.
- Trụ men ở cổ răng nghiêng về phía mặt nhai (thay vì về phía lợi như ở
răng vĩnh viễn).
- Cổ răng thắt lại rõ rệt và thu hẹp hơn, mặt má và mặt lưỡi phía trên gờ
cổ răng phẳng hơn. Thân răng và chân răng của răng hàm sữa hẹp hơn theo
chiều gần xa ở 1/3 cổ so với các răng hàm vĩnh viễn.


7

- Vùng tiếp xúc của răng cối sữa rộng hơn.
- Đường kính lớn nhất của thân răng và nhỏ nhất của thân răng ở phía
cổ răng khác biệt nhau nhiều, mặt bên phân kì nhiều ở cổ răng.
- Quan sát mặt bên của các răng cửa phía trước có một gờ bên men
răng, tạo nên một góc nhọn với bề mặt chân răng ở đường ranh giới menxê măng.
- Răng hàm sữa có lồi men nằm ở chỗ ¼ cổ răng thân răng tiền đình và
mặt trong, ngược lại ở răng vĩnh viễn ở mặt tiền đình và lưỡi, phía trên đường
vòng lớn nhất và phẳng hơn.
Chân răng [15]
- Chân răng sữa về mặt tỷ lệ mảnh hơn và dài hơn so với răng vĩnh viễn
tương ứng và kết thúc bởi một chóp răng nhọn. Chân răng hẹp theo chiều gần

xa hơn chiều ngoài trong.
- Chân răng cửa sữa không nghiêng về phía tiền đình (môi, ngoài).
- Chân răng tách ra ở gần cổ răng hơn, càng xa hơn về phía chóp răng,
tạo chỗ cho mầm răng vĩnh viễn bên dưới phát triển và sau đó cong chụm lại
ở phía chóp. Các mầm răng tiền hàm vĩnh viễn phát triển giữa các chân răng.
Sự phân kì tăng nhờ cổ răng bị hẹp. Hình chiếu của chân răng hàm sữa nằm
ngoài đường viền thân răng. Không có thân chân răng [15].
1.1.2.2. Tuỷ răng (hình thể trong)
- Ngà răng ở răng sữa mỏng hơn.
- Sàn tủy lồi hơn và nằm sâu trong thân răng hơn, do vậy lớp ngà ở mặt
nhai dày hơn.
- Thể tích buồng tủy lớn hơn răng vĩnh viễn, ống tủy rộng hơn.
- Nếu so sánh với tỷ lệ kích thước thân răng thì tuỷ răng sữa lớn hơn.
- Sừng tuỷ nằm gần đường nối men ngà hơn, rất nhọn và lên cao trong
các núm răng. Thường thường bên dưới mỗi múi răng là một sừng tuỷ.


8

- Sừng tuỷ phía gần lên cao hơn sừng tuỷ phía xa.
- Buồng tuỷ răng cối dưới lớn hơn răng cối trên. Hình dáng buồng tuỷ
mô phỏng theo hình dáng bên ngoài của thân răng.
- Về phương diện mô học, có rất ít sự khác biệt giữa mô tuỷ răng sữa và
răng vĩnh viễn mới mọc:
+ Kích thước buồng tuỷ và ống tuỷ răng sữa thay đổi rất đáng kể ở từng
trẻ. Ngay sau khi mọc lên buồng tuỷ răng sữa rất rộng. Buồng tuỷ giảm dần
kích thước theo tuổi và dưới ảnh hưởng của chức năng, độ mòn mặt nhai hoặc
bờ cắn răng sữa. Có nhiều ống tuỷ phụ đi từ sàn buồng tuỷ đến vùng chẽ chân
răng, nên khi tuỷ bị nhiễm trùng, thường có sang thương vùng chẽ.
+ Thay vì mô tả chi tiết hình dáng của từng buồng tuỷ, nha sĩ nên quan

sát kỹ buồng tuỷ trên phim tia X trước khi điều trị. Cũng như do sự khác biệt
về thời gian vôi hoá, thời gian mọc răng ở từng trẻ, nên có sự khác biệt về
hình dáng thân răng và kích thước buồng tuỷ. Tuy nhiên cần phải nhớ là phim
tia X không xác định được hoàn toàn mức độ đi sâu vào múi răng của từng
sừng tuỷ. Cần lưu ý để không làm lộ tuỷ khi tạo xoang trám [15].
1.1.3. Một số đặc điểm bệnh lý răng trẻ em
Các vấn đề răng miệng thường gặp ở trẻ em:
- Sâu răng: sâu răng sữa, sâu răng vĩnh viễn giai đoạn sớm và giai đoạn muộn.
- Bệnh vùng quanh răng: bao gồm nhóm các bệnh ảnh hưởng đến cấu
trúc nâng đỡ của răng: lợi tự do, lợi bám dính, dây chằng quanh răng, cement
và xương ổ răng. Các bệnh vùng quanh răng được chia làm 2 nhóm bệnh
chính: viêm lợi và viêm quanh răng
+ Viêm lợi: viêm lợi cấp, viêm lợi mạn, phì đại lợi do dùng thuốc, viêm
lợi do sang chấn.
+ Viêm quanh răng mạn tính ít gặp ở trẻ em, nếu có gặp các tổn thương
phá hủy quanh răng ở trẻ em thường liên quan đến một vài sai lệch về đáp
ứng của vật chủ như hội chứng Down, bệnh đái tháo đường ở người trẻ...


9

- Một số bệnh tủy răng sữa: Chẩn đoán bệnh lý tủy răng sữa rất phức tạp
do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan khác nhau. Để chẩn đoán xác định cần
phải có sự đối chiếu chặt chẽ giữa lâm sàng và cận lâm sàng để chẩn đoán tình
trạng bệnh lý, giai đoạn sinh lý của răng, tình trạng mầm răng bên dưới.
+ Viêm tủy
+ Hoại tử tủy không có bệnh quanh chóp: đây là bệnh lý hay gặp nhất
trong bệnh lý tủy răng trẻ em
+ Hoại tử tủy có biến chứng vùng quanh chóp
+ Hội chứng vách

+ Hội chứng chẽ răng
- Một số bệnh lý tủy răng vĩnh viễn: Viêm tủy có hồi phục và viêm tủy
không hồi phục.
Tóm lại: đặc điểm sinh lý răng miệng nổi bật của trẻ em là quá trình
phát triển qua từng giai đoạn, từng độ tuổi khác nhau thấy ở tất cả các vùng
răng, miệng – hàm mặt. Các bệnh lý răng miệng đặc trưng ở trẻ em có liên
quan chặt chẽ với chế độ ăn uống, hướng dẫn vệ sinh răng miệng và phương
pháp dự phòng răng miệng. Trong phạm vi nghiên cứu, chúng tôi xin phân
tích sâu hơn về bệnh sâu răng, một số yếu tố liên quan và dự phòng bệnh răng
miệng đặc biệt bệnh sâu răng vĩnh viễn giai đoạn sớm ở trẻ em [16].
1.2. Bệnh sâu răng và sâu răng giai đoạn sớm
1.2.1. Một số định nghĩa
1.2.1.1. Định nghĩa bệnh sâu răng
Tại hội nghị quốc tế về sâu răng lần thứ 50 năm 2003, các tác giả đều
thống nhất: sâu răng là một bệnh nhiễm khuẩn tổ chức canxi hóa, được đặc
trưng bởi sự hủy khoáng của thành phần vô cơ và sự phá hủy thành phần hữu
cơ của mô cứng. Tổn thương là quá trình phức tạp bao gồm các phản ứng hóa
lý liên quan đến sự di chuyển các ion bề mặt giữa răng và môi trường miệng
đồng thời là quá trình sinh học giữa các vi khuẩn có trong mảng bám với cơ


10

chế bảo vệ của vật chủ. Quá trình này diễn tiến liên tục, nhưng giai đoạn sớm
có thể hoàn nguyên và giai đoạn muộn không thể hoàn nguyên [55].
1.2.1.2. Định nghĩa bệnh sâu răng sớm
Theo định nghĩa của Viện Hàn lâm Nha khoa trẻ em Hoa Kỳ (AAPD), sâu
răng sớm ở trẻ em là tình trạng xuất hiện một hoặc nhiều tổn thương sâu (có thể
đã hình thành lỗ sâu hoặc chưa), mất răng (do sâu răng), các mặt răng sâu đã
được trám trên bất kỳ răng sữa nào ở trẻ 71 tháng tuổi hoặc nhỏ hơn [16].

1.2.1.3. Định nghĩa sâu răng giai đoạn sớm
Hiện tượng giảm độ pH dẫn tới sự khử khoáng làm tăng cường khoảng
cách giữa các tinh thể Hydroxyapatite, mất khoáng bắt đầu ở dưới bề mặt
men, tổn thương lâm sàng mất 10% lượng chất khoáng được gọi là sâu răng
giai đoạn sớm [63].
1.2.2. Bệnh căn sâu răng
Sâu răng là bệnh do nhiều yếu tố gây nên. Sơ đồ Keyes (1960) về cơ
chế bệnh sinh đã được Fejerskov và Manji bổ sung năm 1990 cho thấy mối
liên quan giữa yếu tố bệnh căn – lớp lắng vi khuẩn và các yếu tố sinh học
quan trọng ảnh hưởng tới sự hình thành sang thương bề mặt răng, ngoài ra
còn có ảnh hưởng của các yếu tố thuộc về hành vi và kinh tế - xã hội [8],[48].

Sơ đồ 1.1. Cơ chế bệnh sinh sâu răng
Nguồn: Fejerskov và Manji [48]


11

1.2.2.1. Vai trò của vi khuẩn và mảng bám răng
* Yếu tố vi khuẩn
Bệnh sâu răng được khởi đầu bằng sự hình thành mảng bám răng.
Hydratcarbon trong thức ăn được chuyển hóa thành Glucose sau đó được
polymer hóa thành Dextran bởi enzym dextranaze và glucosyltransferase [48].
Dextran có tính bám dính nên tạo điều kiện để các vi khuẩn khác và các mảnh
thức ăn bám thêm vào [11],[28].
Các vi khuẩn tham gia chủ yếu vào quá trình này là Streptococcus
mutans, Actinomyces viscosus, S. sobrinus và một số chủng Lactobacillus
[31],[40].
Hiệp hội nha khoa Mỹ năm 2006, đã xếp việc đếm số lượng vi khuẩn
Streptococcus mutans trong nước bọt của bệnh nhân là một trong các tiêu chí

khi đánh giá yếu tố nguy cơ gây sâu răng [27].
* Màng sinh học (Biofilm)
Màng sinh học là một quần thể các vi khuẩn sống trong những cấu trúc
có tổ chức ở giao diện giữa một mặt cứng và chất lỏng tồn tại trên bề mặt răng
[33],[79].
Marsh đưa ra quan niệm mới về mảng bám răng: mảng bám răng được
xem như là màng sinh học trong đó cộng đồng các vi khuẩn bám dính trên bề
mặt răng được bao phủ bởi một khuôn Polymer ngoại bào của ký chủ hay vi
khuẩn [80].
Khả năng gây sâu răng của mảng bám phụ thuộc vào độ dính của chúng
lên răng, khả năng gây acid (các acid Lactic, Formic) từ đường C12 và C6, độ
pH của môi trường miệng [70],[80].
ADA Mỹ năm 2006, cũng đã đưa việc kiểm tra mảng bám trên răng
là một trong các tiêu chí quan trọng khi đánh giá yếu tố nguy cơ gây sâu
răng [27].


12

1.2.2.2. Vai trò của Carbonhydrat
Các loại đường khác nhau có sự khác biệt nhỏ về khả năng gây acid,
trong đó Sucrose có vai trò đặc biệt quan trọng vì đó là chất nền duy nhất để
tổng hợp các Glucan ngoại bào tan và không tan trong nước. Những Glucan
không tan trong nước làm tăng sự tích tụ của Streptococcus mutans trên bề
mặt láng của răng, làm thay đổi hệ sinh thái của mảng bám răng, làm tăng
nguy cơ sâu răng do làm tăng độ xốp của mảng bám, tạo nên nhiều acid sát
với bề mặt răng hơn, thúc đẩy quá trình hủy khoáng của răng [37].
1.2.2.3. Các yếu tố nội sinh của răng
* Cấu trúc mô học và hóa học của men răng
- Men răng có nguồn gốc ngoại bì, men răng là một tổ chức cứng

nhất cơ thể.
- Về mặt lý học: men răng cứng, giòn, trong và cản tia X, với tỷ trọng
từ 2,3 - 3 so với ngà răng.
- Men răng phủ toàn bộ thân răng, dày mỏng tùy vị trí khác nhau, dày
nhất ở núm răng là 1,5mm và mỏng nhất ở vùng cổ răng.
- Về mặt hóa học gồm:
+ Thành phần hữu cơ
Thành phần hữu cơ của men răng là các cấu trúc sợi. Cấu trúc này thấy
ở khắp nơi nhưng ở vùng vỏ trụ men thì dày đặc hơn. Hướng của sợi cũng sắp
xếp theo như hướng của các tinh thể vô cơ. Ở trong trụ men, hướng của sợi
dọc theo hướng trục của trụ men. Ở vùng giữa các trụ men, hướng của sợi đi
chéo hướng 400 đối với trục của trụ men. Nhiều tác giả cho rằng cấu trúc sợi
hữu cơ của men là một loại protein loại keratin, nhưng vẫn chưa hoàn toàn
nhất trí nó thuộc loại keratin nào [20].
+ Thành phần vô cơ
Là những tinh thể to nhỏ khác nhau, có chiều dài khoảng 1µm và rộng
khoảng 40-100 µm. Ở trong trụ men, hướng tinh thể nằm dọc theo trục của trụ


13

men, ở vùng giữa nó nằm chếch 45 0 so với trục của trụ men. Người ta cũng có
thể thấy ở trong trụ men các tinh thể sắp xếp theo hình xương cá và đôi khi
cũng thấy tinh thể đó sắp xếp theo hình lốc.
Thành phần vô cơ của men răng rất phức tạp, nếu như trụ men được
cấu tạo bởi các tinh thể hydroxyl apatit thì hất giữa các trụ men được hình
thành bởi các tinh thể phosphate giả apatit [20].
Có sự liên quan chặt chẽ theo tỷ lệ của phospho vàfluor trong men và
ngà răng thông qua công thức F(ppm) = A F/P (F: lượng fluor đo được, P:
lượng phospho đo được, A = 696 đối với men, A = 540 đối với ngà răng).

Nồng độ phospho trong men là 17,4% và trong ngà là 13,5%, lượng fluor
thường ≤10%.
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu và đều có cùng một kết luận là
nồng độ của fluor trong mô răng thay đổi rất nhiều từ người này sang người
khác, nhưng có liên quan chặt chẽ với nồng độ fluor trong môi trường, đặc
biệt là fluor trong nước uống trong thời kỳ khoáng hóa của răng [7].
- Cấu trúc tổ chức học
Quan sát trên kính hiển vi thấy hai loại đường vân:
+ Đường Retzius thấy trên tiêu bản cắt ngang là các đường chạy song song
nhau và song song với đường viền ngoài của lớp men cũng như với đường ranh
giới men, ngà ở phía trong.
+ Đường trụ men chạy suốt chiều dày men răng, đôi khi có sự gấp khúc
và thay đổi hướng đi của trục men.
+ Trụ men có đường kính từ 3-6 µm khi cắt ngang trụ men ta thấy hướng
đi của trụ men tạo ra các dải sáng tối xen kẽ chính là dải Hunter – Schrege [20].
- Cấu trúc siêu vi của men
+ Thấy thành phần hữu cơ có cấu trúc sợi và sắp xếp dọc theo trụ men,
có vùng lại hợp với trụ men một góc 400, thành phần vô cơ là các khối tinh


14

thể to nhỏ không đều dài 1µm, rộng 0,04 - 1µm, các tinh thể trong trụ men
sắp xếp theo hình xương cá đôi khi theo hình lốc. Có ba dạng tinh thể chủ yếu
của trụ men là Hydroxyapatit, Fluorapatite, Carbonat,chất giữa trụ men là các
tinh thể giả apatit (thay PO4 = CaCO3, MgCO3, CaF2,..).
+ Sự sắp xếp của các tinh thể men răng có sự khác nhau tại các vị trí
của men trên răng:
Tại vùng men răng ở các bề mặt nhẵn, các tinh thể xếp chồng lên nhau
theo hình xương cá, sự sắp xếp này tạo ra nhiều khoảng trống giữa các trụ

men, đây là điều kiện thuận lợi cho sự trao đổi chất của men răng với môi
trường miệng khi men răng mới mọc và chưa trưởng thành.
Tại vùng men ở hố rãnh, các tinh thể sắp xếp chồng lên nhau theo hình
lốc xoáy hay hình mái ngói, sự sắp xếp này tạo ra sự khít sát cao và dầy đặc
hơn của các tinh thể men (Hydroxyapatit). Điều này làm cho men răng vùng
này cứng hơn so với men tại bề mặt nhẵn ngay tại thời điểm khi men răng
mới mọc, tuy nhiên chính sự khít sát cao này cũng làm hạn chế sự trao đổi
chất của men răng với môi trường miệng dẫn đến hạn chế sự trưởng thành của
men răng sau khi mọc (Fluorapatit thay thế cho Hydroxyapatit rất thấp, làm
giảm tính đề kháng khi men răng trưởng thành). Đây cũng chính là một trong
các lý do giải thích tại sao vùng hố rãnh có tỷ lệ sâu răng cao hơn vùng mặt
nhẵn của răng, cũng như việc phòng sâu răng cho vùng này bằng các biện
pháp cung cấp fluor cho kết quả không cao.
* Quá trình trao đổi chất của men răng đã trưởng thành
Quá trình trao đổi chất với môi trường miệng vẫn diễn ra thường xuyên
và liên tục trong suốt đời sống của răng, nhưng có sự thay đổi về mức độ ở
các độ sâu khác nhau của men. Sự trao đổi khoáng chất diễn ra chủ yếu ở lớp
men phía ngoài cùng (vài µm từ ngoài vào), quá trình này có chiều hướng
giảm đi ở những lớp men phía trong.


15

Xét về bản chất hóa học ngoài việc tiếp nhận khoáng chất từ môi
trường miệng để thay thế hay tạo lập tinh thể khác trong men (tái khoáng),
song song với nó cũng diễn ra quá trình hủy khoáng và cung cấp khoáng chất
vào môi trường miệng. Yếu tố môi trường miệng có vai trò quan trọng ảnh
hưởng tới cán cân trao đổi chất của men răng với môi trường miệng.
Các thành phần khoáng chất được trao đổi giữa men răng và môi trường
miệng khi men đã trưởng thành cũng gồm chủ yếu là các ion fluor, canxi, phosphat.

Việc hiện diện của ion fluor trong cấu trúc men và môi trường miệng,
đóng vai trò quan trọng và ảnh hưởng tới sự trao đổi các thành phần khác cũng
như sức đề kháng của men răng, fluor làm giảm hủy khoáng và tăng tái khoáng
men răng, điều này đã được rất nhiều nghiên cứu đã tập trung làm rõ [48].
1.2.2.4. Các yếu tố ngoại sinh
- Nước bọt có vai trò quan trọng bảo vệ răng thể hiện ở:
+ Dòng chảy và tốc độ lưu chuyển của nước bọt trong miệng là yếu tố
làm sạch tự nhiên, lấy đi các mảnh thức ăn thừa và vi khuẩn trên bề mặt răng.
+ Tạo lớp màng mỏng có tác dụng như một hàng rào bảo vệ răng khỏi
sự tấn công của acid.
+ Tăng cường khoáng hóa nhờ có sẵn các ion canxi, fluor, phosphat.
+ Khả năng đệm, trung hòa acid.
+ Sự hiện diện của các yếu tố kháng khuẩn như IgA, Lyzozyme...
Ngày nay, dựa trên y học bằng chứng việc kiểm tra lưu lượng nước bọt
cũng đã được ADA đưa vào tiêu chí khi đánh giá nguy cơ sâu răng cho bệnh
nhân [55],[64].
- Chế độ ăn nhiều đường, nhất là ăn vặt thường xuyên giữa các bữa ăn
chính làm tăng nguy cơ sâu răng.
- Các yếu tố di truyền, kinh tế xã hội, môi trường, sử dụng các thuốc
gây nghiện, chỉnh nha, phục hình không đúng quy cách v.v… đã được chứng
minh và được xếp vào nhóm các yếu tố nguy cơ gây sâu răng cần được cân
nhắc khi đánh giá và can thiệp kiểm soát sâu răng.


16

1.2.3. Sinh lý bệnh quá trình sâu răng
Sinh lý bệnh quá trình sâu răng là sự mất cân bằng giữa 2 quá trình huỷ
khoáng và tái khoáng. Khi đó các yếu tố gây mất ổn định mạnh hơn các yếu
tố bảo vệ cho mô răng [27],[31].

- Sự huỷ khoáng (Demineralization)
Sự chuyển muối khoáng quá nhiều từ men ra dịch miệng trong thời gian
dài sẽ gây tổn thương tổ chức cứng của răng. Trên lâm sàng và thực nghiệm đã
chứng minh rằng ở giai đoạn này, khi các matrix protein chưa bị huỷ thì thương
tổn có khả năng hồi phục nếu muối khoáng từ dịch miệng và cơ thể lắng đọng
trở lại. Khi các matrix protein đã bị huỷ thì sâu răng không thể hồi phục được.
Các thành phần tinh thể men răng có khả năng đề kháng lại mức giảm
pH khác nhau: ở mức pH <5,5 Cacbonat, Hydroxyapatite [Ca10(PO4)6(OH)2]
cùng CaF2 và các muối kim loại khác bị hòa tan, Fluorapatite bền vững hơn
chỉ tan khi pH giảm tới mức <4,5. Do sự mất khoáng không đồng đều này
khung protein và tinh thể Fluorapatit bền vững hơn còn lại chưa bị tan trở
thành khung đỡ cho sự tái khoáng trở lại.
Sự giảm độ pH dẫn tới sự hủy khoáng men răng gây tăng khoảng cách
giữa các tinh thể Hydroxyapatite và hư hỏng các tinh thể này, mất khoáng bắt
đầu ở dưới bề mặt men, tổn thương lâm sàng được coi là sâu răng giai đoạn
sớm khi lượng khoáng chất mất >10% [42],[64].

Hình 1.3. Sự hủy khoáng [64]


17

- Sự tái khoáng (Remineralization)
Quá trình tái khoáng ngược với quá trình hủy khoáng, xảy ra khi pH
trung tính, có đủ ion F1-, Ca2+ và PO43- trong môi trường nước bọtsau các bữa
ăn, vi khuẩn (chủ yếu là Streptococcus mutans, Lactobacille và Antinomyces
viscosus) lên men các loại Cacbonhydrat, làm tích tụ acid ở mảng bám răng và
gây nên sự mất muối khoáng của men răng. Song song với hiện tượng hủy
khoáng, cơ thể cũng tạo ra cơ chế bảo vệ của nước bọt [38].
Các chất đệm, các chất kháng khuẩn, Calcium, Phosphat và fluor làm

ngưng sự tấn công của acid và sửa chữa các tổn thương, đó là sự tái khoáng [38].

Hình 1.4. Sự tái khoáng [38]
1.2.4. Tiến triển của tổn thương sâu răng
- Sâu răng là một quá trình động và mạn tính. Sâu răng xảy ra do sự
phóng thích acid hình thành trong mảng bám phủ lên bề mặt răng nhạy cảm.
Các vi khuẩn sinh acid trong mảng bám lên men Carbohydrate có sẵn và sản
xuất acid. Acid khuếch tán vào men, ngà làm hòa tan hoặc hòa tan một phần
Carbonate, Hydroxyapatite, Fluorapatite. Nếu việc hủy khoáng không dừng
lại, sang thương sớm dưới bề mặt sẽ chuyển thành lỗ sâu [34].
- Thời gian cho một tổn thương tiến triển từ sâu răng giai đoạn sớm
(tương ứng với chỉ số ICDAS là 1 hoặc 2) cho tới lúc hình thành lỗ sâu trên
lâm sàng có thể thay đổi từ một vài tháng cho tới trên 2 năm, tùy thuộc vào sự
cân bằng của hai quá trình hủy khoáng và tái khoáng [34].


18

1.2.5. Phân loại sâu răng
Có rất nhiều cách phân loại bệnh sâu răng. Có những phân loại phù hợp
cho chẩn đoán, điều trị hàng ngày, có phân loại phục vụ cho điều tra nghiên
cứu khoa học, cho tiên lượng và dự phòng bệnh...v.v [8],[83]. Sau đây là
những cách phân loại hay áp dụng cho nghiên cứu khoa và trong cộng đồng.
1.2.5.1. Phân loại theo “site and size”
Bảng 1.1. Phân loại “site and size”
Kích thước
Vị trí
Hố rãnh
1
Mặt tiếp giáp

2
Cổ răng
3

Nhỏ
1

Trung bình
2

Rộng
3

Rất rộng
4

1.1

1.2

1.3

1.4

2.1

2.2

2.3


2.4

3.1

3.2

3.3

3.4

- Site: tổn thương sâu răng xuất hiện tại 3 vị trí trên thân và chân răng, nơi
tích tụ mảng bám răng, gồm:
+ Vị trí 1: tổn thương ở hố rãnh và các mặt nhẵn.
+ Vị trí 2: tổn thương kết hợp với mặt tiếp giáp.
+ Vị trí 3: sâu cổ răng và chân răng.
- Size: có 4 kích thước của tổn thương sâu răng:
+ Loại 1: tổn thương nhỏ, vừa mới ở ngà răng, cần điều trị phục hồi,
không thể tái khoáng.
+ Loại 2: tổn thương mức độ trung bình, liên quan đến ngà răng, thành
lỗ sâu còn đủ, cần tạo lỗ hàn.
+ Loại 3: tổn thương rộng, thành không đủ hoặc nguy cơ vỡ, cần phải
có các phương tiện lưu giữ cơ sinh học.
+ Loại 4: tổn thương rộng làm mất cấu trúc của răng [10].


19

1.2.5.2. Phân loại theo ngưỡng chẩn đoán (theo Pitts)
Năm 1997 Pitts đó miêu tả bằng hình ảnh về lợi ích của việc phát hiện
sâu răng sớm. Bằng việc sử dụng hình ảnh ẩn dụ của núi băng trôi, ta có thể

thấy các phương pháp phát hiện sâu răng truyền thống dẫn đến rất nhiều
thương tổn không được phát hiện [83].
D0:

+ Không phát hiện trên lâm sàng bằng phương pháp thông thường,

tổn thương chỉ có thể phát hiện được bằng các phương tiện hiện đại (Laser,...).
+ Tổn thương có thể phát hiện trên lâm sàng nhờ hỗ trợ Xquang.
D1: Tổn thương phát hiện trên lâm sàng, bề mặt men răng còn giữ
nguyên cấu trúc.
D2: Tổn thương phát hiện trên lâm sàng không cần cận lâm sàng (tổn
thương chỉ giới hạn ở men răng).
D3: Tổn thương phát hiện trên lâm sàng khi đã tổn thương vào ngà răng.
D4: Tổn thương vào tủy răng.
Tổn thương ở hai tầng, tầng dưới là sâu răng giai đoạn sớm, không thể
phát hiện được, phải nhờ phương tiện hỗ trợ hoặc nhờ chẩn đoán hiện đại. Sâu
răng ở giai đoạn sớm có thể hồi phục hoàn toàn nếu được can thiệp và tái
khoáng kịp thời mà không cần khoan trám. Hình ảnh “tảng băng trôi” giúp
phân biệt các giai đoạn tiến triển của sâu răng, mức độ nổi của tảng băng tùy
thuộc vào ngưỡng chẩn đoán và mục đích sử dụng của các nghiên cứu.
Ngưỡng chẩn đoán từ D3 được dùng cho các nghiên cứu dịch tễ học,
sâu răng được xác định khi tổn thương đã vào ngà răng.
Ngưỡng chẩn đoán từ D1 dành cho các thử nghiệm về nghiên cứu và thực
hành lâm sàng, qua đó có các biện pháp dự phòng và điều trị thích hợp [83].


20

Sơ đồ 1.2. Sơ đồ phân loại của Pitts [83]
1.2.5.3. Phân loại theo hệ thống đánh giá ICDAS

ICDAS là một hệ thống mới đã được WHO đưa ra năm 2005, có ưu
điểm giúp phát hiện, đánh giá và chẩn đoán được sâu răng ngay từ các giai
đoạn sớm qua khám và quan sát bằng mắt thường.
Các thành phần trong hệ thống ICDAS bao gồm: hệ thống tiêu chí phát
hiện sâu răng ICDAS, hệ thống tiêu chí đánh giá hoạt động của sâu răng
ICDAS và hệ thống chẩn đoán sâu răng [55],[56].
Bảng 1.2. Tiêu chuẩn phát hiện sâu thân răng nguyên phát theo ICDAS
Mã số

Mô tả

0

Lành mạnh

1

Đốm trắng đục (sau khi thổi khô 5 giây)

2

Đổi màu trên men (răng ướt)

3

Vỡ men định khu (không thấy ngà)

4

Bóng đen ánh lên từ ngà


5

Xoang sâu thấy ngà

6

Xoang sâu thấy ngà lan rộng (>1/2 mặt răng)


A

21

B

1.2.6. Chẩn đoán sâu răng
Có nhiều phương pháp được áp dụng để chẩn đoán sâu răng, mỗi
phương pháp có một ngưỡng chẩn đoán và tiêu chuẩn chẩn đoán khác nhau:
* Thăm khám bằng mắt: thổi khô bề mặt răng thấy tổn thương là các vết trắng,
độ đặc hiệu của phương pháp này là 90% nhưng độ nhạy trung bình hoặc thấp
0,6 - 0,7. Các vết trắng chỉ có thể nhìn thấy sau khi thổi khô là những tổn thương
có khả năng hồi phục cao bằng cách điều trị tái khoáng hoá mà không cần phải
mài răng, ngược lại những vết trắng có thể nhìn thấy ngay ở trạng thái ướt không
cần phải làm khô răng thì khả năng hồi phục sẽ thấp hơn.
Các phương tiện hỗ trợ chẩn đoán các tổn thương sớm:

Hình 1.5. Tổn thương sâu men chưa hình thành lỗ sâu [10]
(A) Sâu hố rãnh, (B) Vết trắng (white spot)
* Phim cánh cắn: các dấu hiệu mất cản quang ở mặt bên hoặc mặt nhai trên

Xquang chỉ có thể cho phép chẩn đoán là có sự huỷ khoáng chứ không chẩn
đoán được sự phá huỷ lớp bề mặt và sự hình thành lỗ sâu, trừ khi tổn thương
bị phá huỷ rộng.
* ECM (Máy kiểm tra sâu răng điện tử): đang được phát triển, có độ nhạy
và độ đặc hiệu đều cao.
* Laser huỳnh quang (DIAGNOdent)
Vào những năm 1990, các nhà nghiên cứu quan sát dưới ánh sáng đỏ
thấy có sự truyền các hạt Photon huỳnh quang ở răng. Sau đó Hibst và Gall


22

thấy khi truyền Laser có bước sóng 655nm qua một bộ lọc sẽ thu được một tín
hiệu huỳnh quang có bước sóng lớn hơn [72],[99]. Từ kết quả nghiên cứu này
hãng Kavo (Đức) đã nghiên cứu và sản xuất ra một thiết bị chẩn đoán sâu
răng đặc biệt là máy Diagnodent, đến nay hãng này vẫn liên tục cải tiến và
cho ra nhiều thế hệ máy mới có tính năng ưu việt hơn như Diagnodent pen
2190 [35],[52].
- Nguyên lý hoạt động Diagnodent pen 2190
Nguyên lý dựa vào khả năng đáp ứng hấp thụ năng lượng, khuyếch tán
và phản xạ ánh sáng Laser huỳnh quang của mô răng [72].
AS huỳnh quang

Âm
thanh

Laser

Màn
hình

kỹ
thuật
số

dioxide
Hình 1.6. Sơ đồ hoạt động của thiết bị Diagnodent pen 2190 [72]
Với bước sóng tia laser xác định (655nm) tổ chức răng bình thường
không phát huỳnh quang hoặc phát huỳnh quang rất ít, tổ chức sâu phát huỳnh
quang ít nhiều tuỳ theo mức độ tổn thương. Giá trị được chẩn đoán là có tổn
thương sâu răng khi con số hiển thị trên màn hình lớn hơn 14.
Laser huỳnh quang có độ nhạy và đặc hiệu đều cao, hiệu quả cao khi
dùng để chẩn đoán các tổn thương sớm, kỹ thuật đơn giản dễ thực hiện. Ngoài
khả năng phát hiện sâu răng cao Laser còn có thể lượng hoá mức độ mất
khoáng nên có thể dùng để theo dõi quá trình điều trị, kết quả chẩn đoán có
thể sao chép lại để lưu trữ thông tin [17],[93].


23

- Thang phân loại sâu răng của thiết bị DIAGNOdent 2190
Bảng 1.3. Thang phân loại sâu răng của thiết bị DIAGNOdent 2190 [29]
Giá trị

Mức độ tổn thương

0-13

Không có sâu răng hoặc khởi đầu tổn thương ở men

14-20


Sâu men, sâu ngà nông hoặc sâu răng ngừng tiến triển

21-30

Sâu ngà sâu

31-99

Tổn thương rộng và sâu, 60% trường hợp lỗ sâu đã được mở

X

Mặt răng loại trừ

- Ứng dụng:
+ Được sử dụng để phát hiện sớm và xác định số lượng tổn thương sâu
ở mặt nhai và mặt nhẵn của răng, đặc biệt là ở vị trí hố rãnh nghi ngờ và các
tổn thương sâu răng dạng ẩn.
+ Thiết bị DIAGNOdent có thể phát hiện được mức độ hoạt động của
tổn thương sâu răng với độ chính xác trên 90% nhưng không xác định được
độ rộng, sâu của tổn thương. Kết quả cũng có thể bị ảnh hưởng bởi một số
yếu tố như mức độ huỷ khoáng của tổn thương, mảng bám răng và các chất
khác còn dính trên bề mặt hố rãnh.
* Ánh sáng xuyên sợi (DIFOTI)
- Nguyên tắc hoạt động:
Sử dụng chùm tia sáng trắng mạnh truyền qua sợi cáp quang tới đầu dò
được đặt ở một mặt của răng, tia sáng sau khi chiếu qua răng được thu nhận ở
mặt đối diện bởi một camera có khả năng chuyển các tín hiệu quang học sang
tín hiệu điện, các tín hiệu này được truyền tới máy tính để xử lý và hiển thị

hình ảnh tổn thương trên màn hình [10],[84].
- Ứng dụng:
+ Được sử dụng để phát hiện sớm các tổn thương sâu răng và các vết
nứt, rạn vỡ ở các bề mặt của răng, đặc biệt là ở mặt bên trước khi nó xuất hiện
trên Xquang.


24

+ Phát hiện các tổn thương sâu thứ phát.
+ Bệnh nhân có thể quan sát được tận mắt các tổn thương răng của
mình ngay tại thời điểm khám.
+ Kiểm soát việc trám bít có hiệu quả.
Tuy trong một số trường hợp phương pháp này không xác định được
kích thước lỗ sâu một cách chính xác (mặt nhai), nhưng có thể nói phương
pháp này là lý tưởng nhất trong việc thay thế cho chụp phim cánh cắn để phát
hiện tổn thương sâu ở mặt bên [10].

Hình 1.7. Thiết bị DIFOTI [72]
* Phát hiện sớm sâu răng nhờ khả năng phát huỳnh quang tự nhiên của
răng (QLF): hỗ trợ thăm khám lâm sàng và có thể thay thế cho tia X, độ
nhạy là 0,73, độ đặc hiệu là 0,99 [10],[99].
- Nguyên tắc hoạt động:
+ Từ lâu, người ta đã biết sự mất khoáng của men ngà làm thay đổi đặc
tính quang học của răng, hoặc có thể nhìn thấy bằng mắt thường như “vết
trắng”. Phương pháp này dựa trên khả năng phát huỳnh quang tự nhiên của
răng dưới điều kiện ánh sáng nhất định. Nếu tổ chức răng bị tổn thương mất
khoáng thì khả năng phát huỳnh quang sẽ kém hơn so với tổ chức răng bình
thường, với mức độ tương ứng.
+ Từ một nguồn sáng bình thường, ánh sáng đi qua bộ lọc sáng chỉ còn

lại ánh sáng màu xanh da trời, chiếu vào răng trong miệng. Hình ảnh huỳnh
quang được thu nhận bởi một camera mầu CCD, dữ liệu được truyền về máy
tính để lưu giữ và xử lý với một phần mềm thích hợp.


25

- Ứng dụng:
+ Phát hiện sớm tổn thương sâu răng ở mặt nhai, mặt ngoài, mặt trong
của răng, xác định kích thước tổn thương (độ sâu, rộng).
+ Đánh giá được sự thay đổi mức độ mất khoáng tiến triển hay tái
khoáng của tổn thương, do đó được dùng để kiểm soát sự phục hồi của tổn
thương trong điều trị dự phòng.
+ Phát hiện và định lượng được mảng bám răng, cao răng.
+ Hạn chế trong việc phát hiện và đánh giá tổn thương mặt bên.

Hình 1.8. Thiết bị chẩn đoán sâu răng QLF [72]
1.2.7. Dịch tễ học bệnh sâu răng và sâu răng giai đoạn sớm ở trẻ em
1.2.7.1. Trên thế giới

Hình 1.9. Bản đồ sâu răng toàn cầu ở trẻ 12 tuổi [105]
Theo WHO, từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai đến năm 1975, tình
hình sâu răng ở các nước phát triển ngày càng cao. Chỉ số DMFT từ 7,4 đến
12. Tuy nhiên, đến giai đoạn từ 1979-1982 thì chỉ số này giảm xuống còn từ


×