Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP PHẦN I ,Những vấn đề cơ bản chủ nghĩa MacLenin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.36 KB, 24 trang )

BÀI 1
1. Các hình thức tồn tại của vật chất
- Định nghĩa vật chất của Lê nin: Vật chất là một phạm trù triết học dùng
để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm
giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
Từ định nghĩa này có thể thấy:
Vật chất trong định nghĩ của V.I. Lênin phải được hiểu theo nghĩa triết học,
nghĩa là nó mang tính khái quát hóa cao, phản ánh tất cả những dạng tồn tại cụ thể
của vật chất.
Vật chất có nhiều thuộc tính nhưng thuộc tính cơ bản nhất là “thực tại khách
quan” nghĩa là vật chất tồn tại độc lập với ý thức của con người. Con người muốn
hay không muốn thì vật chất vẫn tồn tại tự nó và vận động theo những quy luật
khách quan vốn có của nó. Thuộc tính này là tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt cái gì
là vật chất, cái gì không thuộc vật chất. Định nghĩa về vật chất của V.I.Lênin cũng
khẳng định tư duy của con người có thể nhận thức được vật chất.
Tồn tại khách quan là thuộc tính cơ bản nhất của vật chất, phân biệt giữa vật
chất với ý thức. Ở đây định nghĩa đã giải quyết theo quan điểm của chủ nghĩa duy
vật về mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết học.
Vật chất “được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của
chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh...” nghĩa là sự vật, hiện tượng vật chất tác
động lên các giác quan, nhờ đó con người nhận biết về chúng. Như vậy, con người
có thể nhận thức được vật chất. Ở đây mặt thứ hai của vấn đề cơ bản của triết học
đã được giải quyết theo lập trường của triết học duy vật biện chứng.
Như vậy, định nghĩa vật chất của Lê nin mang tính khái quát hóa cao, phản
ảnh tất cả những dạng tồn tại cụ thể của vật chất. Vật chất có nhiều thuộc tính
khách quan nhưng thuộc tính cơ bản nhất là ”thực tại khách quan” – tức là tồn tại
khách quan độc lập với ý thức của con người.
Đinh nghĩa về vật chất của Lênin đã khắc phục được những hạn chế của các
quan niệm siêu hình, máy móc về vật chất của các nhà duy vật trước đó. Đồng thời
là cơ sở để cổ vũ các nhà khoa học tiếp tục đi sâu khám phá thế giới vật chất và
giải quyết đúng đắn các vấn đề cơ bản của triết học.


Theo triết học Mác- Lê nin, vật chất tồn tại thông qua vận động, không gian và
thời gian. Vận động được hiểu như là một phương thức tồn tại của vật chất, là
thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi nói chung, mọi
quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy ".
Ví dụ: sự di chuyển của các phương tiện giao thông trên đường (vận động cơ
học), sự trao đổi chất giữa cơ thể và môi trường sống (vận động sinh học), sự thay
thế của các hình thái KT-XH (vận động xã hội)...
Vận động là thuộc tính vốn có, là phương thức tồn tại của vật chất. Nhờ vận
động và thông qua vận động mà con người nhận biết được thế giới vật chất.
1


Theo triết học Mác – Lê nin có 5 hình hức vận động cơ bản:
- Vận động cơ học là sự dịch chuyển vị trí của các vật thể trong không gian.
- Vận động vật lý là sự vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động
điện tử, các quá trình nhiệt, điện...
- Vận động hóa học là quá trình hóa hợp và phân giải các chất, vận động của
các nguyên tử.
- Vận động sinh học là sự trao đổi chất giữa cơ thể sống với môi trường.
- Vận động xã hội là sự biến đổi của lịch sử và xã hội, sự thay đổi, thay thế các
quá trình xã hội này bằng các quá trình xã hội khác.
Vận động gắn liền với đứng im. Đứng im là vận động trong thăng bằng, trong
sự ổn định tương đối.
Đứng im là ”tương đối” vì:
- Đứng im chỉ xảy ra trong một hình thức vận động nhất định.
- Trong một thời gian xác định (ví dụ: chúng ta chỉ có thể đứng im tạm thời
không thể đứng im mãi mãi)
- Trong một hệ quy chiếu cụ thể (Ví dụ: khi ta thấy đoàn tàu đang vận động
nhưng đường tàu thì không vì đường tàu đang đứng im trong hệ quy chiếu với trái
đất, nhưng đứng ngoài trái đất sẽ thấy đường tàu cũng đang vận động vì trái đất

luôn quay)
- Ngay trong trạng thái đứng im đó cũng có những nhân tố phá vỡ sự đứng im.
+ Không gian: Là hình thức tồn tại của vật chất xét về mặt quảng tính (chiều
dài, rộng, cao), biểu hiện sự cùng tồn tại và tách biệt cũng như trật tự phân bố của
các sự vật.
Ví dụ: không gian sinh sống của các loài thủy hải sản nước mặn chính là biển.
Không gian học tập của các em học sinh là lớp học....
Bất kể một khách thể vật chất nào cũng chiếm một vị trí nhất định, ở một khung
cảnh nhất định trong sự tương quan với các khách thể khác. Do đó, không gian là
không gian của vật. Không có không gian ngoài vật chất.
+ Thời gian: là hình thức tồn tại của vật chất xét về mặt độ dài diễn biến, sự kế
tiếp của các quá trình, biểu hiện trình tự xuất hiện, mất đi của sự vật (quá khứ, hiện
tại, tương lai)
Ví dụ: Phong trào thi đua ”Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”
đã được Bộ GD&ĐT phát động và triển khai thực hiện từ năm học 2008-2009.
Thời gian luôn gắn liền với vật chất, thời gian là thời gian của vật. Không có
thời gian thuần túy tách rời khỏi sự vật. Thời gian là thời gian của một con người
cụ thể, một lớp học cụ thể, một sự kiện lịch sử cụ thể...

2


Không gian và thời gian có tính khách quan, bời thời gian và không gian là
thuộc tính của vật chất, gắn liền với nhau và gắn liền với vật chất. Vật chất tồn tại
khách quan, do vậy, không gian và thời gian của vật chất cũng tồn tại khách quan.

Như vậy, không gian, thời gian và vận động là những hình thức, phương thức
tồn tại tất yếu, vốn có của vật chất. Chỉ có vật chất tồn tại, vận động vĩnh viễn
trong thời gian và không gian và chỉ có không gian, thời gian của vật chất đang vận
động. Con người nhận thức vật chất thông qua các hình thức và phương thức tồn

tại của nó.
- Liên hệ thực tiễn: lấy ví dụ từ thực tế trong ngành các vấn đề có liên
quan....trong đó cần: Đánh giá thực trạng, nguyên nhân và đề ra giải pháp giải
quyết vấn đề...
2. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn:
- Thực tiễn: Là toàn bộ hoạt động vật chất – cảm tính mang tính lịch sử, có
mục đích của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
Từ khái niệm nêu trên cho thấy thực tiễn có 3 đặc trưng sau:
+ Thực tiễn không phải lá tất cả hoạt động của con người mà chỉ là những
hoạt động vật chất-cảm tính. Đó là những hoạt động mà con người phải sử dụng
công cụ vật chất, lực lượng vật chất tác động vào các đối tượng vật chất để làm
thay đổi chúng. Ví dụ: Hoạt động sản xuất thóc lúa của người nông dân chính là
quá trình người nông dân dùng công cụ lao động tác động vào đồng ruộng, gieo
trồng… để tạo ra sản phẩm lao động như mong muốn.
+ Thực tiễn mang tính lịch sử - xã hội: nghĩa là hoạt động thực tiễn là hoạt
động cuả con người, diễn ra trong xã hội với sự tham gia đông đảo và trải qua
những giai đoạn lịch sử phát triển nhất định.
+ Thực tiễn là hoạt động có mục đích: bởi đây là hạt động nhằm cải tạo tự
nhiên và xã hội phục vụ cho con người. Đây là đặc trưng nói lên tính mục đích,
tính tự giác của hoạt động thực tiễn.
- Lí luận: Lí luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ kinh nghiệm
thực tiễn, phản ảnh những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật của
các sự vật hiện tượng trong thế giới và được biểu đạt bằng hệ thống những nguyên
lí, quy luật, phạm trù.
Ví dụ: Định lí Pitago nêu: “Tổng ba góc trong một tam giác bằng hai
vuông”là lí luận, nhưng đây là lí luận toán học- một dạng cụ thể của lí luận.
Tương tự như vậy, lý luận chính trị là một dạn cụ thể của lý luận nói chung.
Từ khái niệm nêu trên cho thấy lí luận có 3 đặc trưng sau:
Thứ nhất, lí luận có tính hệ thống, tính khái quát cao, tính logic chặt chẽ.
Thứ hai, cơ sở của lí luận là những tri thức kinh nghiệm thực tiễn. Không có

tri thức kinh nghiệm thực tiễn thì không có cơ sở để khái quát thành lí luận.
Thứ ba, lí luận xét về bản chất có thể phản ánh được bản chất sự vật, hiện tượng.
3


Vai trò quyết định của thực tiễn đối với nhận thức được thể hiện ở chỗ:
- Thực tiễn là cơ sở của nhận thức, lí luận: Mọi nhận thức đều xuất phát
từ thực tiễn và do thực tiễn quy định. Thông qua hoạt động thực tiễn và bằng hoạt
động thực tiễn con người tác động vào sự vật làm cho sự vật bộc lộ thuộc tính, tính
chất, quy luật. Trên cơ sở đó con người có hiểu biết về chúng. Nghĩa là thực tiễn
cung cấp “vật liệu” cho nhận thức. Không có thực tiễn thì không có nhận thức.
Ví dụ 1: Việc đo dạc ruộng đất trong chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp- La
mã cổ đại là cơ sở cho định lí Talet, Pitago… ra đời
Ví dụ 2: Sự xuất hiện học thuyết mácxít ở những năm 40 của thế kỷ XIX
cũng bắt nguồn từ hoạt động thực tiễn của các phong trào đấu tranh của giai cấp
công nhân chống lại giai cấp tư sản lúc bấy giờ.
- Thực tiễn là động lực của nhận thức, lí luận: Thực tiễn luôn chứa đựng
mâu thuẫu, khi giải quyết được mâu thuẫn thì sẽ tạo ra sự phát triển.
Thực tiễn luôn đặt ra nhu cầu, nhiệm vụ đòi hỏi nhận thức phải trả lời. Nói
cách khác chính thực tiễn là người đặt hàng cho nhận thức phải giải quyết. Nhờ có
hoạt động thực tiễn mà các giác quan của con nguời ngày càng được hoàn thiện,
năng lực tư duy lôgíc không ngừng được củng cố và phát triển, các phương tiện
nhận thức ngày càng hiện đại, có tác dụng "nối dài" các giác quan của con người
trong việc nhận thức thế giới. Nhận thức còn là cơ sở chế tạo công cụ, máy móc hỗ
trợ con người nhận thức hiệu quả hơn.
Ví dụ: kính thiên văn, kính núp, máy vi tính… đều được sản xuất, chế tạo
trong sản xuất vật chất để giúp con người nhận thức chính xác hơn, đúng đắn hơn
về sự vật.
- Thực tiễn là mục đích của nhận thức, lí luận: Nhận thức của con người
bị chi phối bởi nhu cầu sống, nhu cầu tồn tại. Các tri thức khoa học chỉ có ý nghĩa

đích thực khi được vận dụng vào thực tiễn phục vụ con người. Mục đích cuối cùng
của nhận thức là nhằm cải tạo hiện thực khách quan, đáp ứng nhu cầu vật chất, tinh
thần của con người.
Ví dụ: (liên hệ với câu nói của chủ tịch Hồ Chí Minh “lí luận mà không liên
hệ với thực tiễn là lí luận suông”)
- Thực tiễn là tiểu chuẩn, thước đo của nhận thức để, lý luận:
Thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan của chân lý, bởi chỉ có thông qua thực
tiễn con người mới “vật chất háo được tri thức, “hiện thực hóa” được tư tưởng.
Thông qua quá trình đó, con người có thể khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm. Khi
thực tiễn thay đổi thì nhận thức cũng phải thay đổi cho phù hợp. Những tri thức đã
đạt được trước đây hiện nay vẫn phải được kiểm nghiệm thông qua thực tiễn.
Việc vận dụng tri thức vào thực tiễn còn có tác dụng bổ sung, hoàn thiện
những nhận thức chưa đầy đủ.
Ví dụ: Thuyết Nhật tâm của Cô – péc –nic cho rằng trái đất quay xung
quanh mặt trời. Nhờ có kính viễn vọng tự sáng chế và kiên trì quan sát bầu trời,
4


Ga – li – lê (1564-1642) đã khẳng định thuyết Nhật tâm của Cô – péc – níc là
đúng và còn bổ sung: Mặt trời còn tự quay xung quanh trục của nó.
- Lý luận đóng vai trò soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn nhờ những đặc
trưng ưu trội so với tri thức kinh nghiệm mà lý luận có vai trò hết sức to lớn đối
với hoạt động thực tiễn của con người. Lý luận khoa học, thông qua hoạt động thực
tiễn của con người góp phần làm biến đổi thế giới khách quan, biến đổi chính thực
tiễn và biến đổi con người.
VD: Những quan điểm, nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, chủ trương của Đảng … chỉ đạo, định hướng, soi sáng cho hoạt động
thực tiễn của đất nước
- Lý luận khoa học góp phần giáo dục, thuyết phục, động viên, tập hợp quần
chúng để tạo thành phong trào hoạt động thực tiễn rộng lớn của đông đảo quần

chúng nhân dân.
+ Lý luận đóng vai trò định hướng, dự báo cho hoạt động thực tiễn giúp hoạt
động thực tiễn chủ động, tự giác, bớt mò mẫm, vòng vo, chủ động, tự giác hơn.
Từ vai trò của thực tiễn đối với lý luận và lý luận với thực tiễn, trong quá trình
công tác ở bất kì một sơ quan đơn vị nào khi xây dựng kế hoạch, nhiệm vụ đều
phải căn cứ vào thực tiễn của đơn vị, vào các văn bản pháp lí để xây dựng và đề ra
các giải pháp thực hiện nhiệm vụ mang tính khả thi cao.
BÀI 2
3. Các yếu tố hợp thành hình thái kinh tế xã hội? Sự vận dụng của Đảng
Hình thái kinh tế - xã hội là phạm trù chỉ xã hội ở từng nấc thang lịch sử
nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng thiết lập trên một trình độ nhất
định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây
dựng trên quan hệ sản xuất đó.
- Lực lượng sản xuất: Là sự thống nhất hữu cơ giữa người lao động với tư
liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động để tạo ra một sức sản xuất vật chất nhất định.
- Lực lượng sản xuất biểu thị mỗi quan hệ giữa con người với tự nhiên. Là
phương thức kết hợp giữa người LĐ với tư liệu sản xuất và khả năng lao động của
họ tạo ra một sức sản xuất nhất định trong từng giai đoạn lịch sử. Lực lượng sản
xuất gồm: Người lao động và tư liệu sản xuất (Người lao động gồm có yếu tố thể
lực và trí lực, tư liệu sản xuất gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động.)Trong
tư liệu sản xuất thì người lao động thể hiện động lực bên trong lực lượng sản xuất,
kĩ năng, trình độ tay nghề, học vấn của người lao động, là yếu tố quan trọng, yếu tố
quyết định của lực lượng sản xuất.
Chủ nghĩa duy vật đánh giá cao vai trò của người lao động và công cụ lao
động. Con người với tư cách là chủ thể của sản xuất vật chất, luôn sáng tạo ra công
cụ tác động vào đối tượng lao động để tạo ra của cải, vật chất. Người lao động là
nhân tố hàng đầu của lực lượng sản xuất . Khẳng định điều đó, Lê nin viết: “Lực
lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”.
5



Công cụ lao động: là khí quan vật chất “nối dài”, “nhân lên” sức mạnh của
con người trong quá trình biến đổi giới tự nhiên, là yếu tố quyết định trong tư liệu
sản xuất. Trình độ phát triển của công cụ lao động vừa là thước đo trình độ chinh
phục tự nhiên của con người, vừa là tiêu chuẩn phân biệt sự khác nhau giữa các
thời đại kinh tế-kĩ thuật trong lịch sử.
Khoa học, kỹ thuật có vai trò to lớn trong việc phát triển lực lượng sản xuất.
Đặc biệt, ngày nay khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là nguyên
nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất vật chất mà ở những thế kỷ
được vật hóa, kết tinh, thâm nhập vào các yếu tố của lực lượng sản xuất một cách
nhanh chóng và có hiệu quả như ngày nay. Khoa học kĩ thuật trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp bởi vì khoa học kĩ thuật kết tinh trong lực lượng sản xuất .
KHKT và SX gắn bó mật thiết với nhau. Thời gian các phát minh ứng dụng vào
SX ngày càng rút ngắn.
Lực lượng sản xuất do con người tạo ra nhưng nó luôn là yếu tố khách
quan . Hay nói cụ thể hơn LLSX là kết quả của năng lực hoạt động thực tiễn của
con ngưới, nhưng bản thân năng lực hoạt động thực tiễn này lại bị quyết định bởi
những điều kiện khách quan trong đó con người sinh sống; bởi những LLSX đã đạt
được do các thế hệ trước đó tạo ra.
Trình độ của lực lượng sản xuất dùng để chỉ năng lực, mức độ, hiệu quả
chinh phục giới tự nhiên thông qua việc sử dụng công cụ lao động tác động vào
giới tự nhiên để tạo ra sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của con người.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và
thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế xã hội.
- Quan hệ sản xuất: là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản
xuất vật chất thể hiện ở quan hệ về mặt sở hữu tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ
chức quản lí sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm lao động.
Quan hệ sản xuất được hình thành một cách khách quan trên cơ sở một trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất. Nó được hình thành trong quá trình phát triển
lịch sử, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Quan hệ sản xuất là

quan hệ cơ bản quyết định tất cả các quan hệ xã hội khác của con người.
Trong các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất giữ vai trò quyết định đối với quan hệ quản lí tổ chức sản xuất và quan hệ
phân phối sản phẩm lao động. Bởi vì ai nắm trong tay tư liệu sản xuất người đó sẽ
quyết định việc tổ chức, quản lí sản xuất cũng như phân phối sản phẩm. Chính
quan hệ sở hữu cũng quy định tính đặc trưng cho từng quan hệ sản xuất của từng
xã hội. Do vậy, Quan hệ sản xuất là tiêu chí quan trọng để phân biệt hình thái kinh
tế xã hội này với hình thái kinh tế xã hội khác. Ngược lại, quan hệ quản lí, tổ chức
sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm lao động cũng tác động trở lại đến quan
hệ sở hữu. Chúng góp phần hoặc củng cố hoặc phá hoại quan hệ sở hữu. Tùy vào
điều kiện hoàn cảnh lịch sử để xét quan hệ nào là quan trọng nhất. Tuy nhiên, ba
quan hệ trong quan hệ sản xuất này thống nhất với nhau.
6


- Kiến trúc thượng tầng: Là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp luật,
triết học, đạo đức, tôn giáo, nghê thuật,v.v.. cùng với những thiết chế tương ứng
như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể,v.v.. được hình thành trên một cơ
sở hạ tầng nhất định.
+ Các bộ phận của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật phát
triển riêng nhưng đều liên hệ với nhau, tác động lẫn nhau, đều nảy sinh trên cơ sở
hạ tầng nhất định. Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng cũng có quan hệ khác nhau
đối với cơ sở hạ tầng. Có yếu tố quan hệ trực tiếp, có yếu tố quan hệ gián tiếp.
+ Trong xã hội có giai cấp thì kiến trúc thượng tầng cũng mang tính giai cấp,
trong đó, nhà nước – công cụ của giai cấp thống trị, bộ phận có quyền lực nhất, có
vai trò đặc biệt trong kiến trúc thượng tầng. Trong kiến trúc thượng tầng của xã hội
có đối kháng giai cấp, ngoài bộ phận chủ yếu đóng vai trò là công cụ của giai cấp
thống trị còn có những yếu tố đối lập với những bộ phận đó. Đó là những quan
điểm, tư tưởng, những tổ chức chính trị của các giai cấp bị trị. kiến trúc thượng
tầng là công cụ để bảo vệ, duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó.

- Ngoài những yếu tố cơ bản trên, mỗi hình thái kinh tế - xã hội còn có
những yếu tố khác như: quan hệ dân tộc, quan hệ giai cấp, quan hệ gia đình, v.v..
- Ý nghĩa của sự ra đời học thuyết hình thái kinh tế - xã hội.
Ra đời đã gần 170 năm, trước những biến đổi to lớn, sâu sắc của thời đại,
của thực tiễn nhưng ngày nay học thuyết hình thái kinh tế xã hội vẫn giữa nguyên
giá trị khoa học và ý nghĩa thời đại của nó. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đã
chỉ ra quy luật vận động, phát triển của lịch sử xã hội loài người. Là cơ sở phương
pháp luận của các nhà khoa học để nghiên cứu về xã hội. Cung cấp cho con người
những tiêu chuẩn thật sự duy vật và khoa học trong việc phân kỳ lịch sử. Giúp con
người hiểu được lôgíc khách quan của quá trình tiến hoá xã hội.
- Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội vào sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là quá độ bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và
kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu
của nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và
công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất xây dựng nền kinh tế hiện đại
- Vận dụng quy luật lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, Đảng ta chủ
trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
.

4. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam
7


- Lực lượng sản xuất: Là sự thống nhất hữu cơ giữa người lao động với tư
liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động để tạo ra một sức sản xuất vật chất nhất định.
- Lực lượng sản xuất biểu thị mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Là
phương thức kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất và khả năng lao

động của họ tạo ra một sức sản xuất nhất định trong từng giai đoạn lịch sử.
- Lực lượng sản xuất gồm: Người lao động và tư liệu sản xuất (Người lao
động gồm có yếu tố thể lực và trí lực. Tư liệu sản xuất gồm đối tượng lao động và
tư liệu lao động.). Trong tư liệu sản xuất thì người lao động thể hiện động lực bên
trong lực lượng sản xuất, kĩ năng, trình độ tay nghề, học vấn của người lao động, là
yếu tố quan trọng, yếu tố quyết định của lực lượng sản xuất.
- Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản
xuất vật chất thể hiện ở quan hệ về mặt sở hữu tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ
chức quản lí sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm lao động.
Quan hệ sản xuất được hình thành một cách khách quan trên cơ sở một trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất. Nó được hình thành trong quá trình phát triển
lịch sử, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Quan hệ sản xuất là
quan hệ cơ bản quyết định tất cả các quan hệ xã hội khác của con người.
Trong các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất giữ vai trò quyết định đối với quan hệ quản lí tổ chức sản xuất và quan hệ
phân phối sản phẩm lao động. Bởi vì ai nắm trong tay tư liệu sản xuất người đó sẽ
quyết định việc tổ chức, quản lí sản xuất cũng như phân phối sản phẩm. Chính
quan hệ sở hữu cũng quy định tính đặc trưng cho từng quan hệ sản xuất của từng
xã hội. Do vậy, Quan hệ sản xuất là tiêu chí quan trọng để phân biệt hình thái kinh
tế xã hội này với hình thái kinh tế xã hội khác. Ngược lại, quan hệ quản lí, tổ chức
sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm lao động cũng tác động trở lại đến quan
hệ sở hữu. Chúng góp phần hoặc củng cố hoặc phá hoại quan hệ sở hữu. Tùy vào
điều kiện hoàn cảnh lịch sử để xét quan hệ nào là quan trọng nhất. Tuy nhiên, ba
quan hệ trong quan hệ sản xuất này thống nhất với nhau.
* Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất
- Trình độ của LLSX là trình độ phát triển khoa học công nghệ, khoa học kỹ
thuật, công cụ lao động, phân công lao động và người lao động, nó thể hiện trình
độ chinh phục tự nhiên của con người trong các giai đoạn lịch sử.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tác động qua lại với nhau. Mối quan

hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX chịu sự tác động của nhiều quy luật xã hội,
trong đó quy luật “quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất” là quy luật phổ biến chung nhất.
- Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ
khách quan, vốn có của mọi quá trình sản xuất.

8


- Giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ thống nhất
biện chứng, trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ
sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất.
+ LLSX ở trình độ nào sẽ có QHSX tương ứng. Nhưng khi lực lượng sản
xuất phát triển, kim loại ra đời năng suất lao động tăng lên, xuất hiện của cải dư
thừa làm nảy sinh lòng tham, xuất hiện tư hữu.
+ Nhu cầu con người ngày càng cao, công cụ lao động ngày càng phát triển,
khoa học kĩ thuật phát triển mạnh mẽ.
+ Xuất phát từ nhu cầu trong quan hệ sản xuất của con người
+ Khi LLSX thay đổi thì QHSX sớm hay muộn cũng phải thay đổi theo để
phù hợp với LLSX.
Ví dụ: 05 hình thái kinh tế xã hội thì sẽ có 5 lực lượng sản xuất, 5 quan hệ
sản xuất tương ứng. Nghĩa là khi LLSX thay đổi thì QHSX phải thay đổi.
- QHSX tác động trở lại LLSX:
QHSX là hình thức kinh tế của phương thức sản xuất còn LLSX là nội dung
kinh tế của phương thức sản xuất. Theo nguyên lý của Chủ nghĩa Mác - Lênin thì
hình thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại LLSX.
+ LLSX là yếu tố động nhất, cách mạng nhất, nó luôn vận động và biến dổi.
QHSX mang tính ổn định tương đối. LLSX và QHSX luôn mâu thuẫn, tạo sự phát
triển
VD: Giám đốc đang có quyền sở hữu công ty, ông ta không muốn trao quyền

cho ai (QHSX mang tính ổn định). Muốn thay đổi thì phải có 1 cuộc cách mạng
(Tính ổn định tương đối).
Biểu hiện: QHSX tác động trở lại LLSX theo hai hướng:
+ Tích cực: QHSX phù hợp với sự phát triển của LLSX, thúc đẩy LLSX
phát triển.
+ Tiêu cực: QHSX không phù hợp với LLSX, kìm hãm sự phát triển của
LLSX
Ví dụ: Quá trình sản xuất vật chất, người lao động bỏ ra sức và lực để sản
xuất, nếu đượctrả công xứng đáng thì họ sẽ sản xuất đạt hiệu quả hơn. NHưng
ngược lại, sẽ tạo ra tỉ suất lao động thấp, không hiệu quả.
Như vậy, muốn thúc đẩy LLSX phát triển, phải phát triển TLSX, phát huy
tối đa nhân tố con người, đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ và hội nhập
quốc tế.
* Sự vận dụng quy luật ở Việt Nam:
+ Trước đổi mới (1986) Đảng ta đã không vận dụng không đúng quy luật
này, vi phạm quy luật,cụ thể:

9


Chủ trương xây dựng sớm một nền kinh tế XHCN thuần nhất với hai hình
thức sử hữu là sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể trong khi trình độ LLSX còn
thấp kém phát triển không đồng đều là một chủ trương nóng vội, chủ quan duy ý
chí, vi phạm quy luật, làm trái quy luật khách quan.
Từ những sai làm trong nhận thức,dẫn tới những sai lầm trong chỉ đạo thực
tiễn. Cụ thể:
Một là: xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân về TLSX một cách ồ ạt, trong khi chế
độ sở hữu tư nhân đó đang còn tạo ra địa bàn sản xuất cho sự phát triển LLSX.
Hai là: Xây dựng chế độ công hữu về TLSX một cách tràn lan, trong khi
LLSX còn thấp kém và phát triển không đồng đều. (VD: chỉ thừa nhận thành phần

KT tập thể và KT nhà nước…)\
Những sai lầm chủ quan đã đẩy nền kinh tế nước ta rơi vào tình rạng trì trệ,
khủng hoảng.
+ Bước vào thời kì đổi mới từ năm 1986, đảng ta đã chủ trương chuyển từ
một nền kinh tế thuần nhất XHCN sang nền kinh tế nhiều thành phần theo định
hướng XHCN. Đó là sự vận dụng một cách sáng tạo quy luật QHSX phù hợp với
trình độ phát triển của LLSX. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật, đều
là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường, định hướng XHCN,
bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành
mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là động lực quan trọng
của nền kinh tế, các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và
cạnh tranh theo pháp luật. Sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo quy luật về sự phù hợp
giữa QHSX với trình độ phát triển của LLSX trong thời kì đổi mới đã làm cho nền
kinh tế nước ta phát triển vượt bậc. Nền kinh tế thoát khỏi tình trạng khủng hoảng,
tạo đà cho sự phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao.
BÀI 3
5. Chức năng và tác dụng của quy luật giá trị?. Sự tác động của quy luật
giá trị trong phát triển kinh tế thị trường
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa.
Quy luật kinh tế phản ánh những mối liên hệ tất yếu bản chất thường xuyên và lặp
lại giữa các hiện tượng và các quá trình kinh tế. Quy luật giá trị yêu cầu sản xuất
và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở giá trị của nó, tức là hao phí lao động xã
hội cần thiết.
Trong sản xuất, Quy luật giá trị buộc người sản xuất phải làm sao cho mức
hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết thì mới đạt
được lợi thế trong cạnh tranh. (Muốn vậy phải ứng dụng khao học kĩ thuật vào sản xuất )
Trong trao đổi, thực hiện theo nguyên tắc ngang giá, hai bên được lợi về giá
trị sử dụng còn lượng giá trị là bằng nhau. Hàng hóa được trao đổi trực tiếp với
nhau theo một tỉ lệ nào đó, có nghĩa là chúng kết tinh một lượng lao động bằng
nhau. Khi có tiền xuất hiện để mua bán thì giá cả hàng hóa phải dựa trên cơ sở giá

trị của nó.
10


Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận động của giá cả hàng hóa.
Giá cả lên xuống xoay quanh trục giá trị. Giá cả phụ thuộc vào nhiều yếu tố: cạnh
tranh, cung – cầu, sức mua của đồng tiền.
Quy luật giá trị có các chức năng sau:
- Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa:
+ Điều tiết sản xuất là điều hòa, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành,
các lĩnh vực sản xuất. Các yếu tố sản xuất sẽ dịch chuyển đến các ngành thu hút
được nhiều lợi nhuận, quy mô SX được mở rộng. Còn các ngành thua lỗ hoặc thu
được ít lợi nhuận sẽ thu hẹp SX. Sự điều tiết như vậy là cần thiết, mang lại hiệu
quả kinh tế.
+ Nếu Cung < Cầu, khi đó giá cả > giá trị thì hoàng hóa bán chạy hơn, người
sản xuất sẽ có lãi và mở rộng quy mô, đẩy mạnh sản xuất để tăng Cung.
+ Nếu Cung > Cầu, khi đó giá cả < giá trị, hàng hóa sản xuất ra nhiều mà
khó tiêu thụ, người sản xuất sẽ không có lãi và phải thu hẹp quy mô sản xuất hoặc
ngừng sản xuất mặt hàng này để chuyên sang sản xuất mặt hàng khác.
+ Nếu Cung = Cầu, giá cả = giá trị: thị trường bão hòa và người sản xuất sẽ
tiếp tục sản xuất mặt hàng này. Tuy nhiên đây là điều hiếm thấy.
+ Điều tiết lưu thông: sự tác động của quy luật giá trị thể hiện ở chỗThu hút
luồng hàng hóa từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao. Do đó làm cho lưu
thông hàng hóa thông suốt, góp phần làm cho hàng hóa giữa các vùng có sự cân
bằng nhất định (Cần phân phối hợp lí các nguồn giữa các vùng KT thì lưu thông
HH sẽ thông suốt.)
VD: Xuất khẩu nông sản VN sang nước ngoài để thu lợi nhuận cao (Tía tô ở
VN 200K/mớ nhưng sang Nhật 500-700K/lá)
+ Điều tiết tiêu dùng: Những mặt hàng có giá trị cao sẽ ít được tiêu dùng,
những mặt hàng có giá trị thấp sẽ được tiêu dùng nhiều hơn.

Ví dụ: Nho không hạt được trồng tại Việt Nam có giá cả thấp hơn nhiều so
với nho không hạt được nhập khẩu nên sẽ bán được nhiều hơn, do đó các cửa
hàng sẽ nhập nhiều hoa quả được sản xuất trong nước hơn để thu lợi nhuận.
Sự biến động của giá cả trên thị trường không chỉ mang ý nghĩa làm rõ sự
biến động về kinh tế mà còn có tác dùng điều tiết nền kinh tế hàng hóa.
Ví dụ: Cuộc khủng hoảng giá lợn năm 2017:
Năm 2015, 2016, giá lợn tăng mạnh => nhiều người đổ xô vào nuôi lợn =>
Cung > Cầu. => Năm 2017: giá lợn tụt rất thấp trong một thời gian dài khiến
nhiều hộ chăn nuôi, trang trại phải ngừng sản xuất, bỏ chuồng chuyển sang nuôi
vịt và một số nghề khác để đáp ứng nhu cầu thị trường.
Như vậy, thực chất sự điều tiết lưu thông của quy luật giá trị là điều tiết khối
lượng hàng hóa từ nơi có giá cả thấp đến nơi giá cả cao, tạo ra mặt bằng giá cả xã
hội và sự cân bằng hàng hóa giữa các thị trường. Giá trị hàng hóa mà thay đổi thì
11


những điều kiện làm cho tổng thể khối lượng hàng hóa có thể tiêu thụ được cũng
sẽ thay đổi.
- Kích thích cải tiến kĩ thuật, hợp lí hóa sản xuất, tăng năng suất lao động:
Mỗi người sản xuất có điều kiện sản xuất khác nhau dẫn tới hao phí lao động
cá biệt khác nhau. Vì vậy Người SX muốn có lãi phải hạ thấp giá trị cá biệt HH
của mình thấp hơn giá trị XH. Muốn vậy, những người sản xuất hàng hóa phải cải
tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm,
tăng năng suất lao động, hạ chi phí sản xuất, cải tiến chất lượng, mẫu mã hàng hóa
cho phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Quá trình này diễn ra liên tục sẽ làm cho
lực lượng sản xuất xã hội phát triển.
VD: Sự phát triển của công ty Viễn thông Viettel….. Hoa quả SX theo tiêu
chuẩn kĩ thuật cao sẽ bán nhanh hơn.
- Phân hóa người SX thành giàu nghèo:
Trong kinh tế hàng hóa, những người sản xuất hàng hóa không có điều kiện

sản xuất thuận lợi, mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao động xã
hội cần thiết, thường xuyên thắng thế trong cạnh tranh sẽ thu được nhiều lãi, giàu
lên và có thể tiếp tục mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh,
thuê lao động và ngày càng giàu có, trở thành ông chủ. Ngược lại, những người sản
xuất hàng hóa không có điều kiện sản xuất thuận lợi, lại gặp rủi ro nên hao phí lao
động cá biệt lớn hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết thì khi bán hàng hóa sẽ
rơi vào tình trạng thua lỗ, thậm chí có thể bị phá sản, trở nên nghèo khó, phải đi
làm thuê.
Chính do tác động nhiều mặt của quy luật giá trị đã làm cho sản xuất hàng
hoas thực sự là khởi điểm ra đời của chủ nghĩa tư bản
* Như vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực (điều tiết sản xuất và
lưu thông hàng hóa, phát triển lực lượng sản xuất xã hội,…), vừa có tác động tiêu
cực (tạo sự phân hóa giàu nghèo). Do đó, cùng với việc thúc đẩy sản xuất hàng hóa
phát triển, nhà nước ta cần có những biện pháp để phát huy mặt tích cực, hạn chế
mặt tiêu cực đặc biệt là trong điều kiện nền KTHH nhiều TP theo định hướng
XHCN của nước ta hiện nay để đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa
* Ý nghĩa của việc nghiên cứu quy luật giá trị đối với việc phát triển
kinh tế ở Việt Nam:
Nghiên cứu quy luật giá trị không chỉ để hiểu biết sự vận động của sản xuất
hàng hóa mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với việc phát triển kinh tế ở Việt Nam.
Trước thời kì đổi mới, chúng ta phủ nhận sản xuất hàng hóa và quy luật giá
trị nên không khai thác được các nguồn lực, nền kinh tế kém phát triển, rơi vào
khủng hoảng. Việt Nam chúng ta còn kinh tế bao cấp, HH tiền tệ bị phủ nhận.
Trong thời kì đổi mới, kinh tế nước ta từ kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp
chuyển sang thực hiện cơ chế thị trường, Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa tạo điều kiện cho các quy luật kinh tế phát huy tác dụng, Phát triển sản
xuất hàng hóa, quy luật giá trị hoạt động, tạo nên cạnh tranh, phát triển KT buộc
12



người sản xuất phải tăng năng suất lao động, nhạy bén với thời cuộc…Các chủ thể
kinh doanh phải nhạy bén với thị trường và nhu cầu tiêu dùng. Năng động trong
phương thức SX kinh doanh, tìm ra PP SX hiệu quả để nâng cao năng suất, hạ chi
phí sản xuất để hạ giá thành sản phẩm, phải tìm đến ngành mà mình chiếm lợi thế,
kinh doanh ngành mà có nhiều lợi thế, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế.
Tuy nhiện, các quy luật kinh tế phát huy tác dụng, Phát triển sản xuất hàng
hóa thì quy luật giá trị hoạt động có tác động 2 mặt:
Quy luật giá trị kích thích sản xuất phát triển. buộc các chủ thể kinh doanh
phải nhạy bén với thị trường, với nhu cầu tiêu dùng, năng động, sáng tạo trong
phương thức sản xuất, kinh doanh, cải tiến máy móc, nâng cao tay nghề để nâng
cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất để có lãi. Nếu không quy luật giá trị
sẽ thực hiện vai trò đào thải.
Quy luật giá trị buộc người sản xuất phải cạnh tranh với nhau. Người kém
cỏi phải vươn lên, tích cực hơn nếu không muốn trở thành người nghèo.
Phát huy vai trò điều tiết của quy luật giá trị, phân bổ các nguồn lực cho các
ngành nghề một cách linh hoạt và hiệu quả.
Bên cạnh đó, mặt trái nảy sinh như: phân hóa giàu nghèo, buôn gian bán lận,
xuất hiện hàng giả, hàng nhái, phân hóa giàu nghèo ngày càng rõ rệt… Do đuổi
theo việc giảm chi phí sản xuất, cạnh tranh để thu lợi nhuận dẫn tới việc khai thác
cạn kiệt nguồn tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường, buôn gian bán lận; phân chia
ranh giới giàu nghèo rõ rệt. Vì vậy cần có sự điều tiết của Nhà nước bằng luật
pháp, chính sách đầu tư, thuế, đào tạo nhân lực … để đảm bảo tính định hướng xã
hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường ở nước ta.
6. Bản chất của tích lũy tư bản, những nhân tố quyết định quy mô tích
lũy. Ý nghĩa
* Bản chất của tích lũy tư bản:
Trong nền sản xuất TBCN, tư bản không những được bảo tồn mà còn không
ngừng lớn lên, thể hiện thông qua tích lũy tư bản trong quá trình tái sx mở rộng.
Để thực hiện tái sx mở rộng phải biến một phần giá trị thặng dư thành TB bất biến
phụ thêm và tư bản khả biến phụ thêm. Do đó, tích lũy tư bản là sự chuyển hóa

một phần giá trị thặng dư để tái đầu tư vào mở rộng sản xuất. Không ngừng tích
lũy tư bản là tư bản hóa giá trị thặng dư.
Như vậy, bản chất của tích lũy TB là quá trình tái sản xuất TB mở rộng
không ngừng, thông qua không ngừng tư bản hóa giá trị thặng dư. Nhờ có tích lũy
TB, QHSXTBCN không những trở thành thống trị mà còn không ngững mở rộng
sự thống trị đó. Bản chất của tích lũy tư bản bộc lộ quá trình tái sản xuất TBCN.
Giá trị thặng dư được nhà TB chia thành 2 phần: 1 phần chi cho tiêu dùng cá nhân,
1 phần dùng để tích lũy tư bản.
Có 02 hình thức tái sản xuất, đó là tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng.

13


- Tái giản xuất giản đơn: Là quá trình tái sản xuất với quy mô như cũ (Năm
sau bằng năm trước). Trong tái sản xuất giản đơn, nhà tư bản sử dụng toàn bộ giá
trị thặng dư cho tiêu dùng cá nhân.
Ví dụ: nhà tư bản có 5.000 tư bản ứng trước đem đầu tư vào một ngành nào đó với
cấu tạo hữu cơ là 4c/1v và tỷ suất giá trị thặng dư ( m’) là 100%.
- Sau năm thứ nhất, nhà tư bản có:
4000c + 1000v +1000m.
Nhà tư bản sử dụng toàn bộ 1.000m cho tiêu dùng cá nhân.
- Năm sau, nhà tư bản vẫn chỉ có:
4000c + 1000v + 1000m
- Tái sản xuất mở rộng: Là sự lặp lại quá trình sản xuất với quy mô lớn hơn
trước (Biến 1 phần giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm, tức là phải tích lũy tư
bản để tái sản xuất, tăng lợi nhuận.). Như vậy, muốn tái sản xuất mở rộng thì nhà
tư bản phải tích luỹ.
Ví dụ: nhà tư bản có 5.000 tư bản ứng trước đem đầu tư vào một ngành nào
đó với cấu tạo hữu cơ là 4c/1v và tỷ suất giá trị thặng dư ( m’) là 100%.
- Sau năm thứ nhất, nhà tư bản có:

4000c + 1000v +1000m.
Nhà tư bản sử dụng 500m cho tiêu dùng cá nhân; 500m cho tích lũy (tái sản
xuất)
- Năm sau, nhà tư bản có:
4400c + 1100v + 1100m
* Những nhân tố ảnh hướng đến quy mô tích lũy tư bản:
Quy mô tích lũy tư bản phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư thu được
và tỉ lệ phân chia giá trị thặng dư thành tích lũy và quỹ tiêu dùng của nhà tư bản.
Từ đó, các nhân tố quyết định quy mô tích lũy bao gồm:
- Thứ nhất: nâng cao tỷ xuất giá trị thặng dư bằng cách cắt xén tiền công,
tăng thời gian sử dụng tư liệu lao động trong ngày thông qua các biện pháp kéo dài
ngày lao động, tăng ca kíp. Nâng cao trình độ bóc lột giai cấp công nhân: Mọi biện
pháp nâng cao trình độ bóc lột công nhân đều làm tăng khối lượng giá trị thặng dư,
do đó làm tăng quy mô tích lũy tư bản.
- Thứ hai: Nâng cao sức sản xuất của lao động, việc này sẽ dẫn tới làm giảm
giá trị hàng hóa, một mặt giúp cho nhà tư bản có thể dành thêm giá trị thặng dư cho
tích lũy, mặt khác giúp nhà tư bản có thể mở rộng quy mô sản xuất với lượng tư
bản đầu tư như trước.
Thứ ba: Sự chênh lệch ngày càng lớn giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu
dùng: Tư bản sử dụng là máy móc nhà xưởng lớn. Tư bản tiêu dùng là bộ phận giá
trị chuyển vào sản phẩm từng phần trong quá trình sản xuất. Tư bản sử dụng có đặc
14


điểm là khi tiến hành sản xuất thì tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất nhưng
giá trị của chúng thì chuyển dần từng phần vào sản phẩm. Do đó, chúng phục vụ
không công giống như lực lượng của tự nhiên. Máy móc càng hiện đại thì sự chi
phí bằng phần giá trị chuyển vào sản phẩm càng nhỏ và sự chênh lệch giữa tư bản
sử dụng và tư bản tiêu dùng càng lớn.
Thứ tư: Quy mô của tư bản ứng trước: Tư bản ứng trước càng lớn thì tư bản

khả biến dùng mua sức lao động càng lớn nên bóc lột được sức lao động của công
nhân càng nhiều, giá trị thặng dư càng nhiều. Tích lũy tư bản, vì vậy, càng lớn.
* Ý nghĩa của việc nghiên cứu tích lũy tư bản đối với việc phát triển
kinh tế ở Việt Nam:
- Tích lũy tư bản làm cho nền kinh tế nước ta tích lũy được nguồn vốn phát
triển kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên để có tích lũy các doanh
nghiệp cần phải năng động sáng tạo tiếp thu các thành tựu khoa học kỹ thuật vào
sản xuất để tạo ra hàng hóa có chất lượng tốt, năng suất cao, nâng cao sức cạnh
tranh của hàng hóa trên thị trường. Đồng thời cần mở rộng hội nhập để mở rộng thị
trường tiêu thụ hàng hóa. Đào tạo đội ngũ công nhân, lao động có tay nghề, thúc
đẩy sản xuất.
- Tích luỹ vốn để tiến hành CNH, HĐH, các chủ sản xuất có điều kiện cải
tiến máy móc thiệt bị, đầu tư công nghệ hiện đại vào sản xuất, góp phần nâng cao
chất lượng sản phẩm. Muốn phát huy tối đa nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, đào
tạo bồi dưỡng nhân tài để phát huy tối đa cho công cuộc công nghiệp hóa hiện đại
hóa thì phải đầu tư cho GDP đẩy nhanh ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất
cũng như xây dựng cơ sở hạ tầng không thể thiếu vai trò của vốn.
- Các doanh nghiệp cần phải năng động, sáng tạo, hội nhập, tiếp cận các
thành tựu khoa học kĩ thuật công nghệ tiên tiến vào sản xuất để sản xuất ra nhiều
hàng hóa có chất lượng tốt, năng suất lao động cao, nâng cao sức cạnh tranh trên
thị trường. Cần đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề, mở rộng hội nhập để mở
rộng thị trường.
- Việt Nam muốn đẩy nhanh tốc độ CNH-HĐH nền kinh tế cần huy động tối
đa không chỉ nguồn vốn tiền mặt còn nằm rải rác trong dân cư mà còn cần phải
huy động các nguồn tài lực, những kinh nghiệm quản lý, và tất cả các quan hệ bang
giao cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá nền kinh tế.
- Tuy nhiên, việc tích lũy tư bản không đúng mục đích làm cho xã hội Việt
Nam có sự phân hóa giàu nghèo, tạo nên sự mất bình đẳng xã hội ngày càng lớn,
tăng nguy cơ thất nghiệp, các tệ nạn xã hội tăng ...nên nhà nước cần có những
chính sách phù hợp. Các cơ quan quản lí nhà nước, các doanh nghiệp nhận thức

được những tác động tiêu cực để phòng tránh, giảm thiểu rủi ro: Việc tích lũy tư
bản không đúng mục đích làm cho xã hội Việt Nam có sự phân hóa giàu nghèo, tạo
nên sự mất bình đẳng xã hội ngày càng lớn, tăng nguy cơ thất nghiệp, các tệ nạn xã
hội tăng ...

15


BÀI 4.
7. V.I.Lênin đã khẳng định: “Về lý luận, không thể nghi ngờ gì được
rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản có một thời kỳ quá độ nhất
định”. Phân tích quan điểm trên.
- Thời kỳ quá độ là một thời kỳ, trong đó kết cấu kinh tế - xã hội của chế độ
xã hội cũ suy thoái dần và kết cấu kinh tế - xã hội của chế độ xã hội mới từng bước
lớn lên, tiến đến chỗ giữ địa vị thống trị, bao trùm toàn xã hội.
Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ:
- Từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản cần phải có thời gian và phải
trải qua nhiều giai đoạn khác nhau.
Thời kỳ quá độ lên CNXH là một thời kỳ cải biến cách mạng, một thời kỳ
quá độ chính trị và nhà nước của thời kỳ ấy là nền chuyên chính cách mạng của
giai cấp vô sản.
Một XH CSCN vừa thoát thai từ XH TBCN trong thời kỳ quá độ về mọi
phương diện KT, đạo đức, tinh thần còn mang những dấu vết của XH cũ, trong XH
còn có nhiều thiếu sót.
+ Về KT: mặc dù giai cấp tư sản đã bị lật đổ nhưng chế độ tư hữu vẫn tồn tại
và việc cải tạo, đi đến xóa bỏ chế độ tư bản là một quá trình rất lâu dài.
+ Về phân phối:trong TKQD người công nhân chưa thể nhận được toàn bộ
sản phẩm do lao động của mình tạo ra, chưa thể “hưởng theo nhu cầu”
+ Về chính trị: C.Mác nhất quán khẳng định TKQD từ CNTB lên CNCS là
TKQD lâu dài và phức tạp.

- Quan điểm của Lê nin: phát triển quan điểm của Mác – Angel về TKQD,
Lê nin gọi giai đoạn I là “những cơn đau đẻ kéo dài” giai đoạn II là “giai đoạn đầu
của CSCN, giai đoạn III là “giai đoạn cao của XHCSCN”
Lênin đã khẳng định: Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ khó
khăn, phức tạp và có thể rất lâu dài. Xã hội xã hội chủ nghĩa chỉ có thể đánh bại
chủ nghĩa tư bản khi có một năng suất lao động cao hơn xã hội tư bản chủ nghĩa.
Nhưng đây là một nhiệm vụ khó khăn không thể một sớm một chiều, vì chủ nghĩa
tư bản là một nền đại công nghiệp rất phát triển, muốn có được năng suất lao động
cao hơn chủ nghĩa tư bản phải thực hiện công nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân.
TKQD lên CNXH là thời kỳ khó khăn, phức tạp và có thể rất lâu dài. Cụ thể:
- Nhiệm vụ quan trọng nhất của TKQD là phải tạo ra năng suất lao động cao
- Mục tiêu của CNXH là xóa bỏ chế độ người bóc lột người
- Phải thiết lập kỷ luật lao động tự giác, lôi cuốn nhân dân tham gia quản lý
nhà nước.
+ Quan điểm của Hồ Chí Minh về TKQD:
16


- Nước ta quá độ lên CNXH là một tất yếu khách quan theo đúng quy luật
tiến hoá của lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đã kết luận: "Muốn cứu nước và
giải phóng dân tộc không có con đường nào khác là con đường cách mạng vô
sản”
- Theo chủ tịch Hồ Chí Minh: "Thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta là thời
kỳ lịch sử mà nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng
vật chất và kỹ thuật của CNXH, đưa miền bắc tiến dần lên CNXH, có công nghiệp
và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách
mạng xã hội chủ nghĩa chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh
tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài".
Thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta sẽ lâu dài và gian khổ, vì một chế độ
này biến đổi thành một chế độ khác là cả một cuộc đấu tranh gay go, kịch liệt và

lâu dài giữa cái xấu và cái tốt, giữa cái cũ và cái mới, giữa cái thoái bộ và cái tiến
bộ, giữa cái đang suy tàn và cái đang phát triển. Kết quả là cái mới, cái tiến bộ nhất
định thắng.
Theo Hồ Chí Minh TKQD lâu dài, gian khó và phức tạp vì:
- Đây là công việc hết sức mới mẻ của Đảng ta, vừa làm vừa học và có thể
vấp váp và thiếu sót.
- Sự nghiệp xây dựng CNXH luôn bị các thế lực thù địch phản động trong
và ngoài nước tìm cách chống phá…
* Sự vận dụng của Đảng ta
Vận dụng tinh thần của chủ nghĩa Mác-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong
thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã từng bước xác định rõ hơn những chặng đường mà dân
tộc phải trải qua trong xây dựng CNXH. Sự khẳng định định này được thể hiện rõ
quan điểm qua các kỳ Đại hội.
- Đại hội VI khẳng định: Trên mười năm lãnh đạo đất nước đi vào chặng
đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, Đảng đã có điều kiện để nhận thức sâu sắc hơn
những đặc điểm của chặng đường đó. Nền sản xuất nhỏ với những nhược điểm vốn
có của nó, hậu quả của những cuộc chiến tranh lâu dài trước đây và của cả cuộc
chiến tranh mới, tàn dư của chế độ cũ, đang là những trở ngại trên con đường phát
triển của nước ta. Bằng những thành tựu đã đạt được trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội, chúng ta đã khắc phục một bước sự phân tán và lạc hậu của nền kinh
tế, cải biến một phần kinh tế - xã hội, đặt những cơ sở đầu tiên cho bước phát triển
mới. Nhưng chúng ta chưa tiến xa được mấy so với điểm xuất phát quá thấp.
Những sai lầm và khuyết điểm đã mắc phải càng làm cho tình hình thêm khó khăn.
- Đại hội nhận thức rõ hơn về chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và xác định rõ những nhiệm vụ cơ bản cần thực hiện
trong chặng đường này: “Chặng đường đầu tiên là một bước quá độ nhỏ trong quá
độ lớn”. V.I.Lenin nói: “Suốt cả thời kỳ đó (thời kỳ quá độ), trong chính sách của
chúng ta, lại chia ra thành nhiều quá độ nhỏ hơn nữa. Và tất cả cái khó khăn của
nhiệm vụ chúng ta phải làm, tất cả cacis khó khăn của chunhs sách và tất cả sự
17



khéo léo của chính sách là ở chỗ biết tính đến những nhiệm vụ đặc thù của từng
bước quá độ đó”.
- Đại hội IX chỉ rõ: “Xây dựng chủ nghĩ xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất
khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều
chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong
các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đấu tranh và đan xen giữa cái mới và
cái cũ”.Từ đại hội VIII của Đảng năm 1996, đất nươc ta đã chuyển sang chặng
đường mới đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa, phấn đấu đến năm 2020 cơ
bản trở thành một nước công nghiệp. Trong chặng đường hiện nay còn phải tiếp
tục hoàn thành một số nhiệm vụ của chặng đường trước.
Đại hội XI khẳng định: “Đây là quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để đấu
tranh phức tạp giữa cái mới và cái cũ…” Trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời
kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ “Từ nay đến giữa
thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta thành
một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”
Đại hội XII khẳng định: nền KTTT định hướng XHCN là nền KT vận hành
đầy đủ, đồng bộ theo quy luật của KTTT, đồng thời đảm bảo định hướng XNCH
phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền KTTT hiện đại và
hội nhập quốc tế, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng CSVN
lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giaisuf, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
 Như vậy, bằng sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lenin, tư tưởng Hồ
Chí Minh vào hoàn cảnh cụ thể của từng giai đoạn cách mạng của đất nước, Đảng
ta đã xác định đúng đắn hơn chặng đường của TKQD lên CNXH, từ đó cho phép
nhìn nhận rõ hơn về đặc điểm và thực chất của TKQD lên CNXH ở VN.
8. Phân tích những nhiệm vụ kinh tế cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Liên hệ ...
* Ý 1. Phân tích những nhiệm vụ kinh tế cơ bản của thời kỳ quá độ lên

chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH Việt Nam cần phải thực hiện ba nhiệm vụ
cơ bản như sau:
Một là: thực hiện phát triển lực lượng sản xuất. Đây là nhiệm vụ trung tâm
trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH. Đảng ta xác định phương hướng thực hiện
như: CNH, HĐH đất nước gắn liền với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài
nguyên môi trường; Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền
vững, gắn kết chặt chẽ giữa công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Trên cơ sở
phương hướng đề ra đó áp dụng thực hiện nội dung cụ thể, đó là: Chú trọng CNH,
HĐH nông nghiệp nông thôn; Xây dựng nông thôn mới; Phát triển các nghành CN
chế tạo có tính chất nền tảng, các nghành công nghiệp có lợi thế và công nghiệp hỗ
trợ; Đảm bảo phát triển hài hòa giữa các vùng miền, đồng thời với thúc đẩy nhanh
các vùng kinh tế trọng điểm là là tạo điều kiện phát triển các vùng có nhiều khó
18


khăn; Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế.
Hai là: từng bước xây dựng quan hệ SX mới tiến bộ, phù hợp với yêu cầu
phát triển trình độ lực lượng sản xuất mới. Trong thời kỳ này yêu cầu quan hệ sản
xuất phải phù hợp với trình độ lực lượng SX. Đảng ta chủ trương thực hiện phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần thông qua phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế và hình thức tổ
chức kinh doanh, phân phối. Cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước XHCN,
dưới hệ thống pháp luật của nhà nước các thành phần kinh tế đều bình đẳng, cùng
phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo. Có nhiều hình thức phân phối, phân phối theo lao động và chủ đạo.
Quan hệ phân phối đảm bảo tính công bằng và tạo động lự cho phát triển.
Ba là: mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, tích cực, chủ động
hội nhập quốc tế. Cần phải đa dạng hóa, đa phương hóa các mối quan hệ, chủ động

và tích cực hội nhập quốc tế. Tận dụng lợi thế so sánh. Tiếp thu, hợp tác khoa học
công nghệ, kinh nghiệp quản lý. Tất cả phải dựa trên nguyên tác bình đẳng, cùng
có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nha, giữ vững độc lập, chủ quyền
và định hướng XHCN. (Ví dụ minh họa đổi mới của nước ta từ 1986 đến nay: Mở
cửa → Hội nhập → Tích cực, chủ động hội nhập theo chiều sâu). Yêu cầu trong
quan hệ đối ngoại phải vừa đấu tranh, vừa đàm phán. Từng bước nâng cao năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế và mỗi hàng hóa. Kịp thời sử lý những mâu thuẫn
quốc tế.
Những thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội của 30 năm đổi mới toàn diện đất
nước đã khẳng định sự đúng đắn, tính kiên định mục tiêu XHCN của cách mạng
XHCN ở Việt Nam. Đồng thời cũng khẳng định những thành quả bổ sung và hoàn
thiện lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH của Đảng ta trong thời đại
ngày nay.
Ý 2. Liên hệ việc thực hiện những nhiệm vụ này ở địa phương đồng chí.
Trong những năm gần đây, Tỉnh Lạng Sơn đã tập trung xây dựng và phát
triển kinh tế cơ bản như: Tranh thủ tối đa các nguồn lực để phát triển kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội, tập trung phát triển Khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng - Lạng
Sơn, phấn đấu đến năm 2020, Lạng Sơn trở thành một trung tâm dịch vụ của tiểu
vùng Đông Bắc.
Huy động tối đa các nguồn lực để khai thác có hiệu quả các tiềm năng và lợi
thế của tỉnh, tiếp tục đầu tư phát triển kinh tế cửa khẩu, thương mại, dịch vụ du
lịch; tập trung tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với Chương trình mục tiêu quốc
gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011 - 2020; phát triển toàn diện nông, lâm
nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa, chú trọng các vùng cây
nguyên liệu, cây đặc sản, cây có giá trị kinh tế cao, khai thác và phát huy thế mạnh
về kinh tế đồi rừng gắn với phát triển các cơ sở chế biến.
19


- Về phát triển công nghiệp: Ưu tiên phát triển công nghiệp có tiềm năng,

thế mạnh như sản xuất xi măng, vật liệu xây dựng, chế biến nông lâm sản, lắp ráp,
điện tử, cơ khí nhỏ, tái chế và sản xuất hàng xuất khẩu, hàng tiêu dùng và công
nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn. Các sản phẩm công nghiệp
chủ yếu là: Xi năng, sứ vệ sinh, đá xây dựng, đá trang trí, gạch, ngói các loại,
quặng sắt, than nâu, bôxit, chì thỏi, gỗ chế biến các loại, nước hoa quả, rượu, nước
thạch đen, thuốc lá nguyên liệu sơ chế, bánh kẹo, các sản phẩm linh kiện điện, điện
tử, các mặt hàng cơ khí và điện năng sản xuất từ các nhà máy nhiệt điện.
BÀI 5.
9. Điều kiện chủ quan để giai cấp công nhân thực hiện thành công sứ
mệnh lịch sử toàn thế giới. Liên hệ giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay.
* Khái niệm: Giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân hiện đại là sản phẩm và là chủ thể của quá trình công
nghiệp hoá. Họ gắn liền với quá trình sản xuất vật chất hiện đại, là đại biểu cho
phương thức sản xuất mang tính xã hội hoá ngày càng cao và là lực lượng đi đầu
trong cuộc đấu tranh vì tiến bộ trong xã hội hiện đại. Giai cấp công nhân là giai cấp
có sứ mệnh lịch sử xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới.
* Ý 2. Điều kiện chủ quan để giai cấp công nhân thực hiện thành công sứ
mệnh lịch sử toàn thế giới
- Thứ nhất: Sự phát triển của giai cấp công nhân
+ Sự phát triển về lượng của giai cấp công nhân.
Về số lượng: bao gồm sự phát triển số lượng lao động công nghiệp trong
tổng số lao động xã hội, tỷ lệ lao động công nghiệp trong các lĩnh vực kinh tế - xã
hội và cơ cấu của giai cấp công nhân.
Lực lượng lao động ở mức độ trung bình: Lao động công nghiệp - dịch vụ
và nông nghiệp.
Ví dụ: Theo tổ chức lao động quốc tế, năm 1900, toàn thế giới mới chỉ có 80
triệu công nhân thì đến năm 1990 có hơn 600 triệu công nhân và chắc chắn đến
nay, số lượng đó phát triển lên rất nhiều
+ Sự phát triển về chất của giai cấp công nhân.

Sự phát triển về chất lượng của giai cấp công nhân được thể hiện ở năng lực
làm chủ công nghệ hiện đại và ý thức giác ngộ giai cấp, ý thức dân tộc.
VD: Hiện nay ở các nước công nghiệp phát triển (G7) tỉ lệ công nhân dịch
vụ chiếm từ 60-70% tổng lượng công nhân, công nhân có trình độ đại học chiếm
80%, hơn 70% GDP do các ngành sản xuấ dịch vụ ứng dụng công nghệ cao, sản
xuất công nghệ trở thành loại hình sản xuất quan trọng nhất, tiên tiến nhất, hơn
70% cơ cấu giá trị gia tăng do lao động trí óc đem lại, hơn 70% công nhân trí
thức trong cơ cấu lao động.
20


- Thứ hai: Đảng Cộng sản - nhân tố chủ quan cơ bản nhất để thực hiện
thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
GCCN muốn thực hiện thắng lợi thành công sứ mệnh lịch sử của mình phải
thông qua sự lãnh đạo của đội tiền phong là tổ chức đảng cộng sản – hạt nhân
chính trị của GCCN.
Vai trò của Đảng Cộng sản trong quá trình lãnh đạo giai cấp công nhân thực
hiện sứ mệnh lịch sử.
+ Đảng Cộng sản là lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân.
+ Đảng Cộng sản là bộ tham mưu của giai cấp công nhân.
Bằng hiểu biết lý luận và kinh nghiệm thực tiễn, Đảng Cộng sản định ra
cương lĩnh, đường lối, chiến lược, sách lược đấu tranh. Đảng cũng là người tổ
chức, động viên các sức mạnh, nguồn lực chính trị xã hội trong phong trào công
nhân. Sự kết hợp chặt chẽ, thống nhất về tư tưởng và tổ chức, dựa trên nền tảng tư
tưởng của chủ nghĩa xã hội khoa học làm cho Đảng trở thành lực lượng có khả
năng thu hút đông đảo quần chúng nhân dân hướng theo giai cấp công nhân, tiến
hành cuộc đấu tranh lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản, xây dựng chủ nghĩa
cộng sản.
+ Đảng Cộng sản là đội tiên phong đấu tranh cho lợi ích của giai cấp công
nhân và của dân tộc.

Để làm tròn vai trò trên, Đảng của GCCN cần phải: nắm vững và trung
thành với chủ nghĩa Mác – Lenin, giữ vững và không ngừng tăng cường tính chất
giai cấp công nhân của Đảng, giữ vững quyền lãnh đạo của Đảng, xây dựng đảng
vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức
* Liên hệ giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
- Đặc điểm giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
+ Giai cấp công nhân Việt Nam không phải là sản phẩm trực tiếp của sự phát
triển nền công nghiệp hiện đại, mà là sản phẩm của hai cuộc khai thác thuộc địa
của thực dân Pháp.
+ Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời muộn, số lượng nhỏ, trình độ thấp
+ Giai cấp công nhân Việt Nam luôn gắn với dân tộc, yêu nước, cần cù, đoàn
kết và sớm được giác ngộ cách mạng xã hội chủ nghĩa.
+ Giai cấp công nhân nước ta ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, sớm tiếp
thu Chủ nghĩa Mác – Lênin, có Đảng Cộng sản lãnh đạo, có lãnh tụ vĩ đại của giai
cấp dân tộc là Chủ tịch Hồ Chí Minh giáo dục, rèn luyện và dẫn dắt.
+ Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời khi phong trào cộng sản và công nhân
thế giới phát triển mạnh mẽ, cách mạng Tháng Mười Nga bùng nổ và thắng lợi.
- Những vấn đề đang đặt ra đối với giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
+ Đối với vai trò lãnh đạo đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội, đang có mâu
thuẫn giữa yêu cầu tiên phong, đi đầu trong sự nghiệp lãnh đạo đất nước đi lên chủ
21


nghĩa xã hội với hiện trạng còn nhiều bất cập về trình độ văn hoá, tay nghề và giác
ngộ chính trị trong một bộ phận lớn công nhân nước ta.
+ Đối với vai trò đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển
kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế, còn hạn chế về năng lực làm chủ khoa học và
công nghệ, năng lực lãnh đạo tổ chức,…
+ Đối với vai trò là hạt nhân của khối liên minh công - nông - trí thức và đại
đoàn kết toàn dân tộc,giai cấp công nhân nước ta hiện nay cũng còn khá nhiều bất

cấp trước hai lực cản lớn mặt trái của cơ chế thị trường và năng lực tổ chức quản lý
của bản thân.
+ Đối với quá trình xây dựng, phát triển giai cấp công nhân nước ta, vấn đề
đặt ra là độ chênh lệch giữa hiện trạng và tầm vóc, vị thế.
- Phương hướng và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam
Phương hướng
- Hình thành và triển khai thực hiện chiến lược xây dựng giai cấp công nhân
lớn mạnh gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, hội nhấp quốc tế.
- Giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức xúc, cấp bách của giai cấp CN.
Có bước tiến về đào tạo, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề
nghiệp đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển của đất nước.
- Nâng cao hơn về giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, hiểu biết pháp luật,
tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động.
- Tăng tỉ lệ đảng viên và cán bộ lãnh đạo, quản lý xuất thân từ công nhân.
Tăng số lượng và chất lượng cơ sở đảng trong các loại hình doanh nghiệp.
- Đẩy mạnh phát triển đoàn viên và tổ chức công đoàn, Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam trong các loại hình
doanh nghiệp.
Giải pháp
- Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện lý luận về giai cấp công nhân trong điều
kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng đào tạo nghề, từng bước trí thức hóa giai
cấp công nhân.
- Quan tâm bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp, tinh thần
dân tộc cho giai cấp công nhân.
- Bổ sung, sửa đổi, xây dựng và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách, pháp
luật để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân ; chăm lo đời
sống vật chất, tinh thần cho công nhân.

- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của tổ chức công đoàn
và các tổ chức chính trị - xã hội khác trong xây dựng giai cấp công nhân.
22


BÀI 7
10. Liên minh công - nông - trí thức là tất yếu khách quan?
* Khái niệm: Liên minh công - nông - trí thức trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là sự đoàn kết, hợp lực, hợp tác, liên kết… giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức nhằm thực hiện những nhiệm vụ, giải
quyết các vấn đề vì lợi ích không chỉ cho một lực lượng mà còn cho cả các lực
lượng tham gia, đồng thời góp phần vào sự nghiệp chung xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
* Liên minh công - nông - trí thức trong thời kỳ quá độ lên CNXH mang tính
tất yếu
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa XH tính tất yếu của lên minh biểu hiện ở
những mặt sau:
+ Một là. Xét dưới góc độ kinh tế - kỹ thuật và phân công lao dộng, xuất phát
từ yêu cầu khách quan của quá trình sản xuất, trong xã hội tất yếu hình thành các
lĩnh vực kinh tế cơ bản. Công nghiệp, nông nghiệp, khoa học và công nghệ, dịch
vụ. thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội đặt ra yêu cầu khách quan phải gắn
kết chặt chẽ các lĩnh vực này với nhau để hình thành nền kinh tế quốc dân thống
nhất và tạo ra cơ sở vật chất –kỹ thuật cần thiết cho quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội.
Mặt khác.
- Xuất phát từ chính nhu cầu và lợi ích kinh tế của họ nên các chủ thể của các
lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, khoa học và công nghệ tất yếu phải gắn bó liên
minh chặt chẽ với nhau để cùng thực hiện những nhu cầu và lợi ích kinh tế chung
của mình.
- Là một nước công nghiệp trông thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nên

nông nghiệp vẫn giữ vị trí quan trọng của nền kinh tế.
- Khoa học và công nghệ cũng chỉ phát triển được khi hướng tới phục vụ sản
xuất nông nghiệp, công nghiệp và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
+ Hai là, xét dưới góc độ chính trị - xã hội, thực hiện liên minh công – nông
– trí thức nhằm tập hợp lực lượng tiến hành cách mạng tạo ra sức mạnh tổng hợp.
vì công nhân, nông dân, trí thức không chỉ là ba lực lượng đông đảo nhất trong xã
hội mà họ còn đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế và trong đời sống
chính trị. Do vậy, xây dựng khối liên minh nhằm tạo lực lượng nòng cốt của chế độ
chính trị- xã hội, trên cơ sở đó, thực hiện đại đoàn kết toàn dân để tiến hành xây
dựng CNXH.
+ Ba là: xuất phát từ xu thế toàn cầu hóa và kinh tế tri thức. Từ thực tiễn của
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội..
- Tầm quan trọng của liên minh công – nông – trí
- Liên minh này là vấn đề chiến lược của cách mạng vô sản nói chung và của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nói riêng.
23


- Liên minh công - nông - trí thức là cơ sở chính trị - xã hội tin cậy để đảm
bảo trong thực tế sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với toàn xã hội, để xây dựng
được nhà nước xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân thực hiện
quản lý mọi mặt phát triển của đời sống xã hội.
- Khối liên minh công nhân, nông dân và trí thức đông đảo trở thành nền
tảng để đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Liên minh công – nông – trí là vấn đề chiến lược có ý nghĩa quyết định sự
thắng lợi của quá trình CM.
- Công – nông – trí thức là chủ thể cơ bản giữ vai trò quan trọng có ý nghĩa
quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia trong quá trình xd CNXH
- Liên minh công – nông – trí là lực lượng cơ bản đóng vai trò quan trọng
về KT – CT- VH-XH

- Việc liên minh tồn tại và phát triển sẽ đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển
của mỗi lực lượng trong khối đồng thời nhằm đảm bảo thực hiện lợi ích của dân
tộc.
Ví dụ:
Liên minh giữa nhà nông và công nhân nông nghiệp, chế biến sản phẩm nông
nghiệp với các nhà khoa học nông nghiệp, thương nghiệp, tài chính, ngân hàng...
Những năm 80 của thế kỷ trước, trên địa bàn Tỉnh Lạng Sơn, sản xuất nông nghiệp
còn lạc hậu, năng xuất thấp: cày bằng trâu, gặt bằng liềm, giống lúa năng suất
thấp…. Hiện nay đã áp dụng khoa học – kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp
như: máy cày, máy gặt liên hoàn, giống mới năng xuất cao… Nhà nước đã có các
chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn như
hỗ trợ các hộ gia đình mua máy nông cụ, hỗ trợ đất trồng lúa, ngân hàng cho các
hộ gia đình trực tiếp sản xuất nông nghiệp vay vốn ưu đãi để phát triển sản xuất…
Đến nay mới qua hơn 20 năm, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ
hai thế giới…

24



×