Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 3 trường tiểu học thị trấn nga sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 28 trang )

GIO DC K NNG SNG CHO HC SINH LP 3
1. M u:
1.1: Lớ do chn ti:
"Kỹ năng sống" là khả năng làm chủ bản thân của mỗi ngời,
khả năng ứng xử phù hợp với những ngời khác và với xã hội, khả
năng ứng phó tích cực trớc các tình huống của cuộc sống. { Có
thể nói kỹ năng sống chính là nhịp cầu giúp con ngời biến
kiến thức thành thái độ, hành vi và thói quen tích cực, lành
mạnh. Ngời có kỹ năng sống phù hợp sẽ luôn vững vàng trớc
những khó khăn, thử thách; biết ứng ứng xử, giải quyết vấn đề
một cách tích cực và phù hợp; họ thờng thành công hơn trong
cuộc sống, luôn yêu đời và làm chủ cuộc sống của chính
mình. Ngợc lại ngời thiếu kỹ năng sống thờng bị vấp váp, dễ bị
thất bại trong cuộc sống.} (GDKNS trong cỏc mụn hc Tiu hc - Ti
liu dnh cho giỏo viờn lp 3.)
Nhng thc trng hin nay, vic giỏo dc k nng sng cho hc sinh cỏc
trng tiu hc cũn hn ch, cha cú nột chuyn bin rừ rt, vỡ t tng ca ph
huynh v giỏo viờn ch chỳ trng vo vic dy kin thc vn húa, vic dy v
rốn k nng sng cho cỏc em cũn mang tớnh hỡnh thc cho cú. Giỏo dc k nng
sng cha c quan tõm ỳng mc nờn a phn hc sinh cỏc cp hc ph
thụng v c nhng hc sinh tt nghip cỏc trng i hc k nng sng cũn hn
ch, nhiu em hnh x nhng vic c bn nht cng khụng bit, mt s hc sinh
cũn cú tớnh ớch k khụng on kt vi bn, nhiu em núi t do vi thỏi c ch
cha l phộp vi ngi ln, chớnh vỡ th trong nhng nm gn õy vn bo
lc hc ng cú nguy c gia tng, hc sinh vi phm phỏp lut xut hin rt
nhiu la tui, iu ny l ni lo ca ph huynh, thy cụ v c xó hi.
Hc sinh tiu hc, nht l cỏc em cỏc lp u cp rt hiu ng, hay bt
chc, d b lụi cun vi cỏc din bin ca mụi trng xung quanh khi cỏc em
nhỡn thy. Vỡ vy, i vi la tui ny, giỏo viờn v cỏc bc cha m phi ht sc
quan tõm, gn gi vi cỏc em, phỏt hin nhng biu hin lch lc, chia s kp
thi nhng vng mc ca cỏc em, dy cho cỏc em bit phõn bit cỏi ỳng, cỏi


sai, lm theo cỏi ỳng, ng h cỏi ỳng, nhc nh cỏc em hnh ng theo chun
mc o c v thúi quen o c, phỏt huy tớnh tớch cc, t giỏc, ch ng,
sỏng to ca cỏc em, tng cng kh nng lm vic theo nhúm, vn dng kin
thc vo thc tin, em li nim vui hng thỳ hc tp cho cỏc em. Giỏo dc k
nng sng cho cỏc em l mt vn cn phi cú s phi hp cht ch gia giỏo
viờn, ph huynh v cỏc t chc hot ng i trong nh trng, a phng.
Giỏo dc k nng sng l mt chng trỡnh giỏo dc ht sc cn thit vi cỏc em
hc sinh. Chớnh s cn thit y, tụi ó chn ti: Mt s bin phỏp rốn k
nng sng cho hc sinh lp 3 .
1.2. Mc ớch nghiờn cu:
- Giỳp hc sinh cú hnh vi thúi quen ng x cú vn húa, hiu bit v chp
hnh phỏp lut,
1


- Giỳp hc sinh cú kh nng thớch ng vi mụi trng xung quanh, t ch,
c lp, t tin khi gii quyt cỏc vn .
- Trang b cho hc sinh cỏc k nng c bn: Hc bit, Hc lm, Hc
t khng nh mỡnh v hc cựng chung sng.
1.3. i tng nghiờn cu:
- Nghiờn cu ti liu cú liờn quan n vic rốn k nng sng cho hc sinh
tiu hc .
- Nghiờn cu thc trng vic giỏo dc k nng sng cho hc sinh lp 3A,
trng Tiu hc th trn Nga Sn, huyn Nga Sn, tnh Thanh Húa.
1.4. Phng phỏp nghiờn cu:
* Phng phỏp nghiờn cu lớ lun:
- c cỏc ti liu cú liờn quan n rốn k nng sng cho hc sinh lp 3.
* Phng phỏp nghiờn cu thc tin:
- Quan sỏt tỡnh hỡnh thc t vic rốn luyn k nng sng ti nh trng.
- D gi ng nghip.

*Phng phỏp thc nghim:
- Vn dng nhng kinh nghim dy ti lp.
- Rỳt kinh nghim ti trng.
2. Ni dung sỏng kin:
2.1. C s lớ lun:
2.1.1:K nng sng l gỡ?
K nng sng l quỏ trỡnh tỏc ng s phm cú mc ớch, cú k hoch
nhm hỡnh thnh nng lc hnh ng tớch cc, cú liờn quan n kin thc v thỏi
ụ, giỳp cỏ nhõn cú ý thc bn thõn, giao tip, quan h xó hi, thc hin cụng
vic, ng phú hiu qu vi cỏc yờu cu thỏch thc cuc sụng hng ngy. KNS
c hỡnh thnh nhiu cỏch khỏc nhau, tựy thuc vo mụi trng sng v giỏo
dc.
2.1.2: Vai trũ ca giỏo dc k nng sng:
Tr em nh mt t giy trng, nhng gỡ c v bờn trong t giy trng ú
s tn ti vi tr n sut i. Chỳng ta v thỏi , tr s c thỏi . Chỳng ta
v nhõn cỏch, tr s hỡnh thnh nhõn cỏch. Tiu hc l khong thi gian tt nht
v nờn con ngi ca tr, bi ú l la tui tr mờ khỏm phỏ v d tip thu
nht trong i. Rốn k nng sng bc tiu hc khụng ch giỳp tr hỡnh thnh
nờn nhng hnh vi tớch cc v kh nng nghi vi mi hon cnh cuc sng, to
nờn bn lnh ca ngi thnh cụng sau ny, m cũn giỳp tr t tin hn khỏm
phỏ v tn hng cuc sng mt cỏch trn vn.
Vậy, làm thế nào để chúng ta giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh?
{Giỏo dc KNS l giỏo dc cỏch sng tớch cc trong xó hi hin i, l xõy
dng nhng hnh vi lnh mnh v thay i nhng hnh vi, thúi quen tiờu cc
trờn c s giỳp ngi hc cú c kin thc, giỏ tr, thỏi v cỏc k nng thớch
hp. Giỏo dc KNS l mt quỏ trỡnh giỏo dc cú mc ớch, cú k hoch v bin
phỏp c th, l mt quỏ trỡnh lõu di, phc tp, ũi hi nhiu lc lng tham gia,
2



trong đó nhà giáo dục đóng vai trò cố vấn, nhà tổ chức, hướng dẫn, khuyến
khích và động viên người học.}( Giáo dục KNS trong các môn học ở Tiểu học –
Tài liệu dành cho giáo viên lớp 3) và để thực hiện tốt Quyết định số 2994/QĐBGDĐT ngày 20/7/2010 của Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai giáo dục kĩ năng
sống trong một số môn học và hoạt động giáo dục ở các cấp học, dựa trên cơ sở
những định hướng nhằm tăng cường giáo dục kĩ năng sống trong các môn học
cho các cấp học trong hệ thống giáo dục phổ thông, trong nhiều năm gần đây tôi
cũng rất quan tâm đến việc dạy kỹ năng sống cho học sinh thông qua lồng ghép
vào các môn học và các tài liệu về giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học
song hiệu quả chưa đạt như mong muốn.
2. 2.Thực trạng của việc rèn kĩ năng sống trong trường tiểu học Thị
Trấn Nga Sơn.
2. 2. 1: Công tác chỉ đạo, triển khai và tổ chức thực hiện:
Trong những năm gần đây, thực hiện các văn bản chỉ đạo của các cấp ngành
về việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Ban giám hiệu trường tiểu học Thị
trấn Nga Sơn đã rất chú trọng, quan tâm sâu sát đối với việc giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh bằng cách tổ chức học chuyên đề lồng ghép kỹ năng sống vào
các môn học và tổ chức rất nhiều các hoạt động ngoài giờ lên lớp, hàng tháng
ban giám hiệu nhà trường kiểm tra kế hoạch của giáo viên tổng phụ trách đội
xây dựng , nhưng vẫn còn một bộ phận không nhỏ giáo viên chưa nắm vững tầm
quan trọng của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Bởi vì:
- Giáo viên chưa nắm hết bản chất, nội dung, vai trò của giáo dục kĩ năng
sống đối với học sinh tiểu học. Giáo viên còn mơ hồ trong việc giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh, hiểu một cách đơn giản: dạy kĩ năng sống là liên hệ, là tuyên
truyền giáo dục lồng ghép trong các bài học ở các môn học nếu có liên quan.
- Trong kế hoạch bài dạy của giáo viên đã có lồng phần nội dung giáo dục
kĩ năng sống, nhưng sơ sài, qua loa, chiếu lệ.
- Mỗi giáo viên đều có kế hoạch hoạt động NGLL theo năm, tháng và theo
chủ đề. Hàng tháng có tổ chức cho học sinh hoạt động tuy nhiên còn giáo viên
còn ngại đầu tư nên kết quả chưa cao.Việc tổ chức cho học sinh tham gia sân

chơi đầu tuần phó mặc cho Đội và học sinh tự tìm hiểu.
2.2.2.Về phía học sinh:
Học sinh lớp 3A trường tiểu học Thị Trấn đa phần là học sinh xã ngoài và
có 100% học sinh ăn bán trú, con của các gia đình có điều kiện khá giả, bố mẹ
đều là cán bộ công chức nhà nước hoặc là những người đang làm kinh doanh
nên cuộc sống vật chất của các em rất đầy đủ, mỗi gia đình chỉ có một đến hai
con nên các em được ông bà, bố mẹ cưng chiều, chăm sóc từng li từng tí, các em
cần gì đều được ông bà, bố mẹ đáp ứng đầy đủ, do điều kiện công việc nhiều
nên thời gian mà bố mẹ gần gũi để chia sẻ những vướng mắc trong sinh hoạt
hàng ngày của các em còn ít, bố mẹ chỉ quan tâm đến việc văn hóa của con em
mình, các mặt giáo dục khác đều phó mặc cho giáo viên và nhà trường. Chính vì
vậy, học sinh lớp tôi rất tự tin về kiến thức văn hóa, còn trong sinh hoạt hàng
ngày nhiều em thiếu nhiều kỹ năng sống như:
Kĩ năng giao tiếp: không có thói quen chào hỏi, tự giới thiệu mình với
người khác, thậm chí có nhiều em còn không dám nói hoặc không biết nói lời
3


xin lỗi khi các em làm sai, còn chơi một số trò chơi nguy hiểm trong nhà trường,
Một số học sinh gặp thầy cô giáo khác trong và ngoài nhà trường không chào
hỏi.
Kĩ năng hợp tác: Một bộ phận học sinh các kĩ năng nghe nói, đọc, viết, chia
sẻ trong nhóm, nói trược đám đông còn hạn chế.
Kĩ năng ra quyết định: Một bộ phận học sinh còn có biểu hiện, việc làm
không lành mạnh với bạn trong trường: ăn cắp vặt, gán ghép đôi, nói tục, ăn
quà…
Kĩ năng tự phục vụ: nhiều em chưa biết soạn sách vở theo thời khóa biểu,
không biết cầm chổi quét lớp, không biết nhổ cỏ, dọn vệ sinh lớp học, sân
trường, vệ sinh cá nhân, vệ sinh an toàn thực phẩm của một số em chưa cao…
2.2.3 Kết quả khảo sát kĩ năng sống của học sinh:

Với những thực trạng trên, sau một tháng theo dõi học sinh, tôi đã phân
nhóm, đánh giá về thực hiện kĩ năng sống của lớp 3A do tôi chủ nhiệm (tại thời
điểm tháng 10 đầu năm 2018 ) như sau:

Kĩ năng giao tiếp – Hòa nhập cuộc
Kĩ năng học tập, lao động, vui chơi
số sống
Tốt
Đạt
Chưa đạt
Tốt
Đạt
Chưa đạt
SL %
SL %
SL %
SL %
SL %
SL %
33 5
15,1 16 48,6 12 36,3 7
21,2 8
24,3 18 54,5
Như vậy, qua bảng số liệu trên việc quan tâm đến công tác giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh đạt được mục tiêu giáo dục toàn diện là việc làm rất thiết. Mà
việc hình thành cho học sinh kĩ năng sống là nhiệm vụ của gia đình, nhà trường
và xã hội. Đối với học sinh tiểu học, vai trò của nhà trường trong việc giáo dục
kĩ năng sống cho học sinh là vô cùng quan trọng.
Vì vậy, để nâng cao hiệu quả giáo dục kĩ năng sống cho học sinh vai trò của
người giáo viên chủ nhiệm là quyết định. Chính vì vậy tôi đã tìm tòi, nghiên

cứu, vận dụng một số biện pháp “ Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 3” .
2.3.NHỮNG GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾTVẤN ĐỀ
{ Việc giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường được thực hiện thông qua
dạy học các môn học và tổ chức các hoạt động giáo dục nhưng không phải là
lồng ghép, tích hợp thêm KNS vào nội dung các môn học và hoạt động giáo dục;
mà theo một cách tiếp cận mới, đó là sử dụng các phương pháp và kỹ thuật dạy
học tích cực để tạo điều kiện, cơ hội cho học sinh được thực hành, trải nghiệm
KNS. Với cách tiếp cận này, sẽ không làm nặng nề, quá tải thêm nội dung các
môn học và hoạt động giáo dục; mà ngược lại, còn làm cho giờ học và hoạt động
giáo dục trở nên nhẹ nhàng hơn, thiết thực và bổ ích hơn đối với học sinh. Vì
vậy, người giáo viên cần phải nắm được nội dung giáo dục KNS cho học sinh
trong nhà trường.} ( Giáo dục KNS – Tài liệu dành cho giáo viên lớp 3, trang
27.)
Giải pháp 1: Nghiên cứu kĩ chương trình, phân loại kĩ năng sống, phân
nhóm học sinh theo từng kỹ năng sống:
Khi tham gia vào bất kỳ hoạt động nào phục vụ cho cuộc sống đều đòi hỏi
chúng ta phải có những kỹ năng tương ứng. Rèn luyện KNS cho học sinh là
4


nhằm giúp các em rèn luyện kĩ năng ứng xử thân thiện trong mọi tình huống;
thói quen và kĩ năng làm việc theo nhóm, kĩ năng hoạt động xã hội; Giáo dục
cho học sinh thói quen rèn luyện sức khỏe, ý thức tự bảo vệ bản thân, phòng
ngừa tai nạn giao thông, đuối nước và các tệ nạn xã hội. Đối với HS tiểu học
việc hình thành các KN cơ bản trong học tập và sinh hoạt là vô cùng quan trọng,
ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách sau này.
Theo đó kĩ năng sống được chia thành 2 loại: Kỹ năng cơ bản và kỹ năng
nâng cao.
+ Kĩ năng cơ bản gồm: Kĩ năng nghe, nói, đọc, viết, múa, hát, đi, đứng,
chạy, nhảy v.v…

+ Kĩ năng nâng cao là sự kế thừa và phát triển các kĩ năng cơ bản dưới một
dạng thức mới hơn. Nó bao gồm: Các kỹ năng tư duy logic, sáng tạo, suy nghĩ
nhiều chiều, phân tích, tổng hợp, so sánh, nêu khái niệm, đặt câu hỏi v.v… Ở
tiểu học, đối với các lớp đầu cấp, kĩ năng cơ bản được xem trọng, còn các lớp
cuối cấp nâng dần cho các em về kỹ năng nâng cao. Để giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh đạt kết quả tốt thì giáo viên phải nghiên cứu xây dựng đặt ra các
yêu cầu cụ thể với từng lứa tuổi học sinh. Từ đó, qua công việc giảng dạy cũng
như các hoạt động hàng ngày, giáo viên cần phải theo dõi sát sao để phân định
các nhóm học sinh còn hạn chế.
Theo đó, chúng ta cần tập trung rèn luyện cho các em 2 nhóm kỹ năng sống
sau đây:
Nhóm 1: Kỹ Năng giao tiếp – hòa nhập cuộc sống:
- Các em biết giới thiệu về bản thân, về gia đình, về trường lớp học và bạn
bè thầy cô giáo.
- Biết chào hỏi lễ phép trong nhà trường, ở nhà và ở nơi công cộng.
- Biết nói lời cảm ơn, xin lỗi. Thực tế trong nhà trường, thông qua môn Đạo
đức, các hoạt động tập thể HS được dạy cách lễ phép nhưng khi đi vào thực tế,
nhiều em thiếu kỹ năng giao tiếp, không có thói quen chào hỏi, tự giới thiệu
mình với người khác, thậm chí có nhiều em còn không dám nói hoặc không biết
nói lời xin lỗi khi các em làm sai.
- Biết phân biệt hành vi đúng sai, phòng tránh tai nạn. Đây là kĩ năng quan
trọng mà không phải em nào cũng xử lý được nếu chúng ta không rèn luyện
thường ngày.
Nhóm 2: Kĩ năng trong học tập, lao động – vui chơi giải trí:
- Các kĩ năng nghe, đọc, nói, viết, kĩ năng quan sát, kĩ năng đưa ra ý kiến
chia sẻ trong nhóm.
- Kĩ năng giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh chung.
- kĩ năng kiểm soát tình cảm – kĩ năng kìm chế thói hư tật xấu sở thích cá
nhân có hại cho bản thân và người khác.
- Kĩ năng hoạt động nhóm trong học tập vui chơi và lao động.

Dựa vào tâm lí lứa tuổi, đối với học sinh lớp 3, kĩ năng sống cần rèn luyện
đó là:
{ Kĩ năng tự phục vụ.
Kĩ năng giao tiếp.
Kĩ phòng tránh tai nạn thương tích.
5


Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm.
Kĩ năng quản lí thời gian.
Kĩ năng hợp tác.}( Bài tập thực hành kĩ năng sống 3)
Giải pháp 2. Làm tốt công tác bồi dưỡng, tuyên truyền nhằm nâng cao
nhận thức về vai trò của giáo dục kĩ năng sống cho bản thân, phụ huynh
của lớp phụ trách.
Muốn giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có hiệu quả, trước hết bản thân
giáo viên phải hiểu và nắm vững vai trò của giáo dục kĩ năng sống với học sinh
tiểu học. Vì vậy, khi nhà trường triển khai các đợt tập huấn, bản thân tôi tích cực
tham gia học tập, bên cạnh đó tôi đã không ngừng tự tìm tòi nghiên cứu tài liệu,
dự giờ để học hỏi các đồng nghiệp về giáo dục kĩ năng sống cho học sinh và tự
nhận thức về giáo dục kĩ năng sống đối với học sinh tiểu học là vô cùng quan
trọng. Chính vì sự tự học, tự bồi dưỡng như vậy, bản thân tôi tự nhận thấy rằng
việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh không phải tự một mình làm được mà
phải có phối hợp với phụ huynh học sinh lớp phụ trách. Vì vậy, tôi đã tuyên
truyền về tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ năng sống giúp cho các bậc phụ
huynh nâng cao được nhận thức để cùng phối hợp với giáo viên giáo dục các em
đạt kết quả tốt nhất.
Đầu năm học, tôi nghiên các tài liệu rèn kĩ năng sống cho học sinh Tiểu
học, do Bộ Giáo dục - Đào tạo triển khai, qua đó giúp tôi hiểu được rằng chương
trình học chính khoá thường cho trẻ tiếp xúc từ từ với các kiến thức văn hoá
trong suốt năm học, còn thực tế học sinh sẽ học tốt nhất khi có được cách tiếp

cận một cách cân bằng, biết cách phát triển các kĩ năng nhận thức, cảm xúc và
xã hội. Vì thế, khi học sinh tiếp thu được những kĩ năng giao tiếp xã hội và các
hành vi ứng xử cơ bản trong nhóm bạn, thì các em sẽ nhanh chóng sẵn sàng và
có khả năng tập trung vào việc học văn hoá một cách tốt nhất.
- Trong buổi họp phụ huynh đầu năm học của lớp, tôi chia sẻ cho phụ
huynh hiểu được các phương pháp rèn cho các em học ở nhà và đã triển khai
cách đánh giá học sinh tiểu học theo thông tư 22 vì trong thông tư có cách đánh
giá phẩm chất, năng lực để phụ huynh cùng kết hợp theo dõi đánh giá về con em
mình.
- Trước khi hội nghị phụ huynh đầu năm, tôi đã tìm hiểu, sưu tầm tài liệu để
trao đổi cùng với phụ huynh về một số kỹ năng sống cơ bản cần rèn luyện cho
học sinh.
Ví dụ: Trao đổi cùng với phụ huynh một số kĩ năng sống cơ bản của con em
mình như:
+ Kĩ năng tự phục vụ: Giúp các biết tự phục vụ bản thân như trang phục
đúng quy định của nhà trường, biết soạn sách vở, biết vệ sinh cá nhân, làm
những việc vừa sức mình.
+ Kĩ năng giao tiếp: Cần giúp các em về cách chào hỏi, nói lời cảm ơn, xin
lỗi, biết quan tâm giúp đỡ, chia sẻ với mọi người trong học tập và sinh hoạt…

6


+ Kĩ năng tự nhận thức: Đối với học sinh lớp 3, giúp cho các em nhận thức
đúng việc học tập ở lớp, ở nhà như thế nào? Nên chơi những trò chơi có lợi,
tránh những trò chơi nguy hiểm…
+ Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ: Giúp học sinh ý thức được nhu cầu cần giúp
đỡ, xác định được địa chỉ hỗ trợ tin cậy, cung cấp thông tin đầy đủ, rõ ràng và
ngắn gọn.
+ Kĩ năng hợp tác: Giúp học sinh biết chia sẻ trách nhiệm, biết cam kết và

làm việc có hiệu quả với những thành viên khác trong nhóm, tôn trọng những
quyết định chung của nhóm…
- Hàng ngày ở trên lớp, tôi đã tạo ra các nhóm học tập theo từng đối tượng
để học sinh được đánh giá lẫn nhau. Giáo viên tập trung đánh giá sự tiến bộ của
học sinh, coi trọng sự động viên khuyến khích học sinh để giúp học sinh tích cực
và vượt khó trong học tập, rèn luyện, giúp học sinh phát huy tất cả những khả
năng đảm bảo công bằng, kịp thời và khách quan theo đúng thông tư 22.

Học sinh học tập theo nhóm.
- Bản thân tôi tự nhận thấy, khi đi sâu nghiên cứu giáo dục kĩ năng sống cho
học sinh thì cần phải kiên trì, tâm huyết, dành nhiều thời gian cho công việc thì
mới có kết quả như mong muốn. Vì giáo dục kĩ năng sống đóng một vai trò vô
cùng quan trọng đối với việc hình thành phát triển con người toàn diện.
+ Nâng cao nhận thức cho phụ huynh để phụ huynh thấy được tầm quan
trọng của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Chính sự thay đổi về nhận
thức mà các bậc phụ huynh đã đồng tình ủng hộ và quan tâm đến hướng dẫn tập
thói quen cho con em mình.
+ Học sinh chuyển biến rõ rệt về nề nếp, vệ sinh cá nhân, ý thức chấp hành,
lễ phép chào hỏi, vui chơi an toàn, thân thiện tự tin, tất cả học sinh lớp tôi chủ
nhiệm mạnh dạn tham gia học tập vui chơi…
Giải pháp 3. Lồng ghép giáo dục kỹ năng sống thông qua các môn học.
7


Để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh đạt hiệu quả, ngoài việc thực hiện kế
hoạch hoạt động theo chỉ đạo của nhà trường, tôi đặc biệt quan tâm đến việc dạy
lồng ghép giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua các môn học trong
trường. Đây là việc làm mà không phải giáo viên nào cũng quan tâm. Giáo dục
kĩ năng sống cho học sinh lớp 3 thông qua các môn học được đưa vào mục tiêu
cụ thể từng môn học, bài học mà tập trung nhiều nhất là môn Tiếng Việt, môn

Đạo đức và môn Tự nhiên và Xã hội. Bản thân tôi đã chú ý từ khâu soạn bài, tôi
đã nghiên cứu kĩ nội dung từng bài học và chọn nội dung giáo dục kỹ năng sống
phù hợp để đưa vào từng hoạt động trong bài dạy.
a) Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua môn Đạo đức:
Nội dung môn đạo đức chứa nhiều nội dung liên quan đến kĩ năng sống như
kĩ năng giao tiếp, kĩ năng bày tỏ ý kiến, kĩ năng tự phục vụ và quản lí thời
gian….Vì vậy, bất cứ nội dung bài đạo đức nào cũng hàm chứa những hành vi
đạo đức giáo dục hướng tới hành vi chuẩn mực, thói quen của học sinh.
Khi dạy môn đạo đức, tôi vận dụng các phương pháp đặc trưng của bộ môn
như bày tỏ ý kiến đồng ý hay không đồng ý, phương pháp sắm vai xử lí tình
huống hoặc thảo luận nhóm… Tạo cơ hội cho học sinh tham gia thực hành, trải
nghiệm nhiều kĩ năng sống phù hợp với lứa tuổi của trẻ. Qua bài học, các em
biết cư xử đúng đắn như biết yêu thương, quan tâm chăm sóc ông bà; biết đoàn
kết với bạn bè trong nước và bạn bè Quốc tế; biết quan tâm, giúp đỡ hàng xóm
láng giềng; biết giữ gìn và bảo vệ tài sản của công, phân biệt được những việc
nên làm, những việc không nên làm,chia sẻ vui buồn với bạn bè…
Qua môn Đạo đức còn rèn cho học sinh kĩ năng biết giữ lời hứa, đảm nhận
trách nhiệm về việc làm của mình, kỹ năng tự phục vụ bản thân không phụ thuộc
vào người lớn chủ động về thời gian để học tập và sinh hoạt đúng giờ, đảm nhận
trách nhiệm đối với việc làm của bản thân, thông cảm với bạn bè, giao tiếp hợp
tác với mọi người,…
Ví dụ: Dạy bài 3: Tự làm lấy việc của mình.
* Các kĩ năng cơ bản cần được giáo dục là:
+ Kĩ năng tư duy phê phán( biết phê phán đánh giá những thái độ, việc làm
thể hiện sự ỷ lại, không tự làm lấy việc của mình.)
+ Kĩ năng ra quyết dịnh phù hợp trong các tình huống thể hiện ý thức tự
làm lấy việc của mình.
+ Lập kế hoạch tự làm lấy công việc của mình.
* Phương pháp tiến hành:
- Tôi tổ chức cho HS thảo luận nhóm đôi ( nội dung bài tập 1)

- Sau đó, cho đại diện một số nhóm lên xử lí tình huống.
Qua bài tập này, rèn cho học sinh kĩ năng tư duy phê phán, kĩ năng quyết
định thể hiện ý thức tự làm lấy việc của mình.
Hoạt động cuối của tiết một, học sinh liên hệ thực tế và tự đánh giá được
những công việc mà bản thân đã làm được và những việc chưa làm được. ( Rèn
kĩ năng tư duy phê phán).
Đến tiết 2, học sinh biết lập kế hoạch tự làm các công việc ở gia đình và
trình bày kế hoạch tự làm việc của mình. Tôi cho lớp nhận xét, tuyên dương
những học sinh đã biết làm nhiều công việc ở nhà, đồng thời cũng khuyến khích
8


động viên những học sinh mới làm được ít công việc. Từ đó, giúp cho học sinh
tự làm các công việc ở lớp mà các em có thể làm được như vệ sinh lớp học, nhổ
cỏ và chăm sóc bồn hoa, kê lại bàn ghế,…
Dạy bài 4: Quan tâm chăm sóc ông bà, cha mẹ, anh chị em. (Vở Bài tập
Đạo đức trang 8)
* Các kĩ năng cơ bản cần được giáo dục là:
- Kĩ năng lăng nghe ý kiến của người thân.
- Kỹ năng thể hiện sự thông cảm trước suy nghĩ, cảm xúc của người thân.
- Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm chăm sóc người thân trong việc vừa sức.
* Đồ dùng: Tranh minh họa (Bài tập 1,2)
* Phương pháp tiến hành:
- Tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm 3( Vai mẹ, và hai chi em Ly)(theo
yêu cầu Bài tập 1)
- Tổ chức cho các nhóm lên đóng vai xử lí tình huống.(theo yêu cầu Bài tập
Qua đóng vai tình huống bài tập 1, học sinh ý thức được bổn phận của con
cháu là phải quan tâm, chăm sóc ông bà, cha mẹ và người thân trong gia đình.
Đến tiết hai, cho học sinh trưng bày những bức tranh vẽ những món quà
muốn tặng ông bà, cha mẹ và các em giới thiệu ý tưởng những món quà mà

mình đã chuẩn bị.
Như vậy, qua bài học giúp học sinh biết chia sẻ tình cảm, cảm xúc và đảm
nhậm trách nhiệm chăm sóc người thân những việc phù hợp với khả năng.
b) Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua môn Tiếng Việt:
{ Giáo dục kĩ năng sống trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học nhằm giúp học
sinh bước đầu hình thành và rèn luyện cho học sinh các KNS cần thiết, phù hợp
với lứa tuổi, giúp các en nhận thức được những giá trị tốt đẹp trong cuộc sống,
biết tự nhìn nhận, đánh giá đúng về bản thân để tự tin, tự trọng và không ngừng
vươn lên trong cuộc sống; biết ứng xử phù hợp trong các mối quan hệ với người
thân, với cộng đồng và với môi trường tự nhiên; biết sống tích cực, chủ động
trong mọi điều kiện, hoàn cảnh.}( TL GDKNS trong các môn học ở tiểu học –
Dành cho GV lớp 3)
Mỗi phân môn trong môn Tiếng Việt đều tích hợp nội dung giáo dục kĩ
năng sống nhất định cho học sinh. Trong chương trình môn Tiếng Việt có nhiều
bài thể hiện rất rõ kĩ năng sống như: Viết thư; giới thiệu về tổ học tập; báo cáo
về các hoạt động tháng của tổ, viết quảng cáo…. Dạy những bài có nội dung
như thế này, tôi đã dẫn dắt các em trải nghiệm cuộc sống một cách tự nhiên, nhẹ
nhàng, tôi luôn để học sinh thoải mái thể hiện suy nghĩ. Có thể có câu trả lời
chưa đúng, tôi không cho dừng ngay câu trả lời và cũng không tỏ thái độ phê
bình mà cho học sinh nhận xét và trả lời giúp bạn, giáo viên là người uốn nắn
sửa sai về từ, câu, để học sinh hiểu vấn đề, sau đó cho học sinh nói lại theo cách
hiểu của mình.
Như vậy, môn Tiếng Việt rèn cho học sinh các kĩ năng: Tự nhận thức về
bản thân, lắng nghe tích cực, kiên định, đặt mục tiêu, giao tiếp cởi mở, tự tin,
biết lắng nghe tích cực, thể hiện sự thông cảm…
Ví dụ: Bài tập đọc tuần 2: Tập đọc – Kể chuyện: Ai có lỗi?
* Các kĩ năng cần được giáo dục học sinh là:
9



- Kĩ năng giao tiếp: Ứng xử văn hóa.
- Thể hiện sự thông cảm
- Kiểm soát cảm xúc
* Phương pháp tiến hành:
- Sau khi cho học sinh trả lời hai câu hỏi :
Vì sao hai bạn nhỏ giận nhau?
Vì sao En – ri – cô hối hận, muốn xin lỗi Cô – rét – ti?
-Tôi cho học sinh nhận xét về việc làm của En – ri – cô và Cô – rét – ti.
- Học sinh thảo luận theo nhóm 2
- Cuối cùng cho học sinh đóng vai En – ri – cô và Cô – rét – ti trong phần
kể chuyện để học sinh được trải nghiệm. Giáo viện cần giáo dục các em cần phải
biết kiềm chế cảm xúc và thông cảm khi người khác không may làm phiền đến
mình.
- Đại diện các nhóm khác nhận xét bình chọn nhóm đóng vai tốt.
* Sau bài học, học sinh thấy phấn khởi hơn, đoàn kết vui vẻ với bạn bè
khác lớp, mạnh dạn trong giao tiếp và biết cách ứng xử văn hóa.
Hoặc khi dạy bài: Tập đọc – kể chuyện: Người lính dũng cảm.
* Các kĩ năng cần được giáo dục học sinh là:
- Tự nhận thức: Xác định giá trị cá nhân.
- Ra quyết định.
- Đảm nhận trách nhiệm.
* Phương pháp tiến hành:
- Sau khi học sinh trả lời cá nhân các câu hỏi về nội dung bài.
- Tôi đã tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm và chia sẻ nội dung câu hỏi:
Nhân vật nào trong câu chuyện có hành động dũng cảm ? Đó là hành động nào?
Giáo viên kết luận: Chú lính nhỏ không chui rào, dám nhận lỗi và sửa lại
hàng rào là người dũng cảm vì bạn đã dám nhận lỗi và sửa lỗi.
- Học sinh liên hệ bản thân: Kể về một lần mình mắc lỗi và đã nhận lỗi và
sửa lỗi đó như thế nào?
Tôi rất vui có nhiều học sinh đã đứng lên trình bày lỗi mình đã vi phạm và

biện pháp khắc phục lỗi của mình. Tôi giúp học sinh biết nhận ra được lỗi mình
làm sai, biết nhận lỗi và sửa lỗi thì các em sẽ mau tiến bộ trong cuộc sống.
c. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua môn Tự nhiên và Xã hội:
{ Môn Tự nhiên và Xã hội lớp 3, giúp học sinh nắm được một số kiến hức
cơ bản ban đầu về con người và sức khỏe, về số sự vật, hiện tượng trong TN –
XH. Cùng với kiến thức cơ bản về con người, về TN – XH, việc giáo dục kỹ
năng sống qua môn TN – XH sẽ góp phần không chỉ khắc sâu thêm kiến thức
của môn học mà còn hình thành thái độ và hành vi tích cực, phù hợp, cần thiết
giúp học sinh có thể ứng xử có hiệu quả các tình huống thực tế trong cuộc
sống.} ( GDKNS trong các môn học ở Tiểu học – TL dành cho GV lớp 3)
Khi dạy môn Tự nhiên và Xã hội, giáo viên phải chuẩn bị công phu những
đồ dùng như tranh ảnh, vật thật. Để tiết dạy đạt hiệu quả, giáo viên cần lựa chọn
phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa học sinh. Giúp các em phát huy
tính chủ động độc lập sáng tạo gắn với đời sống xung quanh của trẻ. Việc sưu
tầm được tài liệu, đồ dùng, thiết bị dạy học phong phú, đồng thời ứng dụng công
10


nghệ thông tin hiệu quả, tạo cơ hội cho các em chủ động, tích cực chiếm lĩnh
kiến thức. Giáo viên tạo điều kiện cho các em tham gia thực hành, tạo cơ hội
cho các em được trải nghiệm, được trình bày trước các bạn trong nhóm hay
trước lớp….Đây là cơ hội tốt nhất cho các em rèn kĩ năng sống.
Môn Tự nhiên và Xã hội rèn cho học sinh các kĩ năng sống chủ yếu: kĩ
năng tự nhận thức và xác định được giá trị của bản thân, ứng xử phù hợp liên
quan đến sức khỏa của bản thân, kĩ năng tự phục vụ và tự bảo vệ, phát triển kĩ
năng giao tiếp thông qua các hoạt động học tập, kĩ năng kiên định và từ chối, kĩ
năng tư duy phê phán….…
Ví dụ: Dạy bài 26: Không chơi các trò chơi nguy hiểm.
* Các kĩ năng cần được giáo dục học sinh là:
+ Kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin. Biết phân tích, phán đoán hậu quả

của những trò chơi nguy hiểm đối với bản thân và người khác.
+ Kĩ năng làm chủ bản thân: có trách nhiệm với bản thân và người khác
trong việc phòng tránh các trò chơi nguy hiểm.
* Đồ dùng: Tranh minh họa trong SGK.
* Phương pháp tiến hành:
- Cho HS quan sát tranh thảo luận nhóm 2 để chỉ ra các trò chơi dễ gây
nguy hiểm cho bản thân và cho người xung quanh.
- Cho HS nêu các trò chơi các em thường chơi ở trường học và nêu những
trò chơi có thể gây nguy hiểm cho bản thân và cho bạn.
- Giáo viên đưa ra tình huống: Bạn bảo em trèo lên mái nhà xe lấy quả
bóng, em sẽ làm gì lúc đó?
- Học sinh thảo luận nhóm bốn đưa ra các cách xử lí tình huống.
- Đại diện một số nhóm lên đóng vai, nhóm khác theo dõi và đặt mình vào
nhân vật trong tình huống nhóm bạn đưa ra và cùng thảo luận để đi đến lựa chọn
cách ứng xử có hiệu quả trong việc không chơi các trò chơi nguy hiểm.
- Nhận xét, tuyên dương những học sinh có cách lựa chọn đúng.
* Qua bài học, học sinh đã tự ra quyết định không tham gia các trò chơi
nguy hiểm đối với bản thân và người khác, luôn có ý thức phòng trách các trò
chơi nguy hiểm ở bất cứ nơi nào.
Hoặc dạy bài: An toàn khi đi xe đạp
* Các kĩ năng cần được giáo dục là:
- Tìm kiếm và xử lí thông tin.
- Kĩ năng kiên định thực hiện đúng quy định khi tham gia giao thông.
- Kĩ năng làm chủ bản thân: ứng phó với những tình huống không an toàn
khi đi xe đạp.
* Đồ dùng: Tranh minh họa sách giáo khoa, máy tính, đèn chiếu.
* Phương pháp tiến hành:
- Hoạt động 1: Giáo viên chia nhóm, học sinh thảo luận 4: Quan sát tranh
và nêu người nào đi đúng luật và người nào đi sai luật ở từng hình trong sách
giáo khoa.

- Đại diện nhóm lên chỉ trên màn chiếu và phân tích các tình huống tham
gia giao thông ở mỗi hình.
11


- Hoạt động 2: Cho học sinh liên hệ về an toàn giao thông ở nơi mình đang
sống và các em nêu luật an toàn giao thông khi các em tham gia.
- Hoạt động 3: Tổ chức trò chơi đóng vai: Người tham gia giao thông.
Học sinh quan sát tín hiệu đèn trên màn hình để thực hiện trò chơi.
Qua bài học rèn cho học sinh kĩ năng kiên định thực hiện đúng quy định khi
tham gia giao thông.
Tóm lại: Dạy kĩ năng sống cho học sinh tiểu học nói chung; học sinh lớp 3
nói riêng là một yêu cầu cấp thiết. Hiện nay, chưa có nội dung giáo dục kĩ năng
sống riêng biệt, chưa có thời gian cụ thể nên bản thân luôn chú trọng đến việc
lồng ghép giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua các môn học.
Giải pháp 4. Tổ chức có hiệu quả hoạt động ngoài giờ lên lớp:
Hoạt động NGLL là một trong những nội dung giáo dục toàn diện học
sinh.Với mục đích là tiếp nối hoạt động dạy học trên lớp nhằm khắc sâu các bộ
môn văn hóa bằng cách tổ chức ngoài giờ học.Từ đó giúp các em trang bị đầy đủ
khả năng để có thể hòa nhập xã hội. Trong hoạt động này giáo viên chủ nhiệm là
người trực tiếp chỉ đạo, cố vấn và giúp các em hoàn thành được các kĩ năng cơ
bản như: kĩ năng giao tiếp, kỹ năng hoạt động, tự nhận thức bản thân, kỹ năng
xây dựng quan hệ cá nhân….tạo cơ hội phát triển toàn diện nhân cách và các kĩ
năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi.
Nội dung hoạt động ngoài giờ lên lớp ở lớp 3 gồm 9 chủ đề theo từng
tháng, đó là:
STT
1
2
3

4
5
6
7
8
9

Tháng
9
10
11
12
1
2
3
4
5

Chủ điểm
Mái trường thân yêu của em
Vòng tay bạn bè
Biết ơn thầy giáo, cô giáo
Uống nước nhớ nguồn
Ngày Tết quê em
Em yêu Tổ quốc Việt Nam
Yêu quý mẹ và cô giáo
Hòa bình và hữu nghị
Bác Hồ kính yêu

Tùy vào từng chủ điểm và nội dung của chủ điểm do nhà trường và Đội

phát động để lựa chọn hình thức cho phù hợp tránh gây nhàm chán cho học sinh.
a) Hoạt động văn hóa văn nghệ :
Đây là một loại hình hoạt động quan trọng, không thể thiếu được trong sinh
hoạt tập thể của trẻ em, nhất là HS tiểu học. Hoạt động này bao gồm nhiều thể
loại khác nhau: Hát, múa, thơ ca, kịch ngắn, thi kể chuyện, rung chuông vàng,
sân chơi đầu tuần. Các hoạt động này góp phần hình thành cho các em kỹ năng
mạnh dạn, tự tin trước đám đông. đây là hoạt động được các em học sinh yêu
thích và đặc biệt phù hợp với tâm lí lứa tuổi học sinh tiểu học. Sau những giờ
học căng thẳng, tham gia hoạt động văn hóa, văn nghệ sẽ giúp các em tăng thêm
hiểu biết, sảng khoái tinh thần. Đây cũng là một trong những kỹ năng rất quan
trọng trong xu thế toàn cầu hóa.
12


Vì vậy, trong những dịp tổ chức chào mừng những ngày lễ lớn trong năm
học hoặc hoạt động ngoại khóa do đội tổ chức, tôi luôn khuyến khích các em
tham gia và cùng với sự ủng hộ giúp đỡ của phụ huynh nên các em tự nguyện
tham gia với số lượng nhiều và luyện tập rất nhiệt tình.

Giải nhì văn nghệ chào mừng này 20 - 11.

13


Giải nhất khối thi trình diễn thời trang nhí.
- Qua các dịp tham gia giao lưu các hoạt động văn nghệ kết quả của lớp đạt
kết quả cao so với khối, nhưng điều mà bản thân học sinh và phụ huynh đều
phấn khởi vui mừng hơn cính là các em được tham gia vào các hoạt động chung
của tập thể tạo cho các em thêm yêu quý cha mẹ, thầy cô và bạn bè. Các em đều
mạnh dạn, tự tin hơn và tình cảm bạn bè gắn bó với nhau hơn .

b) Hoạt động vui chơi giải trí.
Vui chơi, giải trí là nhu cầu thiết yếu của trẻ, đồng thời là quyền lợi của các
em.Nó là một loại hoạt động có ý nghĩa giáo dục to lớn đối với HS ở trường tiểu
học. Hoạt động này làm thỏa mãn về tinh thần cho trẻ em sau những giờ học
căng thẳng, góp phần rèn luyện một số phẩm chất: tính tổ chức, kỉ luật, nâng cao
tinh thần trách nhiệm, tinh thần đoàn kết, lòng nhân ái… Vì vậy, trong các tiết
học tôi thường cho các em giải lao bằng các chơi nhẹ nhàng tại chỗ như: Trò
chơi chuyền hoa; trò chơi gọi thuyền, trò chơi Alibaba….Trong một số buổi ra
chơi giữa giờ hoặc các tiết học ngoại khóa, tôi đã hướng dẫn cho các em chơi
trò chơi dân gian và cùng tham gia chơi với các em.
Qua các trò chơi tạo cho các em không khí thoải mái vui vẻ, có ý thức kỉ
luật hơn và thân thiện với thầy cô và bạn bè, rèn cho các em có ý thức trách
nhiệm với công việc được giao.

Giờ ra chơi của cô trò lớp 3A
c) Hoạt động lao động vệ sinh.
Đây là một loại hình đặc trưng của HĐNGLL. Thông qua lao động công ích
sẽ giúp các em gắn bó với đời sống xã hội. Ngoài ra lao động công ích còn góp
phần làm cho trẻ hiểu thêm về giá trị lao động, từ đó giúp trẻ có ý thức lao động
lành mạnh. Lao động công ích giúp trẻ vận dụng kiến thức vào đời sống như:
Trực nhật, vệ sinh lớp học, sân trường, làm đẹp bồn hoa, cây cảnh cho đẹp
trường, lớp. Đây là hoạt động tưởng như là thường xuyên nhưng thật ra trong
nhà trường bây giờ HS rất ít được tham gia các hoạt động này.Có chăng chỉ là ép
buộc và hình thức. Nhưng đây là hoạt động thật sự cần thiết giúp các em thích
nghi với cuộc sống xung quanh. Sau này dù có rơi vào hoàn cảnh khắc nghiệt
nào thì các em vẫn có thể tồn tại được. Đó là nhờ các em biết lao động.
14


Do đó, ngay từ đầu năm học, tôi đã chia lớp thành các nhóm lao động.

Trong mọi hoạt động, giáo viên luôn phải là người làm mẫu để các em bắt chước
và hướng dẫn cách sử dụng các dụng cụ lao động hiệu quả. Vào cuối một số
buổi, tôi hướng dẫn từng nhóm các công việc để học sinh biết lao động vệ sinh
lớp học sạch, đẹp, an toàn khi lao động.
- Hầu hết học sinh có ý thức luôn giữ gìn vệ sinh lớp học sạch sẽ. Các em
đã biết tham gia các công việc vừa sức như quét lớp, nhặt lá, kê bàn ghế. Ở gia
đình, các em biết giúp đỡ bố mẹ những việc phù hợp với khả năng của mình.

Học sinh quét dọn, vệ sinh lớp học.
Thông qua hoạt động này, giúp học sinh rèn kĩ năng tự phục vụ bản thân
như soạn sách vở đầy đủ theo thời khóa biểu, biết giữ vệ sinh cá nhân, biết trang
phục đúng quy định…
d) Hoạt động xã hội, nhân đạo.
Bước đầu đưa HS vào các hoạt động xã hội để giúp các em nâng cao hiểu
biết về con người, đất nước, xã hội. Đây là một hoạt động tuy khó nhưng nó
mang một ý nghĩa vô cùng to lớn.Thông qua hoạt động này, các em sẽ được bồi
dưỡng thêm về nhân cách, đặc biệt là tình người. Để học sinh hiểu được ý nghĩa
các hoạt động nhân đạo, trong một số buổi sinh hoạt lớp, tôi kể cho học sinh
nghe những hoạt động của “Hội người mù” Nga Sơn hoặc những câu chuyện về
người khuyết tật đã vươn lên trong cuộc sống và các sản phẩm do những người
khuyết tật làm ra. Vì vậy, mỗi lần phát động học sinh ủng hộ người khuyết tật
các em đều tham gia rất tích cực, có nhiều em đã tiết kiệm thêm vài buổi ăn sáng
để ủng hộ với mức cao hơn rất nhiều so với mức phát động.

15


Học sinh quyên góp ủng hộ “Trung tâm khuyết tật tình thương”
Thông qua hoạt động này, bồi dưỡng thêm về nhân cách con người, các em
biết cảm thông, thương yêu chia sẻ với những người có hoàn cảnh khó khăn.

Trong cuộc sống hàng ngày, các em biết giúp đỡ bạn trong lớp có hoàn cảnh khó
khăn trong học tập như : bút, vở, đồ dùng học tập, đồ chơi…
Giải pháp 5: Phối hợp chặt chẽ với giáo viên bộ môn và gia đình để
giáo dục kĩ năng sống cho học sinh:
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là là giúp các em phát triển đồng đều
các lĩnh vực: thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm- xã hội và thẫm mĩ. Phát
huy tính tích cực của các em, giúp các em hứng thú, chủ động khám phá tìm tòi,
biết vận dụng vốn kiến thức, kĩ năng vào việc giải quyết các tình huống khác
nhau.
Cần giúp các em có được những mối liên kết mật thiết với những bạn khác
trong lớp, các em biết chia sẻ chăm sóc, trẻ cần phải học về cách hành xử, biết
lắng nghe trình bày và diễn đạt được ý của mình khi vào trong các nhóm học
sinh khác nhau, giúp các em luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách
mới. Điều này liên quan tới việc các em có cảm thấy thoải mái, tự tin hay không
đối với mọi người xung quanh, cũng như việc mọi người xung quanh chấp nhận
một học sinh đó như thế nào? Cần chuẩn bị cho học sinh sự tự tin, thoải mái
trong mọi trường hợp nhất. Vì vậy, vai trò của giáo viên chủ nhiệm trong việc
phối hợp với gia đình và giáo viên bộ môn để giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh cũng hết sức quan trọng.
a) Vai trò của các giáo viên bộ môn trong việc giáo dục kĩ năng sống cho
trẻ.
16


Thời gian học chính khóa, học sinh học 7 buổi/ tuần trong đó có 9 tiết của
giáo viên bộ môn. Vì vậy, việc phối hợp với giáo viên bộ môn và tổng phụ trách
đội để rèn kĩ năng sống cho học sinh là rất cần thiết. Tôi thường xuyên trao đổi
với giáo viên bộ môn để nắm bắt được chất lượng học tập của từng học sinh,
đồng thời tôi cũng chia sẻ với giáo viên bộ môn về kĩ năng học tập, kĩ năng giao
tiếp…của từng nhóm học sinh trong lớp để giáo viên nắm bắt kịp thời và có kế

hoạch giúp đỡ và rèn luyện trong các giờ học tiếp theo. Cuối mỗi tháng, tôi trao
đổi với giáo viên bộ môn để ghi nhận sự chuyển biến của học sinh ở từng môn
học và cùng giáo viên bộ môn tìm biện pháp giáo dục phù hợp với đối tượng học
sinh còn hạn chế.
Qua dự giờ, tôi thấy được giáo viên bộ môn rất chú trọng rèn kỹ năng sống
cho học sinh như kĩ năng học nhóm, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tìm kiếm sự hỗ
trợ…. Do vậy, việc vận dụng các kĩ năng sống vào sinh hoạt và học tập, học sinh
lớp tôi khá tự tin.

Hình ảnh giờ học Mĩ thuật.

Học sinh hội thoại trong giờ Tiếng Anh.
17


b) Vai trò của gia đình trong việc rèn luyện kĩ năng sống cho trẻ:
Trong việc tổ chức kết hợp các lực lượng giáo dục, gia đình có vai trò và
tác động vô cùng quan trọng, là trọng tâm của các hoạt động kết hợp. Gia đình là
nơi trẻ được sinh ra, lớn lên và hình thành nhân cách của mình. Ảnh hưởng
giáo dục của gia đình đến với trẻ là đầu tiên và sớm nhất. Giáo dục con cái
trong gia đình không phải chỉ là việc riêng tư của bố mẹ, mà còn là trách nhiệm
đạo đức và nghĩa vụ công dân của những người làm cha mẹ. Nó được xác định
trong nhiều văn bản pháp luật ở nước ta hiện nay như trong Hiến pháp, Luật
Hôn nhân và gia đình, Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, …gắn với quan
hệ máu mủ ruột thịt và tình yêu thương sâu sắc của ông bà, cha mẹ với con cái
nên giáo dục gia đình mang tính xúc cảm mạnh mẽ, có khả năng cảm hóa lớn
nhất. Tùy vào điều kiện kinh tế, đời sống của mỗi gia đình mà việc tiến hành
giáo dục trong các giai đoạn phát triển của trẻ có các nội dung, hình thức, nhiệm
vụ khác nhau.
Cinh vậy gia đình là một chỗ dựa đầu tiên và vững chắc để trẻ chia sẻ, bày

tỏ. Nhà trường là ngôi nhà thứ hai của các em. Một trong những kĩ năng đầu tiên
mà gia đình cùng với giáo viên cần chú tâm là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng
của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về cá nhân cũng như
trong mối quan hệ với những người khác. Kĩ năng sống này giúp trẻ luôn cảm
thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi. Vì vậy, để các em sau này trở thành
con người phát triển toàn diện phù hợp với sự phát triển của đất nước thì việc
giáo dục kĩ năng sống cho các em ngay từ những năm đầu cấp học là vô cùng
quan trọng, cần thiết. Giáo dục kĩ năng sống cho các em phải cần có sự phối hợp
chặt chẽ giữa giáo viên, các bậc phụ huynh.
Bản thân giáo viên và các bậc phụ huynh phải luôn gần gũi, thân mật với
các em, chia sẻ kịp thời những vướng mắc cũng như phát hiện kịp thời những
biểu hiện lệch lạc của các em, giúp các em sửa chữa kịp thời, giáo viên và cha
mẹ phải là tấm gương cho các em noi theo.

Giáo viên và phụ huynh tổ chức sinh nhật cho học sinh

18


Ban chấp hành hội cha mẹ học sinh tổ chức Tết Trung thu
2.4. Hiệu quả
Từ những cố gắng học hỏi, bằng kinh nghiệm và vốn sống của mình, tôi
cần từng bước một giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua từng bài dạy,
thông qua các hoạt động ở trường, ở lớp, tôi thấy các em đã biết và làm quen
được một số kỹ năng làm việc theo nhóm: biết cách phân công, công việc, lắng
nghe ý kiến người khác, tranh luận, biết chấp nhận đúng sai, thống nhất ý kiến,
thực hiện đúng ý kiến đã thống nhất. Các em biết làm việc trong tập thể. Các em
biết quét lớp, chăm sóc cây và biết tránh những việc làm xấu như nói không đồ
ăn, nước uống không rõ nguồn gốc, các hình dán đẹp mắt được bán ở gần trường
học … dứt khoát với những lời dụ dỗ, lôi kéo vào những thói hư tật xấu. Ở môn

đạo đức, qua các bài học giáo viên lồng ghép thêm giáo dục các em biết chào
hỏi lễ phép, kính trọng ông bà, cha mẹ, anh chị em, thầy cô giáo, biết chia sẻ yêu
thương, giúp đỡ người già, em nhỏ, bạn bè và những người có công lao to lớn.
Bằng những hành vi, thái độ, việc làm nhỏ hằng ngày, biết xác định các giá trị
hành vi đạo đức. Ở môn tự nhiên xã hội, giáo dục các em yêu thiên nhiên, gần
gũi với thiên nhiên, động vật, thực vật để từ đó các em biết giá trị của sống quan
trọng như thế nào để từ đó các em cảm nhận được bảo vệ môi trường là hết sức
quan trọng đối với cuộc sống của con người .
Trong sinh hoạt hằng ngày các em biết sử dụng đúng các quy tắc : ứng xử
giao tiếp với mọi người , biết thông cảm chia sẻ với mọi niềm vui, nỗi buốn với
mọi người xung quanh . Luôn luôn là một người mẫu mực, trung thực là niền tự
hào của cha mẹ .
2.4.1. Kết quả khảo sát kĩ năng sống của học sinh:
Tôi đã theo dõi, đánh giá kết quả thực hiện về các mặt kĩ năng sống của lớp
3A tại thời điểm cuối tháng 3 năm 2019 như sau:
Sĩ Kĩ năng giao tiếp – Hòa nhập cuộc Kĩ năng học tập, lao động, vui chơi
số sống
Tốt
Đạt
Chưa đạt
Tốt
Đạt
Chưa đạt
SL %
SL %
SL %
SL %
SL %
SL %
33 17

51,4 16
48,6
0
0
20
60,6 13
39,4
0
0
19


Nhìn vào bảng số liệu trên cho thấy việc rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp
tôi đã có sự chuyển biến rõ nét so với đầu năm và đa số học sinh đều có khả
năng tự phục vụ, năng động, mạnh dạn, tự tin trong giao, được rèn luyện kĩ năng
tự lập; kĩ năng nhận thức, biết thương yêu bạn bè, biết giúp đỡ bạn cùng tiến …
thông qua các hoạt động hàng ngày trong cuộc sống và được rèn kĩ năng tự kiểm
soát bản thân, phát triển óc sáng tạo, tính tự tin thông qua các hoạt động năng
khiếu vẽ, thể dục, …. Chính vì vậy, trong các hoạt động ngoài giờ lên lớp, do
đội và nhà trường tổ chức lớp tôi luôn đạt giải nhất, nhì của khối như làm bưu
thiếp chúc mừng nhân Ngày 20 – 10; hội thi vui khỏe trình diễn thời trang nhí
vào dịp 26 – 3, văn nghệ chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam…
Các em được rèn luyện kĩ năng xã hội; kĩ năng về cảm xúc, giao tiếp;
chung sống thân thiện, tuyệt đối không xảy ra bạo hành trẻ em ở trường cũng
như ở gia đình. Các em được giáo dục, chăm sóc nuôi dưỡng tốt, được bảo vệ
sức khỏe, được bảo đảm an toàn, phòng bệnh theo mùa và các tệ nạn xã hội.
2.4.2. Về phía giáo viên:
Trong giảng dạy luôn quan tâm đến mọi đối tượng học sinh, chú trọng hình
thức học nhóm, chủ động tương tác với học sinh để phát huy mọi khả năng của
các em.

Giáo viên luôn gần gũi chuyện trò với học sinh, tham gia vui chơi cùng các
em trong các giờ ra chơi, giải quyết hợp lý, công bằng với mọi tình huống xảy ra
giữa các em học sinh trong lớp và động viên khen thưởng kịp thời sự tiến bộ
của các em giúp các em tự tin hơn trong mọi hoạt động.
Giáo viên phải là tấm gương sáng, yêu thương, tôn trọng và đảm bảo an toàn
cho học sinh.
Phối hợp chặt chẽ với cha mẹ các em. Mạnh dạn góp ý cho phụ huynh về
những vấn đề mà phụ huynh chưa hiểu hết yêu cầu giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh. Mối liên hệ mật thiết giữa giáo viên và phụ huynh tạo nên hiệu quả cao
trong việc rèn kĩ năng sống cho học sinh.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Để các em sau này trở thành con người phát triển toàn diện phù hợp với sự
phát triển của đất nước thì việc giáo dục kĩ năng sống cho các em ngay từ những
năm đầu cấp học là vô cùng quan trọng, cần thiết. Thực hiện giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh phải cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa giáo viên, các bậc phụ
huynh và mọi người trong xã hội.
Trong quá trình thực hiện và áp dụng sáng kiến kinh nghiệm, tôi đã rút ra
được những bài học quí giá để bổ sung kinh nghiệm nhằm thực hiện tốt nhiệm
vụ năm học như sau:
Thực hiện đúng theo các văn bản chỉ đạo của Ngành, bám sát chủ đề kế
hoạch thực hiện phù hợp với đặc điểm tâm lý và hoàn cảnh cụ thể của từng học
sinh trong lớp .
Có bước chủ động trong công việc, nắm bắt kết quả qua các bước thực hiện
một cách nhanh nhất để đưa vào việc điều chỉnh kế hoạch đúng lúc, đúng thời
20


điểm. Luôn tạo sự đổi mới, sáng tạo trong công việc để tăng sự thu hút từ phía
học sinh.

Phối hợp nhịp nhàng với các đoàn thể trong nhà trường, phụ huynh học
sinh. Luôn lắng nghe những ý kiến về những khó khăn của học sinh.
Giáo viên phải phát huy vai trò của bản thân, thường xuyên thay đổi các
hình thức sinh hoạt lớp. Tạo mọi điều kiện để các em được luân phiên điều hành.
Chẳng hạn, luân phiên làm lớp trưởng, quản ca, tổ trưởng... Đồng thời, giáo viên
chủ nhiệm cần phối hợp chặt chẽ với các đồng chí giáo viên bộ môn để góp
phần nâng cao chất lượng rèn kĩ năng sống cho học sinh.
Hàng tháng, tổ chức tốt hoạt động ngoài giờ lên lớp bằng nhiều hình thức
như: trò chơi dân gian, văn nghệ, kể chuyện,… một cách có hiệu quả. Ngoài ra
còn tổ chức nhiều sân chơi bổ ích cho các em (chơi mà học, học mà chơi). Từ đó
nâng cao việc rèn luyện kĩ năng sống cho các em.
Mô hình này rất dễ dàng thực hiện dành cho học sinh tiểu học với các hình
thức phong phú nêu trên, làm cho các em cảm nhận được kỹ năng sống, giá trị
sống là những kỹ năng chuẩn mực trong một xã hội văn minh. Nó có thể xem
là hành trang hết sức cần thiết cho các em trong cuộc sống, là những vốn sống
không thể thiếu đối với các em, trong thời kỳ đất nước ta đang hội nhập với
nền kinh tế thế giới, đang tiến hành công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Trước mắt giúp cho các em đổi mới phương pháp, tích cực học tập, có
năng lực tự học và biết tự điều chỉnh hành vi, tự giác chấp hành tốt nội qui nhà
trường.
Cùng với phụ huynh học sinh đoàn kết, phối hợp với nhau để đưa các em
trở thành những học sinh có đủ đức và tài qua sự kết hợp giáo dục toàn diện về
đức, trí, thể, mỹ, giúp các em biết ứng xử có văn hóa, biết cách xử lý những tình
huống xảy ra trong cuộc sống, một cách có hiệu quả thiết thực và có hiệu quả
cao trong phong trào giáo dục toàn diện. Toàn khối nói chung, lớp 3A nói riêng
quyết tâm thực hiện các tiêu chí thi đua xây dựng phong trào, gương tốt việc tốt
và học tấp tốt năm điều Bác Hồ dạy “Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tuy theo sức của
mình. Chính vì vậy mà các em đã thực hiện được một cách tích cực” theo các
quy định của trường, lớp. Hình thành và phát triển các kỹ năng ứng xử hợp lý
các tình huống trong cuộc sống, sinh hoạt .

3.2. Kiến nghị:
* Một số điều người lớn cần tránh khi dạy trẻ kĩ năng sống:
Không doạ nạt: vì mỗi lần chúng ta doạ nạt là chúng ta đã làm cho trẻ sợ
hãi và căm giận người lớn. Sự đe doạ hoàn toàn có hại cho đứa trẻ và sẽ không
giúp cho hành vi của các em tốt hơn.
Không hạ thấp các em : Cứ mỗi lần chúng ta nói những lời hạ thấp khả
năng các em là chúng ta đã phá vỡ những suy nghĩ tích cực về chính bản thân
của học sinh. Không nên tạo cho các em thói quen kiêu ngạo nhưng cũng không
nên nói những lời không hay đối với trẻ.
Không nên yêu cầu các em phục tùng theo ý người lớn ngay lập tức vì sự
phục tùng một cách thái quá không có sự thoả thuận giữa các bên, không tạo
điều kiện phát triển tính tự lập ở các em.
21


Không nên nhồi nhét lượng kiến thức quá mức so với khả năng tiếp nhận
của não bộ.
Bản thân đã cố gắng áp dụng những kinh nghiệm, những phương pháp mới
trong giảng dạy nhằm nâng cao nhiều kỹ năng sống tốt cho học sinh từ môi trường
giáo dục ở nhà trường, giáo dục và xây dựng cho các em có năng lực tốt, lối sống
lành mạnh để các em có thể tự lập, tự tin hơn trong cuộc sống, đem lại niềm vui,
hạnh phúc cho các em, gia đình và xã hội. Trên đây là những suy nghĩ của bản thân
về việc nghiên cứu một số biện pháp giáo dục và rèn kỹ năng sống cho học sinh lớp
3 thông qua các môn học và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
Rất mong được nhận sự giúp đỡ góp ý bổ sung của đồng nghiệp và ban
lãnh đạo các cấp để đề tài hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ


Nga sơn, ngày 20 tháng 4 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây sáng kiến của
mình không sao chép của người khác
Người thực hiện

Ngô Thị Thảo

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.

Sách Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở tiểu học – Lớp 3.
Hướng dẫn tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp cho học sinh lớp
Sách giáo viên, sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 3.
Sách giáo viên, sách giáo khoa Tự nhiên xã hội lớp 3.
Sách giáo viên, vở Bài tập đạo đức lớp 3.
Module TH 38.
Module TH 39.
Module TH 41.
22


MỤC LỤC
1.MỞ ĐẦU

1.1. Lí do chọn đề tài.
1.2
. Mục đích nghiên cứu.
1.3Đối tượng nghiên cứu.
1.4.Phương pháp nghiên cứu.
2.NỘI DUNG
2.1.Cơ sở lí luận.

Trang
1
2
2
2
2
2
23


Thực trạng của việc rèn kĩ năng sống trong trường tiểu
học.
Các giải pháp đã sử sụng để giải quyết vấn đề.
Hiệu quả.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
Kết luận.
3.2.Kiến nghị.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

3
4
19

21

24


25


×