Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Một số biện pháp giúp trẻ mẫu giáo 5 6 tuổi trường mầm non đông anh, huyện đông sơn phát triển hứng thú khi tham gia vào hoạt động giáo dục dựa vào cộng đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.79 MB, 24 trang )

MỤC LỤC
TT

TIÊU ĐỀ
MỤC LỤC

1

Trang
1

MỞ ĐẦU

2

1.1.

Lý do chọn đề tài

2

1.2.

Mục đích nghiên cứu

3

1.3.

Đối tượng nghiên cứu


3

1.4.

Phương pháp nghiên cứu

3

NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

4

Cơ sở lí luận
Thực trạng
Thuận lợi
Khó khăn
Kết quả khảo sát
Các biện pháp
Biện pháp 1: Chuẩn bị tâm thế, sức khỏe, và đồ dùng các
nhân cho trẻ tham gia hoạt động giáo dục dựa vào cộng đồng.
Biện pháp 2: Lựa chọn địa điểm, tạo môi trường kích thích
trẻ tham gia hoạt động giáo dục dựa vào cộng đồng.
Biệp pháp 3: Xây dựng mối quan hệ với cộng đồng.
Biệp pháp 4: Lựa chọn nội dung, hoạt động giáo dục phù
hợp, lập kế hoạch tổ chức các hoạt động giáo dục.
Biệp pháp 5: Thay đổi các hoạt động theo từng chủ đề kích
thích sự hứng thú hoạt động của trẻ.
Biệp pháp 6: Cho trẻ hoạt động trải nghiệm thực tiễn.
Biệp pháp 7: Kết hợp với với phụ huynh.
Hiệu quả đạt được

KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Kết luận
Kiến nghị
Đối với địa phương
Đối với nhà trường
TÀI LIỆU THAM KHẢO

4
5
5
6
6
7
7

2.
2.1.
2.2.
2.2.1.
2.2.2.
2.2.3.
2.3.
2.3.1
2.3.2
2.3.3
2.3.4
2.3.5
2.3.6
2.3.7
2.4.

3.
3.1.
3.2.
3.2.1.
3.2.2.

DANH MỤC SKKN ĐÃ ĐƯỢC XẾP LOẠI

9
11
12
14
16
17
20
21
21
22
22
22
23
24

1


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân,
có nhiệm vụ đặt nền móng cơ sở cho việc hình thành và phát triển nhân cách con

người đáp ứng yêu cầu của thời kì đổi mới, công nghiệp hóa và hiện đạị hóa đất
nước. Mục tiêu giáo dục mầm non là giúp trẻ phát triển về thể chất, tình cảm,
thẩm mĩ, hình thành những yếu tố đầu tiên về nhân cách. Hình thành ở trẻ những
chức năng tâm sinh lý, năng lực và phẩm chất mang tính nền tảng cho việc học
tập ở các cấp học tiếp theo [1]. Muốn đạt được những mục tiêu giáo dục đó
người làm nhiệm vụ giáo dục cần chú trọng đến vấn đề tổ chức các hoạt động
giáo dục cho trẻ mầm non dựa vào cộng đồng.
Theo Đặng Thành Hưng “Trẻ em là thành viên của cộng đồng, có quyền
được hưởng các lợi ích từ tất cả cơ sở vật chất và nguồn lực cơ bản trong cộng
đồng để trẻ có thể phát triển thành các thành viên có trách nhiệm của cộng đồng
bất kì cộng đồng nào khác trong tương lai” [2]
Giáo dục mầm non dựa vào cộng đồng là một mô hình giáo dục cho trẻ
mầm non do nhà trường và cộng đồng cùng tham gia, tổ chức nhằm đạt được
những mục tiêu của giáo dục mầm non. Giáo dục mầm non dựa vào cộng đồng
bao gồm các hoạt động tác động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch, có nội
dung và bằng các phương pháp khoa học do nhà trường (cán bộ quản lí, giáo
viên) cùng cộng đồng lựa chọn, triển khai, tác động đến trẻ mầm non, hướng đến
đạt lợi ích chung đối với cả nhà trường, trẻ mầm non, cộng đồng dựa trên sự
tham gia của các thành viên cộng đồng [3]
Trong trường mầm non có rất nhiều các môn học và các hoạt động khác
nhau nhằm giúp trẻ phát triển nhận thức, là cơ sở ban đầu hình thành và phát
triển nhân cách trẻ. Tuy nhiên hoạt động giáo dục cộng đồng có giá trị lớn và đã
trở thành phương tiện để giáo dục trẻ phát triển tình cảm xã hội, phát triển thẩm
mỹ, phát triển thể chất, phát triển ngôn ngữ, phát triển nhận thức và là phương
tiện không thể thiếu nhằm phát triển toàn diện nhân cách cũng như trí tuệ cho trẻ
ở trường mầm non. Không phải ngẫu nhiên mà các nhà nghiên cứu định nghĩa
trẻ ở lứa tuổi mầm non rằng “Học bằng chơi, chơi mà học” trẻ cần được chơi và
hoạt động vui chơi, trải nghiệm là môt nhu cầu không thể thiếu được của cuộc
sống. Chính vì vậy việc giáo viên tổ chức cho trẻ được tham gia vào các hoạt
động giáo dục cộng đồng là rất quan trọng và cần thiết. Để hoạt động giáo dục

cộng đồng của trẻ đạt hiệu quả cao thì việc tạo môi trường cho trẻ hoạt động là
rất quan trọng. Nhưng làm thế nào để tạo môi trường cho trẻ hoạt động với cộng
đồng thực sự có hiệu quả khoa học và lôi cuốn hấp dẫn trẻ, đó mới là điều mà
mỗi giáo viên mầm non cần suy ngẫm.
Là một giáo viên phụ trách lớp mẫu giáo 5 - 6 tuổi tôi gặp rất nhiều khó
khăn trong việc tổ chức hoạt động giáo dục cộng đồng cho trẻ. Trong thời gian
đầu, qua quá trình làm quen, trò chuyện, hoạt động và gần gũi trẻ tôi thấy nhiều
trẻ lớp tôi chưa được tiếp cận với việc học tập qua những trải nghiệm thực tế ở
địa phương. Mọi hoạt động của trẻ về cộng đồng đều do cô giáo, qua tranh ảnh
2


hay qua mạng Internet… Trẻ mới biết về văn hóa, đặc trưng của vùng miền. Vì
vậy tôi luôn trăn trở tìm tòi các biện pháp để tổ chức hoạt động giáo dục cộng
đồng cho trẻ một cách có hiệu quả.
Năm học 2018 - 2019 phòng Giáo dục huyện Đông Sơn đã triển khai
chuyên đề mới “Tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ mầm non dựa vào cộng
đồng”. Bản thân tôi cũng như tất cả các đồng nghiệp trong trường đều cố gắng,
nỗ lực tìm tòi và làm việc bằng cả trí tuệ cũng như công sức của mình. Điều đó
càng thôi thúc tôi suy nghĩ, sáng tạo để tạo môi trường thật tốt nhằm giúp trẻ
hứng thú tham gia vào hoạt động giáo dục cộng đồng. Chính vì những lí do trên
nên tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi
trường mầm non Đông Anh, huyện Đông Sơn phát triển hứng thú khi tham
gia vào hoạt động giáo dục dựa vào cộng đồng” nhằm giúp trẻ có cơ hội tiếp
cận với việc học tập qua những trải nghiệm thực tế được giải quyết các nhiệm vụ
học tập gắn với thực tế ở địa phương một cách thiết thực, hấp dẫn và hiệu quả.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng giáo
dục trẻ tại trường mầm non Đông Anh nói riêng và bậc học mầm non nói chung.
nhằm góp phần phát triển toàn diện cho trẻ và giúp trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi hứng

thú, tích cực hơn khi tham gia vào hoạt động cộng đồng.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp giúp trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trường mầm non Đông Anh,
huyện Đông Sơn phát triển hứng thú khi tham gia vào hoạt động giáo dục dựa
vào cộng đồng.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này, trong bài viết sáng kiến kinh nghiệm của mình
tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
* Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
- Phương pháp tổng hợp và phân tích
- Phương pháp hệ thống hóa
Tôi tiến hành nghiên cứu đọc sách và hệ thống hóa những vấn đề lý luận
về tâm sinh lí của trẻ 5 - 6 tuổi. Sưu tầm tư liệu, hình ảnh, qua những hoạt động
thực tế ở nhà trường.
* Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát sư phạm: Thông qua việc tổ chức cho trẻ tham
gia hoạt động với cộng đồng, việc trực tiếp giảng dạy hàng ngày của bản thân và
dự giờ của các đồng nghiệp.
- Phương pháp đàm thoại:
Trao đổi, chia sẻ với các giáo viên trong nhà trường để bổ sung các
kinh nghiệm sáng tạo trong dạy trẻ.
Trao đổi với phụ huynh để tìm hiểu về tính cách, tâm lý, sở thích của từng
trẻ trong lớp.
Đàm thoại và trò chuyện trực tiếp trẻ hàng ngày, tạo các tình huống
3


cho trẻ có cơ hội diễn đạt những hiểu biết, những suy nghĩ của mình. Động viên,
khuyến khích giúp trẻ tự tin bộc lộ khả năng, cảm xúc của mình.
- Phương pháp nghiên cứu

* Phương pháp thống kê toán học
Xử lý số liệu, thông tin thu được thông qua việc sử dụng các phép tính
toán học.
* Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Tham khảo các bài viết, ý kiến của lãnh đạo, của đồng nghiệp về vấn đề
mình đang thực sự quan tâm để xây dựng bài viết hoàn chỉnh.
* Phương pháp điều tra
Điều tra số lượng trẻ trên lớp độ tuổi 5 - 6 tuổi với tổng số trẻ lớp mẫu
giáo Lớn 5-6 tuổi do tôi chủ nhiệm là 33 trẻ.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN
2.1. Cơ sở lý luận
Mọi hoạt động của con người đều có tính mục đích. A.N. Leonchiev cho
rằng hoạt động “Là một tổ hợp các quá trình con người tác động và đối tượng
nhằm đạt được mục đích thỏa mãn một nhu cầu nhất định và chính kết quả của
hoạt động là sự cụ thể hóa nhu cầu của chủ thể [4]
Giáo dục học hiện đại khẳng định hoạt động giáo dục là quá trình sư
phạm có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch, có nội dung và bằng phương pháp
khoa học của nhà giáo dục tác động tới con người được giáo dục nhằm hình
thành, phát triển phẩm chất, năng lực của con người được giáo dục. Hoạt động
giáo dục đặc thù bởi hai hoạt động luôn song hành và tương tác hoạt động dạy
với nhau là hoạt động dạy và học [5]
Việc tổ chức cho trẻ tham gia vào các hoạt động cộng đồng cũng được
xem xét dưới góc độ của một quá trình sư phạm. Trong quá trình tổ chức hoạt
động giáo dục, cộng đồng có thể tham gia với vai trò là nhà giáo dục - trực tiếp
tham gia lập kế hoạch, lựa chọn nội dung, phương thức tổ chức các hoạt động
giáo dục trẻ phù hợp, với điều kiện thực tiễn của cộng đồng hoặc là người phối
hợp, hỗ trợ giáo viên tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ ở trong và ngoài nhà
trường.
Vì vậy, tổ chức cho trẻ hứng thú khi tham gia vào hoat động giáo dục
cộng đồng có thể được hiểu là hoạt động giáo dục được tổ chức có mục đích, có

kế hoạch, có nội dung và bằng phương pháp khoa học của nhà giáo dục tác động
tới trẻ mầm non nhằm giúp trẻ tích cực, chủ động tiếp nhận kiến thức, kĩ năng,
kĩ xảo, hình thành phát triển phẩm chất, năng lực phù hợp với trẻ mầm non dựa
trên những điều kiện thực tế và nguồn lực đóng góp từ cộng đồng.
Tổ chức các hoạt động giáo dục cho trẻ mầm non khi tham gia các hoạt
động cộng đồng giúp cho trẻ tìm hiểu, khám phá, thực hành rèn luyện các kiến
thức, kĩ năng và hình thành thái độ phù hợp với bối cảnh sống thực tiễn và gần
gũi đối với trẻ em; góp phần giảm chi phí và nâng cao chất lượng tổ chức các
4


hoạt động giáo dục trên cơ sở khai thác các nguồn lực từ con người, điều kiện tự
nhiên, điều kiện kinh tế, văn hóa sẵn có tại địa phương.
Nhằm phát triển cộng đồng: Giúp lãnh đạo chính quyền, các tổ chức xã
hội đoàn thể và người dân trong cộng đồng hiểu đúng hơn về giáo dục mầm non
và vai trò, chức năng của cộng đồng đối với việc chia sẻ trách nhiệm trong giáo
dục trẻ mầm non nói riêng, trẻ em tại cộng đồng địa phương nói chung. Cộng
đồng tham gia tổ chức các hoạt động giáo dục cho trẻ mầm non (trực tiếp hoặc
gián tiếp) được chia sẻ, trao đổi kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm và nâng cao
hiểu biết về chăm sóc - giáo dục trẻ mầm non.
Tạo được mối liên hệ gắn bó giữa công tác giáo dục với công tác xã hội
khác vì lợi ích và đời sống của cộng đồng; tạo mối quan hệ gắn kết bền vững
giữa nhà trường với các lực lượng khác nhau trong xã hội; tạo lập điều kiện, cơ
hội để thực hiện công bằng, tạo sự ổn định và phát triển xã hội.
Trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi môi trường của trẻ đã được mở rộng từ môi trường
gia đình đến môi trường lớp học và môi trường xã hội thông qua tranh ảnh,
phim, chuyện. Qua các hoạt động tại cộng đồng sẽ giúp trẻ hiểu biết hơn các
công việc thật mà trẻ chưa được thực hiện, làm giàu vốn kinh nghiệm, tăng thêm
sự hiểu biết và phát triển tri thức cho trẻ. Từ đó giúp trẻ hứng thú hơn khi tham
gia vào các hoạt động giáo dục dựa vào cộng đồng.

2.2. Thực trạng của vấn đề
Năm học 2018 - 2019 tôi được phân công chủ nhiệm lớp 5 - 6 tuổi ở
trường mầm non Đông Anh trong quá trình giảng dạy bản thân tôi đã có những
thuận lợi và khó khăn, cụ thể như sau:
2.2.1. Thuận lợi
Là trường đạt chuẩn Quốc gia mức độ 1. Trường có các phòng chức năng
cùng với hệ thống trang thiết bị đồng bộ, đầy đủ, đáp ứng cho công tác chăm
sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ. Hàng năm nhà trường luôn được các cấp đánh
giá có chất lượng giáo dục đạt kết quả tốt. Năm học 2013 - 2014 trường được
nhận cờ thi đua của chính phủ, hiện nay được sự quan tâm của địa phương đầu
tư cơ sở vật chất để phấn đấu đạt chuẩn Quốc gia mức độ 2.
Ban giám hiệu luôn quan tâm bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ,
phương pháp, chú trọng vào việc đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục
mầm non, tạo mọi điều kiện giúp tôi thực hiện tốt chương trình giáo dục mầm
non.
Lớp tôi luôn nhận được sự phối hợp nhiệt tình của phụ huynh đã tạo điều
kiện cho việc chăm sóc giáo dục trẻ đạt kết quả cao. Bên cạnh đó 100% trẻ trong
lớp ăn bán trú nên nề nếp rất ổn định.
Bản thân nắm vững kiến thức chuyên môn về chăm sóc giáo dục trẻ. Từ
khi ra trường đến nay tôi được Ban giám hiệu phân công luân phiên đứng lớp ở
tất cả các độ tuổi. Vì vậy tôi luôn luôn học hỏi kinh nghiệm đồng nghiệp, tìm tòi
và nghiên cứu sách báo, tạp chí..., làm đồ chơi và giáo cụ dạy học đủ số lượng
và chất lượng đảm bảo về mặt thẩm mĩ, an toàn cho trẻ, giúp cho việc dạy và
học kích thích tính tò mò thích khám phá và sáng tạo của trẻ.
5


2.2.2. Khó khăn
Số trẻ trong lớp vẫn chưa đồng đều về chất lượng, số ít cháu còn nhút
nhát chưa mạnh dạn tự tin tham gia vào hoạt động. Một số ít trẻ đi học chưa đều

do phụ huynh chưa có cách nhìn nhận đúng đắn về bậc học.
Định biên số trẻ/cô đông, đôi khi sự quan tâm sát sao của cô để khích lệ
trẻ tích cực, chủ động sáng tạo tham gia vào các hoạt động chưa kịp thời gây
khó khăn cho việc rèn luyện khả năng sáng tạo của trẻ.
Do điều kiện phải đi làm ăn xa nên một số phụ huynh ít có thời gian dành
cho con, phần lớn đều nhờ cậy ông bà. Vì vậy việc thống nhất quan điểm, sự
phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ còn
nhiều khó khăn.
Qua các hoạt động ở lớp, tôi nhận thấy các cháu chưa phát huy được tính
tích cực chủ động, sáng tạo của mình. Còn nhiều hạn chế, rập khuôn, có thói
quen thụ động, trẻ chưa được tiếp cận với việc học tập qua những trải nghiệm
thực tế ở địa phương. Mọi hoạt động của trẻ về cộng đồng đều do cô giáo, qua
tranh ảnh hay qua mạng Internet…Trẻ mới biết về văn hóa, đặc trương của vùng
miền, địa phương.
2.2.3. Khảo sát ban đầu
Ngay từ đầu năm học tôi đã có kế hoạch cũng như hàng tháng tổ chức hoạt
động giáo dục dựa vào cộng đồng cho trẻ. Khi cho trẻ tham gia vào hoạt động
cộng đồng tôi luôn theo dõi để biết và nắm bắt được những kỹ năng của trẻ. Căn
cứ vào tình hình thực tế của lớp tôi thấy kỹ năng hoạt động, giao tiếp của trẻ còn
nghèo hạn chế, trẻ còn nhút nhát chưa mạnh dạn tham gia vào các hoạt động.
Đặc biệt trẻ tham gia hoạt động cộng đồng chưa thực sự hứng thú, nhanh chán.
Tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng trẻ khi cho trẻ tham gia hoạt động giáo
dục dựa vào cộng đồng. Kết quả khảo sát với tổng số 33 trẻ tại lớp vào thời điểm
tháng 9/2018 như sau:
Số trẻ
Số trẻ
Nội dung khảo sát
Mức độ đạt được
Tỉ lệ
khảo sát

đạt
- Thành thạo
10
30,3%
Kỹ năng sử dụng và lấy cất
đồ dùng khi tham gia hoạt - Đúng, phù hợp
8
24,3%
33
động giáo dục dựa vào cộng
- Chưa biết sử dụng
15
45,4%
đồng.
- Thành thạo
Kỹ năng thực hiện công việc
khi tham gia hoạt động giáo - Đúng và phù hợp
dục dựa vào cộng đồng.
- Chưa biết , lúng túng

33

- Rất hứng thú
Hứng thú khi tham gia hoạt - Hứng thú
động.
- Không hứng thú

33

9


27,3%

7
17

21,2%
51,5%

9

27,3%

9
15

27,3%
45,4%
6


- Tích cực giao tiếp
Giao tiếp với cộng đồng khi
- Giao tiếp trung bình
tham gia hoạt động .
- Giao tiếp ít, không giao tiếp

33

10


30,3%

7
16

21,2%
48,5%

* Nhận xét: Qua kết quả khảo sát trên tôi nhận thấy
- Kỹ năng sử dụng và lấy cất đồ dùng khi tham gia hoạt động giáo dục
dựa vào cộng đồng. Số trẻ sử dụng thành thạo, đúng mục đích và phù hợp tỷ lệ
còn thấp mới đạt 54,6%.
- Kỹ năng thực hiện công việc khi tham gia hoạt động giáo dục dựa vào
cộng đồng. Số trẻ thực hiện thành thạo, đúng theo yêu cầu của cô khi tham gia
hoạt động tỷ lệ mới đạt 48,5%.
- Trẻ hứng thú, hưởng ứng một cách tích cực và thích tham gia hoạt động
khi cô giáo tổ chức mới đạt 54,6%.
- Số trẻ tích cực giao tiếp với cộng đồng khi tham gia hoạt động mới đạt
51,5%.
Từ kết quả khảo sát tôi đã rất băn khoăn và suy nghĩ cần làm thế nào để
giúp trẻ hứng thú, tích cực tham gia vào hoạt động giáo dục dựa vào cộng đồng.
Bản thân tôi đã tiến hành tìm và áp dụng các phương pháp, giải pháp tích cực
nhất để tạo điều kiện cho trẻ tham gia hoạt động có hiệu quả.
2.3. Biện pháp thực hiện
2.3.1. Biện pháp 1: Chuẩn bị tâm thế, sức khỏe, và đồ dùng cá nhân
cho trẻ tham gia hoạt động giáo dục dựa vào cộng đồng.
Trẻ lớp tôi trong giai đoạn này bắt đầu thích khám phá và tò mò về sự vật,
hiện tượng xung quanh trẻ, đặc biệt là môi trường ngoài lớp học. Đa số trẻ sẽ
khó thích nghi với môi trường mới lạ, sẽ thấy lo lắng, sợ hãi, rụt rè khi tiếp xúc

với môi trường mới. Vì vậy, để buổi hoạt động dã ngoại được thành công thì
điều đầu tiên tôi nghĩ rất quan trọng đó là chuẩn bị một tâm thế thật tốt cho trẻ.
Để trẻ dễ dàng hòa mình vào môi trường mới với những khám phá đầy mới lạ.
Tôi luôn chú trọng đến vấn đề tâm sinh lý của trẻ, cụ thể trước mỗi buổi hoạt
động giáo dục dựa vào cộng đồng tôi thường phải giới thiệu về địa điểm, đối
tượng trẻ sắp được tìm hiểu, khám phá. Để từ đó trẻ hình dung được hoạt động
mình sẽ tham gia, trẻ sẽ không bị bỡ ngỡ, lo lắng, sợ hãi hay rụt rè khi buổi hoạt
động diễn ra.
Ngoài chuẩn bị về tâm thế cho trẻ tham gia buổi hoạt động giáo dục dựa
vào cộng đồng được tốt, tôi còn phải chú ý tới sức khỏe của trẻ. Trong khoảng
thời gian gần buổi hoạt động giáo dục dựa vào cộng đồng, tôi đã thường xuyên
tuyên truyền cho các bậc phụ huynh biết được địa điểm trẻ sẽ tham quan dã
ngoại để họ cùng quan tâm chăm sóc tới sức khỏe của trẻ sao cho trẻ được đảm
bảo sức khỏe để cùng cô và bạn bè tham gia vào buổi hoạt động. Còn nếu trẻ
nào có biểu hiện về sức khỏe không tốt, tôi sẽ tham mưu với Ban giám hiệu nhờ
cán bộ y tế xã thăm khám và trao đổi với phụ huynh về tình trạng sức khỏe cụ
thể của trẻ.
7


Ví dụ: Trước mỗi buổi tham quan dã ngoại của trẻ, tôi thường tìm hiểu tâm lí
từng trẻ trước khi cho trẻ tham gia vào buổi hoạt động giáo dục dựa vào cộng
đồng của lớp. Tôi luôn quan tâm, hỏi han trẻ, đặc biệt là những trẻ nhút nhát, rụt
rè, ít nói… Để trẻ không bị bỡ ngỡ, lo lắng, rụt rè,…Trước khi đến địa điểm
tham quan, bản thân tôi luôn phải tìm hiểu và trò chuyện với trẻ về nơi mà trẻ sẽ
tham quan, nhằm giúp trẻ tự tin, hứng thú khi tham gia hoạt động. Ngoài ra tôi
còn chú ý xem tình hình sức khỏe của cùng cháu để đảm bảo cho buổi hoạt động
cộng đồng được diễn ra thuận lợi, tránh những trường hợp không hay xảy ra với
trẻ...


Hình ảnh: Cô chuẩn bị các điều kiện cho trẻ trước khi đến điểm tham quan
Không chỉ chú ý tới tâm thế, sức khỏe của trẻ mà tôi còn phải nhắc nhở
trẻ những đồ dùng cá nhân cần có khi tham gia vào buổi hoạt động giáo dục
cộng đồng.
Ví dụ: Khi tổ chức cho trẻ tham gia hoạt động giáo dục dựa vào cộng
đồng tôi phải theo dõi, quan sát cụ thể diễn biến thời tiết của buổi dã ngoại ngày
hôm đó như thế nào để giúp trẻ chuẩn bị những đồ dùng cá nhân phù hợp. Tôi
có thể hỏi trẻ:
- Hôm nay cô cùng các con chúng mình đi tham quan địa điểm nào?
- Thời tiết hôm nay ra sao?
- Chúng mình cần những đồ dùng gì để mang theo cho phù hợp nào? ….
Tùy vào địa điểm, thời tiết để tôi điều chỉnh buổi tham gia hoạt động giáo
dục dựa vào cộng đồng, cũng như phối kết hợp cùng với phụ huynh làm những
đồ dùng, dụng cụ… cần thiết mang theo cho buổi hoạt động và nhắc trẻ mang
theo những đồ dùng cá nhân phù hợp như: mũ, nón, giày dép…
Những hoạt động dã ngoại cần chuẩn bị nhiều đồ dùng và cần có thêm
người lớn để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho trẻ. Tôi đã chủ động kêu gọi sự tham
gia ủng hộ của các bậc phụ huynh. Với mục đích vừa tạo sự gần gũi, sự phối kết
8


hợp giữa nhà trường và gia đình, vừa tạo cho trẻ có thêm tự tin, hứng thú khi
tham gia hoạt động.

Hình ảnh: Phụ huynh chuẩn bị tư trang đồ dùng và chơi cùng trẻ.
Qua một thời gian áp dụng biện pháp này vào hoạt động giáo dục dựa vào
cộng đồng, tôi thấy được sự thay đổi phát triển rõ rệt của trẻ. Không chỉ về học
tập mà thông qua hoạt động giáo dục dựa vào cộng đồng, trẻ được khám phá
thiên nhiên ngoài trời sẽ tăng cường sức đề kháng cho cơ thể trẻ, giúp trẻ có một
sức khoẻ dồi dào, chống lại sự thay đổi đột ngột của thời tiết. Với những trẻ nhút

nhát, rụt rè… trẻ đã thật sự thoải mái, tự tin vào bản thân, trẻ dám làm, dám nghĩ
và dám nói ra những điều trẻ quan sát phát hiện ra. Việc tạo cho trẻ có tâm thế
thoải mái khi quan sát sẽ giúp trẻ hoạt động tham quan trở nên sôi động, giúp trẻ
tích cực hơn trong giờ hoạt động với cộng đồng đạt kết quả cao.
2.3.2. Biện pháp 2: Lựa chọn địa điểm, tạo môi trường kích thích trẻ
tham gia hoạt động giáo dục dựa vào cộng đồng.
Để hoạt động giáo dục dựa vào cộng đồng đạt hiệu quả cao thì việc lựa
chọn địa điểm cũng rất quan trọng với mỗi chủ đề. Mỗi đề tài giáo viên cần lựa
chọn địa điểm phù hợp, làm sao để trẻ được khám phá, được hoạt động một cách
tốt nhất tùy từng đề tài. Trong mỗi chủ đề mà tôi có thể lựa chọn địa điểm như
sau:
* Tổ chức hoạt động giáo dục trong nhà trường:
( phạm vi lớp học hoặc bên ngoài lớp học)
Môi trường là yếu tố trực tiếp tác động hằng ngày đến trẻ. Môi trường
trang trí lớp, môi trường học tập, môi trường vui chơi…có vai trò quan trọng
đến giáo dục trẻ. Đối với việc trang trí môi trường lớp học tôi luôn quan tâm
hàng đầu. Ở mỗi chủ đề tôi luôn dành thời gian nghiên cứu thiết kế môi trường
lớp học sao cho phù hợp với chủ đề mà trẻ hoạt động, tìm hiểu về các sự vật
thông qua hình ảnh trang trí đó.
9


Bên cạnh đầu tư trang trí phù hợp với chủ đề, bản thân cũng chú trọng đến
việc làm đồ dùng đồ chơi tự làm ở các góc và sắp xếp đồ dùng sao cho thu hút
trẻ, vừa tạo cho trẻ hứng thú tham gia vào các hoạt động.
Ví dụ: Với chủ đề “Thế giới thực vật”
Ở góc thiên nhiên là góc dành riêng cho trẻ được hoạt động, trải nghiệm.
Ở góc này tôi trồng rất nhiều cây xanh. Tôi bố trí sẵn bình nước tưới, chăm sóc
cây để khi trẻ tham gia hoạt động trẻ được chăm sóc cây và tìm hiểu về các loại
cây. Trong quá trình chăm sóc ở góc thiên nhiên, trẻ được hình thành kỹ năng,

kỹ xảo lao động, được bồi dưỡng phẩm chất yêu lao động, yêu thiên nhiên, có ý
thức trách nhiệm trong công việc được giao.
Ngoài ra, tôi thường xuyên vận động một số gia đình trong địa phương
trồng hoa, cây ăn quả… gần gũi với trẻ và cho trẻ đến thăm quan, quan sát các
cây hoa, quả … một số hộ gia đình gần nơi trẻ sinh sống. Qua đó trẻ biết được ở
địa phương có rất nhiều hộ gia đình trồng hoa, cây ăn quả…
Cụ thể như gia đình nhà Bác Hoa Ngọc, gia đình Bác Hải, gia đình bác
Tiến Bảy…Trong hoạt động ngoài trời tôi cho trẻ quan sát những sự thay đổi
của cây, hạt… từng ngày, từng mùa và cho trẻ tìm tòi sự giống nhau và khác
nhau giữa các loại cây với nhau, cây ra hoa, cây ăn quả, cây cho bóng mát.

Cây hoa giấy

Hình ảnh: Cô cùng trẻ quan sát cây tại vườn nhà Bác Ngọc thôn 3.
Từ đó trẻ cảm nhận được vẽ đẹp của thiên nhiên và hình thành thái độ
đúng đắn với môi trường. Trẻ hiểu và biết quy trình lớn lên của cây: cây cần ánh
sáng, không khí, nước, hạt nảy mầm, cây lớn lên tươi tốt nhờ đủ các điều kiện,
cây không tươi tốt do thiếu một trong các điều kiện trên, trẻ sẽ rút được kinh
nghiệm khi chăm sóc cây xanh.
* Tổ chức hoạt động giáo dục ngoài nhà trường: (Tại các công trình
công cộng như: Di tích lịch sử, nhà văn hóa, khu vui chơi công cộng, tại các hộ
10


gia đình/ trại chăn nuôi/ xưởng sản xuất…;Địa điểm thiên nhiên bên ngoài:
Đồng ruộng, sông, hồ,…)
Không những môi trường hoạt động giáo dục trong nhà trường mà môi
trường giáo dục bên ngoài cũng cần thiết, quan trọng để giúp trẻ hoạt động. Môi
trường giáo dục ngoài nhà trường giúp trẻ gần gũi, thân thiện với thiên nhiên
không chỉ mang đến cho trẻ những thứ cần thiết, mà còn hấp dẫn trẻ bởi những

điều kỳ diệu mà không có gì thay thế được. Ở môi trường giáo dục ngoaì nhà
trường thì thiên nhiên xung quanh trẻ là muôn hình, muôn vẻ. Đây là phương
tiện là đối tượng kích thích, là nơi trẻ trực tiếp quan sát, ngắm nhìn, qua đó trẻ
được mở rộng kiến thức củng như hiểu biết về thế giới xung quanh.
Trẻ lớp tôi phụ trách được nhà trường sắp xếp lịch và phân công
1tháng/1lầncho trẻ hoạt động tham gia hoạt động giáo dục dựa vào cộng đồng.
Mỗi khi đưa trẻ đi tham gia vào hoạt động giáo dục dựa vào cộng đồng ở bên
ngoài trường tôi nhận thấy trẻ vui chơi hứng thú, tích cực hơn. Trẻ được hòa vào
thiên nhiên, hòa mình vào cuộc sống sinh hoạt thực tiễn hàng ngày của người
lớn vì vậy mà trẻ thể hiện vai chơi giống thật hơn, sinh động hơn. Trước khi tới
buổi tham quan của lớp, tôi luôn chú trọng đến cách bố trí, chuẩn bị đồ dùng
sao cho phù hợp với buổi tham quan, làm sao để luôn tạo được sự mới mẻ trong
các lần tham quan tại cộng đồng. Khi trẻ được tham gia hoạt động tại cộng đồng
trẻ được trải nghiệm tất cả các hoạt động diễn ra hàng ngày trong cuộc sống
xung quanh trẻ.
Ví dụ: Trẻ đi tham quan “Spa làm đẹp Thiên Linh” tại thôn 2 của xã. Tại
đây các bé biết, tái hiện lại những công việc của thợ cắt tóc, gội đầu, làm
móng... Biết hỏi, trao đổi với các cô ở Spa về công việc thường ngày của các cô.
Trẻ được thực hiện lại công việc của các cô ở Spa. Muốn cắt tóc đẹp thì phải
ngồi ngoan không được quay đầu, hay biết gội đầu cho khách xong phải biết lấy
khăn lau khô tóc, rồi xì tóc...Trẻ gái còn biết sơn móng tay cho bạn, trang điểm
cho bạn…
Sau khi tổ chức các tham quan cộng đồng ở bên ngoài trường học, qua
quá trình quan sát theo dõi tôi nhận thấy trẻ rất hứng thú tham gia tích cực vào
các hoạt động thể hiện được những việc làm thường ngày. Từ những trẻ hiếu
động đến những trẻ nhút nhát đều tham gia hoạt động một cách say sưa. Trẻ thõa
sức sáng tạo, thể hiện lại các hành động, trao đổi, mạnh dạn nêu các câu hỏi đối
với người lớn. Sau mỗi buổi chơi ấy tôi nhận thấy kỹ năng giao tiếp của trẻ được
nâng cao rất nhiều. Tôi nhận thấy việc cho trẻ được tham gia hoạt động giáo dục
dựa vào cộng đồng đã đem lại hiệu quả cao trong việc học tập và phát triển toàn

diện cho trẻ.
2.3.3. Biện pháp 3: Xây dựng mối quan hệ với cộng đồng.
Đây là bước khởi đầu trong tiến trình xây dựng mối quan hệ với cộng
đồng. Có thể cùng với cộng đồng địa phương triển khai các hoạt động giáo dục
trẻ mầm non. Từ đó thiết lập quan hệ với lãnh đạo địa phương và cộng đồng
bằng cách tổ chức các cuộc gặp mặt, cuộc họp, tọa đàm, trao đổi với cộng đồng
về mục đích và các nội dung triển khai giáo dục trẻ mầm non. Duy trì và củng
11


cố mối quan hệ với địa phương, cá nhân/tổ chức, cộng đồng. Thường xuyên giữ
mối quan hệ với cộng đồng địa phương trong tất cả các hoạt động giáo dục dựa
vào cộng đồng. Báo cáo hoặc thông báo kế hoạch triển khai các hoạt động cụ thể
của đơn vị cho lãnh đạo địa phương và các cá nhân/tổ chức cùng tham gia. Mối
quan hệ cộng đồng là hình thức cùng nhau hợp tác và chia sẻ nguồn lực để giải
quyết các vấn đề khó khăn hoặc nhu cầu chung đang gặp phải nhằm đạt tới mục
tiêu chung là giúp trẻ phát triển toàn diện bản thân.
Ví dụ: Trước khi cho trẻ đi tham quan một địa điểm nào đó cô phải trao
đổi thông tin với lãnh đạo địa phương, các cá nhân/tổ chức tham gia, để cùng
nhau có hướng giải quyết hợp lí nhất nhằm giúp trẻ không gặp các vấn đề khó
khăn trong quá trình tham gia buổi tham quan, giúp trẻ có được những hiểu biết,
trải nghiệm bổ ích nhất.
Tổ chức hoạt động giáo dục dựa vào cộng đồng vào các lễ hội, hoạt động
văn hóa - xã hội địa phương. Cần có sự phối hợp chặt chẽ của cộng đồng để
cùng giúp đỡ ngày hội, ngày lễ của trường, lớp diễn ra tốt đẹp.

Hình ảnh: Lãnh đạo địa phương trao đổi với GV về công việc trong năm học
Ví dụ: Gần tới trung thu nhà trường muốn tổ chức ngày hội, ngày lễ cho
trẻ. Để hiểu hơn về văn hóa của địa phương, đặc biệt là tổ khúc máu đèn. Tôi đã
tham mưu với Ban Giám hiệu trường mời các nghệ nhân đến lớp tôi để cùng trò

chuyện với trẻ về những tổ khúc múa đèn có từ xa xưa. Qua đó trẻ hiểu và thêm
yêu những điệu múa của quê hương. Chính vì được nghe và được các bác nghệ
nhân dạy múa đèn mà học sinh lớp tôi khi tham gia vào các tiết mục văn nghệ
múa đèn, trẻ rất hào hứng và thuộc các tổ khúc múa đèn rất nhanh.
12


Hình ảnh: Cô dạy trẻ múa đèn - Dân ca Đông Anh
Rõ ràng khi xây dựng được mối quan hệ với cộng đồng, tôi thấy trẻ lớp tôi
tự tin, mạnh dạn hơn trong giao tiếp và ứng xử. Mang đến cho trẻ nhỏ hành
trang vững vàng để bước vào đời sống học tập cũng như chuẩn bị những kỹ năng
tốt phục vụ cho quá trình trẻ trưởng thành. Trẻ sẽ tự tin hơn, tư duy tốt hơn, tự
lập hơn, kỹ năng tốt hơn và vui vẻ hơn và quan trọng trẻ sẽ luôn có được hướng
suy nghĩ tích cực.
2.3.4. Biện pháp 4: Lựa chọn nội dung, hoạt động giáo dục phù hợp, lập
kế hoạch tổ chức các hoạt động giáo dục.
Sau khi tìm hiểu cộng đồng, phân tích đánh giá vấn đề, thì giáo viên cần
lựa chọn vấn đề, các nội dung và các hoạt động giáo dục phù hợp để phối hợp
với cộng đồng tổ chức hoạt động giáo dục trẻ, xác định được đối tượng tham gia
và mức độ tham gia của cộng đồng, xác định các giải pháp để các nội dung, hoạt
động giáo dục triển khai hiệu quả. Từ việc lựa chọn nội dung, hoạt động giáo
dục phù hợp thì giáo viên cần lập kế hoạch tổ chức các hoạt động giáo dục. Kế
hoạch thường là những dự kiến mang tính ước lượng để chuẩn bị tốt cho việc tổ
chức các hoạt động giáo dục. Việc lập kế hoạch cần xác định được những bước
như sau:
Bước 1: Xác định được tên hoạt động giáo dục, đối tượng trẻ tham gia
hoạt động, thời gian tổ chức, địa điểm tổ chức và hình thức tổ chức hoạt động.
Bước 2: Xác định mục tiêu cụ thể từng đối tượng và cần được phát triển
rõ ràng, cụ thể, đo đếm được, có tính thực tiễn.
Bước 3: Xác định các điều kiện cần chuẩn bị để tổ chức các hoạt động

giáo dục cho trẻ mầm non. Một số điều kiện cần chuẩn bị bao gồm: thời gian,
13


địa điểm, kinh phí, trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi, nguồn nhân lực tổ chức
chính hoặc nguồn nhân lực hổ trợ…Các điều kiện chuẩn bị cần phải phân công
ró ràng cho từng đối tượng tham gia tổ chức hoạt động giáo dục.
Bước 4: Tiến hành thiết kế các hoạt động giáo dục cụ thể với nội dung,
phương pháp và trình tự tiến hành theo thời gian, địa điểm cụ thể: Xác định các
nội dung hoạt động để thực hiện các mục tiêu đặt ra; Liệt kê trình tự hoạt động
Ví dụ: Hoạt động 1, hoạt động 2…; xác định thời gian cần để thực hiện
từng hoạt động; Phân bố thời gian thích hợp để hoàn thành các hoạt động; Lựa
chọn và sử dụng phương pháp, hình thức dạy học.
Bước 5: Thẩm định/thống nhất kế hoạch: Kế hoạch được thẩm định ở cấp
quản lí hoặc tổ chuyên môn của cơ sở giáo dục trên cơ sở thống nhất ý kiến giữa
quản lí chuyên môn và cá nhân/tổ chức cộng đồng tham gia tổ chức hoạt động.
Nếu thống nhất và phê duyệt, kế hoạch được triển khai theo các nội dung đã xây
dựng.
Ví dụ: Chủ đề: “Quê hương - đất nước - Bác Hồ, trường Tiểu học”, cô
cần có kế hoạch cụ thể: Tên hoạt động; Thời gian tổ chức hoạt động; ngày tổ
chức hoạt động; đối tượng tham gia; địa điểm tổ chức: Trường tiểu học Đông
Anh; người tổ chức tham gia tổ chức.
Mục đích cần có: Đối với trẻ, đối với cộng đồng, đối với giáo viên
Chuẩn bị: về phía cộng đồng, giáo viên; chuẩn bị cho trẻ
Tiến hành (Dự kiến những hoạt động cần tiến hành theo trình tự thời gian
của từng đối tượng tham gia trong hoạt động)
Sau khi thực hiện biện pháp này, tôi thấy bản thân tôi đã đạt được kế
hoạch mình đã đề ra là giúp trẻ hứng thú hơn trong hoạt động giáo dục dựa vào
cộng đồng. Trong các hoạt động trải nghiệm, giáo viên mầm non có vai trò định
hướng, hỗ trợ, đánh giá, uốn nắn, sửa sai cho trẻ. Tùy thuộc vào từng hoạt động

trải nghiệm, giáo viên đưa ra các tình huống có vấn đề để trẻ trải nghiệm với các
tình huống đó và giáo dục trẻ phù hợp với từng nội dung. Như vậy, thông qua
việc cho trẻ được trực tiếp khám phá, tìm hiểu thông qua các buổi tham quan dã
ngoại tôi thấy trẻ rất thoải mái, vui vẻ, trẻ tự mình học hỏi và khám phá từ đó tạo
cho trẻ có nhiều nguồn cảm hứng hơn khi hoạt động tạo hình trẻ rất hứng thú và
kiến thức, kỹ năng sẽ hình thành một cách nhẹ nhàng, tự nhiên.
2.3.5. Biện pháp 5: Thay đổi các hoạt động theo từng chủ đề kích thích
sự hứng thú hoạt động của trẻ.
Với mỗi chủ đề tôi luôn cùng trẻ thảo luận về cách thay đổi, địa điểm
tham quan, sao trẻ trẻ hứng thú hoạt động ở từng chủ đề. Vào đầu chủ đề tôi
thảo luận cùng trẻ nội dung của chủ đề mới và làm thế nào để tạo ra những hoạt
động phù hợp với địa điểm tham quan. Việc này cần huy động kinh nghiệm sáng
tạo ở mỗi trẻ. Điều đó rất phù hợp với quan điểm quan trọng trong giáo dục
mầm non mới là lấy trẻ làm trung tâm.
Ví dụ: Khi học về chủ đề "Thế giới thực vật" tôi đã thảo luận cùng trẻ:
Để tới thăm quan vườn rau nhà bác Việt thì ta cần chuẩn bị những đồ
dùng gì? Vì sao? Ngoài ra khi tới vườn rau thì chúng ta nên làm những công
14


việc gì? Các con có nhận xét gì về công việc của các bác trồng rau? Sau khi đã
cùng trẻ thảo luận và đi đến ý kiến chung thì cô và trẻ cùng chuẩn bị đồ dùng
cần thiết cho buổi tham quan dã ngoại
Trong mỗi đầu chủ đề tôi thường dành thời gian đón trẻ hoặc trả trẻ để trò
chuyện cùng trẻ về chủ đề mới, về những nội dung mà trong chủ đề sẽ thực hiện,
sau đó thăm dò ý tưởng của trẻ về những đồ dùng cần chuẩn bị cho hoạt động ở
buổi tham quan tiếp theo. Tôi chuẩn bị các nguyên vật liệu sẵn có ở trong lớp,
trường. hay từ những nguyên vật liệu tự nhiên của trẻ và phụ huynh mang tới.
Ví dụ:
Những vỏ chai nước C2, tôi đem rửa sạch sau đó đục lỗ cho trẻ dùng tưới

cây.. Hay từ can nước rửa bát 5 lít ở trường đã dùng hết, tôi cắt thành hình chiếc
làn xinh xắn và sau đó để trẻ trang trí các hoạ tiết lên. Từ những sản phẩm do cô
và cháu cùng tạo ra, mỗi lần trẻ hoạt động đều rất thích thú và mang theo khi
tham gia hoạt động giaó dục dựa vào cộng đồng .
Hàng tháng, gần tới buổi hoạt động giáo dục cộng đồng, tôi cùng trẻ
chuẩn bị trước một số đồ dùng cho chủ đề mới. Sau khi thảo luận cùng trẻ về
chủ đề mới song, tôi chủ động đưa ra một số nội quy, tình huống mà trẻ gặp
phải, cần thực hiện khi tham gia hoạt động giáo dục dựa vào cộng đồng và yêu
cầu trẻ thực hiện. Những buổi sinh hoạt cộng đồng tôi giao nhiệm vụ cho từng
nhóm trưởng của mỗi nhóm, nhằm giúp trẻ có ý thức, trách nhiệm khi tham gia
hoạt động giáo dục dựa vào cộng đồng. Nhóm nào sáng tạo, tích cực tham gia,
chăm ngoan sẽ có phiếu bé ngoan đẹp, những tràng pháo tay hay những bài hát
các bạn hát tặng. Như vậy sẽ khích lệ được sự hứng thú và hăng say hoạt động
của trẻ. Dường như trên khuôn mặt trẻ nào cũng lộ rõ sự cố gắng để dành phần
thắng. Tôi luôn quan sát theo dõi và khách quan công bằng trong việc cùng trẻ
đánh giá ở mỗi buổi tham gia hoạt động của trẻ. Sau khi kết thúc hoạt động cho
trẻ nhận xét hoạt động của mình, của bạn.

Hình ảnh: Tham quan cánh đồng lúa

Hình ảnh:Thăm cây cảnh nhà bác Năm
15


Ví dụ : Với chủ đề "Ngành nghề", chủ đề nhánh "Nghề nông" tôi tổ
chức cho tham quan cánh đồng lúa, vườn cây. Ở đây trẻ được tham quan và nhìn
thấy được công việc của các bác nông dân để làm ra hạt gạo nuôi sống con
người, những cây xanh làm đẹp môi trường. Từ đó trẻ biết yêu quý, tôn trọng
công việc của các bác nông dân.
Hoặc chủ đề “Quê hương - đất nước - Bác Hồ, tường Tiểu học” tôi

chuẩn bị những đồ dùng cho trẻ, để trẻ được tới tham trường Tiểu học và làm
quen với môi trường mới nơi mà trẻ sẽ học tập vào năm học mới. Cuối những
buổi họat động cộng đồng cô cho trẻ nhận xét và rút ra bài học từ những buổi
tham quan ấy.
Sau mỗi buổi tham gia hoạt động giáo dục dựa vào cộng đồng của lớp tôi,
tôi thấy được sự tiến bộ về nhận thức, hiểu biết hơn về thế giới xung quanh trẻ.
Trẻ được gần gũi hơn với thiên nhiên, con người…Từ đó hình thành cho trẻ
những hiểu biết rõ ràng hơn về thế giới bên ngoài môi trường lớp học.
2.3.6. Biện pháp 6: Cho trẻ hoạt động trải nghiệm thực tiễn.
Trẻ mầm non là lứa tuổi rất hiếu động, thích khám phá, trải nghiệm, tìm
tòi, thích được sờ, ngửi, nắm, nhìn…Vì vậy một trong những phương pháp giáo
dục mang lại hiệu quả cao nhất đối với trẻ khi tổ chức hoạt động giáo dục dựa
vào cộng đồng là phương pháp thực hành và trải nghiệm. Thông qua các thao tác
nhìn, sờ, nếm, ngửi, hoạt động… trẻ dễ dàng lĩnh hội nắm bắt và khắc sâu kiến
thức của bản thân hơn. Khi tổ chức hoạt động giáo dục dựa vào cộng đồng mà
thiếu đi những thao tác thực hành trải nghiệm thì trẻ sẽ không tập trung, chú ý
và sẽ không khắc sâu được kiến thức hoặc mau quên [7].
Vì trẻ mẫu giáo có sự tưởng tượng chưa phong phú, kinh nghiệm sống của
trẻ còn ít nên tôi thường xuyên tận dụng những buổi hoạt động với cộng đồng để
cho trẻ được tiếp xúc, thực hiện làm những công việc cùng người lớn. Khi cho
trẻ được tiếp xúc với các hoạt động thực tiễn thì tôi nhận thấy trẻ hứng thú và
nắm bắt kiến thức một cách nhanh chóng và rõ ràng nhất, qua đó trẻ tích lũy
thêm được vốn kinh nghiệm sống cho bản thân.
Tạo điều kiện cho trẻ thực hành trải nghiệm với sự vật hiện tượng chính là
cho trẻ luôn luôn làm quen với sự vật hiện tượng xung quanh một cách trực tiếp
như nhìn, sờ, nếm, ngửi. Trong qua đó trẻ được bộc lộ tính cách và được hình
thành phát triển tâm lí và phát triển thêm vốn từ cho trẻ.
Ví dụ: Khi cho trẻ đến vườn cam thăm quan, trẻ được quan sát và trải
nghiệm qua đây trẻ được nếm, ngửi, sờ quả cam bằng vật thật. Trẻ được trao đổi
trực tiếp với người trồng cam. Đây là quả gì? nhìn xem quả cam có dạng hình

gì? Màu gì? Hãy sờ vỏ quả cam xem có đặc điểm gì? muốn biết cam có mùi gì
hãy đưa lên mũi ngửi xem nào…Để làm ra được quả cam ngoan như vậy các
bác cần làm những công việc gì?
Bác nông dân sẽ giới thiệu cho trẻ hiểu về cách trồng cam và cho trẻ được
nếm thử vị của cam sau đó hỏi trẻ về vị của cam. Trẻ nhận xét (có trẻ nói chua,
trẻ nói ngọt). Từ đó tôi giải thích “Qủa cam chưa chín có vị chua, còn quả cam
16


chín có vị ngọt” khi được trải nghiệm thực tế thì trẻ đã nắm vững được những
kiến thức một cách rõ ràng hơn.
Ví dụ: Ở chủ đề nhánh: “Quê hương - đất nước” Cô cho trẻ đi thăm quan
bãi bóng của địa phương. Qua đây trẻ được tìm hiểu về môn bóng đá, trẻ cũng
được trải nghiệm bằng cách cùng các anh chị lớn tham gia đá bóng. Từ trải
nghiệm này trẻ rất thích thú, hào hứng tham gia. Cô giáo dục cho trẻ hiểu tập thể
dục thể thao nhằm rèn luyện sức khỏe. Có sức khỏe sẽ giúp trẻ học tập, rèn
luyện tốt hơn.

Hình ảnh: Cô cùng trẻ tham quan bãi bóng của xã.
Như vậy, qua biện pháp này bản thân tôi thấy được trẻ lớp mình hứng thú
hơn rất nhiều khi tham gia hoạt động trải nghiệm, giao tiếp, suy ngẫm, trao đổi
thành thạo, biết phối hợp vận động cùng bạn khác, hào hứng tham gia vào hoạt
động phát triển về mọi mặt; khả năng sử dụng một số đồ dùng trong vui chơi,
học tập, sinh hoạt, trẻ có khả năng thực hiện các hoạt động một cách tự tin và
khéo léo, tích cực, chủ động, sáng tạo hơn.
2.3.7. Biện pháp 7: Kết hợp với với phụ huynh.
Muốn tổ chức tốt hoạt động giáo dục dựa vào cộng đồng thì việc thiết kế
môi trường cho trẻ hoạt động là rất quan trọng. Để việc tạo môi trường cho trẻ
hoạt động có hiệu quả thì bên cạnh việc chuẩn bị của nhà trường, của cô giáo,
của cộng đồng thì cũng rất cần sự giúp đỡ tích cực, sự ủng hộ nhiệt tình của các

bậc phụ huynh. Chính vì vậy mà tôi đã xác định đây là một trong những yếu tố
quan trọng giúp tôi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của năm học. Và tôi đã lên kế
hoạch cho mình như sau:
Việc đầu tiên tôi cần làm đó là tạo sự tin tưởng và thu hút sự tham gia của
các bậc phụ huynh vào các hoạt động chăm sóc - giáo dục trẻ của lớp và của nhà
17


trường bằng những việc làm thiết thực như: Lắng nghe ý kiến của cha mẹ trẻ;
chủ động xây dựng mối quan hệ tốt với các bậc phụ huynh; sẵn sàng tư vấn và
giúp đỡ các kiến thức chăm sóc - giáo dục trẻ khi gia đình có yêu cầu; thống
nhất với các bậc phụ huynh về nội quy, các hình thức, các biện pháp phối hợp
giữa gia đình với nhà trường trong từng giai đoạn và cả năm học; Thông tin đầy
đủ cho phụ huynh về chương trình, mục tiên trong năm học của lớp và nhà
trường; thường xuyên trao đổi với phụ huynh về tình hình nề nếp cũng như sức
khỏe của trẻ để có những biện pháp phối hợp cùng nhà trường chăm sóc - giáo
dục trẻ đạt kết quả tốt nhất. Bằng những việc làm đó tôi và phụ huynh đã có sự
gần gũi, phụ huynh đã rất tin tưởng và luôn quan tâm tạo điều kiện để cùng
chăm sóc, giáo dục trẻ.
Ngay từ đầu năm học tôi đã tuyên truyền đến các bậc phụ huynh về tầm
quan trọng của việc tạo môi trường hoạt động giáo dục dựa vào cộng đồng cho
trẻ qua buổi họp phụ huynh đầu năm. Tôi đã nêu lên đặc điểm phát triển của trẻ
ở lứa tuổi này. Cho phụ huynh quan sát trên máy chiếu những địa điểm tham
quan của lớp mà tôi đã dự kiến lên kế hoạch. Những địa điểm vô cùng hữu ích
và cần thiết cho trẻ hoạt động, trải nghiệm nhằm giúp trẻ hiểu biết về thế giới
xung quanh trẻ hơn. Từ đó vận động phụ huynh phối kết hợp cùng trường, lớp
để cho trẻ được tham gia vào các hoạt động giáo dục dựa vào cộng đồng.
Ví dụ:
Qua buổi họp phụ huynh đầu năm, sau khi lắng nghe và quan sát các địa
điểm tôi đưa ra, phụ huynh đã hiểu rõ được ích lợi của hoạt động giáo dục dựa

vào cộng đồng. Từ đó phụ huynh đã rất nhiệt tình trong việc ủng hộ tiền cho lớp
trong những lần đi tham quan. Nhờ vậy mà cho tới nay lớp tôi đã đi thăm quan
được một số địa điểm như đã đề ra từ đầu năm học và trẻ rất hứng thú khi tham
gia.
Ngoài ra tôi còn trao đổi với phụ huynh cần kết hợp cùng cô giáo, cộng
đồng tạo môi trường cho trẻ được giao tiếp nhiều hơn, giúp trẻ mạnh dạn tự tin
hơn. Biết được trẻ lớp mình cần có kỹ năng giao tiếp hơn nên tôi đã tuyên truyền
với phụ huynh và nhờ phụ huynh kết hợp cùng với tôi để giúp đỡ, phát huy tính
tích cực cũng như khả năng sáng tạo của trẻ.
Để làm được điều này tôi đã sử dụng góc tuyên truyền phụ huynh ghi rõ
nội dung yêu cầu của từng chủ đề đối với trẻ, yêu cầu đối với phụ huynh cần
giúp đỡ và đóng góp những gì mà chủ đề này cần để hoạt động
Ví dụ: Khi đến chủ đề “Gia đình”, ở bảng tuyên truyền tôi đã ghi rõ tên
chủ đề kế hoạch của buổi hoạt động giáo dục cộng đồng. Tuyên truyền, kêu gọi
phụ huynh giúp đỡ đóng góp, hỗ trợ thêm kinh phí các nguyên vật liệu phục vụ
cho chủ đề.
Khi thấy tôi viết bảng tuyên truyền như vậy, phụ huynh đã sẵn sàng hỗ trợ
kinh phí, các nguyên vật liệu để giúp đỡ cô giáo, có một số phụ huynh còn tranh
thủ thời gian để cùng cô chuẩn bị một số đồ dùng cho trẻ trước buổi tham gia
hoạt động cộng đồng.
18


Ví dụ: Phụ huynh cùng cô và trẻ chuẩn bị đồ dùng đi tham quan nghĩa
trang liệt sĩ của xã, hay như cùng đi tham quan UBND xã... rất nhiều các hoạt
động giáo dục dựa vào cộng đồng được phụ huynh ủng hộ và cùng tham gia

Hình ảnh: Phụ huynh cùng cô cho trẻ đi tham quan.
Sau thời gian thực hiện tốt việc phối kết hợp của phụ huynh, đến nay trẻ
lớp tôi đã mạnh dạn, tự tin hơn khi tham gia vào các hoạt động. Có được kết quả

như vậy là nhờ vào sự nỗ lực của cô giáo cũng như sự ủng hộ tích cực từ phía
phụ huynh, cộng đồng.
Ngoài ra bản thân tôi cũng luôn tự ý thức được việc học tập văn hóa, bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, thường xuyên học hỏi và trao đổi với đồng
nghiệp. Phải nói rằng việc tự học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ
được đặt lên hàng đầu đối với mỗi giáo viên. Muốn thực hiện được điều đó mỗi
giáo viên phải tự tìm tòi sách, báo và các phương tiện thông tin đại cùng để trau
dồi kĩ năng, nghiệp vụ cho bản thân.
Luôn nắm vững tâm sinh lý của trẻ để có phương pháp tổ chức các hoạt
động cho trẻ, không để trẻ nhàm chán, im lặng, phải giúp trẻ tham gia tích cực
vào các hoạt động bằng cách gây hứng thú và sự chú ý cho trẻ.
Tham gia các đợt học chuyên đề. Ngoài ra tôi còn giành thời gian cho việc
nghiên cứu sách báo, sưu tầm các lại tranh ảnh, xem các kên truyền hình, truy
cập mạng để có vốn kiến thức được đầy đủ và phong phú hơn.

19


Luôn có ý thức học hỏi những người đi trước, dự giờ, tham quan các lớp,
trường bạn nhằm trau dồi kiến thức, học những điều hay, điều mới lạ để thực
hiện dạy trẻ có hiệu quả nhất.
2.4. Hiệu quả đạt được.
Sau một năm áp dụng các biện pháp trên, tôi thấy các cháu của lớp tôi có
những thay đổi rõ rệt, giờ đây các bé đều rất hăng hái, hứng thú tham gia vào
hoạt động giáo dục dựa vào cộng đồng. Không những thế tất cả các kỹ năng hoạt
động của trẻ cũng được nâng cao rõ rệt. Từ kỹ năng lấy cất, sử dụng đồ dùng, đồ
chơi đến kỹ năng giao tiếp với các bạn và người xung quanh đều được trẻ thể
hiện thành thạo. Kết quả khảo sát cuối năm như sau:
Nội dung khảo sát


Mức độ đạt được

- Thành thạo
Kỹ năng sử dụng và lấy cất
đồ dùng khi tham gia hoạt - Đúng, phù hợp
động giáo dục dựa vào cộng
- Chưa biết sử dụng
đồng.
- Thành thạo
Kỹ năng thực hiện công việc
khi tham gia hoạt động giáo - Đúng và phù hợp
dục dựa vào cộng đồng.
- Chưa biết , lúng túng

Số trẻ
khảo sát

33

33

- Rất hứng thú
Hứng thú khi tham gia hoạt - Hứng thú
động.
- Không hứng thú
- Tích cực giao tiếp
Giao tiếp với cộng đồng khi
- Giao tiếp trung bình
tham gia hoạt động .
- Giao tiếp ít, không giao tiếp


33

33

Số trẻ
đạt
15

45,4%

15

45,4%

3

9,2%

16

48,5%

13
4

39,4%
12,1%

16


48,5%

15
2

45,4%
6,1%

15

45,4%

15
3

45,4%
9,2%

Tỉ lệ

* Nhận xét: Qua kết quả khảo sát trên tôi nhận thấy
- Kỹ năng sử dụng và lấy cất đồ dùng khi tham gia hoạt động giáo dục
dựa vào cộng đồng. Số trẻ sử dụng thành thạo, đúng mục đích và phù hợp tỷ lệ
đạt 90,8% tăng 36,2% so với đầu năm.
- Kỹ năng thực hiện công việc khi tham gia hoạt động giáo dục dựa vào
cộng đồng. Số trẻ thực hiện thành thạo, đúng theo yêu cầu của cô khi tham gia
hoạt động tỷ lệ đạt 87,9% tăng 39,4% so với đầu năm.
- Trẻ hứng thú, hưởng ứng một cách tích cực và thích tham gia hoạt động
khi cô giáo tổ chức đạt 93,9% tăng 39,3% so với đầu năm.

- Số trẻ tích cực giao tiếp với cộng đồng khi tham gia hoạt động đạt
90,8% tăng 39,3% so với đầu năm.
20


Như vậy kết quả khảo sát trên cho thấy việc áp dụng và thực hiện “Một số
biện pháp để giúp trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trường mầm non Đông Anh hứng
thú tham gia vào hoạt động giáo dục dựa vào cộng đồng” mà tôi đã tìm tòi,
nghiên cứu thực sự đem lại kết quả cao. Đó chính là sự cố gắng nỗ lực của bản
thân cũng như sự giúp đỡ tạo điều kiện của Ban giám hiệu, của cộng đồng, của
phụ huynh. Giờ đây nhìn các cháu thấy cháu nào cũng tỏ ra gần gũi, thường
xuyên chủ động giao tiếp với mọi người xung quanh, mạnh dạn tự tin, chủ động
sáng tạo khi tham gia vào các hoạt động mà tôi cảm thấy thật rất vui mừng. Tôi
hi vọng với sáng kiến kinh nghiệm này sẽ đưa ra để các đồng nghiệp cùng áp
dụng thực hiện nhằm giúp cho hoạt động giáo dục nói chung và giáo dục mầm
non nói riêng ngày càng chất lượng và toàn diện hơn.
Sáng kiến này được áp dụng tại lớp mẫu 5 - 6 tuổi trường mầm non Đông
Anh, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá trong năm học 2018 - 2019. Sau 1 năm
miệt mài tìm tòi, nghiên cứu không quản vất vả để áp dụng các biện pháp trong
quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ. Đến nay tôi đã thực hiện thành công đối với trẻ
lớp mẫu giáo 5 - 6 tuổi trường mầm non Đông Anh hứng thú khi tham gia vào
hoạt động giáo dục dựa vào cộng đồng.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Muốn tổ chức họat động giáo dục dựa vào cộng đồng đạt hiệu quả cao thì
người giáo viên cần phải linh hoạt sáng tạo và phải phối hợp cùng Ban giám
hiệu, lãnh đạo địa phương, các tổ chức/cá nhân cùng tham gia và thực hiện tốt.
Địa điểm hoạt động phải phù hợp với độ tuổi, thời gian có tính thẩm mĩ và giàu
bản sắc văn hóa địa phương, vùng miền. Cần có những sáng tạo dựa trên cái đã
có.

Chú trọng tới việc chuẩn bị đồ dùng: phù hợp, linh hoạt, dễ sử dụng, gọn
nhẹ, có giá trị sử dụng để gây hứng thú cho trẻ khi tham gia hoạt động. Nội dung
phù hợp với chủ đề và gần gũi với trẻ.
Giáo viên cần quan sát, lắng nghe, đưa ra gợi ý, và chỉ dẫn, khuyến khích,
giúp đỡ trẻ khi cần thiết. Phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa cộng đồng, phụ
huynh và cô giáo. Thường xuyên thông tin với gia đình về kết quả học tập và
các hoạt động khác của trẻ tại nhà trường để gia đình biết và có biện pháp phối
hợp trong việc giáo dục trẻ sao cho hiệu quả.
Ngoài ra muốn dạy tốt phải thường xuyên học hỏi đồng nghiệp. Luôn
luôn tự rèn luyện nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tham khảo tài liệu,
luôn tìm tòi sáng tạo trong giờ học.
Tất cả những kinh nghiệm trên đều là kinh nghiệm của tôi trong quá trình
giảng dạy. Tôi rất mong sự đóng góp ý kiến của ban giám hiệu nhà trường, của
phòng Giáo dục huyện Đông Sơn để tôi dạy tốt hơn. Từ đó góp một phần vào sự
nghiệp giáo dục chung của bậc học mầm non.
3.2. Kiến nghị.
3.2.1. Đối với địa phương.
21


Đề nghị chính quyền địa phương, các tổ chức xã hội tăng cường đầu tư và
hỗ trợ thêm về cơ sở vật chất, đồ dùng, đồ chơi nhằm phục vụ cho các hoạt động
của trẻ trong các trường mầm non.
Đề nghị chính quyền địa phương, các tổ chức cá nhân tạo điều kiện hơn
nữa để trẻ được tham gia vào các hoạt động do địa phương, cá nhân tổ chức.
3.2.2. Đối với nhà trường.
Tuy nhiên, để những sáng kiến kinh nghiệm này đạt được hiệu quả cao
hơn nữa tôi mong muốn nhà trường tạo cơ hội được giao lưu trao đổi học hỏi
kinh nghiệm với đồng nghiệp ở các trường khác, được tham gia nhiều lớp tập
huấn về dạy kỹ năng sống cho trẻ và rất mong Ban giám hiệu nhà trường hàng

năm bổ sung cho chúng tôi nhiều nguồn tư liệu quý để tham khảo.
Để hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm này, mặc dù được sự quan tâm giúp
đỡ của các chị em đồng nghiệp. Nhưng không tránh khỏi những thiếu sót rất
mong được sự đóng góp ý kiến của cấp trên và các bạn đồng nghiệp để tôi có
thêm nhiều kinh nghiệm quý báu hơn trong công tác giảng dạy của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA HĐKH CẤP TRƯỜNG Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
SKKN xếp loại: ...........
nghiệm của mình viết, không sao chép
nội dung của người khác.
CHỦ TỊCH HĐKH
Đông Sơn, ngày 05 tháng 3 năm 2019
Người viết

HIỆU TRƯỞNG
Lê Thị Mùi
Nguyễn Thị Yến

22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Chương trình giáo dục mầm non năm học 2018 - 2019 của Bộ Giáo dục và
Đào tạo, trang 3
[2]. FGN/UNICEF, năm 1996, chăm sóc cho trẻ em ở châu phi, trang 125
[3]. Tài liệu bồi thường xuyên năm học 2018 - 2019, trang 202
[4]. A.N.Leonchev (1989), hoạt động - Ý thức - Nhân cách, nhà sản xuất giáo
dục.
[5]. Thái Duy Tuyên (2001), giáo dục học hiện đại, nhà xuất bản Đại học quốc
gia Hà Nội

[6]. Sách Tài liệu bồi thường xuyên năm học 2018 - 2019 của Bộ Giáo dục và
Đào tạo
[7]. Nguồn Internet.

23


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIA XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Yến
Chức vụ:
Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường mầm non Đông Anh

TT

1

2

3

4

Cấp đánh
giá xếp loại
(Phòng, Sở,
Tỉnh…)
Một số kinh nghiệm giúp trẻ Phòng GD

mẫu giáo yêu thích dân ca
huyện Đông
Sơn
Một số biện pháp rèn nề nếp Phòng GD
thói quen vệ sinh và hành vi huyện Đông
văn minh cho trẻ mẫu giáo
Sơn
Tên đề tài SKKN

Một số biện pháp giúp trẻ lớp
Bé B trường mầm non Đông
Anh, huyện Đông Sơn, tỉnh
Thanh Hóa rèn tính tự lập
Một số biện pháp giúp trẻ mẫu
giáo 5-6 tuổi trường mầm non
Đông Anh, huyện Đông Sơn
phát triển hứng thú khi tham
gia vào hoạt động giáo dục
dựa vào cộng đồng.

Phòng GD
huyện Đông
Sơn
Phòng GD
huyện Đông
Sơn

Kết
quả Năm
học

đánh giá đánh giá xếp
xếp loại (A, loại
B, hoặc C)
B

2010 - 2011

B

2011 - 2012

B

2017 - 2018

A

2018 - 2019

24



×