Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Một số vấn đề pháp lý trong thương mại điện tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.36 KB, 7 trang )

Một số vấn đề pháp lý trong TMĐT
Ngày cập nhật:16/7/2007
1.6. MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ TRONG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
Các vấn đề pháp lý trong TMĐT liên quan đến nhiều chế định pháp luật thuộc các lĩnh vực
khác nhau. Trong thương mại truyền thống, các bên thường gặp nhau trực tiếp để tiến hành
giao dịch hoặc là những người đã quen biết nhau từ trước. Còn trong TMĐT, các chủ thể
không tiếp xúc trực tiếp với nhau và không đòi hỏi phải biết nhau từ trước. Các giao dịch
thương mại truyền thống được phân định rõ ràng về ranh giới quốc gia, trong khi đó
TMĐT lại được thực hiện trong môi trường hay thị trường phi biên giới. Tuy nhiên TMĐT
không thể thực hiện được nếu không có người thứ ba là các nhà cung cấp dịch vụ mạng.
Nếu như trong thương mại truyền thống mạng lưới là phương tiện để trao đổi thông tin thì
trong TMĐT mạng Internet chính là một thị trường. Do vậy các vấn đề pháp lý nảy sinh
trong thị trường ảo là hoàn toàn khác.
1.6.1. Các vấn đề pháp lý trong TMĐT
1.6.1.1. Trước hết là vấn đề pháp lý trong đảm bảo an toàn và độ tin cậy cho các giao dịch
TMĐT.
An toàn và tin cậy là các yếu tố mà người tham gia TMĐT phải cân nhắc trước khi quyết
định tham gia. Nếu người sử dụng cảm thấy thông tin về giao dịch của họ không được đảm
bảo an toàn, có thể bị sửa đổi, có thể bị khám phá trái phép họ sẽ không tham gia TMĐT.
Do đó, cần phải có hạ tầng viễn thông an toàn, trên đó có các phương tiện để bảo vệ thông
tin, tránh khám phá, sử dụng trái phép và một hành lang pháp lý đầy đủ phân định rõ ràng
trách nhiệm của các chủ thể tham gia TMĐT ở tất cả các công đoạn của giao dịch thương
mại mà tính an toàn, độ tin cậy bị đe doạ như máy trạm, máy chủ, đường truyền. Mặt khác
người sử dụng cũng phải học cách tự bảo vệ mình bằng các biện pháp kỹ thuật.
Mã hoá là một công cụ hữu hiệu đảm bảo an toàn cho các giao dịch trong TMĐT. Nó cho
phép người sử dụng bảo vệ được thông tin của mình một cách an toàn, đảm bảo nguồn gốc
thông tin và tính toàn vẹn của thông tin. Tuy nhiên khi sử dụng mã hoá có thể xảy ra
trường hợp như bọn tội phạm có thể sử dụng biện pháp mã hoá để mã hoá các thông tin.
Đồng thời, mã hoá nhiều khi cũng gây khó khăn cho Giám đốc doanh nghiệp kiểm soát
hoạt động của cán bộ dưới quyền.
1.6.1.2. Vấn đề bảo đảm tính riêng tư:


Thông tin cá nhân được luật pháp tôn trọng. Cá nhân được quyền đảm bảo bí mật các
thông tin về đời tư. Khi thực hiện các giao dịch trong môi trường Internet, các chủ thể tham
gia giao dịch thường được yêu cầu phải khai báo các thông tin cá nhân ví dụ như số thẻ tín
dụng, địa chỉ, ngày tháng năm sinh, địa chỉ nhà riêng, số điện thoại cá nhân để phục vụ cho
mục đích xác nhận, kiểm tra. Sở dĩ có điều đó là do các bên tham gia giao dịch không quen
biết nhau. Các thông tin về đời tư này dễ bị bên thứ ba lấy cắp và sử dụng vào mục đích
khác, gây phương hại đến người tham gia giao dịch TMĐT. Do đó, trong TMĐT cần quy
định rõ trách nhiệm pháp lý của các bên tham gia giao dịch đối với các thông tin của các
chủ thể.
1.6.1.3. Bảo vệ người tiêu dùng:
Do trong TMĐT cả người mua lẫn người bán không cần gặp nhau, biết nhau nên dễ xảy ra
các rủi ro và người bị thiệt thường là người tiêu dùng bởi vì họ phải trả tiền trước cho các
sản phẩm, dịch vụ mà họ mua qua mạng song lại chưa biết được chất lượng sản phẩm và
việc giao hàng có diễn ra đúng như người bán đã cam kết không. Vấn đề sẽ trở nên phức
tạp hơn khi hai chủ thể ở hai quốc gia khác nhau, chịu các luật điều chỉnh khác nhau, thẩm
quyền tài phán khác nhau. Do vậy trong quy định pháp lý cho các bên tham gia TMĐT, các
quốc gia đều bảo vệ người tiêu dùng. Tuy nhiên, do luật pháp các nước là không giống
nhau nên nếu hai chủ thể thuộc hai quốc gia khác nhau thì hai bên cần thoả thuận trước về
luật sẽ áp dụng.
1.6.1.4. Các vấn đề về hợp đồng
Theo pháp luật, hợp đồng được xác lập khi các bên đạt được sự nhất trí về các điều kiện
ghi trong hợp đồng bất kể là thoả thuận miệng hay bằng văn bản. Vấn đề nảy sinh là xác
định nơi giao kết hợp đồng để xác định luật giải quyết khi có tranh chấp. Trong hầu hết các
trường hợp thì quốc gia nơi đặt webserver không hề được quan tâm và không phải lúc nào
vị trí của webserver cũng rõ ràng. Domain name cũng không phải là căn cứ để xác định nơi
giao kết hợp đồng. Có nhiều doanh nghiệp Việt Nam buôn bán qua domain name nước
ngoài và ngược lại.
Nói chung các loại hợp đồng đều có thể giao kết qua mạng, tuy nhiên cũng có một số loại
hợp đồng theo quy định của pháp luật phải thể hiện bằng văn bản, có công chứng, đăng ký.
Luật pháp các nước đều không phủ nhận giá trị pháp lý của hợp đồng ảo chỉ vì nó là dạng

dữ liệu (bản ghi điện tử).
Có nhiều loại hợp đồng trong không gian ảo, đó là hợp đồng hàng hoá, dịch vụ và các dịch
vụ số hoá. Hàng hoá khi chào bán trên mạng phải đảm bảo chất lượng. phù hợp với mục
đích sử dụng, an toàn và không có khuyết điểm nhỏ. Sẽ không được coi là có khuyết điểm
nhỏ nếu như người bán chỉ ra cho người mua trước khi ký kết hợp đồng. Cung cấp dịch vụ
chính là cung cấp sức lao động, kỹ năng. Việc mua một phần mềm tại cửa hàng thì phần
mềm là hàng hoá, còn hợp đồng với một công ty tin học thuê viết một phần mềm thì đó là
hợp đồng cung cấp dịch vụ. Dịch vụ số hoá là người bán có thể gửi cho người mua các loại
sản phẩm như băng video, âm nhạc, sách báo, phần mềm… qua mạng Internet.
1.6.1.5. Các yêu cầu hình thức văn bản, chữ ký, văn bản gốc
Có một số loại giao dịch pháp luật quy định phải thực hiện bằng văn bản. Các loại giao
dịch này thường là giao dịch về tài sản có đăng ký. Các loại giao dịch mà pháp luật đòi hỏi
hình thức văn bản phải là văn bản trên giấy sẽ không tiến hành qua mạng. Giống như các
văn bản trên giấy, các giao dịch TMĐT khi cần phải có chữ ký để ràng buộc chủ thể với
nội dung tài liệu. Chữ ký điện tử sẽ được sử dụng trong những trường hợp như vậy.
UNCITRAL đã nêu luật khung về chữ ký điện tử để các nước tham chiếu khi xây dựng
luật của mình.
Đảm bảo tính nguyên vẹn (bản gốc) của tài liệu trong TMĐT là một nhu cầu. Đối với
những tài liệu về quyền sở hữu hay giấy tờ có giá (như vận đơn) khi quyền đi liền với việc
chiếm hữu tài sản đó, thì điều cơ bản là đảm bảo rằng bản gốc phải ở trong tay người có
quyền sở hữu tài sản mà giấy tờ thể hiện. Trong TMĐT con người có thể tạo được các bản
sao giống hệt như bản gốc một cách dễ dàng. Điều quan trọng là tập dữ liệu do một người
khởi tạo không bị thay đổi về nội dung, hay nói cách khác là đảm bảo sự nguyên vẹn của
dữ liệu.
1.6.1.6. Thời điểm, địa điểm gửi, nhận thông điệp điện tử
Thời gian giao kết rất quan trọng để xác định thời điểm bắt đầu nghĩa vụ của các bên. Do
các bên trong TMĐT không quen biết nhau, ở xa nhau, liên lạc với nhau qua mạng nên xác
định thời điểm giao kết thương mại là khó khăn và các bên rất dễ hiểu khác nhau về thời
điểm giao dịch. Điều đó dễ dẫn đến các tranh chấp.
Người được chào hàng có thể chấp nhận lời chào hàng và theo đó tạo ra một hợp đồng trực

tiếp. Sự phản hồi của khách hàng chấp nhận đơn chào hàng là sự trả giá. Trường hợp này
người mua là người trả giá, người bán là người chấp nhận hợp đồng. Việc xác lập hợp
đồng không nhất thiết phải do con người thực hiện, mà có thể chấp nhận tự động bằng hệ
thống máy móc. Ví dụ, khi người chủ đặt máy bán nước giải khát tự động, được coi là
chấp nhận trả giá khi khách bỏ tiền vào máy. Khi tiến hành TMĐT, người chào hàng có thể
quy định thời gian gửi ý kiến chấp nhận, khi đó thời điểm chấp nhận hợp đồng là thời điểm
thông tin chấp nhận của khách hàng nhập vào hệ thống của người chào hàng.
Thời gian nhận được thông điệp điện tử được xác định theo nguyên tắc sau:
a/ Nếu người nhận chỉ định một hệ thống thông tin để nhận thì thời gian nhận là khi thông
điệp điện tử nhập vào hệ thống thông tin đó hoặc khi nhập vào hệ thống thông tin khác
nhưng người nhận đang làm việc để truy lục thông điệp điện tử.
b/ Nếu người nhận không chỉ định hệ thống thông tin thì tính thời điểm nhận là thời điểm
thông điệp điện tử truy nhập vào hệ thống thông tin của người nhận.
1.6.2. Pháp luật về thương mại điện tử trên thế giới
1.6.2. Pháp luật về thương mại điện tử trên thế giới
* Các tổ chức Quốc tế
• UNCITRAL - Ủy ban của LHQ về Luật Thương mại Quốc tế: đưa ra Luật mẫu về
Thương mại điện tử vào năm 1996 làm khung hướng dẫn cho các nước xây
dựng các đạo luật về thương mại điện tử.
• OECD - Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế: nghiên cứu, điều tra một số lĩnh
vực của Thương mại điện tử như thuế, bảo vệ người tiêu dùng và riêng tư cá nhân,
tác động của ICT đến tăng trưởng kinh tế
• WIPO - Tổ chức Bảo vệ Sở hữu trí tuệ: về các lĩnh vực bản quyền, nhãn hiệu
thương mại và các vấn đề liên quan đến tên miền
• ICANN - giải quyết các tranh chấp về tên miền quốc tế
• WTO - giải quyết các vấn đề liên quan đến rào cản thương mại điện tử quốc tế
* Các nước trên thế giới và khu vực
• EU: Năm 2000 đưa ra hướng dẫn chung về thương mại điện tử “Directive on
electronic commerce”
• US: UETA - Luật giao dịch điện tử thống nhất (Uniform Electronic Transactions

Act)
• Canada: Luật giao dịch điện tử
• Australia: Luật giao dịch điện tử các bang
• Singapore: Luật giao dịch điện tử, năm 1998
1.6.2.1. Luật mẫu của UNCITRAL về thương mại điện tử
Nhằm tạo khung pháp lý cho phát triển thương mại điện tử, năm 1996 Uỷ ban Luật
Thương mại quốc tế của Liên hợp quốc (UNCITRAL) đã soạn thảo một luật mẫu về
thương mại điện tử, hình thành những quy định mẫu về thừa nhận giá trị pháp lý của các
thông điệp dữ liệu nhằm bảo vệ về mặt pháp lý cho những tổ chức, cá nhân mong muốn
tham gia thương mại điện tử. Luật mẫu có thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo
cho các nước trong quá trình xây dựng pháp luật về thương mại điện tử của mình. Tinh
thần của Luật mẫu là bảo đảm những giao dịch thương mại điện tử được thừa nhận giá trị
pháp lý và nếu cần thiết thì sẽ có những hành động thích hợp để tăng cường khả năng thi
hành cho những giao dịch bằng phương tiện điện tử. Luật mẫu được soạn thảo dựa trên
những nguyên tắc cơ bản sau:
• Tài liệu điện tử có thể được coi là có giá trị pháp lý như tài liệu ở dạng văn bản nếu
thoả mãn các yêu cầu kỹ thuật nhất định;
• Tự do thoả thuận hợp đồng;
• Tôn trọng việc sử dụng tự nguyện phương thức truyền thông điện tử;
• Giá trị pháp lý của hợp đồng và tính ưu việt của những quy định pháp lý về hình
thức hợp đồng; những đòi hỏi đối với hợp đồng để có giá trị pháp lý và khả năng
được thi hành phải được tôn trọng;
• Áp dụng về mặt hình thức hơn là quan tâm tới nội dung : luật chỉ áp dụng đối với
hình thức hợp đồng mà không đề cập nội dung, trên cơ sở phải thoả mãn những đòi
hỏi pháp lý nhất định;
• Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng phải đi trước. Nhiều quốc gia đã thể hiện các
nguyên tắc và nội dung của luật mẫu UNCITRAL vào hệ thống pháp luật quốc gia
của nước mình.
1.6.2.2. Luật thương mại điện tử của một số nước trên thế giới
Xây dựng khung pháp lý cho TMĐT là việc rất cấp thiết. Để hỗ trợ các hoạt động TMĐT,

nhiều nước trên thế giới đều đã xây dựng khung pháp lý riêng, dựa trên những khái niệm
và những nguyên tắc cơ bản của bộ luật mẫu về Thương mại điện tử của Uỷ Ban Pháp luật
thương mại quốc tế - Liên hợp quốc (UN Commision on International Trade Law -
UNCITRAL) soạn thảo năm 1996. Bộ luật mẫu này cung cấp các nguyên tắc có tính quốc
tế, giải quyết một số trở ngại, nhằm tạo ra môi trường an toàn về pháp lý cho các hoạt động
thương mại điện tử.
Biểu 2.
Khung pháp lý cho các hoạt động TMĐT của một số nước trên thế giới
Nước Một số văn bản pháp lý
Australia Luật giao dịch điện tử năm 1999 (căn cứ trên luật mẫu về TMĐT của
UNCITRAL) quy định các nghĩa vụ pháp lý với việc phát hành đối với
phương tiện điện tử
Nhật Bản Hàng loạt luật liên quan đến công nghệ thông tin ban hành trong năm
2000 công nhận tính hiệu lực của việc chuyển các văn bản bằng phương
tiện điện tử. Luật về chữ ký điện tử và tổ chức chứng thực điện tử của
Nhật Bản cũng được ban hành ngày 25/5/2000.
Trung Quốc Luật hợp đồng thừa nhận tính hiệu lực của các hợp đồng điện tử
Đặc khu
Hongkong
Ngày 7/1/2000, Hồng Kông đã ban hành pháp lệnh giao dịch điện tử.
Văn bản này có quy định về chữ ký điện tử, bản ghi điện tử và được áp
dụng rộng rãi cho mọi hoạt động truyền thông, công nhận tính pháp lý
của các giao dịch điện tử.
Hàn Quốc Hàn Quốc có Luật Chữ ký điện tử vào năm 1999 và sửa đổi vào năm
2001
Mehico Nghị định về TMĐT được thông qua năm 2000
New Zealand Luật Giao dịch điện tử (căn cứ vào luật mẫu về TMĐT của UNCITRAL)
ban hành năm 1998, xác định quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia
vào một giao dịch điện tử. Luật cũng quy định việc cấp phép qua thiết bị
điện tử đối với khu vực công cộng và trách nhiệm của các nhà cung cấp

dịch vụ thuộc bên thứ ba. Cơ chế giải quyết tranh chấp điện tử qua
Internet được sử dụng để giải quyết tranh chấp
Thái Lan Luật Giao dịch điện tử của Thái Lan được thông qua vào tháng 10/2000
đã bao quát cả chữ ký điện tử.
Mỹ Áp dụng Luật thương mại chung
Áp dụng Luật Chuyển tiền điện tử đối với các sản phẩm lưu trữ giá trị
dưới sự kiểm soát của Cục Dự trữ Liên bang.
Luật Giao dịch điện tử thống nhất thông qua năm 1999 thừa nhận tính
bình đẳng của chữ ký điện tử và chữ ký viết tay. Các bang ban hành luật
riêng dựa trên luật giao dịch điện tử thống nhất.

×