Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

NHỮNG yêu cầu cơ bản của NGƯỜI LAO ĐỘNG PHẢI đáp ỨNG TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP hóa, HIỆN đại hóa ở nước TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.58 KB, 19 trang )

MỞ ĐẦU
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là sự nghiệp của toàn dân. Lôgíc tất
yếu được đặt ra là phải nâng cao trí tuệ của toàn dân, nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ của người lao động. Chỉ với một nền dân trí cao mới có thể đào tạo tuyển
chọn ra được một đội ngũ cán bộ công chức lành nghề, cán bộ khoa học - công nghệ
có chất lượng, tạo ra nguồn dự trữ chất xám cần thiết cho sự phát triển. Việt Nam từ
một nước nghèo nàn lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa,
cái thiếu nhất của đất nước ta là cơ sở vật chất, kỹ thuật của nền sản xuất tiên tiến,
hiện đại của chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, Đảng ta xác định nhiệm vụ trung tâm trong
suốt thời kỳ quá độ là phát triển lực lượng sản xuất, là công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
phát huy sức mạnh toàn dân tộc. Do vậy vấn đề mấu chốt đặt ra là phải nâng cao trí
tuệ của toàn dân, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của người lao động.
Chính yêu cầu này là cơ sở quan trọng nhất để xây dựng chiến lược phát triển giáo
dục, đào tạo của nước ta khi bước vào thiên niên kỷ mới.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước từ trạng thái năng suất, chất lượng và hiệu quả thấp dựa vào sản xuất nông
nghiệp, sử dụng lao động thủ công là chính đến trạng thái năng suất, chất lượng, hiệu
quả dựa trên sản xuất công nghiệp và những thành tựu mới của khoa học - công nghệ.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng chính là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng kinh tế tăng nhanh các ngành có hàm lượng khoa học - công nghệ cao, có
giá trị kinh tế cao. Thực chất của công nghiệp hóa là sự phát triển công nghệ, là quá
trình chuyển sản xuất xã hội cả nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ từ trình độ công
nghệ thấp lên trình độ công nghệ tiên tiến hiện đại. Trong giai đoạn hiện nay, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa bao gồm những hiếu tố của nền kinh tế tri thức. Như vậy
thực chất công nghiệp hóa, hiện đại hóa chính là quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của nền sản xuất hiện đại, xây dựng cái cốt vật chất của chủ nghĩa xã hội.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là một chủ trương lớn của Đảng và
Nhà nước. Để thực hiện thắng lợi chủ trương đó đòi hỏi các ngành, các địa phương và
quốc gia phải giải quyết thật tốt vấn đề đào tạo người lao động, có như vậy mới phát
huy được nhân tố con người - nhân tố quyết định cho sự thành công sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vì vậy, đề tài "Đào tạo người lao động nhằm đáp ứng sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay" nhằm phần nào giải


quyết vấn đề cấp thiết này ở nước ta hiện nay.

1


NỘI DUNG
I. NHỮNG YÊU CẦU CƠ BẢN CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG PHẢI ĐÁP ỨNG TRONG
QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA

1. Người lao động cần phải có kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp cao và tư
duy mới
Sự thành công của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tùy thuộc vào một
hệ thống các điều kiện như nguồn nhân lực con người, vốn, tài nguyên, cơ sở vật chất
khoa học - kỹ thuật, môi trường chính trị ổn định. Trong đó nguồn nhân lực con
người đóng vai trò quyết định.
Người lao động có kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo hay nói cách khác là có trình độ
văn hóa và nghề nghiệp cao có ý nghĩa quyết định sự thành công của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đó là những người lao động phát triển mạnh về trí
tuệ - yếu tố quyết định phần lớn khả năng tự chủ, sáng tạo của con người, nhất là
trong thời đại cách mạng khoa học - công nghệ hiện nay. Là những người lao động có
trình độ tay nghề cao đủ khả năng tiếp thu và vận dụng có hiệu quả các thành tựu
khoa học - công nghệ vào sự phát triển kinh tế - xã hội, là những người lao động có
kinh nghiệm, biết vận dụng những tri thức của mình vào việc tìm tòi, sáng tạo những
giải pháp mới trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Chỉ nhờ có sự phát triển trí tuệ, sáng tạo ra các công cụ, phương tiện, vật liệu
mới nhân lên nhiều lần và làm thay đổi về chất các tính năng của giác quan con người
mới tạo điều kiện cho con người thâm nhập, tìm hiểu các sự vật, hiện tượng, quá trình
tự nhiên mà từ trước đến nay vẫn nằm ngoài sự quan sát tìm hiểu của con người.
Khoa học - công nghệ càng phát triển, càng đòi hỏi người lao động phải có
kiến thức, có trí tuệ, có kỹ năng nghề nghiệp và trình độ tư duy cao, có như vậy mới

làm chủ được bản thân, làm chủ được khoa học - công nghệ phục vụ cho sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2. Người lao động cần phải có tính tự chủ và sáng tạo
Trí thông minh, tài năng, sáng tạo, nhạy cảm và cái mới, ý chí tự lực, tự cường
là những tiềm lực to lớn của dân tộc Việt Nam, là sản phẩm của quá trình phát triển
lâu dài của dân tộc, là nguồn lực to lớn cho sự phát triển của đất nước. Tinh thần tự
chủ sáng tạo đã giúp cho người lao động Việt Nam biết ứng phó, vận dụng sức mạnh
to lớn của tự nhiên đã giúp dân tộc Việt Nam tiến hành những cuộc chiến tranh bảo
vệ Tổ quốc vĩ đại, đầy tính sáng tạo, chiến thắng nhiều kẻ thù hùng mạnh, khẳng định
vững chắc nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Tính tự chủ sáng tạo đã trở thành phẩm
chất của người Việt Nam, trở thành giá trị truyền thống quý báu trong bản sắc văn
hóa dân tộc Việt Nam. Trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử dân tộc, những đức
tính đó được thể hiện, được nhân lên qua sức mạnh hiện thực của mỗi cá nhân người
lao động, mỗi tập thể lao động và cả cộng đồng dân tộc.
2


Công cuộc đổi mới của đất nước ta đang bước sang thời kỳ phát triển mới, thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bản chất của quá trình này đòi hỏi người
lao động - lực lượng cơ bản, chủ yếu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
phải thực sự chủ động sáng tạo. Đó chính là sự kế thừa phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc. Trong điều kiện hội nhập, có sự giao lưu mạnh mẽ về văn hóa trên đà phát triển
vô cùng mạnh mẽ của khoa học - công nghệ thì chỉ khi người lao động phát huy được
tính tự chủ, sáng tạo mới giúp cho việc tiếp nhận và làm chủ được khoa học - công
nghệ, tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại để phục vụ cho quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước mà vẫn giữ gìn được bản sắc văn hóa dân tộc. Sự
nghiệp cách mạng nói chung, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng vậy nó
chỉ thành công khi "phát huy được đầy đủ tính sáng tạo của hàng triệu quần chúng
nhân dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xây dựng được với sự giác ngộ đầy
đủ và lao động sáng tạo của hàng triệu người"(1) như Bác Hồ từng căn dặn.

3. Người lao động phải co văn hóa, có những giá trị nhân bản, nhân đạo,
nhân văn
Theo giáo sư Trần Thanh Đạm "ba khái niệm nhân bản, nhân đạo và nhân văn
có liên quan với nhau, song không phải là một nếu đồng nghĩa cũng là tương đối,
không phải tuyệt đối. Chủ nghĩa nhân bản là thái độ xem con người là con người chứ
không phải là thần thánh, nó nhắc nhở con người đừng lên đòi hỏi tuyệt đối ở con
người, đừng yêu cầu con người luôn luôn siêu phàm, thánh thiện.
Đây chính là thái độ khoa học, là nhận thức về cái chân nơi con người. Chủ
nghĩa nhân đạo chính là thái độ đạo đức đối với con người như là đối tượng của tình
thương yêu và sự quý trọng. Còn chủ nghĩa nhân văn có thể xem là hình thái cao nhất
của triết lý và đạo lý về con người, nó bao gồm cả chủ nghĩa nhân bản và chủ nghĩa
nhân đạo, lý tưởng về chân, thiện, mỹ của con người. Trung tâm của chủ nghĩa nhân
văn chính là khái niệm phát triển phẩm chất và năng lực, phát triển mọi tiềm năng ưu
túnơi mỗi con người vốn được xem là sản phẩm tối cao của tự nhiên, là tinh hoa của
thế giới. Mỗi một con người, cộng đồng, dân tộc và toàn nhân loại tồn tại và phát
triển được là nhờ sức sống tiềm tàng và vĩnh cửu của chủ nghĩa nhân văn"(2).
Trong những thập kỷ qua nhân loại đã chứng kiến sự phát triển như vũ bão của
khoa học - công nghệ. Con người đã có những bước tiến khổng lồ về phương diện
chinh phục thiên nhiên, vượt qua mọi cản trở, tự vượt qua chính mình, tìm ra những
con đường để thực hiện lý tưởng nhân văn, cải thiện cuộc sống sao cho ngày càng dễ
chịu hơn, có điều kiện phát triển tự do về thể chất lẫn tinh thần.
Gần đây với những bước tiến của công nghệ sinh học, con người đã tạo ra
nhiều điều kỳ diệu, nhân bản vô tính động vật bậc cao, rồi đến nhân bản người. Sự
phát triển của công nghệ thông tin với việc phát triển mạng Internet làm cho con
(1)
(2)

Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, tập 7, trang 97.
Trần Thanh Đạm "Chủ nghĩa nhân văn Việt Nam", Báo Nhân dân xuân Đinh Sửu 1997.


3


người xích lại gần nhau hơn, nhưng lại cảm thấy xa lạ với nhau hơn và hơn thế nữa
càng ngày họ càng cảm thấy cô đơn hơn. Điều này làm cho các nhà khoa học cảm
thấy băn khoăn; liệu nhân loại đang đi trên con đường của sự tiến bộ xã hội hay đang
bước đi những bước lầm lẫn, thoái hóa do thiếu chất nhân văn trong sự phát triển
khoa học. Rõ ràng, trong xã hội hiện đại sự phát triển của khoa học - công nghệ đã
đưa loài người bước lên những bước thang khổng lồ trên nhiều lĩnh vực cả về kinh tế
lẫn xã hội. Tuy nhiên, do những hạn chế về nhận thức cũng như do các điều kiện
khách quan, bên cạnh những bước tiến khổng lồ đã để lại những thiếu hụt, thậm chí là
những thảm họa như môi trường, dịch bệnh, hạn hán, bão lụt... Đó chính là mặt trái
của sự phát triển khoa học - công nghệ, theo Mác "dường như loài người càng chinh
phục được thiên nhiên nhiều hơn thì con người lại càng trở thành nô lệ cho những
người khác hoặc nô lệ cho sự đê tiện của chính mình" (1). Để hạn chế mặt trái của khoa
học - công nghệ thì văn hóa phải là cứu cánh. Văn hóa phải là sợi chỉ đỏ xuyên suốt
quá khứ, hiện tại và chỉ đường cho tương lai của một dân tộc, của nhân loại, đó là sự
kế thừa, phát triển không ngừng và liên tục.
Vì vậy, trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi phải
giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và đó chính là nhằm phát huy năng lực nội
sinh cho sự phát triển. Văn hóa đang thực sự trở thành mục tiêu, động lực của sự phát
triển. Con người trở thành trọng tâm và nguồn lực quyết định quá trình phát triển
kinh tế - xã hội.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi người lao động phải vươn lên
thích ứng, hòa nhập và làm chủ khoa học - công nghệ, phải biết kết hợp sức mạnh
truyền thống với sức mạnh thời đại, giữa cái dân tộc với cái quốc tế. Chính vì vậy,
phải có chiến lược đầu tư cho giáo dục - đào tạo nhằm phát triển con người, phát triển
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.
II. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC ĐÀO TẠO NGƯỜI LAO ĐỘNG HIỆN NAY VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA


1. Thực trạng việc đào tạo người lao động Việt Nam hiện nay
Chúng ta có lợi thế tiềm năng về nguồn nhân lực có trí tuệ, giá nhân công
tương đối rẻ, lực lượng lao động dồi dào, người lao động Việt Nam cần cù, chịu khó,
thông minh và sáng tạo, có khả năng vận dụng linh hoạt và thích ứng nhanh trước
những biến đổi của hoàn cảnh. Khoa học tự nhiên vốn là nguồn kiến thức bị thiếu hụt
trong nền văn hóa cổ truyền của dân tộc Việt Nam, nhưng hiện nay những thiếu sót
này phần nào đã được lớp trẻ Việt Nam vượt qua. Những phẩm chất này thể hiện
trình độ, năng lực, trí tuệ của người lao động Việt Nam, nhất là ưu điểm của tư duy
linh hoạt, mềm dẻo rất phù hợp với tốc độ phát triển của công nghệ hiện đại. Nếu
được đào tạo sử dụng hợp lý, người lao động nước ta có khả năng làm chủ các loại
hình công nghệ từ đơn giản đến phức tạp và hiện đại nhất.
(1)

C.Mác - Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật, Hà Nội, 1993, tập 12, trang 10.

4


Tuy nhiên, ưu thế trên chỉ là khả năng, chúng ta cần những điều kiện thích hợp
mới có thể xây dựng một nguồn nhân lực với tính cách là động lực cho quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hiện nay phần lớn người lao động của nước ta chưa qua
đào tạo (số qua đào tạo chỉ chiếm trên 12% tổng số lao động của cả nước), thậm chí
số người lao động đã qua đào tạo thì chất lượng, trình độ tay nghề và cơ cấu ngành
nghề cũng chưa phù hợp.
Chất lượng giáo dục toàn diện, nhất là giáo dục hướng nghiệp - dạy nghề cho
học sinh phổ thông còn hạn chế. Học không đi đôi với hành mà chủ yếu là dạy chay,
học chay. Học sinh sau khi tốt nghiệp ra trường chưa có sự định hướng đúng đắn,
chưa sẵn sàng tham gia vào hoạt động sản xuất mà chỉ tập trung vào ôn thi đại học,
đặt mục tiêu duy nhất là đại học trong khi trình độ có hạn, khi không đạt được mục

tiêu đó không ít học sinh có tư tưởng chán nản buông thả không chịu lao động sa vào
các tệ nạn xã hội.
Nội dung và phương pháp đào tạo của các trường đại học, cao đẳng, trung học
chuyên nghiệp, dạy nghề tuy đã có nhiều đổi mới nhưng chưa theo kịp tiến trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập khu vực và quốc tế, còn nặng về lý thuyết, yếu
về thực hành. Phương tiện trang bị dạy học còn nghèo nàn, lạc hậu, chưa đáp ứng
được yêu cầu đào tạo nhân lực có tay nghề cao thích ứng với nền công nghiệp hiện
đại. Chất lượng đào tạo, nhất là đào tạo tại chức còn thấp. Cơ cấu các nghề đào tạo
chưa phù hợp, chưa phục vụ thiết thực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nguyên nhân chủ yếu của những yếu kém khuyết điểm trên là:
Thứ nhất, nội dung đào tạo chưa gắn sát với thực tiễn:
Nội dung đào tạo và thực tiễn là hai vấn đề có mối liên hệ mật thiết, tương hỗ
với nhau. Mục tiêu của giáo dục - đào tạo là nhằm tạo ra những con người có khả
năng giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra và thực tiễn làm bổ sung giúp cho
nội dung, chương trình đào tạo ngày càng sát hơn với khoa học và thực tiễn. Tuy
nhiên mối quan hệ này ở nước ta chưa được thực hiện tốt, điều này được thể hiện ở
những khía cạnh sau:
- Nội dung đào tạo trong nhà trường hiện nay còn nặng tính kinh viện, lý
thuyết, chưa theo kịp sự phát triển của cuộc sống, còn xa rời thực tiễn. Nội dung một
số môn học đã lạc hậu, dập khuôn chưa được bổ sung tri thức và kỹ năng mới, những
thành tựu mới nhất của cách mạng khoa học - công nghệ, nhất là những thành tựu
mới về công nghệ cao.
- Nội dung đào tạo còn nặng, trải đều, chưa sâu, chất lượng chưa được nâng
cao, thiếu những môn học cần thiết.
- Thời gian dành cho thực hành, thâm nhập vào thực tiễn của người học còn rất
ít. Người học ít được thực hành, kể cả phòng thí nghiệm, xưởng trường và thực hành
5



trong thực tiễn cuộc sống. Do vậy trình độ hiểu biết thực tế của họ rất thấp, khi ra
trường dễ bỡ ngỡ với thực tiễn.
- Cơ sở vật chất, kỹ thuật của các cơ sở đào tạo còn quá nghèo nàn, không đủ
thiết bị giảng dạy và điều kiện thực tập, thí nghiệm.
Việc xây dựng nội dung, chương trình đào tạo đ ã không bám sát và không đáp
ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều
kiện mở cửa và hội nhập quốc tế. Chất lượng giáo dục - đào tạo hiệu quả thấp, học
sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp chưa có việc làm còn cao. Số lượng người lao động
phải chuyển đổi ngành nghề hoặc phải làm những ngành nghề, công việc không phù
hợp với chương trình đào tạo còn lớn và phổ biến. Đào tạo chưa gắn chặt với sử dụng
gây lãng phí cho xã hội.
Thứ hai, phương pháp đào tạo còn nhiều vấn đề bất cập.
Nhìn chung trong đào tạo vẫn nặng về phổ cập kiến thức khoa học - công nghệ,
nhẹ về rèn luyện phương pháp học tập, phương pháp tư duy khoa học, coi nhẹ và ít
phát huy năng lực sáng tạo, ít gắn với thực tiễn. Phương pháp giảng dạy và học còn
nặng về truyền thụ một chiều, ít sáng tạo, ít phát huy tính chủ động. Ở các trường đại
học, cao đẳng chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa giảng dạy với nghiên cứu khoa học và
triển khai ứng dụng. Việc giáo dục đạo đức, lý tưởng, thẩm mỹ, sức khỏe trong nhà
trường còn nặng về hình thức, thiếu sinh động, hiểu biết về kiến thức văn hóa xã hội
của học sinh, sinh viên nói chung còn rất hạn chế.
Việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập, theo ý kiến của nhiều nhà giáo dục thì
phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của người học chưa khách quan và
công bằng. Việc tổ chức thi cử còn nặng nề, tốn kém, còn nảy sinh nhiều tiêu cực,
chất lượng hiệu quả chưa cao, nhất là thi đầu vào trong hai năm gần đây đã có nhiều
đổi mới. Tuy vậy sức ép thi cử vẫn còn rất lớn, tình trạng người học thụ động, học tủ,
học lệch còn phổ biến, chất lượng học vì thế còn thấp.
Cách dạy và học còn nặng về lý thuyết, chủ yếu phục vụ cho việc thi, ít nhằm
vì đáp ứng những yêu cầu của công việc mà thực tiễn đang đòi hỏi. Dẫn đến một thực
tế là sau khi tốt nghiệp người đã tốt nghiệp rất yếu về tay nghề, chuyên môn nghiệp
vụ nhiều việc không biết làm mặc dù đã có trong nội dung đào tạo. Cách dạy và học

như vậy đã vi phạm nguyên lý giáo dục là: "Lý luận gắn liền với thực tiễn, học đi đôi
với hành".
Thứ ba, mất cân đối về ngành nghề và cấp đào tạo:
Hạn chế lớn nhất của việc đào tạo người lao động ở nước ta hiện nay chính là
sự mất cân đối giữa các ngành nghề được đào tạo, nên không đáp ứng được nhu cầu
phát triển của nền kinh tế. Trong điều kiện của Việt Nam hiện nay rất cần nhiều lao
động thuộc các ngành kỹ thuật, có tay nghề và tay nghề cao thì thực tế hệ thống các
trường đào tạo, dạy nghề lại ít được quan tâm, tốc độ mở rộng và phát triển còn chậm
so với đòi hỏi. Đại bộ phận học sinh khi tốt nghiệp phổ thông trung học đều chọn
6


việc theo học một trường đại học nào đó là con đường duy nhất cho khả năng thăng
tiến của mình sau này. Tâm lý này còn là tâm lý chung của các bậc phụ huynh và của
toàn xã hội, vì thế số đông thích được học đại học, hoặc những ngành nghề trong văn
phòng như ngoại ngữ, tin học, thư ký văn phòng... Nhiều ngành kỹ thuật quan trọng
hầu như rất ít học sinh giỏi thi vào. Sự phân bố lực lượng lao động sau đào tạo cũng
không hợp lý, tạo ra hiện tượng thừa, thiếu giả tạo. Do bị chi phối bởi những lợi ích
trước mắt, thanh niên ngày nay có xu hướng theo học những ngành nghề có khả năng
đem lại thu nhập cao mà ít đi theo những ngành nghề bản thân có sở trường, có khả
năng phát huy tài năng, năng khiếu, điều đó làm cho xã hội mất đi một phần lớn sức
mạnh do niềm ham mê sáng tạo của người lao động đem lại, đồng thời tạo ra sự lãng
phí xã hội rất lớn. Trong lực lượng lao động có trình độ đại học, tình trạng nhiều
người chạy theo thu nhập nên đã bỏ những ngành nghề đã được đào tạo cơ bản để
sang nơi làm việc khác có thu nhập cao ngày càng phổ biến. Tình trạng này kéo dài sẽ
đưa đến một hậu quả xấu trong tương lai không xa là nhiều ngành, lĩnh vực sẽ thiếu,
sẽ hẫng hụt các nhà khoa học, các chuyên gia đầu đàn xuất sắc.
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi giáo dục, đào tạo phải
cung cấp cho xã hội những lao động đã được đào tạo, đảm bảo về chất lượng và cơ
cấu lao động. Cơ cấu ấy phải hợp lý khi được xem xét trên các mặt: Đảm bảo tỷ lệ

lao động cho các ngành, các vùng miền, đảm bảo phù hợp giữa số lượng được đào tạo
nghề nghiệp kỹ thuật với số lượng được đào tạo chuyên môn về quản lý, hoặc làm
công tác về nghiên cứu, giáo dục, y tế, xã hội... Tuy nhiên, thực tế cho thấy những
cân đối này đã không được đảm bảo mà biểu hiện rõ nhất là sự mất cân đối nghiêm
trọng về đào tạo giữa các bậc học như cao đẳng, đại học với trung học chuyên nghiệp
và dạy nghề.
Thứ tư, đội ngũ giáo viên, giảng viên còn thiếu về số lượng, chưa đồng bộ về
cơ cấu và còn nhiều bất cập, thể hiện: ở bậc đại học tỷ lệ số sinh viên trên 01 giảng
viên quá cao (khoảng 30); phần đông giảng viên ở độ tuổi trên dưới 50, phải đảm
nhận khối lượng giảng dạy lớn, ít có điều kiện thường xuyên tiếp cận, cập nhật tri
thức mới và tham gia nghiên cứu khoa học. Nguy cơ hẫng hụt đội ngũ này chưa có
các giải pháp khắc phục một cách cơ bản.
Thứ năm, đầu tư cho giáo dục - đào tạo còn nhiều bất cập:
Trong thời gian qua, mặc dù Nhà nước có dành một phần lớn ngân sách để đầu
tư phát triển giáo dục - đào tạo, song mức đầu tư hiện nay cho giáo dục - đào tạo mới
đạt khoảng 3% tổng thu nhập trong nước (GDP). Mức này các nước chậm phát triển
đã đạt được từ những năm 1980, thấp hơn mức trung bình của thế giới khoảng 2% và
còn thấp xa so với các nước đang phát triển (9%).
Khi nguồn lực đầu tư cho giáo dục - đào tạo còn hạn hẹp thì việc phân bổ, sử
dụng nguồn lực ấy lại không hợp lý. Đầu tư còn mang tính dàn trải, không tập trung,
chưa xác định được lĩnh vực trọng tâm, mũi nhọn mang tính đột phá. Do vậy, cơ sở
7


vật chất kỹ thuật của các cơ sở giáo dục - đào tạo còn thiếu thốn, lạc hậu. Cả nước
vẫn còn 1.072 lớp học ba ca, 72.864 phòng học tranh tre, vách lá, chủ yếu tập trung ở
miền núi, vùng sâu, vùng xa. Thư viện, trang thiết bị phục vụ cho giảng dạy và học
tập còn nghèo nàn, lạc hậu và mới chỉ đáp ứng được khoảng 20% yêu cầu. Tình trạng
"dạy chay - học chay" còn khá phổ biến. Ở nhiều địa phương, ngân sách chi cho giáo
dục - đào tạo phải sử dụng đến 85-90% để chi trả lương và các khoản phụ cấp theo

lương, không còn khả năng để mua sắm trang thiết bị hoặc hiện đại hóa cơ sở vật chất
kỹ thuật nhà trường(1).
Thứ sáu, người lao động nông nghiệp, nông thôn chưa được quan tâm đào tạo
đúng mức.
Nguồn nhân lực qua đào tạo của khu vực nông nghiệp, nông thôn còn thiếu về
số lượng, lao động qua đào tạo chỉ chiếm 7,7% so với 12% của cả nước, trong khi
78,87% lao động của cả nước làm ở khu vực này. Ngành nông nghiệp - phát triển
nông thôn còn thiếu nhiều cán bộ khoa học - công nghệ đầu đàn trên nhiều lĩnh vực,
thiếu cán bộ quản lý kinh doanh giỏi, thiếu đội ngũ công nhân có tay nghề cao.
Trình độ đội ngũ nói chung chưa đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới, hạn chế
nhiều về tri thức khoa học hiện đại, kiến thức về kinh tế, quản lý, pháp luật...
Tóm lại, những vấn đề trên cho thấy chất lượng nguồn nhân lực của nước ta
hiện nay còn quá kém, vấn đề đào tạo người lao động còn nhiều bất cập so với yêu
cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt chúng ta còn thiếu hẳn một
đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ giỏi. Nếu không có đội ngũ này thì không thể
thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa một cách có hiệu quả. Đây là thách thức lớn
nhất của Việt Nam trên con đường phát triển. Vì thiếu vốn chúng ta có thể đi vay,
thiếu công nghệ chúng ta có thể nhập, nhưng thiếu người lao động có tri thức và tay
nghề cao thì chúng ta không thể tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2. Những vấn đề đặt ra cho việc đào tạo người lao động trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) của Đảng đã khẳng định: "Hiện nay sự
nghiệp giáo dục - đào tạo đang đứng trước mâu thuẫn lớn giữa yêu cầu vừa phải phát
triển nhanh quy mô giáo dục - đào tạo, vừa phải gấp rút nâng cao chất lượng giáo dục
- đào tạo, trong khi khả năng và điều kiện đáp ứng yêu cầu còn hạn chế. Đó là mâu
thuẫn trong quá trình phát triển"(1).
Việc đào tạo người lao động ở nước ta hiện nay nói chung còn mang tính tự
phát, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu cấp học chưa hợp lý, chưa phù hợp với nhu cầu sử
dụng nên hiệu quả đào tạo chưa cao. Còn mất cân đối giữa phát triển số lượng, chất
Nguyễn Minh Hiển, "Ngành giáo dục - đào tạo thực hiện Nghị quyết TW2 (khóa VIII) và triển

khai Nghị quyết Đại hội IX", Tạp chí Cộng sản số 22 năm 2002.
(1)
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, tr.28.
(1)

8


lượng và những yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Bên cạnh đó, do chính sách sử dụng còn nhiều điểm chưa hợp lý dẫn đến hiện
tượng tuy nguồn nhân lực được đào tạo còn rất ít, nhưng ở lĩnh vực này thì thừa còn ở
một số lĩnh vực khác thì lại thiếu.
Thực trạng trên của việc đào tạo người lao động, phát triển nguồn nhân lực ở
nước ta đang đứng trước những vấn đề sau:
Một là, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ khoa học - kỹ
thuật của các ngành sản xuất còn chậm. Tỷ trọng các ngành công nghiệp, đặc biệt là
công nghiệp chế biến, dịch vụ còn thấp. Sử dụng nhiều lao động giản đơn chưa qua
đào tạo nên hiệu quả sản xuất kinh doanh rất thấp, chưa tạo ra nhu cầu bức xúc về
việc đào tạo và sử dụng lao động kỹ thuật trong các ngành công nghiệp - dịch vụ.
Điều này làm cho người lao động và người sử dụng lao động nhận thức không sâu sắc
vai trò của giáo dục - đào tạo đối với sự phát triển của cá nhân, cộng đồng và xã hội.
Đây chính là sự không đồng bộ giữa chiến lược phát triển kinh tế với chiến
lược phát triển nguồn nhân lực, sự mất cân đối giữa cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao
động, thể hiện qua sự mất cân đối giữa cơ cấu ngành, nghề, trình độ đào tạo với yêu
cầu của thị trường lao động. Từ sự mất cân đối này dẫn đến sự bất cập giữa đào tạo
và sử dụng, giữa đào tạo và thị trường về nhân lực: như lao động có tay nghề mà thị
trường lao động cần thì rất thiếu, trong khi đó số người lao động giản đơn, không
nghề lại rất thừa.

Hai là, sự bất cập về mô hình nhân cách con người Việt Nam với chiến lược
phát triển nguồn nhân lực của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trên con
đường hình thành và phát triển nhân cách, phát triển cá nhân trong nền kinh tế thị
trường đã diễn ra các quá trình cá thể hóa quá đáng. Không ít người đã thẳng tay vứt
bỏ mọi quan hệ gia đình và truyền thống tốt đẹp. Họ đã bị tha hóa, bị kích thích chạy
theo những mặt trái của nền kinh tế thị trường. Quan điểm thực tiễn và phương pháp
thực nghiệm trong xã hội công nghiệp đã bị đẩy tới mức trở thành chủ nghĩa thực
dụng, vị kỷ. Quan hệ gia trưởng, đẳng cấp thích nghi với lối sống cá nhân chủ nghĩa
đã trở thành vật cản và kìm hãm quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Có
thể nói đây là một vấn đề rất nan giải, bởi vì cả xã hội và mỗi cá nhân đang trở thành
nạn nhân của sự phát triển phiến diện của chính mình.
Ba là, vấn đề phát triển giáo dục - đào tạo với kinh tế thị trường. Giáo dục hình
như đang chạy theo thị trường, bị thị trường quy định, mất dần vai trò là động lực và
định hướng phát triển thị trường. Do đó, càng đẩy mạnh các hoạt động thị trường thì
người lao động với thu nhập thấp (mà đại bộ phận đông đảo trong nhân dân) lại càng
khó tiếp cận với giáo dục, nhất là giáo dục đại học và cao đẳng. Vì thế, phải khắc
phục những vấn đề nảy sinh khi phát triển các hoạt động thị trường, nếu không thì
người dân, trước hết là dân nghèo sẽ bị thiệt thòi về quyền được học hành.
9


Bốn là, hệ thống các cơ sở đào tạo đại học, cao đẳng, dạy nghề còn rất mỏng
không đủ năng lực đào tạo người lao động. Điều này được biểu hiện qua những bất
cập: cơ sở vật chất lạc hậu, quy mô đào tạo sau đại học kém phát triển, hệ thống các
trường cao đẳng chủ yếu là cao đẳng sư phạm mới hình thành chưa đủ năng lực đáp
ứng nhu cầu đào tạo giáo viên có chất lượng, hệ thống các trường trung học chuyên
nghiệp phát triển chủ yếu trong các lĩnh vực sư phạm, y tế, văn hóa - thông tin. Một
số trường trung học nông nghiệp gặp nhiều khó khăn, thậm chí phải giải thể, chưa
phát huy tác dụng đào tạo nhân lực cho nông nghiệp - nông thôn, mạng lưới các
trường đào tạo nghề và trung tâm dạy nghề nhiều năm qua không được đầu tư phát

triển mà có xu hướng co lại do khó khăn về cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên, kinh
phí đào tạo nên không thể đáp ứng nhu cầu nhân lực, kỹ thuật. Do đó, phần lớn lao
động nông nghiệp - nông thôn không có cơ hội được đào tạo nghề nghiệp một cách
vững chắc để tham gia vào thị trường lao động ở khu vực cả nước.
III. NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐÀO TẠO NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG QUÁ
TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

1. Giải quyết đúng mối quan hệ hữu cơ giữa giáo dục phổ thông và giáo
dục chuyên nghiệp, xây dựng đội ngũ giáo viên đáp ứng nhu cầu của công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Để nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục - đào tạo, nhiều nhà khoa học
giáo dục trên thế giới đã khuyến nghị phải xóa bỏ sự phân biệt cứng nhắc giữa các
ngành giáo dục phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp, khoa học - công nghệ. Ngay từ
bậc tiểu học, giáo dục phải mang đặc tính kết hợp lý thuyết, công nghệ, thực hành và
thủ công. Kết hợp hợp lý nội dung giáo dục văn hóa, khoa học với giáo dục kỹ thuật,
nghề nghiệp trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt nội dung giáo dục - đào tạo ở tất cả các
loại hình trường phổ thông và chuyên nghiệp.
Giáo dục dù có phức tạp, phong phú, đa dạng đến đâu cũng có thể quy về hai
loại hình chủ yếu là giáo dục phổ thông và giáo dục chuyên nghiệp. Cả giáo dục phổ
thông lẫn giáo dục chuyên nghiệp đều phản ánh trình độ phát triển kinh tế, văn hóa,
khoa học, kỹ thuật của đất nước và thời đại, đồng thời chuẩn bị cho việc đi trước, đón
đầu cho sự phát triển ở tương lai.Giáo dục phổ thông phải có tính toàn diện để làm cơ
sở cho giáo dục chuyên nghiệp. Còn giáo dục chuyên nghiệp có tính chất phân hóa
sâu đi vào các nghề nghiệp chuyên môn và các hoạt động thực tiễn khác nhau của con
người trong đời sống xã hội được dựa trên cơ sở kế thừa những tri thức đã được đào
tạo ở trường phổ thông. Do đó, phải mở rộng số lượng đồng thời nâng cao chất lượng
giáo dục phổ thông. Tiếp tục cải cách giáo dục phổ thông về nội dung và phương
pháp theo hướng giảm tải nội dung, tăng cường phương pháp để sớm có một thế hệ
học sinh phổ thông có đức, trí, thể, mỹ kiêm toàn. Giáo dục phổ thông có chất lượng
đều và tốt là cơ sở vững chắc cho giáo dục chuyên nghiệp. Không có cơ sở này, sẽ

không có bất kỳ một nguồn nhân lực, nguồn nhân tài nào tương xứng với yêuc ầu
10


phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hay nói khác, giáo
dục phổ thông tạo ra mặt bằng dân trí, để trên "mặt bằng" này chúng ta tiến hành việc
đào tạo nhân lực và bồi dưỡng, phát triển nhân tài. Nghĩa là phải tạo ra sự liên thông
giữa giáo dục phổ thông và giáo dục chuyên nghiệp.
Muốn vậy phải tăng cường vai trò quản lý nhà nước của Bộ Giáo dục - Đào tạo
và xác lập rõ vai trò của các ngành, các cấp, các địa phương, các doanh nghiệp, cơ sở
kinh tế, dịch vụ, các cơ quan và tổ chức khoa học - công nghệ đối với sứ mệnh giáo
dục, đào tạo nhân lực. Tất cả những ngành, địa phương, đơn vị đó phải xem việc đào
tạo công nhân, chuyên gia, đào tạo nhân lực, nhân tài là trách nhiệm thiết thân của
mình, là một phần tối quan trọng trong chiến lược phát triển của ngành mình, khu vực
mình, đơn vị mình. Có thể khẳng định, đây là giải pháp căn bản nhất, không thể thiếu
được cho việc hoạch định chiến lược phát triển nguồn nhân lực, đào tạo người lao
động trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước rất cần một đội ngũ giáo
viên có đầy đủ năng lực và phẩm chất ở nhiều ngành nghề, bậc học khác nhau. Chính
họ là người sẽ trực tiếp đào tạo cho xã hội một đội ngũ những người lao động chuyên
môn giỏi và phẩm chất tốt - điều này tùy thuộc rất lớn ở những phẩm chất và năng
lực mà họ có. Những phẩm chất, yêu cầu mà người lao động cần có trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là cơ sở quan trọng quyết định phương hướng
xây dựng, phát triển đội ngũ giáo viên.
Việc đào tạo giáo viên ở nước ta hiện nay, trước hết phải tập trung thực hiện
chuẩn hóa giáo viên ở các cấp của ngành học phổ thông. Đối với giáo viên mầm non,
tiểu học nên được đào tạo ở trình độ cao đẳng, đại học. Giáo viên bậc phổ thông
trung học phải tốt nghiệp đại học chính quy, trong đó có một số được đào tạo ở trình
độ cao học, nhất là các tổ trưởng bộ môn. Phải được tuyển dụng một cách kỹ lưỡng
qua thi tuyển.

Song song đó phải quan tâm xây dựng đội ngũ giáo viên của ngành giáo dục
chuyên nghiệp ở các trường dạy nghề và trung học chuyên nghiệp: giáo viên dạy lý
thuyết phải có trình độ đại học, giáo viên dạy thực hành phải có trình độ cao đẳng, đại
học, ở các trường đại học hầu hết giảng viên phải có trình độ cao học, trong đó, có
khoảng 30-40% là tiến sĩ khoa học và khoảng 10% là những nhà khoa học đầu đàn.
Đẩy mạnh hoạt động đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo hướng dịch
chuyển dần lao động nông nghiệp sang lĩnh vực khác. Phát huy việc truyền nghề
trong các làng nghề truyền thống, mở rộng hình thức chuyển giao công nghệ cho
nông dân... làm tăng chất lượng lao động ở khu vực nông thôn và nông nghiệp.
Mở rộng việc liên kết với các trường đại học để tạo cơ hội cho những người
đang làm việc được học tập để nâng cao trình độ với các hình thức: chính quy, tại
chức, đào tạo từ xa... Việc mở những lớp này phải tập trung vào những ngành nghề
11


mà đất nước đang cần và phải được quản lý chặt chẽ về quy chế, chương trình đào tạo
để đạt được chất lượng thực sự.
Từng bước chuẩn hóa đội ngũ giáo viên, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
trong các trường học nhất là các trường vùng sâu, vùng xa, hải đảo.
2. Đẩy mạnh việc đổi mới nội dung, phương pháp và phương thức đào tạo
người lao động trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước
Như chúng ta đã biết, nội dung, chương trình đào tạo hệ thống những tri thức
mà con người có được thông qua hoạt động thực tiễn trong tiến trình phát triển của
nhân loại. Vì thế giới khách quan là vô cùng vô tận, nó biến đổi và phát triển không
ngừng, còn nhận thức của từng con người, từng thế hệ lại luôn luôn bị hạn chế bởi
điều kiện lịch sử khách quan và điều kiện chủ quan nên tri thức của loài người không
ngừng được bổ sung hoàn thiện và phát triển.
Chính vì thế, không thể có một nội dung đào tạo ổn định, bất biến giữa các thế
hệ, dân tộc... Do đó, phải hiểu sự ổn định của chương trình, nội dung đào tạo được

thể hiện qua các giáo trình hay sách giáo khoa chỉ theo nghĩa tương đối.
Từ luận điểm trên và theo những yêu cầu mới mà người lao động cần phải có
trong thế kỷ XXI, việc đào tạo người lao động cần phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ về
nội dung theo hướng chủ yếu sau đây:
Một là, nội dung hướng vào năng lực giải quyết vấn đề: đây là một dạng
chuyên biệt của năng lực chung, thể hiện dưới dạng "năng lực giải quyết vấn đề" tập
trung vào những năng lực chuyên môn then chốt. Đây là một phương hướng chính
nhằm cung cấp cho người học phương cách chuyển dịch những năng lực từ lĩnh vực
học tập sang lĩnh vực lao động.
Hai là, nội dung đào tạo hướng vào thực tiễn: Nhiệm vụ đào tạo năng lực
chuyển dịch sự hiểu biết từ lĩnh vực học tập, nghiên cứu sang lĩnh vực lao động nghề
nghiệp được coi là một chức năng ngày càng quan trọng của việc đào tạo người lao
động. Vì thế, chương trình, việc giảng dạy, việc học tập đều phải hướng mạnh hơn
nữa về sự ứng dụng hoặc phải gắn chặt hơn nữa với thực tiễn bằng nhiều hình thức
khác nhau. Trong việc giảng cần chú trọng sự đối chiếu có hệ thống giữa: một bên là
những cách tư duy và giải quyết vấn đề về mặt lý thuyết hàn lâm và một bên là những
cách tư duy và giải quyết vấn đề theo kiểu thực tiễn nghề nghiệp. Đi đôi với cách tiếp
cận chung này của việc dạy và học, cần thu hút tham gia của những nhà thực hành và
những khâu thích hợp của quá trình đào tạo, cùng hướng vào mục tiêu chung.
Ba là, nội dung đào tạo hướng theo tinh thần doanh nghiệp: Ngày nay, trước
những thay đổi của môi trường lao động, thế giới việc làm, giáo dục chuyên nghiệp
phải có những cách tiếp cận thực sự và thường xuyên với những thay đổi đó, tìm hiểu
những xu thế chuyển biến chính của thị trường, sự xuất hiện của những ngành nghề,
lĩnh vực mới, những dạng việc làm mới, tiên đoán những yêu cầu mới đối với việc
12


đào tạo người lao động, từ đó xây dựng chương trình, cách tổ chức đào tạo thích ứng
nhằm tăng cơ may tìm việc làm cho người lao động. Giáo dục chuyên nghiệp trong
thế kỷ XXI không chỉ đào tạo ra những người biết tìm việc làm mà còn biết tạo ra

việc làm (tạo nghiệp), là những người có tinh thần doanh nghiệp thực sự.
Bốn là, nội dung đào tạo cần đáp ứng nhu cầu học tập liên ngành, liên môn:
Trước xu thế tích hợp kiến thức, việc đào tạo người lao động cần cung cấp ngày càng
nhiều hơn điều kiện, khả năng học tập liên ngành, liên môn. Bởi vì biên giới phân
định giữa các ngành, các các môn học thật ra là sự giả định của con người, trong
nhiều trường hợp nó không sát bản chất của ngành học, môn học mà con người
nghiên cứu, giảng dạy và học tập. Việc giảng dạy và học tập theo hướng này đòi hỏi
phải huy động kiến thức, sự hiểu biết phù hợp xuất phát từ những lĩnh vực kiến thức
khác nhau; nó thường dựa trên cách làm việc hợp tác trí tuệ và chấp nhận những tiêu
chí về tính chịu trách nhiệm, tính phù hợp và những tiêu chí về chất lượng hàn lâm.
Năm là, nội dung đào tạo phải thường xuyên được cập nhật, hiện đại hóa: Việc
cập nhật, hiện đại hóa nội dung đào tạo thường được thực hiện thông qua việc các cơ
sở đào tạo tham gia xử lý những vấn đề quan trọng từ phạm vi toàn quốc đến phạm vi
ngành, địa phương và cơ sở. Đây chính là những cơ hội để nội dung đào tạo gắn với
thực tiễn phát triển đất nước, ứng dụng những tri thức mới, công nghệ mới vào kinh
tế, xã hội, qua đó góp phần phát triển đất nước, phát triển học thuật, phát triển nhà
trường và nền giáo dục chuyên nghiệp.
Tóm lại, nội dung giáo dục phải gắn liền với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội
của cả nước và từng vùng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, qua đó làm
cho giáo dục thật sự trở thành động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Gắn với đổi mới nội dung là đổi mới về phương pháp, phương thức đào tạo.
Việc đổi mới phương pháp đào tạo diễn ra theo xu hướng chính là hình thành năng
lực tự học, sáng tạo, tự nghiên cứu, tự đánh giá, coi, xem như là phát huy nội lực của
người học trên tinh thần chủ động tiếp thu sự hướng dẫn, chỉ đạo của thầy, sự hợp tác
chặt chẽ với các bạn trong nhóm, sự áp dụng sáng tạo những phương tiện học tập
hiện đại, phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, từ những phương tiện nghe nhìn truyền
thống và hiện đại, đến những công nghệ thôn tin, đa phương tiện, tiến tới những hệ
thống máy tính nối mạng toàn cầu.
Như vậy, định hướng cơ bản của việc đổi mới phương pháp đào tạo là chuyển
từ kiểu đào tạo lấy thầy và kiến thức làm trung tâm sang kiểu đào tạo lấy trò và năng

lực làm trung tâm. Trước tình hình kiến thức gia tăng, bùng nổ cả về khối lượng và
chất lượng, cả về tốc độ và sự mở rộng phạm vi, tích hợp tri thức nhiều lĩnh vực. Do
đó, cách nâng cao chất lượng chủ yếu dựa vào kiến thức là ở thế bị động, khó đạt
được mục tiêu đào tạo con người có bản lĩnh giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt
ra, mà phải chú trọng đúng mức hơn, thậm chí đặt lên hàng đầu vấn đề đào tạo về
phương pháp, theo hướng biết đặt vấn đề và giải quyết vấn đề.
13


Xu thế cải tiến phương pháp dạy, phương pháp học và phương pháp kiểm tra
đều nhằm cải tiến việc học, chú trọng sự phù hợp với cá nhân từng người học (cá
nhân hóa), chú trọng việc nâng cao hiệu suất học tập (cường độ hóa), chú trọng việc
sử dụng công nghệ mới về thông tin cho việc học tập (công nghiệp hóa).
3. Xây dựng hệ thống các cơ chế quản lý và phát huy sức mạnh trí tuệ của
người lao động, nâng cao tính chủ động của các cơ sở, địa phương, đơn vị trong
đào tạo người lao động
Việc đào tạo người lao động phải đặt trong nhiệm vụ quản lý nguồn nhân lực
của Nhà nước trên ba mặt: phát triển nguồn nhân lực, sử dụng nguồn nhân lực và tạo
môi trường việc làm cho nguồn nhân lực, tức là phải tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa ba
mặt: đào tạo, sử dụng và việc làm.
Việc làm, gốc của nó là do đầu tư phát triển nền kinh tế - xã hội, chính vì vậy,
ngành Kế hoạch - Đầu tư cần thông báo sẽ có đầu tư mới, đầu tư thêm cho những loại
sản phẩm, hoặc dịch vụ nào, trình độ công nghệ nào, tại địa điểm sản xuất nào, do đó
cần có nhân lực nào, vào thời gian nào. Đào tạo nhân lực cho tương lai, cần có những
thông tin trên thì mới định hướng đúng.
Đào tạo người lao động là nhiệm vụ của các cơ sở giáo dục chuyên nghiệp.
Ngành giáo dục - đào tạo phải cung cấp những thông tin về ngành nghề, trình độ
đào tạo, học phí, học bổng, điều kiện tuyển sinh, văn bằng, chứng chỉ... Những
thông tin trên về đào tạo, giúp cho người học, người sử dụng nhân lực lựa chọn
được ngành nghề đào tạo sao cho phù hợp với nhu cầu sử dụng, thị trường việc làm,

phù
hợp
với
điều
kiện,
hoàn
cảnh
của
người học.
Hiện nay, chưa có tổ chức nào được hình thành để liên kết đồng bộ, thực hiện
tốt việc đào tạo người lao động trong nền kinh tế thị trường, hay nói cách khác giữa
các ngành kế hoạch - đầu tư, lao động, giáo dục - đào tạo chưa có sự gắn kết chặt với
nhau, chưa thể hiện hết trách nhiệm của mình trong công tác quản lý nhà nước về đào
tạo và phát triển nguồn nhân lực. Vì vậy, Nhà nước cần chỉ đạo và các ngành trên cần
chủ động hơn trong việc tạo nên một bộ phận nòng cốt của hệ thống thông tin về thị
trường lao động, việc làm cho giáo dục - đào tạo, tiếp theo là tạo nên một bộ phận
nòng cốt của Nhà nước trong việc thực hiện kế hoạch hóa với thị trường, việc xã hội
hóa trên ba mặt việc làm, sử dụng và đào tạo. Có sự phân công và phối hợp giữa ba
ngành trên thì mới có cơ sở khuyến khích thành lập các tổ chức "thông tin, tư vấn,
hướng nghiệp...", các cơ sở giáo dục chuyên nghiệp mới có căn cứ để dự báo về nhu
cầu của thị trường lao động, về việc cung cấp nhân lực, đương nhiên bản thân các cơ
sở đào tạo cũng phải chủ động tìm hiểu nhu cầu trong lĩnh vực đào tạo của mình.
Trách nhiệm quản lý của Nhà nước đối với việc đào tạo người lao động cần
được thực hiện thông qua sự liên kết giữa Nhà nước, xã hội và giáo dục - đào tạo,
trong đó khuyến khích quan hệ trực tiếp giữa xã hội, đặc biệt là giữa các doanh
14


nghiệp với giáo dục - đào tạo. Xã hội đóng góp cho giáo dục - đào tạo thông qua
nhiều hoạt động đa dạng, được gọi là xã hội hóa sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Doanh

nghiệp tài trợ cho giáo dục - đào tạo thông qua các dự án, hợp đồng đào tạo, nghiên
cứu, dịch vụ và cung cấp việc làm, ngược lại doanh nghiệp nhận được các kết quả
nghiên cứu khoa học, triển khai công nghệ và nhân lực được đào tạo.
Việc nâng cao chất lượng đào tạo người lao động có trách nhiệm của từng
ngành, từng cấp, từng địa phương và từng đơn vị sản xuất kinh doanh. Vì vậy, cấp ủy,
chính quyền địa phương và các đơn vị cần thường xuyên rà soát và có kế hoạch sử
dụng hợp lý, bổ sung, cử đi đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ của đơn vị mình. Tiếp tục đổi mới, cải
tiến việc thi tuyển công chức, tuyển lao động để thực sự tuyển được những người có
chuyên môn giỏi, đáp ứng được yêu cầu công việc.
Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước đào tạo với các
sở, ngành, các cơ sở sản xuất để xác định nhu cầu và xây dựng quy hoạch đào tạo các
ngành nghề để gắn liền việc đào tạo với sử dụng nguồn nhân lực, đảm bảo đồng bộ,
có hiệu quả.
Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra để giữ nghiêm nề nếp, kỷ cương và
chấn chỉnh kịp thời những tiêu cực phát sinh trong các nhà trường, các cơ sở đào tạo.
Cần có chính sách giải quyết thỏa đáng lợi ích đối với người được cử đi học
tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ, đồng thời có chế độ ưu đãi thu hút cán bộ, thu hút
nhân tài. Có những chế tài cụ thể để những người đi học tập trở về địa phương công
tác nhất là các sinh viên giỏi mới ra trường. Khuyến khích những người có điều kiện
đi học nước ngoài bằng con đường tự túc hướng vào những ngành nghề mà địa
phương đang cần.
Bên cạnh việc có chính sách thu hút nhân tài, có chính sách ưu tiên trong đào
tạo, trong việc chắm óc sức khỏe, trong hưởng thụ văn hóa đối với những người ở
vùng nông thôn, miền núi, hải đảo, những xã nghèo...Xây dựng chế độ chính sách
khuyến khích những cán bộ, giáo viên, bác sĩ, kỹ sư... về công tác ở những nông
thôn, vùng khó khăn, miền núi hải đảo.
Xây dựng một cơ chế tăng quyền chủ động hơn đối với các cơ sở đào tạo, tạo
mối liên thông, quan hệ trực tiếp giữa cơ sở đào tạo với các cơ sở sử dụng lao động
để tìm hiểu nhu cầu và đáp ứng nhu cầu đó, gắn liền việc đào tạo với sử dụng.


15


KẾT LUẬN
Không chỉ nhận thức đúng đắn vấn đề con người, mà còn chỉ ra những điều
kiện cần thiết để phát triển toàn diện con người, cũng như khẳng định vai trò của
quần chúng nhân dân trong sự nghiệp phát triển của lịch sử. Cùng với sự phát triển
của lịch sử, vai trò ngày càng tăng của nhân tố con người là một xu thế tất yếu. Vai
trò quyết định của nhân tố con người trong lực lượng sản xuất chính là sự thể hiện
xu hướng ngày càng tăng của vai trò nhân tố chủ quan trong sự phát triển xã hội.
Nói tới nhân tố con người là nhấn mạnh mặt hoạt động của con người với tư
cách là chủ thể cải tạo thế giới xung quanh, cải tạo các quan hệ xã hội và còn là
những phẩm chất, nhân cách, những tiềm năng sáng tạo của con người vì lợi ích xã
hội và của chính bản thân con người. Chính vì vậy, khi nghiên cứu về con người
phải xem xét nó với tư cách là một yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất. Phát
huy nhân tố con người phải đặt trong mối quan hệ giữa khai thác và bồi dưỡng,
phát triển để mỗi con người, mỗi cộng đồng người thể hiện tối đa năng lực của
mình trong lao động, trong hoạt động sáng tạo nhằm hướng tới sự phát triển kinh
tế - xã hội vì hạnh phúc của mỗi con người.
Với tư cách là nguồn động lực có tầm quan trọng đặc biệt, nhân tố con
người vừa là phương diện sáng tạo ra mọi giá trị vật chất, tinh thần, sáng tạo và
hoàn thiện ngay chính bản thân mình, vừa là chủ nhân sử dụng có hiệu quả mọi
nguồn tài sản vô giá ấy. Trên bình diện đó, vai trò của nhân tố người lao động
trong lực lượng sản xuất không phải là toàn bộ nhân tố con người nói chung. Vai
trò của nhân tố người lao động chỉ giới hạn trong khuôn khổ của sản xuất vật chất,
là bộ phận năng động nhất, sáng tạo nhất của quá trình sản xuất. Nhờ có nó mà
công cụ sản xuất và phương tiện sản xuất ngày càng được đổi mới, sản xuất phát
triển với năng suất và chất lượng cao, đời sống tinh thần và bộ mặt xã hội có nhiều
tiến bộ.

Con người với những phẩm chất và năng lực của mình có ảnh hưởng quyết
định đến sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Con
người là sản phẩm của hoàn cảnh, nhưng hoàn cảnh cũng không phải là cái "nhất
thành bất biến", mà hoàn cảnh cũng bị biến đổi bởi chính những hoạt động của con
người. Do đó sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước không thể thành
công nếu chúng ta không tạo ra được môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi cho
hoạt động sáng tạo của con người, mà trong đó giáo dục - đào tạo là yếu tố cơ bản
nhất không thể thiếu được để phát huy năng lực sáng tạo của con người... Những
quốc gia coi trọng giáo dục - đào tạo, đầu tư thích ứng cho sự phát triển của giáo
dục - đào tạo thì nền kinh tế của họ vượt xa các nước khác. Trong các yếu tố quyết
định sự thành công của các nước phát triển, không có một yếu tố nào quan trọng
hơn giáo dục - đào tạo và chính do sự tập trung sức cho phát triển giáo dục - đào
16


tạo, tạo mọi điều kiện cho lớp trẻ được học hành mà họ có thể bảo vệ được sự
trường tồn của dân tộc.
Giáo dục - đào tạo vừa có tính độc lập tương đối vừa có mối quan hệ biện
chứng với tất cả các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Ngày nay, bất cứ một
tiến bộ kinh tế - xã hội nào cũng đều chứa đựng trong nó các yếu tố cấu thành từ
giáo dục - đào tạo. Đồng thời, chính những tiến bộ của đời sống kinh tế - xã hội là
môi trường, điều kiện quan trọng không thể thiếu được để giáo dục - đào tạo phát
triển. Ở đây có vấn đề cần đặt ra là phải ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục - đào tạo
trước một bước cùng với việc đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Đây chính là sự
lựa chọn có tính quyết định cho sự phát triển của các quốc gia dân tộc.
Người Việt Nam có nhiều phẩm chất quý báu như: cần cù, chịu khó, thông
minh, sáng tạo, có khả năng vận dụng linh hoạt và thích ứng nhanh trước những
biến đổi của hoàn cảnh. Tuy nhiên, những bất cập về mặt trí lực, thể lực làm cho
người lao động Việt Nam khó có thể hội nhập vào trào lưu phát triển của thời đại.
Do đó, để hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tất yếu

chúng ta phải phát triển giáo dục - đào tạo, phải ra sức đào tạo người lao động có
như vậy người lao động nước ta mới có đầy đủ những phẩm chất, năng lực mà
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi.
Trên cơ sở nhận thức sâu sắc các quan điểm, chính sách của Đảng về phát
triển giáo dục - đào tạo tăng cường hơn nữa sự quản lý của Nhà nước đối với công
tác giáo dục - đào tạo, thực hiện công bằng xã hội trong lĩnh vực này. Công tác đào
tạo người lao động trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải
gắn bó hữu cơ với chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của từng giai
đoạn và dựa trên xu hướng học tập suốt đời. Chính vì thế, những giải pháp căn bản
nhằm đẩy mạnh và thực hiện tốt hơn công tác đào tạo người lao động của nước ta
hiện nay chính là, giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa giáo dục phổ
thông và giáo dục chuyên nghiệp; giải quyết sự bất cân đối về cơ cấu và hệ cấp
đào tạo, thực hiện tốt việc đổi mới nội dung, phương pháp và phương pháp đào tạo
người lao động theo hướng toàn diện, hiện đại, phù hợp với thực tiễn phát triển
của xã hội Việt Nam nhằm phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và chuẩn bị đi tắt đón đầu xu thế phát triển của nền kinh tế tri thức.
Là một đất nước gần 80% dân số nông thôn và trên 70% lao động nông
nghiệp nên việc đào tạo người lao động cho khu vực này là vô cùng cần thiết và
quan trọng. Chính vì vậy, phải gấp rút đào tạo công nhân nông nghiệp có trình độ
kỹ thuật cao, để có thể ứng dụng nhanh nhất những thành tựu mới nhất của khoa
học - công nghệ nhằm tăng nhanh giá trị sản xuất nông nghiệp, góp phần cải thiện
và nâng cao mức sống của nông dân, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn. Song song đó, trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước đòi hỏi công tác giáo dục - đào tạo phải hướng vào việc thực hiện chiến lược
17


phát triển con người đáp ứng yêu cầu của ba nền kinh tế: nông nghiệp, công
nghiệp và tri thức đang tồn tại đan xen trong nền kinh tế Việt Nam, trong đó đặc
biệt chú trọng đến việc đào tạo nguồn nhân lực cho nền kinh tế tri thức. Vì vậy,

bên cạnh việc tập trung sức phát triển kinh tế, chúng ta phải huy động mọi nguồn
lực nhằm tạo ra bước phát triển về chất cho giáo dục - đào tạo và khoa học - công
nghệ.

18


MỤC LỤC
Trang
1

Mở đầu
NỘI DUNG

I. Những yêu cầu cơ bản của người lao động trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
1. Người lao động cần phải có kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp cao và
tư duy mới
2. Người lao động cần phải có tính tự chủ và sáng tạo
3. Người lao động phải có văn hóa, có những giá trị nhân bản, nhân
đạo, nhân văn
II. Thực trạng của việc đào tạo người lao động hiện nay và những
vấn đề đặt ra
1. Thực trạng việc đào tạo người lao động Việt Nam hiện nay
2. Những vấn đề đặt ra cho việc đào tạo người lao động trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
III. Những giải pháp cơ bản đào tạo người lao động trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay
1. Giải quyết đúng mối quan hệ hữu cơ giữa giáo dục phổ thông và
giáo dục chuyên nghiệp, xây dựng đội ngũ giáo viên đáp ứng nhu cầu

của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
2. Đẩy mạnh việc đổi mới nội dung, phương pháp và phương thức đào
tạo người lao động trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước
3. Xây dựng hệ thống các cơ chế quản lý và phát huy sức mạnh trí tuệ
của người lao động, nâng cao tính chủ động của các cơ sở, địa
phương, đơn vị trong đào tạo người lao động
KẾT LUẬN

19

3
3
4
5
7
7
13
15

15

18

21
24




×