Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Một số biện pháp rèn kĩ năng sống thông qua các môn học và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp cho học sinh lớp 3 ở trường tiểu học nga trung, huyện nga sơn, tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (681.83 KB, 22 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị
quyết số 29-NQ/TW) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã nhấn
mạnh việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ, đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế
và nhu cầu phát triển của người học. Giáo dục phổ thông đã và đang được đổi
mới mạnh mẽ theo 4 trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI, mà thực chất là cách tiếp
cận kĩ năng sống. Đó là “Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình và
học để cùng chung sống”. 1
Việc dạy trẻ kĩ năng sống là điều rất cần thiết, đặc biệt là đối với trẻ lứa tuổi
Tiểu học. Khi bắt đầu đi học cũng là lúc trẻ bắt đầu tiếp xúc với xã hội và rất cần
hoàn thiện, phát triển kĩ năng sống cho riêng mình. Chính những kĩ năng sống
mà em tiếp nhận được trong những năm đầu tiên đi học sẽ theo các em suốt cả
cuộc sống sau này. Nếu ngay từ bậc Tiểu học, các em đã có những kĩ năng tốt,
cuộc sống sau này sẽ rộng mở với các em hơn.
Hiên nay, nội dung giáo dục kĩ năng sống đã được nhiều quốc gia trên thế
giới đưa vào dạy cho học sinh trong các nhà trường phổ thông dưới nhiều hình
thức khác nhau và được coi như một nội dung để nâng cao chất lượng giáo dục.
Cuộc sống hiện đại đang đặt ra cho các nhà quản lí giáo dục, các thầy cô
giáo và các bậc phụ huynh học sinh nhiều khó khăn bởi một thực tế học sinh
hiện nay còn yếu và thiếu kĩ năng sống. Từ những thực tế trên, mục tiêu giáo
dục phổ thông đã và đang chuyển hướng từ trang bị kiến thức sang trang bị
những kĩ năng cần thiết trong cuộc sống cho các em học sinh. Phương pháp
giáo dục phổ thông đã và đang được đổi mới theo hướng phát huy tính tích
cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học, phù hợp với đặc điểm của
từng lớp học. Tăng cường khả năng làm việc theo nhóm, rèn kĩ năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn, tác động vào tình cảm đem lại niềm vui, hứng thú học
tập cho học sinh.
Nội dung giáo dục kĩ năng sống được tích hợp trong một số môn học và
hoạt động giáo dục trong trường phổ thông. Đặc biệt rèn kĩ năng sống cho học


sinh được xác định là một trong những nội dung cơ bản của phong trào thi đua
“Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong các nhà trường do Bộ
Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo.
Vậy “Làm thế nào để trang bị cho các em có kĩ năng sống tốt hơn? Để các
em chủ động, tự tin và vững vàng hơn trong học tập và cuộc sống?Đó là điều mà
tôi hết sức băn khoăn và trăn trở. Với mong muốn góp phần vào việc luận giải
những vấn đề nói trên, tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp rèn kĩ năng sống
thông qua các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp cho học sinh lớp 3
trường tiểu học Nga Trung- huyện Nga Sơn- tỉnh Thanh Hóa”. Vấn đề mà
chắc hẳn không chỉ riêng bản thân tôi mà rất nhiều đồng nghiệp khác quan tâm
1


suy nghĩ và thiết nghĩ đây cũng là một vấn đề mà phụ huynh và xã hội hết sức
quan tâm.
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Tìm một số biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh thông qua các môn học
và hoạt động ngoài giờ lên lớp.
Giúp học sinh ý thức được giá trị của bản thân trong mối quan hệ xã hội;
giúp học sinh hiểu biết về thể chất, tinh thần của bản thân mình; có hành vi, thói
quen ứng xử có văn hóa, hiểu biết và chấp hành pháp luật…
Giúp học sinh có đủ khả năng tự thích ứng với môi trường xung quanh, tự chủ,
độc lập, tự tin khi giải quyết công việc, đem lại cho các em vốn tự tin ban đầu để
trang bị cho các em những kĩ năng cần thiết làm hành trang bước vào đời.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Việc giảng dạy các môn học và tổ chức hoạt động GDNGLL của các giáo
viên chủ nhiệm khối lớp 3.
- Kỹ năng sống của các em học sinh lớp 3B trường Tiểu học Nga Trunghuyện Nga Sơn - tỉnh Thanh Hóa.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.4.1. Nghiên cứu lí luận

Tìm đọc tài liệu có liên quan đến việc rèn kĩ năng sống cho học sinh.
1.4.2. Nghiên cứu thực tế
a. Phương pháp điều tra: Khảo sát thực tế học sinh qua hai đợt (đầu năm và
giữa học kì 2)
b. Phương pháp quan sát:
+ Quan sát hoạt động học tập (Xem các em có tích cực tham gia vào các
hoạt động hay không? Có kĩ năng làm bài hay không?...)
+ Quan sát hoạt động vui chơi (Thích trò chơi nào, thái độ trung thực hay
chưa trung thực khi tham gia trò chơi…).
+ Quan sát hoạt động giao tiếp với mọi người xung quanh (Thái độ khi nói
chuyện với bạn bè, cách xưng hô với thầy cô giáo, với người lớn tuổi, hành vi tốt
xấu với mọi người…).
c. Phương pháp thực hành: Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua
các hoạt động để học sinh tự cảm nhận, đánh giá, nhận xét qua các hành vi và từ
đó hình thành các kĩ năng; thực hiện sự phối hợp trong và ngoài nhà trường, làm
tốt công tác xã hội hóa trong việc giáo dục kĩ năng sống.
d. Phương pháp phân tích và tổng hợp kinh nghiệm giáo dục:
+ Phân tích các nguyên nhân dẫn đến học sinh thiếu kĩ năng sống.
+ Tổng hợp các biện pháp giáo dục của giáo viên chủ nhiệm khối lớp 3; của
nhà trường và gia đình.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Ngày nay, kĩ năng sống (KNS) hay còn gọi là những kĩ năng mềm đóng
một vai trò quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. KNS chiếm 70%
các kĩ năng dẫn đến thành công của mỗi người. Vậy KNS là gì?
2


Theo tổ chức Y tế thế giới WHO định nghĩa KNS là “khả năng thích nghi”
và “hành vi tích cực” cho phép cá nhân có khả năng đối phó hiệu quả với nhu

cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày.
Theo Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF): KNS là cách tiếp cận giúp
thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự cân bằng
và tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kĩ năng.
Theo Tổ chức văn hóa, khoa học và giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO)
KNS là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào
cuộc sống hằng ngày. KNS bao gồm một loạt các kĩ nang cụ thể, cần thiết cho
cuộc sống hằng ngày của con người. Bản chất của KNS là kĩ năng tự quản bản
thân và kĩ nang xã hội cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và
làm việc có hiệu quả.
Tóm lại, KNS là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử
phù hợp với người khác và với xã hội; khả năng ứng phó tích cực trước các tình
huống của cuộc sống.
Thật vậy, các KNS thường không tách rời mà có mối liên quan chặt chẽ với
nhau. KNS không phải tự nhiên có được mà phải được hình thành trong quá trình
học tập, lính hội và rèn luyện trong cuộc sống. Quá trình hình thành KNS diễn ra
cả trong và ngoài hệ thống giáo dục.
Trong thực tế, công việc giáo dục KNS đôi khi là điều trăn trở đối với nhiều
người song cũng với không ít người thì khái niệm này đang hoàn toàn xa lạ. Tại
sao như vậy? Cùng với câu hỏi đó thì thực tế vẫn đang có rất nhiều người công
tác trong ngành giáo dục đã bỏ thời gian và công sức nghiên cứu về giáo dục
KNS như: Con đường hình thành KNS; cách thức hình thành KNS và vai trò của
KNS trong cuộc sống con người.
Kĩ năng sống được hình thành như thế nào?
Kĩ năng sống có thể hình thành từ những trải nghiệm của cuộc sống và do giáo
dục mà có. Không phải đợi đến lúc được học KNS một con người mới có những
KNS đầu tiên. Chính cuộc đời, những trải nghiệm , va vấp, thành công và thất bại
giúp con người có được những bài học qu giá về KNS. Tuy nhiên, nếu được dạy dỗ
từ sớm, con người sẽ rút ngắn thời gian học hỏi qua trải nghiệm, sẽ thành công hơn.
Tại sao cần có kĩ năng sống?

KNS cần cho suốt cả cuộc đời và luôn luôn cần được bổ sung, nâng cấp để phù
hợp với sự thay đổi của cuộc sống biến động. Người trưởng thành cũng cần học KNS.
Sự cần thiết phải giáo dục kĩ năng sống cho học sinh?
Nhà trường là nơi diễn ra cuộc sống thực của trẻ. Do vậy KNS là sản phẩm
bắt buộc có của giáo dục nhà trường. Nó không phải là môn học. Nó bao trùm
toàn bộ các môn học và hoạt động giáo dục.
2.2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
KINH NGHIỆM.
2.2.1. Tình hình nhà trường.
Trường Tiểu học Nga Trung là ngôi trường đã được tu bổ khang trang, đã
đạt chuẩn quốc gia mức độ I năm 2011,công nhận lại năm 2016 nên thuận lợi
3


trong việc thực hiện nội dung xây dựng môi trường giáo dục sạch đẹp, an toàn
cho trẻ. Đội ngũ cán bộ giáo viên trong trường 100% đạt trình độ trên chuẩn Nhà
trường luôn được đánh giá là một tập thể đoàn kết, vững mạnh. Trong những
năm gần đây nhà trường luôn đạt danh hiệu đơn vị lao động tiên tiến cấp huyện,
trường đứng trong tốp đầu khối Tiểu học, được phụ huynh và cấp trên tin tưởng
về chất lượng dạy và học. Ban giám hiệu nhà trường trường luôn theo sát, quan
tâm, hỗ trợ cho giáo viên trong công tác giảng dạy cũng như giáo dục; luôn quan
tâm giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua các môn học, qua việc tổ chức
các hoạt động giáo dục ngoại khóa nhằm khuyến khích học sinh được thể hiện
bản thân như: tổ chức các câu lạc bộ (tiếng Anh, cờ vua, cầu lông, âm nhạc, ...),
tổ chức cho học sinh giao lưu với các bạn trong trường và các bạn trường ngoài,
giúp đỡ các bạn học sinh nghèo ....
2.2.2. Đối với giáo viên.
Đội ngũ giáo viên của nhà trường luôn tâm huyết với nghề, đều đạt trình độ
chuẩn và trên chuẩn. Đa số giáo viên có nhiều kinh nghiệm đã tích cực tìm hiểu,
vận dụng những hiểu biết của bản thân vào việc giáo dục kĩ năng sống cho học

sinh thông qua các môn học và các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Tuy nhiên việc
đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ
động, sáng tạo và ý thức vươn lên, rèn luyện khả năng tự học của học sinh còn
gặp nhiều khó khăn.
2.2.3. Đối với phụ huynh.
Các bậc phụ huynh luôn phối hợp với giáo viên trong việc giáo dục học
sinh, tạo mọi điều kiện giúp đỡ giáo viên trong việc giáo dục con em. Tuy nhiên
vẫn có một bộ phận phụ huynh còn nóng vội trong việc dạy con; họ chỉ chú trọng
đến việc con mình về nhà mà chưa đọc, viết chưa đẹp, hoặc chưa biết làm Toán
thì lo lắng một cách thái quá! Ngoài ra, một trở ngại nữa là phụ huynh trong lớp
có một số bố mẹ quá nuông chiều con cái khiến trẻ không có kĩ năng tự phục vụ
bản thân. Ngược lại, một số phụ huynh vì bận nhiều công việc nên ít quan tâm
giúp đỡ con em trong các hoạt động cần thiết…
2.3.4. Đối với học sinh.
Các em học sinh đều sống ở nông thôn nên việc tiếp thu những kiến thức
mới cũng như hình thành các kĩ năng sống cũng tương đối thuận lợi. Tuy nhiên
một số em vừa từ lớp một, hai lên làm quen với môi trường lớp 3 nên khá rụt rè
chưa quen với cách học cũng như mạnh dạn bày tỏ ý kiến. Khi phát biểu các em
nói chưa rõ ràng, diễn đạt chưa rõ ý, không tròn câu và ít nói lời cảm ơn, xin lỗi
với cô giáo, bạn bè. Nhiều em đến trường tỏ ra nói nhiều vì ở nhà các em không
có người trò chuyện, chia sẻ ...
Chính vì thế tôi luôn cố gắng làm sao rèn cho các em kĩ năng sống, giúp các
em có một niềm tin, phát triển một cách toàn diện để trở thành con người năng
động, sáng tạo phù hợp với một xã hội hiện đại đang phát triển.
Từ các nguyên nhân, tình hình thực tiễn cũng như các thuận lợi và khó khăn
nêu trên, tôi đã cố gắng tìm nhiều biện pháp rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh
lớp tôi chủ nhiệm thông qua các tiết dạy của một số môn học và hoạt động ngoài
giờ lên lớp nhằm đem lại hiệu quả cao trong công tác giáo dục.
4



Qua thực tế giảng dạy nhiều năm ở lớp 3, trường Tiểu học Nga Trung, tôi
thấy kĩ năng sống của học sinh chưa cao. Chỉ một số học sinh có hành vi, thói
quen, kĩ năng tốt. Còn phần lớn các em có nhận xét, đánh giá về sự việc nhưng
chưa có thái độ và cách ứng xử, cách xưng hô chuẩn mực. Học sinh thể hiện kĩ
năng còn đại khái, chưa mạnh dạn thể hiện kĩ năng của bản thân. Các em còn
ngại nói, ngại viết, khả năng tự học, tự tìm tòi còn hạn chế.
Qua tiến hành khảo sát ở lớp 3B đầu năm học 2018 – 2019 với chủ đề
“ Kĩ năng của em” kết quả như sau:
Kĩ năng
Tiêu chí
Kĩ năng tốt
Có kĩ năng
Kĩ năng chưa tốt
Tích cực, biết hợp tác
Chưa tích cực hợp tác
Ứng xử thân thiện
Chưa biết cách ứng xử

Số
HS
24
24
24
24
24
24
24

SL

6
8
10

%
25
33.4
41,6

Thảo luận
nhóm
SL
%

10
14

Ứng xử khi tham
gia HĐTT
SL
%

41,6
58,4
14
10

58,4
41,6


Kết quả trên cho thấy, số học sinh có kĩ năng tốt còn ít và số học sinh có kĩ
năng chưa tốt còn nhiều. Chính vì vậy mà việc rèn kĩ năng sống cho học sinh là
vấn đề cần quan tâm. Muốn làm tốt công tác này chúng ta cần phải làm gì? Từ
những thực trạng trên thôi thúc tôi tìm ra nguyên nhân dẫn đến tình trạng “Học
sinh chưa có kĩ năng sống” là do đâu? Để từ đó tìm ra biện pháp rèn kĩ năng sống
cho học sinh đạt hiệu quả.
2.3. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
Kĩ năng sống được hình thành qua quá trình giáo dục ở gia đình, nhà trường
và xã hội. Kĩ năng sống được giáo dục trong các môn học chính khóa và ngoại
khóa. Giáo dục kĩ năng sống cần bắt đầu từ nhỏ, từ từng hành vi cá nhân đơn
giản nhất, theo đó hình thành tính cách và nhân cách. Cụ thể cần phải áp dụng
một số biện pháp sau:
2.3.1. Rèn kĩ năng sống cho HS thông qua việc tạo sự gần gũi và thân
thiện với các em.
Đầu tiên, sau khi nhận lớp, để tạo sự gần gũi và gắn kết giữa học sinh và
giáo viên chủ nhiệm, tôi sắp xếp nhiều thời gian cho học sinh được giới thiệu về
mình, động viên khuyến khích các em chia sẻ với nhau về những sở thích, ước
mơ tương lai cũng như mong muốn của mình với các em. Đây là hoạt động giúp
cô trò hiểu nhau, đồng thời tạo một môi trường học tập thân thiện “Trường học
thật sự trở thành ngôi nhà thứ hai của các em, các thầy cô giáo là những người
thân trong gia đình". Đây cũng là một điều kiện rất quan trọng để phát triển khả
năng giao tiếp của học sinh. Bởi học sinh không thể mạnh dạn, tự tin trong một
môi trường mà giáo viên luôn gò bó và áp đặt.
5


Tiếp theo trong tuần đầu, tôi cho học sinh tự do lựa chọn vị trí ngồi của
mình để qua đó phần nào nắm được đặc điểm tính cách của các em: mạnh dạn
hay nhút nhát, thụ động hay tích cực, thích thể hiện hay không thích...Và tiếp tục
qua những tuần học sau, bản thân chú ý quan sát những biểu hiện về thái độ học

tập, những cử chỉ, hành vi tại vị trí ngồi mà các em chọn để bắt đầu có điều chỉnh
phù hợp.
Đặc biệt trong giờ sinh hoạt đầu tuần, giáo viên giành thời gian hỏi han, tìm
hiểu hoàn cảnh gia đình học sinh để kịp thời động viên, chia sẻ khi cần thiết, tạo
sự thận thiện gần gũi với các em.
Với việc làm trên, tôi đã tạo được sự gần gũi, thân thiện giữa cô và trò. Các
em đã mạnh dạn chia sẽ các tâm tư nguyện vọng của bản thân với cô giáo.
Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có thể thực hiện trong bất cứ lúc
nào, giờ học nào. Để việc rèn luyện diễn ra một cách thường xuyên và đạt hiệu
quả cao tiếp tục qua biện pháp tiếp theo.
2.3.2. Rèn kĩ năng sống cho HS thông qua việc tích hợp vào các môn học.
Rèn kĩ năng sống có hiệu quả còn được tôi vận dụng khá nhiều trong trong
các môn học thông qua xử lí tình huống hay các trò chơi học tập có nội dung gần
gũi với cuộc sống hằng ngày của các em.
a. Lồng ghép KNS trong dạy học TNXH:
Trong môn Tự nhiên và Xã hội. Ở bài: "Các thế hệ trong một gia đình”,
tôi cho học sinh mang theo tranh ảnh giới thiệu với các bạn trong nhóm về các
thế hệ trong gia đình mình. Sau khi học sinh làm việc trong nhóm sẽ lên giới
thiệu trước lớp. Qua đó, các em sẽ mạnh dạn hơn trong giao tiếp.

Giới thiệu với các bạn về các thế
hệ trong gia đình mình (TN&XH)
Các em làm việc tích cực, vui vẻ,
tự mỗi em nói được tiếng nói, suy nghĩ
của mình với bạn bè, với thầy cô một
cách tự tin mạnh dạn. Việc rèn luyện các kĩ năng này đã tạo ra được thói quen tốt
cho bản thân mỗi em, các em tham gia một cách chủ động tích cực vào quá trình
học tập, tạo điều kiện cho các em chia sẻ những kinh nghiệm, ý kiến hay để giải
quyết một vấn đề nào đó.
Hiệu quả đào tạo kĩ năng sống không đo đếm được bằng những con số

chính xác nhưng được thể hiện bằng những biểu hiện cụ thể: các em có ý thức,
6


thái độ khác với mọi người trong gia đình; luôn hoà đồng với bạn bè; tự tin khi
nói năng... đó chính là hiệu quả từ đào tạo kĩ năng sống. Việc sinh hoạt theo
nhóm tạo môi trường làm việc thân thiện, giúp các em cải thiện hành vi giao tiếp
thông qua các hoạt động trao đổi diễn ra thường xuyên. Các em trở nên thân
thiện, từ đó giúp bầu không khí học tập, lao động trở nên sôi động hơn. Tham gia
sinh hoạt theo nhóm giúp các em học sinh hưng phấn hơn trong học tập và tạo
nên cách ứng xử hợp lý trong mọi tình huống. Khi sinh hoạt nhóm phải luôn đưa
ra nhiều tình huống tạo sự phát triển tư duy cho các em. Đó cũng là cách tạo sự
gần gũi giữa các em với nhau.
Ở môn Tự nhiên và Xã hội Chương “Con người và sức khỏe”các bài:
“Phòng bệnh đường hô hấp; Bệnh lao phổi; Vệ sinh cơ quan tuần hoàn (bài tiết
nước tiểu, thần kinh);...” giáo dục các em hiểu rằng ăn uống đủ chất và hợp lí
giúp cho chúng ta khoẻ mạnh, biết phòng tránh một số bệnh lây qua đường tiêu
hóa, hô hấp, tim mạch, thần kinh, … Biết những việc nên làm và không nên làm
để phòng bệnh, có ý thức tự giác làm vệ sinh cá nhân hằng ngày, tự giác thực
hiện nếp sống vệ sinh, khắc phục những hành vi có hại cho sức khoẻ. Biết tham
gia các hoạt động và nghỉ ngơi một cách hợp lí để có sức khoẻ tốt.
b. Lồng ghép KNS trong môn Tiếng Việt:
Trong chương trình lớp 3, môn Tiếng Việt có nhiều bài học có thể giáo dục
kĩ năng sống cho các em, đó là các kĩ năng giao tiếp xã hội, như: Viết thư, Điền
vào giấy tờ in sẵn, Kể chuyện qua tranh,... được lồng cụ thể qua các tình huống
giao tiếp. Bản thân chỉ gợi mở sau đó cho các em tự nói một cách tự nhiên hoàn
toàn không gò bó áp đặt. Bên cạnh đó, nhiều bài Luyện từ và câu có nội dung rèn
luyện các nghi thức lời nói, nhiều bài Tập đọc giới thiệu những văn bản mẫu
chuẩn bị cho việc hình thành một số kĩ năng giao tiếp cộng đồng như mẫu đơn,
thư, tóm tắt tin tức,…hoặc cung cấp những câu chuyện mà qua đó học sinh có

thể rút ra những nội dung rèn kĩ năng sống. Để hình thành những kiến thức và
rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh qua môn Tiếng Việt, người giáo viên cần
phải vận dụng nhiều phương pháp dạy phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của học sinh như: thực hành giao tiếp, trò chơi học tập, phương pháp nêu và giải
quyết vấn đề, phương pháp tổ chức hoạt động nhóm, phương pháp hỏi đáp,…
Thông qua các hoạt động học tập, được phát huy trải nghiệm, rèn kĩ năng hợp
tác, bày tỏ ý kiến cá nhân, đóng vai,…học sinh có được cơ hội rèn luyện, thực
hành nhiều kĩ năng sống cần thiết.
Ví dụ: Khi dạy Tập làm văn các bài: “Kể về người hàng xóm”, “Kể về một
buổi biểu diễn nghệ thuật”, “Kể về quê hương”, … tôi thường tổ chức cho các
em, đóng vai, chơi trò chơi; hoặc trong các tiết sinh hoạt tập thể tôi luôn khuyến
khích các em nhận xét, góp ý cho các bạn về những ưu, nhược điểm để các bạn tiến
bộ hơn, sau vài lời khuyến khích đầu tiên, cô giáo hướng dẫn các em đóng vai, giới
thiệu, bày tỏ ý kiến,… Lúc đầu các em rất ái ngại chưa tự tin khi đóng vai, bày tỏ ý
kiến trước lớp nhưng tôi đã kịp thời nhắc nhở các em những điều cần chú ý trong
khi giao tiếp, cộng thêm một môi trường hòa đồng thân thiện các em thực hiện rất
tốt, không còn những cái nhìn ái ngại. Thay vào đó là những cánh tay tự tin cùng
những câu nói rõ ràng, chắc gọn, mạnh dạn hơn.
7


c. Lồng ghép KNS trong dạy học đạo đức:
Ở môn Đạo đức, để các chuẩn mực đạo đức, pháp luật xã hội trở thành tình
cảm, niềm tin, hành vi và thói quen của học sinh. Giáo viên phải sử dụng phương
pháp dạy học đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
học sinh. Tổ chức cho học sinh thực hiện các hoạt động học tập phong phú, đa
dạng như: kể chuyện theo tranh; quan sát tranh ảnh, băng hình, tiểu phẩm; phân
tích, xử lí tình huống; chơi trò chơi, đóng tiểu phẩm, múa hát, đọc thơ, vẽ tranh,
…Sử dụng nhiều phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực như: học theo nhóm,
theo dự án, đóng vai, trò chơi,…Và chính thông qua việc sử dụng các phương

pháp, kĩ thuật dạy học tích cực đó, học sinh đã được tạo cơ hội để thực hành, trải
nghiệm nhiều kĩ năng sống cần thiết, phù hợp với lứa tuổi. Đó là lối sống lành
mạnh, các hành vi ứng xử phù hợp với nền văn minh xã hội. Lối sống, hành vi
như gọn gàng, ngăn nắp, nói lời đẹp, chăm sóc bố mẹ, ông bà, hợp tác, giúp đỡ,
chia sẻ với bạn…

Học và thảo luận nhóm

Tích cực tham gia phát biểu xây dựng bài
Các kĩ năng được phát triển từ dễ đến khó. Sau bài học giới thiệu là những
bài học như khám phá, tư duy hiệu quả và đặc biệt kĩ năng làm việc đồng đội.
Tôi luôn tạo không khí thân thiện, áp dụng việc đổi mới phương pháp tạo điều
8


kiện cho các em mạnh dạn, tự lập, tự khẳng định và phát huy mình hơn qua việc
học nhóm.
Ví dụ: Khi dạy bài: “Tự làm lấy việc của mình” môn Đạo đức, tôi cho học
sinh kể trước lớp những việc mà mình đã tự làm được. Em nào kể được nhiều
việc làm nhất sẽ được tuyên dương. Không những vậy tôi còn tổ chức cho các
em trao đổi : “Vì sao cần tự làm lấy việc của mình?” “Em cảm thấy như thế nào
khi được tự làm lấy những việc của mình?"; "Em đã làm được những việc gì?”...
qua đó các em sẽ bộc lộ những suy nghĩ của mình.
Ngoài ra, tôi còn chú ý rèn luyện sức khoẻ và ý thức bảo vệ sức khoẻ, kĩ
năng phòng chống tai nạn giao thông và các thương tích khác qua các môn học:
Ai cũng biết rằng sức khỏe là tài sản vô cùng quí báu của mỗi con người. Học
tập tốt, đạo đức tốt là những điều học sinh phải đạt được thì rèn luyện sức khỏe
tốt cho học sinh là điều phải được đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên có được một sức
khỏe tốt và bảo vệ được nó thì thật không dễ. Dù vậy không có nghĩa là không
làm được, nhiều khi sức khỏe của các em phụ thuộc vào những điều rất giản dị.

Đó chính là giáo dục một lối sống khoa học. Bản thân rèn luyện sức khoẻ cho
các em qua các tiết sau:
Để các em có kĩ năng phòng chống tai nạn giao thông và các thương tích
khác, bản thân đã giáo dục các em thông qua các tiết: An toàn giao thông, Giáo
dục kĩ năng sống, thi Giao thông thông minh trên Internet, hướng dẫn các em
phòng chống tai nạn giao thông và các thương tích khác bằng cách đưa ra những
tình huống cho các em xử lí.
Khi dạy bài “An toàn khi đi qua đường” cần hỏi học sinh: “Trẻ em dưới 7
tuổi phải đi cùng với ai khi đi trên đường và khi qua đường? Đi bộ qua đường
em phải đi ở đâu?”; “Khi đi bộ em đi ở đâu? Nếu đường không có vỉa hè thì thế
nào?”; “Em có nên chơi đùa trên đưòng phố không? Có leo trèo qua dải phân
cách và chơi gần dải phân cách không? Vì sao?”; “Khi ngồi trên xe máy em phải
như thế nào? Em hãy nêu cách đội mũ bảo hiểm? Nêu sự cần thiết phải đội mũ
bảo hiểm?”; “Các em đã nhìn thấy tai nạn trên đường chưa? Theo các em vì sao
tai nạn xảy ra?”;...
Giáo dục cho các em tránh các tai nạn trên đường: không được chạy lao ra
đường, không được bám bên ngoài ô tô, không được thò tay, chân, đầu ra ngoài
khi đi trên tàu, xe,... Như vậy, các em có thể tự lập, xử lí được những vấn đề đơn
giản khi gặp phải.
Một điều nữa theo tôi cũng khá quan trọng là kĩ năng ứng xử có văn hoá cũng là
lối sống lành mạnh mà các em cần phải được đào tạo, vì thế tôi tiếp tục áp dụng.
Kết quả: Qua các giải pháp trên,tôi nhận thấy trong lớp có rất nhiều học
sinh thực hiện tốt, các em tự tin giao tiếp,mạnh dạn nói ra những suy nghĩ của
bản thân với thầy cô và bạn bè, ý thức của học sinh đã chuyển biến rõ rệt. Từ đó
9


giáo viên nhận được thông tin ngược từ học sinh, biết học sinh cần gì? Để điều
chỉnh phương pháp, hình thức tổ chức dạy học.
2.3.3. Rèn kĩ năng sống cho HS thông qua các tiết sinh hoạt lớp, các

hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
Ngay những ngày đầu tiên khi các em vào lớp học, tôi đã phát động phong
trào: “Nói lời hay, làm việc tốt” qua cách ứng xử lễ phép như biết đi phải xin
phép khi về phải báo, chào hỏi những người lớn tuổi, biết xin lỗi khi có khuyết
điểm, cảm ơn khi được tặng quà, vui vẻ hoà nhã với bạn bè, lễ phép với thầy cô
và những người lớn tuổi,... và tổng kết vào các tiết sinh hoạt lớp. Tôi học cách
lắng nghe, tìm hiểu nguyên nhân, và dùng lời lẽ mềm mỏng bằng những tình
cảm, cử chỉ yêu thương của mình khi yêu cầu điều gì đó với học sinh. Tránh
trách phạt, nói nặng lời đối với học sinh chưa ngoan. Giáo viên thường gần gũi,
động viên, khích lệ để các em hiểu ra việc cần làm để thực hiện tốt các nội qui,
qui định của lớp, của trường, chăm ngoan, tiến bộ hơn trong mọi lĩnh vực.
Để rèn kĩ năng sống có hiệu quả bản thân tôi còn vận dụng thông qua các
hoạt động ngoài giờ học. Đó là qua các buổi ngoại khóa của trường, lớp.
Ví dụ: Từ đầu năm học, nhà trường tổ chức phong trào trang trí lớp học
thân thiện trong toàn trường. Tôi đã hướng dẫn các em cùng tham gia làm
những sản phẩm như cắt hoa, vẽ tranh, trang trí lớp,.. Qua hoạt động này rèn
cho các em nhiều kĩ năng như: trình bày, trang trí…các em rất nhiệt tình, đoàn
kết và hợp tác nhau rất tốt. Kết quả là điểm trang trí của lớp tôi đã đạt được
giải nhất.

HS cùng nhau trang trí lớp học thân thiện
Trong các tiết Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp theo chủ điểm của các
tháng, tôi hướng dẫn học sinh nắm được ý nghĩa của từng chủ đề. Giúp học sinh
hiểu và có thái độ, hành vi đối với nội dung chủ đề đã được học.
10


Ví dụ: Khi học về chủ đề tháng 11, tôi giúp các em nhớ được ngày lễ lớn,
có ý nghĩa, thể hiện lòng biết ơn đối với các thầy cô giáo đã dạy dỗ các em đó là
ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11. Trong tiết học giáo viên tổ chức cho học sinh thể

hiện tình cảm của mình đối với các thầy cô giáo bằng các hình thức như: văn
nghệ, kể chuyện,đọc thơ, nói những lời chúc với các thầy cô giáo, ….

Tiết mục văn nghệ và kể chuyện đạt giải Nhất của lớp 3B
chào mừng 20/11/2018
Hoặc trong tháng 12, giáo viên tổ chức cho các em thăm doanh trại bộ đội,
thăm và tặng quà các gia đình thương binh – liệt sĩ, ….. Qua đó giáo dục các em
ý thức rèn luyện và học tập theo gương các chú bộ đội; nắm được ý nghĩa của
ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam 22/12; giáo dục các em lòng tự hào
về truyền thống anh dũng của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ngoài ra giáo viên
còn tổ chức cho các em đến thăm khu tưởng niệm nghĩa trang liệt sĩ tại xã nhà,
các em đã quét dọn lau chùi trong và ngoài nhà tưởng niệm …giáo dục các em
ghi nhớ và biết ơn các anh hùng đã ngã xuống để dành Độc lập, tự do cho chúng
ta có cuộc sống bình yên như ngày hôm nay.

Thăm và dọn vệ sinh khu đài tưởng tưởng niệm xã Nga Trung.
Để cho các em biết quan tâm, chia sẻ với những hoàn cảnh khó khăn trong
cuộc sống, tôi tổ chức cho các em tích cực tham gia các hoạt động từ thiện của
nhà trường như: Xây dựng quỹ tình thương, giao lưu với các bạn tật nguyền –
11


chất độc da cam, chia khó với các bạn học sinh vùng cao, … Thông qua các hoạt
động đó giáo dục các em biết cảm thông, chia sẻ, quan tâm đến mọi người xung
quanh bằng những việc làm dù là nhỏ nhất.Cụ thể vào dịp tết Nguyên Đán;
Kết quả quyên góp: Tập thể lớp 3B nói riêng đã quên góp được 210.000 đồng
và học sinh toàn trường nói chung đã uyên góp được 2.450.000 đồng. Tặng cá
bạn học sinh có hoàn cảnh khó khăn nhân dịp tết Nguyên Đán kỷ Hợi.
Thông qua phong trào “ tết vì bạn nghèo” nhằm giáo dục các em đội viên nhi
đồng truyền thống tương thân, tương ái, “lá lành đùm lá rách”. Phát huy tinh

thần đoàn kết, biết chia sẻ thương yêu giúp đỡ lẫn nhau.

Trao quà cho các bạn học sinh nghèo nhân dịp tết Nguyên Đán Kỷ Hợi
Ngoài việc tổ chức cho các em tham gia các hoạt động do nhà trường tổ
chức, giáo viên cần tạo các tình huống chơi trong chế độ sinh hoạt hàng ngày của
các em. Vì đối với học sinh bậc học tiểu học trò chơi có một vai trò rất quan
trọng trong việc rèn kĩ năng sống cho các em. Các em lớn lên, học hành và
khám phá thông qua trò chơi. Các hành động chơi đòi hỏi các em phải suy nghĩ,
giải quyết các vấn đề, thực hành các ý tưởng. Học sinh tham gia những trò chơi
dân gian, trò chơi giúp các em phát triển thể lục và trí tuệ (Cờ vua, Cá ngựa),…

Chơi trò chơi bổ ích trong giờ ra chơi

12


Chơi trò chơi dân gian nhảy bao bố

Trò chơi kéo co giữa các khối lớp 1,2,3.Hoạt động chào mừng ngày 26/3/2019

Giao lưu bóng đá chào mừng ngày thành lập Đoàn 26/3/2019
13


Giáo viên cũng cần tranh thủ đọc sách cho các em nghe những lúc sinh hoạt
đầu giờ, hoặc trong giờ sinh hoạt lớp. Tăng cường kể cho các em nghe các câu
chuyện cổ tích, câu chuyện trong bài tập đọc, bài thơ,…để qua đó rèn luyện đạo
đức cho các em, giúp các em hoàn thiện mình, dạy các em yêu thương bạn bè,
yêu thương con người. Tạo hứng thú cho các em qua các truyện bằng tranh tùy
theo lứa tuổi, gợi mở tính tò mò, ham học hỏi, phát triển khả năng thấu hiểu ở

trẻ. Khuyến khích các em tìm đọc những cuốn sách giáo dục kĩ năng sống như
“Chắp cánh thiên thần” của tác giả Duy Tuệ, …..
Bên cạnh đó, để rèn kĩ năng tự phục vụ, biết lao động vừa sức, biết trang trí
lớp học xanh - sạch - đẹp, giúp các em yêu trường, yêu lớp hơn, có ý thức giữ gìn
và bảo vệ trường lớp luôn sạch đẹp, tôi đã hướng dẫn các em trồng cây xanh và
chăm sóc cây xanh trong lớp hàng ngày.

Chăm sóc cây xanh
Một điều không thể thiếu nhằm tạo sự hưng phấn, vui vẻ, phấn khởi, giúp
các em có ý thức cao trong việc rèn luyện các kĩ năng đó là chú ý đến công tác
động viên, khen thưởng, khích lệ học sinh.
Với việc làm trên, các phong trào hoạt động của lớp đã đạt kết quả cao. Các
em học sinh đã có những kĩ năng cơ bản trong việc thực hiện các phong trào thi
đua của nhà trường.
2.3.4. Rèn kĩ năng sống cho HS qua việc động viên, khen thưởng.
Để động viên, khuyến khích học sinh thực hiện tốt việc rèn luyện các kĩ
năng, ngay từ buổi họp phụ huynh đầu năm học bản thân tôi đưa ra kế hoạch rèn
luyện cho các em lớp mình phụ trách. Trao đổi với Ban chấp hành hội phụ huynh
trích quỹ khen thưởng để kịp thời động viên các em nhằm tạo cho các em có
động cơ tốt trong việc thực hiện tốt các kĩ năng sống. Hằng ngày tôi theo dõi các
em. Những em có biểu hiện tốt thì ghi vào sổ tay, trong tiết sinh hoạt cuối tuần
cho các em bình chọn những bạn thực hiện tốt được tuyên dương và cuối mỗi
tháng xếp loại và bảng thi đua chung của cả lớp. Vì vậy, các em thi đua nhau
14


“Học tập tốt, lao động tốt” và cuối tuần nào cũng có rất nhiều em được tuyên
dương trước tập thể lớp.

Động viên, khích lệ HS bằng những bông hoa lời khen, những phần quà nhỏ

Cuối mỗi tháng, tôi sơ kết một lần để đề nghị Ban đại diện hội cha mẹ học
sinh khen thưởng những em đã đạt nhiều thành tích trong thi đua bằng những
phần quà nhỏ. Phần thưởng này được trích từ quĩ lớp và do hội trưởng hội cha
mẹ học sinh đến trao cho các em vào buổi sinh hoạt lớp tuần cuối mỗi tháng.
Các em rất vui và hãnh diện khi được tuyên dương, nhận những món quà của hội
cha mẹ học sinh trao tặng. Vì thế các em không ngừng thi đua cố gắng thực hiện
tốt để được tuyên dương trước lớp. Đây là một hình thức động viên về tinh thần
rất giá trị và hiệu quả. Các em sẽ nhanh nhẹn hơn, có đạo đức tốt hơn, mạnh dạn
hơn trong giao tiếp, tự tin hơn trong cuộc sống.
2.3.5. Phối hợp chặt chẽ với các bậc phụ huynh trong việc dạy các em
các kĩ năng sống cơ bản, cần thiết hằng ngày.
Cô giáo, cha mẹ luôn khuyến khích các em nói lên quan điểm của mình, nói
chuyện với các thành viên trong lớp, trong gia đình về cảm giác và về những lựa
chọn của mình, cần giúp các em hiểu rằng nên có thông số để theo đó mà lựa
chọn, cố gắng không chỉ trích các quyết định của các em. Việc này sẽ hình thành
kĩ năng tự kiểm soát bản thân, rèn luyện tính tự tin cho các em khi tham gia các
hoạt động và các buổi thảo luận tại trường sau này.
Cô giáo, cha mẹ giúp các em phát triển sở thích, ý thích của mình và đảm bảo
rằng người lớn có thể cung cấp thêm phương tiện để các em thực hiện ý thích đó.
Ví dụ: Một số học sinh yêu thích vẽ, ngoài việc cho các em học năng khiếu
vẽ thì cô giáo, cha mẹ có thể cho các em thêm bút màu, giấy vẽ và hãy chỉ cho
các em cách lưu giữ các bức tranh để tạo thành một bộ sưu tập tranh vẽ của chính
các em hoặc triển lãm tranh của các em ở góc nhỏ trong nhà, trong lớp. Hay học
sinh thích học các môn thể thao thì tạo điều kiện để các em được tham gia các
lớp bồi dưỡng vào cuối buổi chiều; Một số em thích tham gia các phong trào văn
nghệ thì động viên, khuyến khích các em tham gia đội văn nghệ của nhà trường,
15


tham gia lớp Âm nhạc để các em có đủ tự tin biểu diễn trên sân khấu trong

những ngày lễ lớn của trường tổ chức. Khuyến khích các em tích cực tham gia
các câu lạc bộ do nhà trường tổ chức để học sinh được thể hiện bản thân như: võ
thuật, Erobic, Cầu lông, Cờ vua, tiếng Anh, …..
Cô giáo, cha mẹ cần dạy các em những nghi thức văn hóa trong ăn uống,
biết cách sử dụng các đồ dùng ăn uống; Cụ thể: Các em được làm quen với
những đồ dùng, vật dụng khác nhau, (bộ đồ bếp, bộ đồ ăn, bộ đồ uống). Sự sạch
sẽ, gọn gàng, một thói quen nề nếp, sự sắp đặt ngăn nắp, ngay ngắn những bộ đồ
dùng, vật dụng, thái độ ăn uống từ tốn, không vội vã, không khí cởi mở, thoải
mái và đầm ấm, những cuộc trao đổi nhẹ nhàng, dễ chịu… tất cả những yếu tố
trên sẽ giúp các em có thói quen tốt để hình thành kĩ năng tự phục vụ và ý nghĩa
hơn là kỹ năng sống tự lập sau này.
Tóm lại: Bằng nhiều hình thức khác nhau, bản thân tôi luôn cố gắng rèn
cho học sinh những kĩ năng cơ bản có hiệu quả, thể hiện rõ nét ở sự tiến bộ của
học sinh trong nhận thức, trong cư xử, đối xử tốt với bạn bè, người lớn và linh
hoạt xử lí trong mọi trường hợp.
Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua học tập – sinh hoạt ở nhà trường là
điều hết sức cần thiết cho tương lai các em. Để đạt được điều đó, giáo viên cần kiên
trì, quyết tâm thực hiện từng bước và liên tục trong suốt quá trình giảng dạy.
Qua từng tiết dạy, giáo viên hướng dẫn học sinh kĩ năng làm việc theo nhóm:
biết cách phân công công việc, lắng nghe ý kiến người khác, tranh luận, biết chấp
nhận đúng sai, thống nhất ý kiến, thực hiện đúng ý kiến đã thống nhất… Đây là kĩ
năng hết sức cần thiết khi các em trưởng thành, làm việc trong tập thể.
Trong sinh hoạt hằng ngày, giáo viên cần chú ý nâng dần kĩ năng giao tiếp - tự
nhận thức cho các em như biết sử dụng đúng các quy tắc: chào hỏi, xin phép, cảm
ơn, xin lỗi, yêu cầu… Các em biết thông cảm, chia sẻ buồn vui với mọi người.
Giáo dục kĩ năng sống cho mọi người nói chung và học sinh nói riêng là
điều rất cần thiết. Nó trang bị đầy đủ những kĩ năng cho các em để các em có
được cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Đồng thời giúp những em tránh thói quen
xấu và hành vi tiêu cực để trở thành con ngoan, trò giỏi và là người có ích cho xã
hội sau này.

2.4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI DOẠT
ĐỘNG GIÁO DỤC, VỚI BẢN THÂN, ĐỒNG NGHIỆP VÀ NHÀ
TRƯỜNG :
Qua khảo sát lần 2 ở lớp 3B (Giữa học kì 2) với chủ đề “ Kĩ năng của em”;
kết quả so với đầu năm thì các em tiến bộ rất nhiều. Cụ thể như sau:
Kĩ năng

Tiêu chí

Số HS

Kĩ năng tốt
Có kĩ năng
Kĩ năng chưa tốt
Tích cực, biết hợp tác
Chưa tích cực hợp tác

24
24
24
24
24

SL

TL

12
11
1


50%
45,8%
4,2%

Thảo luận
nhóm
SL
TL

23
1

Ứng xử khi
tham gia HĐTT
SL
TL

95,8 %
4,2
16


Ứng xử thân thiện
Chưa biết cách ứng xử

24
24

24


100

Qua việc thực hiện các biện pháp trên, đến giữa học kì II, bản thân tôi
nhận thấy các em có tiến bộ rõ rệt. Đa số các em đều có ý thức tốt trong việc rèn
luyện các kĩ năng, được thể hiện rõ qua: việc sinh hoạt hằng ngày trên lớp, trong
nhiều nghi thức lời nói, các em biết vận dụng những lời nói thân thiện vào thực
tế, những lời chào, cảm ơn hay xin lỗi, những yêu cầu, đề nghị lịch sự,... đã trở
thành thói quen được các em vận dụng hằng ngày. Các em rất hăng hái phát biểu
trong tiết học và luôn được nhận bông hoa lời khen trong tuần. Phụ huynh học
sinh rất vui mừng phấn khởi với kết quả này của lớp.
Như vậy, với kết quả đạt được chứng tỏ phần nào sáng kiến của bản thân
tôi đưa ra và áp dụng có hiệu quả trong lớp cũng như trong khối. Thiết nghĩ, mỗi
giáo viên trong trường đều áp dụng sáng kiến này trong công tác chủ nhiệm của
mình thì học sinh sẽ có kĩ năng sống tốt hơn: thích ứng được với môi trường xã
hội, tự giải quyết được một số vấn đề thiết thực trong cuộc sống như vấn đề về
sức khỏe, môi trường, tệ nạn xã hội,…các em có thể tự tin, chủ động không bị
quá phụ thuộc vào người lớn mà vẫn có thể tự bảo vệ mình, tự đem lại lợi ích
chính đáng, điều kiện thuận lợi cho bản thân mình rèn luyện, học tập phấn đấu
vươn lên đáp ứng được phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực.”
3. KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Chúng ta biết rằng giáo dục là một quá trình tác động qua lại, là quá trình
hoạt động và giao lưu trong các mối quan hệ xã hội đa dạng, được tổ chức có
mục đích có kế hoạch của các nhà giáo dục và người được giáo dục để hình
thành nhân cách hoàn thiện trong nhà trường xã hội chủ nghĩa không những
dạy “chữ” mà còn dạy “người.”
Trẻ em trong lứa tuổi tiểu học rất hồn nhiên ngây thơ trong trắng. Vốn kiến
thức, vốn kinh nghiệm sống của các em mới có rất ít. Vì vậy muốn đạt được mục

tiêu giáo dục phát triển toàn diện của nhà trường, các thầy cô giáo cần phải kiên
trì, nhiệt tình, có tâm huyết với nghề, bên cạnh kiến thức về chuyên môn nghiệp
vụ, người giáo viên phải có vốn kiến thức tâm lý học, hiểu được tâm sinh lý của
trẻ. Từ đó sẽ tìm ra được những phương pháp hiệu quả để giáo dục trẻ. Việc dạy
“chữ” cần luôn song hành với việc dạy “ làm người”, và phải được xuất phát
ngay từ những tình huống, những việc làm nhỏ nhất trong cuộc sống thực tế của
học sinh
3.2. Kiến nghị
Là giáo viên, bản thân tôi hiểu rõ tầm quan trọng trong công tác trồng
người. Vì thế, tôi luôn cố gắng trau dồi kiến thức, học hỏi từ đồng nghiệp cũng
như đúc kết kinh nghiệm giảng dạy của bản thân, nâng cao đạo đức và chuyên
môn. Tôi đã luôn tôn trọng và kiên nhẫn, nhất là tạo cơ hội cho các em được nói,
17


được diễn đạt, bày tỏ thoải mái ở mọi nơi, mọi lúc để các em có cơ hội phát triển
một cách toàn diện.
Về phía nhà trường: Theo phương châm giáo dục hiện nay là: “Học để
biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình” nên: Nhà
trường luôn phát động các phong trào thi đua dưới nhiều hình thức, tổ chức các
buổi ngoại khóa để các em được trải nghiệm. Qua đó các em được khẳng định
mình.
Về phía phụ huynh: Trước hết là cần hiểu rõ tầm quan trọng của việc rèn
luyện kĩ năng sống cho con em, tạo một chỗ dựa vững chắc để trẻ chia sẻ, bày tỏ,
luôn phối kết hợp với nhà trường trong việc giáo dục và rèn luyện cho các em,
theo dõi mọi biểu hiện của trẻ để có sự giáo dục cho phù hợp.
Trên đây là những suy nghĩ của bản thân tôi về việc nghiên cứu một số biện
pháp giáo dục và rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 3 thông qua các môn học và
hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
Tôi đã cố gắng áp dụng những kinh nghiệm, sáng tạo thêm những phương

pháp mới nhằm nâng cao nhiều kĩ năng sống tốt cho học sinh từ môi trường giáo
dục ở nhà trường, giáo dục và xây dựng cho các em có năng lực tốt, lối sống lành
mạnh để các em có thể tự lập, tự tin hơn trong cuộc sống, đem lại niềm vui, hạnh
phúc cho các em, gia đình và xã hội. Rất mong được nhận sự giúp đỡ, góp ý bổ
sung của Ban giám hiệu nhà trường, các cấp quản lý giáo dục và đồng nghiệp để
bản sáng kiến của tôi có được những kinh nghiệm bổ ích có thể áp dụng cho các
năm học sau.
Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Nga Sơn, ngày 31 tháng 3 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.

Trần Thị Sâm

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Nghị quyết số 29-NQ/TW
2. Sách Chắp cánh thiên thần của tác giả Duy Tuệ.
3. Bộ sách thực hành kỹ năng sống lớp 1, 2, 3, 4, 5.
4. Sách kỹ năng sống dành cho học sinh Tiểu học
5. Sách kỹ năng sống dành cho học sinh: Tác giả Ngọc Linh
6. Sách rèn luyện kỹ năng sống dành cho học sinh thiên tài: Tác giả Kiến Lành

19



DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Trần Thị Sâm
Chức vụ và đơn vi công tác: Giáo viên trường Tiểu học Nga Trung
Cấp đánh giá
xếp loại
(ngành GD cấp
huyện/tỉnh…)

Kết quả đánh
giá xếp loại
(A,B hoặc C)

Năm học
đánh giá
xếp loại

TT

Tên đề tài SKKN

1

Phương pháp dạy phép
nhân và phép chia cho
học sinh lớp 2


Cấp huyện

2

Một số giải pháp nâng
cao hiệu quả hoạt động
Đội ở trường tiểu học

Cấp huyện

C

3

Thiết kế và tổ chức trò
chơi toán 2 gây hứng thú
học tập cho học sinh

Cấp huyện

B

4

Ứng dụng công nghệ
thông tin vào day học
môn toán lớp 3.

Cấp huyện


B

2011-2012

5

Một số biện pháp phát
huy tính tích cực của học
sinh trong học tâp phân
môn địa lí, lịch sử ở
Trường tiểu học Nga,
Trung Sơn, huyện Nga
Sơn, tỉnh Thanh Hóa

Tỉnh

C

2015-2016

C

2008-2009

2009-2010

2010-2011

20



MỤC LỤC

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGA SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG SỐNG THÔNG QUA CÁC
MÔN HỌC VÀ HOẠT ĐỘNG NGOÀI GIỜ LÊN LỚP
CHO HỌC SINH LỚP 3 TRƯỜNG TIỂU HỌC NGA TRUNG,
HUYỆN NGA SƠN, TỈNH THANH HÓA

Người thực hiện: Trần Thị Sâm
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: Trường Tiểu học Nga Trung
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Hoạt động NGLL

21


NGA SƠN, NĂM 2019

22




×