Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

bài viết về routing protocols cho cấp độ ccna

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.47 KB, 10 trang )

BÀI VIẾT VỀ ROUTING PROTOCOLS CHO CẤP ĐỘ CCNA

Tác giả: Đă
̣
ng Quang Minh

I. SO SÁNH CLASSFUL VÀ CLASSLESS ROUTING PROTOCOLS

Các routing protocols nhóm classful không quảng bá network mask cùng với địa chỉ
destination trong các gói routing update. Do đó, khi router nhận được các update này,
router phải lấy giá trị network-mask mặc định có cùng với địa chỉ lớp mạng của địa chỉ
đích.

Nếu địa chỉ đích là kết nối trực tiếp (connected), network-mask đuợc lấy cùng với mask
đuoc cấu hình trên interface kết nối đến mạng đó. Nếu dia chỉ dest khong connected,
router sẽ lấy dia chi SM default cua dia chi địch
Các routing protocols nhóm classless cho phép router gởi subnetmask trong các quảng bá
routing. Do đó, classless cho phep sử dụng VLSM (là cơ chế cho phép phân chia các
subnet có các giá trị netmask khác nhau trên mạng và các subnet này có thể kết nối được
với nhau). Ngoài ra, classless cho phép phân biệt các subnet all-zeros và subnet dành cho
broadcast (all-ones), trong khi classfull thì không.

Ví dụ 1:

Giả sử chúng ta có một mạng như thế này, mạng này chạy routing protocol là RIP
Version 1
Mang A(10.10.0.0)--->Router1<----(192.168.10.0)--->Router2<----Mạng B(10.11.0.0)
Mạng này cấu hình rất dễ nhưng khi config xong thì mạng không chạy: bạn sẽ thấy trong
bảng định tuyến Router1 không có đường đến mạng B(10.11.0.0) còn trong bảng định
tuyến Router2 không có đường đến mạng A(10.10.0.0). khi đó chúng ta không thể từ
ngồi từ Router1 ping sang mạng B được??


Tại sao lại vậy?
Nguyên nhân là: RIP version 1 là classful routing protocol, khi quảng bá thông tin định
tuyến đến router khác sẽ không có thông tin về subnet mask.
Router1 có mạng 10.10.0.0 connected thì nó hiểu đó là mạng 10.0.0.0 (lấy subnetmask
mặc định là 8), do đó khi Router2 gửi thông tin về mạng B đến Router 1. Router1 nghĩ
rằng: Nó đã có mạng 10.10.0.0 (mạng A, có subnet là /16) connected rồi, giờ lại nhận
được một thông tin về mạng 10.0.0.0 (thực chất là mạng B) nữa nhưng với mạng này
kém chi tiết hơn (/8), thế thì nó sẽ không thêm con đường đến mạng B nữa. Chính vì thế
trong routing table của Router1 sẽ không có route nào đến mạng B (10.11.0.0/16).

Để giải quyết vấn đề này, dùng static routing hoặc dùng các routing hỗ trợ VLSM.
Khi này thì cần phải có các routing protocol support VLSM ( như RIP v2, OSPF , hay
EIGRP)
Còn RIP v1 chỉ hỗ trợ classfull. Nghĩa là trong 1 topology, tất cả các subnet chỉ được
chia cùng một subnet mask duy nhất. Vì khi các routing protocol nhận các routing update
về các net khác (các network không kết nối trực tiếp), thì các classfull routing protocol sẽ
lấy giá trị subnet mask trên cổng (interface) của router mà nó nhận được routing update
về các NET đó.

Ví dụ 2:


Khi gởi update:
Trước khi router1 gởi update cho router2, nó kiểm tra thông tin sau: Thông tin subnet có
cùng mạng lớn (major net) với interface (sẽ gởi update) không?
- Không: Router1 tổng hợp đưa mạng về major net và quảng cáo mạng đã tổng hợp này.
- Có: Mạng có cùng subnet mask với interface (sẽ gởi update) không?
+ Có: Router 1 sẽ advertise subnet
+ Không: Router sẽ loại bỏ network, và không advertise nó.
Khi nhận update :

KHi RIP hay IGRP nhận một update, chúng thực hiện kiểm tra trước khi chấp nhận
update và sử dụng subnetmask. Quá trình sau sẽ diển ra trước khi Route2 chấp nhận
update từ Router 1:
Subnet nhận được trong update có cùng major net với interface nhận update không?
- Có: Router 2 dùng mask của interface nhận update. Nếy mạng được quảng cáo có một
bit làm host thỉ Router 2 sẽ dùng host mask /32. Trong trường hợp RIP, nó tiếp tục
advertise route /32 tới các router khác, nhưng IGRP thì không.
- Không : Có bất kỷ subnet của major net tồn tại trong bảng định tuyến không (biết từ các
interface khác)? Chú ý mạng của upadate
+ Có: router 2 bỏ qua update.
+ Không: Router 2 dùng classful mask.
Ví dụ cụ thể vào hình:
Gởi update:
Router 1 gời update tới router 2, nó thực hiện các kiểm tra:
131.108.5.0/24 có cùng major net với 131.108.2.0/24 không ?
- Có: Mạng 131.108.5.0/24 có cùng subnet mask với 131.108.2.0/24 không?
+ Có: Router 1 advertise network
137.99.88.0/24 có cùng major net với 131.108.2.0/24 không?
- Không: Router 1 summarizes 137.99.88.0/24 thành major net và advertises mạng đó là
137.99.0.0.
Kết quả quá trình này ở Router 1 là gởi 131.108.5.0 và 137.99.0.0 trong update tới
Router 2. Có thể dùng lệnh debug ip rip trên Router 1 để kiểm tra:
RIP: sending v1 update to 255.255.255.255 via Serial0 (131.108.2.2)
subnet 131.108.5.0, metric 1
network 137.99.0.0, metric 1
Nhận update:
Dùng lệnh debug ip rip, có thể thấy các update nhận được trên Router 2 từ Router 1:
RIP: received v1 update from 131.108.2.2 on Serial0
131.108.5.0 in 1 hops
137.99.0.0 in 1 hops

Router 2 sẽ thực hiện như sau:
Major net 137.99.0.0 nhận được có cùng với 131.108.2.0 (interface nhận update) không?
- Không: Có bất kỳ subnet nào của major net này trong bảng định tuyến (biết được tử các
interface khác) không?
+ Không: Router2 chấp nhận mask mặc định (/16) vì 137.99.0.0 là địa chỉ lớp B.
Subnet 131.108.5.0 có cùng major net với subnet 131.108.2.0 không?
- Có: Router 2 dùng mask /24, là mask nhận của interface nhận update.
Quá trình này dẫn tới kết quả bảng định tuyến Router2 khi dủng lệnh sho ip route như
sau:
R 137.99.0.0/16 [120/1] via 131.108.2.2, 00:00:07, Serial0
131.108.0.0/24 is subnetted, 3 subnets
R 131.108.5.0 [120/1] via 131.108.2.2, 00:00:08, Serial0
C 131.108.2.0 is directly connected, Serial0
C 131.108.3.0 is directly connected, Ethernet0
--------------------------------------------------------------------------------
Tóm tắt:

Classful là cách mà bạn muốn chia một class IP ra bao nhiêu phần cũng được và các
phần được cắt ra luôn luôn = nhau . VLSM là cách mà bạn muốn chia một class bao
nhiêu phần tùy ý và mỗi phần cắt ra có kích thước lớn nhỏ tùy ý, khác với classful ở chổ
khi route nó phài kèm theo SM. CIDR là cách mà bạn có được một subnet lớn (supernet)
bằng cách lấy nhiều subnet (C) ghép lại nhưng supernet này đặc biệt khác với 2 subnet
trên ở chổ mặc dù có nhiều subnet nhưng nó chỉ có một entry trong routing table

II. SO SÁNH DISTANCE VECTOR VÀ LINK-STATE:

Distance Vector và Link State đều là các giao thức định tuyến động (Dynamic Routing
Protocol) cấu hình trên các thiết bị layer 3 nói chung và router Cisco nói riêng.Chúng đều
là các Interior Gateway Routing Protocol (IGP), được triển khai bên trong 1 khu vực đặc
biệt gọi là Autonomos System (AS,khu vực dùng chung tài nguyên và chịu chung sự

quản lý kỹ thuật duy nhất).
Distance vector:
Distance Vector gửi bảng routing của nó cho các router neighbor bằng cách broadcast
thông tin trong bản tin cập nhât định tuyến trên các interface được cấu hình chạy giao
thức định tuyến mà không quan tâm đến vấn đề các router neighbor có nhận đúng hay
không, không cần chạy giải thuật phức tạp để nhận tìm ra route tốt nhất. Vì vậy DV
không yêu cầu nhiều tài nguyên hệ thống để chạy.
Tuy nhiên, nhược điểm của DV là cập nhật theo chu kỳ. Các router phải sau một số chu
kỳ mới nhận được thông báo về các thay đổi của mạng, từ đó dẫn đến việc loop trên
mạng (slow convergence).
Một số giao thức dùng DV, như RIP, dùng hop-count để làm thông số xác định đường đi
tốt nhất, nên không thích hơp với mạng lớn, có nhiều link với các tính chất: bandwidth,
reliable... khác nhau.

Các routing protocol nhóm distance vector sẽ lấy dữ liệu về topology từ thông tin mạng
trên bảng định tuyến của các láng giềng. Sau đó router sẽ cập nhật bảng định tuyến theo
định kỳ. Đặc điểm của distance vector là thời gian hội tụ chậm. Đối với các routers đang
chạy routing protocol nhóm DV, định kỳ mỗi 30 giây, các routers sẽ trao đổi toàn bộ
bảng routing table sang cho các routers kế cận.
Và cho dù topology mạng của bạn không bị thay đổi, các routers vẫn gửi update sau

×