Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Một số kỹ năng khi dạy bài thơ mây và sóng nhằm gây hứng thú học văn cho học sinh lớp 9 THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.12 KB, 19 trang )

1.PHẦN MỞ ĐẦU.
1.1.Lí do chọn đề tài.
“Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có luyện cho ta những tình cảm
ta sắn có”. Đó là khẳng định của nhà phê bình văn học Hoài Thanh khi bàn về ý
nghĩa của văn chương. Điều đó đã khẳng định sức mạnh kì diệu của văn học đối
với cuộc sống con người đặc biệt ở góc độ tình cảm.
Đúng như vậy, Văn học không những là một môn học cung cấp kiến thức về xã hội
qua các thời kì lịch sử và về nhiều mặt, còn là bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm cho con
người. Những tác phẩm văn chương làm cho những tình cảm có sẵn trong ta sâu
sắc hơn, rõ ràng hơn và đem đến cho ta những tình cảm ta chưa hề có. Một người
đầu tắt mặt tối, bận rộn với công việc nhưng khi đọc một tác phẩm văn học họ có
thể buồn vui, yêu, ghét, biết ước mơ và hi vọng. Đó chính là mãnh lực của văn
chương. Với các em học sinh, văn học giúp các em rèn luyện và hình thành nhân
cách một cách toàn diện hơn, nhân văn hơn. Các em nhận thức được cái đẹp cái
xấu, cái thiện, cái ác. Từ đó các em biết yêu cái đẹp, ghét cái xấu, biết đấu tranh
loại bỏ cái xấu, bảo vệ cái đẹp, cái thiện và sống hướng thiện. Văn học giáo dục các
em những tình cảm cần thiết trong cuộc sống, đó là tình cảm gia đình, tình bạn bè,
tình yêu đồng loại, yêu thiên nhiên, tình yêu với quê hương đất nước. Giáo dục các
em biết sống vì gia đình, vì bạn, vì quê hương đất nước, vì những lí tưởng cao đẹp.
Người ta thường nói dạy văn chính là dạy người, dạy cách làm người.
Môn Ngữ văn, đặc biệt các tác phẩm văn học có vai trò quan trọng trong việc trồng
người. Song để cảm nhận hết được giá trị của các tác phẩm văn học và phát huy hết
chức năng giáo dục của nó không phải là việc dễ dàng mà ai cũng làm được hay ở
văn bản nào ta cũng làm được.Và làm thế nào để học sinh yêu mến môn Văn, thẩm
thấu được giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm văn học quả là một việc khó
khăn với người giáo viên.
Bên cạnh đó, để đáp ứng được yêu cầu của xã hội, hiện nay Bộ giáo dục đã và đang
tiến hành đổi mới một một cách toàn diện: chương trình, phương pháp và cách ra
đề thi. Với nghị quyết 29/QĐ-TW thì tinh thần đổi mới là dạy học theo định hướng
phát triển năng lực và đổi mới hình thức kiểm tra đanh giá. Đối với môn Ngữ văn
THCS thì năng lực mà giáo viên cần hướng tới cho học sinh đó là năng lực tiếp


cận, hiểu văn bản và năng lực tạo lập văn bản. Việc ra đề kiểm tra cũng ra theo
hướng phát triển năng lực của học sinh.
Thực tiễn đặt ra cho chúng tôi, những người dạy văn, những trăn trở, những tìm tòi
làm thế nào đó phải giải được hai bài toán. Bài toán thứ nhất là làm thế nào để học
1


sinh không chán ghét môn Văn, thích thú và chờ đợi mỗi giờ học văn. Bài toán thứ
hai chính là làm thế nào để đáp ứng được yêu cầu đổi mới: lấy học sinh làm trung
tâm, hướng tới phát triển năng lực của người học. Hai bài toán nan giải đối với tất
cả. Bởi giờ học văn có đặctrưng riêng của nó. Ở đó không chỉ là đơn vị kiến thức
mà còn là nỗi lòng là tình cảm của nhiều con người: bao gồm tác giả, người dạy và
người học. Trong khi đó, chưa chắc rằng vẫn còn nhiều người đang còn mơ hồ với
phương pháp mới.
Tôi có môt thói quen, khi dạy một văn bản nào tôi thường tìm hiểu nhiều cách khai
thác khác nhau, nghiên cứu ít nhất là một tuần trước khi dạy. Xác định hướng khai
thác và hành trang cần thiết cho tiết dạy. Sau khi dạy xong mỗi tác phẩm, cảm thấy
thành công, tôi thường ghi chép làm kinh nghiệm cho mình. Kinh nghiệm dạy bài
Mây và sóng thuộc chương trình Ngữ văn 9 là kết quả của một quá trình như vậy.
Qua bài viếttôi muốn chia sẻ với đồng nghiệp đề tài mà tôi đã nghiên cứu khi dạy
bài thơ này: “Một số kĩ năng khi dạy bài thơ Mây và sóng nhằm gây hứng thú học
văn cho học sinh lớp 9 THCS”.
1.2.Mục đích nghiên cứu.
Thực hiện đề tài này nhằm đạt được một số mục đíchsau:
-Nâng cao hiệu quả giờ giảng văn bản Mây và sóng.
-Giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn về giá trị của bài thơ, có hứng thú với mỗi giờ
học văn, nhận ra được giá trị của tình mẫu tử, biết cách sống và trân trọng những gì
mình đang có, biết làm những bài tập vận dụng theo yêu cầu của nhiệm vụ học tập,
biết ứng xử với những tình huống của cuộc sống đặt ra.
-Rút ra những bài học kinh nghiệm cho bản thân trong quá trình giảng dạy.

1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Đối tượng kiến thức: Văn bản Mây và sóng (Ngữ văn 9) thuộc chương trình
THCS.
-Đối tượng học sinh: Lớp 9 năm học 2016-2017 và 2017- 2018, trường THCS
Hưng Lộc.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra cơ bản.
-Phương pháp nghiên cứu.
-Phương pháp phân tích.
-Phương pháp khảo sát thống kê.

2


2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận.
Nhìn một cách chung nhất khi tiếp cận một tác phẩm văn học, học sinh thường rất
khó khăn bởi nó có quá nhiều điều phức tạp. Cái phức tạp đôi khi không tồn tại ở
văn bản mà tồn tại ở người dạy. Trong khi đó các em thì không muốn vướng vào
các vấn đề dài dòng khó hiểu. Vậy có cách nào giúp các em? Vấn đề đặt ra cho
người giáo viên đối với một văn bản, giáo viên cần tìm cách tiếp cận đơn giản, dễ
hiểu, xác định phương pháp phù hợp. Với tôi mỗi khi soạn giáo án để dạy một văn
bản, tôi đều đặt ra những câu hỏi: Tác phẩm truyền tải thông điệp gì? Cách tiếp cận
như thế nào mình có thể áp dụng được những bài tập mở nào cho các em khi học
văn bản đó(Mở về kiến thức, mở về yêu cầu năng lực, mở về yêu cầu tính thực
tiễn…)
Đối với bài thơ Mây và sóng của nhà thơ Ta-go mà nói thì trong kho tàng văn học
của nhân loại đã có biết bao nhiêu tác phẩm viết về tình cảm gia đình. Học sinh
cũng đã làm quen với nhiều tác phẩm trong chương trình học như bài Con cò, Bếp
lửa, Trong lòng mẹ, Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ…Bên cạnh những

tác phẩm quen thuộc ấy còn có bài thơ Mây và sóng của nhà thơ Ta-go, một tác
phẩm thơ nói lên tình mẫu tử bao la, rộng lớn thiêng liêng của đại thi hào Ấn Độ.
Thế nhưng bài thơ Mây và sóngcủa đại thi hào ấn độ toát lên nhiều vẻ đẹp, được
khai thác ở khía cạnh khác,hấp dẫn đối với bạn đọc ở nhiều lứa tuổi, mọi thời đại:
+Mây và sóng là bài thơ hay và đặc sắc bởi tiếng thơ ngọt ngào đầy xúc động. Bài
thơ có một hình thức kết cấu rất mới lạ và độc đáo. Với hình thức thơ như vậy, tác
giả đã thể hiện tình yêu thương trẻ em sâu sắc, một tấm lòng yêu thương trìu mến
đối với trẻ thơ.
+ Toàn bộ bài thơ là lời của em bé kể lại câu chuyện của em với những người trên
mây trên sóng. Trước lời mời gọi hấp dẫn của thiên nhiên, em rất thích đi nhưng
tình yêu và lòng thương mẹ đã giúp em vượt qua được cám dỗ. Em đã nghĩ ra
những trò chơi hay, hấp dẫn để mãi mãi được ở bên mẹ. Qua trò chơi mà em nghĩ
ra, chúng ta thấm thía một điều rằng tình mẫu tử thiêng liêng cao cả và hấp hấp
dẫn. Bài thơ là một triết lí sống đẹp nhân văn sâu sắc.
+Lời mời gọi vô cùng hấp dẫn. Đó là một cuộc sống đầy vui vẻ, thoải mái, tha hồ
đùa vui, tha hồ nhảy múa từ sáng đến tối mà thưởng thức bình minh vàng, vầng
trăng bạc. Sự lặp lại cấu trúc của hai câu thơ: bọn tớ chơ với bình minh vàng/ bọn
tớ chới với vầng trăng bạc/ bọn tớ ca hát từ…… tạo nên một cuộc sống tràn đầy sắc
đẹp, niềm vui, phù hợp với tâm lí trẻ thơ.
3


+ Lời từ chối của em bé cũng thật khéo léo: câu trả lời tạo hai nửa, nửa đầu là nhận
định một sự thật- buổi chiều mẹ luôn muốn mình ở nhà, nửa thứ hai là một câu hỏi
tu từ nhằm khẳng định lí do chính đáng thiết thực của em bé- làm sao có thể rời mẹ
mà đi được. Tình yêu và sự mong đợi của mẹ đã chiến thắng những cám dỗ, lời
mời gọi rủ rê. Qua lời từ chối của em bé, tác giả muốn khẳng định rằng: tình mẫu
tử là một tình cảm trong sáng, bền chặt không gì lay chuyển, mẹ và tình mẫu
tử là một thế giới kì diệu và hấp dẫn hơn bất kì cuộc sống nào đối với trẻ em.
Điều thứ hai tác giả muốn khẳng định: Tình mẫu tử có thể níu kéo con người ta

tránh xa, chiến thắng được những cạm bẫy, cám dỗ của cuộc sống.
+ Trò chơi của em mang đậm triết lí nhân sinh. Ở trò chơi thứ nhất: mây bao giờ
cũng mềm mại nhẹ nhàng như tâm hồn tình cảm của em, như tình cảm mẹ dành cho
em bé. Còn mẹ là trăng dịu hiền, tỏa sáng cho em. Và dưới bầu trời xanh thẳm có
cả mẹ và con đang nô đùa thoải mái trong tình yêu, hạnh phúc dâng trào. Ở trò chơi
thứ hai: con là sóng cứ vỗ vào bờ như con đang lăn lăn nhẹ nhàng vào vòng tay âu
yếm của mẹ. Sóng cứ vỗ vào bờ, biển cứ hát là những lúc con vui chơi ngoan
ngoãn cũng là lúc lòng mẹ hạnh phúc. Câu thơ gợi bao điều suy ngẫm: sóng không
bao giờ ngừng vỗ, biển không bao giờ vơi cạn cũng như tình cảm mẹ con không
bao giờ biến mất. Qua trò chơi của em, nhà thơ như khẳng định rằng: Hạnh phúc
không ở đâu xa lạ mà hạnh phúc có ở quanh ta, trong chính ngôi nhà ta đang
sống khi mà ta biết yêu thương cha mẹ, yêu thương những người thân trong
gia đình, và hạnh phúc hơn khi con người biết yêu và sống chan hòa với thiên
nhiên với tình yêu thương cha mẹ.
Nắm được, hiểu và thẩm thấu được những vẻ đẹp bất biến của bài thơ thì người
giáo viên mới có cảm hứng để truyền lại những lời gửi của nhà thơ Ta-go hàng trăm
năm trước. Học sinh mới cảm nhận hết được vẻ đẹp của bài thơ, mới có hứng thú
học tập, thậm chí là ấn tượng mãi mãi với bài thơ mây và sóng, với tiết học.
2.2. Thực trạng vấn đề.
2.2.1. Thuận lợi
- Đề tài tình mẫu tử là một đề tài luôn luôn hấp dẫn đối với người dạy và cả
người học.
-Bài thơ Mây và sóng là một bài thơ hay giàu giá trị nhân văn sâu sắc, đậm chất
triếtlí.
-Với tinh thần của nghị quyết 29, buộc giáo viên phải có những suy nghĩ, tìm tòi
sáng tạo trong phương pháp giảng dạy cũng như ra đề kiểm tra làm thế nào để phát
4


huy năng lực của học sinh. Từ bài học, học sinh có kinh nghiệm giải quyết những

vấn đề của cuộc sống.
2.2.2. Khó khăn.
* Về phía giáo viên.
Đa số giáo viên có tinh thần ham học hỏi, nhiệt tình trong công việc giảng dạy, biết
suy nghĩ đào sâu, có phương pháp giảng dạy phù hợp với đặc trưng môn học. Tuy
nhiên vẫn còn một số giáo viên về chuyên môn còn giậm chân tại chỗ, chưa có tinh
thần học tập rèn rũa để nâng cao chuyên môn, hoặc chưa có phương pháp dạy học
phù hợp với đặc trưng môn học.Qua những tiết thao giảng, tiết kiến giảng bài Mây
và sóng tôi thấy một thực tế rằng:
+ Giáo viên chưa gây ấn tượng với học sinh ở phần tác giả.
+ Giáo viên chưa nắm hết giá trị tư tưởng của bài thơ, mới chung chung là tình mẫu
tử thiêng liêng cao cả. Tuy nhiên đây là giá trị chính song cần hướng tới những giá
trị khác để bài học phong phú.
+Có cách khai thác chưa hợp lí: Bố cục hai phần và phân tích theo hai phần. Như
vậy khi thực hiện ta thấy sẽ có sự lặp lại.
+ Hệ thống câu hỏi chưa hợp lí, câu hỏi khó chưa có sự gợi mở, giúp đỡ học sinh
nhận ra đơn vị kiến thức cần đạt.
+ Chưa có những lời bình thấu đáo ấn tượng, chưa có sự mở rộng về đề tài, về
phạm vi.
+ Chưa định hướng cho học sinh những bài tập vận dụng nhằm phát triển năng lực.
* Về phía học sinh.
Thực tế những năm gần đây cho thấy học sinh ngày càng không thích học môn
Ngữ văn. Các em chỉ chạy theo những môn học thuộc môn tự nhiên và ngoại ngữ.
Còn môn văn chỉ là học đối phó với việc thi cử. Các em chưa có niềm đam mê.
Qua khảo sát cho thấy việc các em nắm bắt được giá trị bài thơ Mây và sóng cũng
còn hạn chế. Việc vận dụng vào các bài tập phát triển năng lực còn chưa cao. Dưới
đây là kết quả khảo sát chất lượng bằng phiếu học tập môn Văn 9 năm học 20162017 khi chưa áp dụng đề tài.
Lớp-Sĩ số

Kết quả

Giỏi
Số
lượng

Tỉ lệ
%

Khá
Số
lượng

TB

Tỉ lệ % Số
Tỉ lệ
lượng %

Yếu
Số
lượn

Tỉ lệ
%
5


g
9A- 39
3
7,7

14
35,9
17
43,6
5
12,8
9D-37
1
2,7
13
35,1
19
51,4
4
10,8
Nhận xétkết quả kiểm tra: Qua quá trình theo dõi kết quả kiểm tra của khối 9 khi
chưa áp dụng những kinh nghiệm này vào giảng dạy cho thấy số học sinh yếu kém
còn chiếm tỉ lệ cao, số học sinh khá giỏi tỉ lệ còn thấp trên cả hai phương diện.Cảm
nhận về bài thơ còn mờ nhạt, bài tập vận dụng chưa nắm vững cách làm, dẫn đến
chất lượng giờ dạy chưa đạt cao.
2.3. Những giải pháp và cách thức thực hiện.
2.3.1. Căn cứ chuẩn kiến thức và năng lực cần đạt.
- Chuẩn kiến thức :Căn cứ vào tài liệu chuẩn kiến thức kĩ năng.
- Năng lực cần đạt:
+ Đọc- Hiểu văn bản
+ Năng lực tạo lập văn bản: viết đoạn văn nghị luận xã hội về vấn đề đặt ra trong
bài thơ
+ Năng lực ứng phó, giải quyết những vấn đề thực tiễn của cuộc sống: sống hòa
hợp với thiên nhiên, hạnh phúc giản dị, tình mẫu tử, ứng phó trước những tai tệ nạn
xã hội, những cám dỗ của cuộc đời.

2.3.2.Tìm hiểu về tác giả Ta -go.
Chúng ta biết rằng, khi tìm hiểu bất kì một tác phẩm văn học thì phàn tìm hiểu ban
đầu là tác giả và xuất xứ của nó. Bởi tác phẩm văn học chính là con đẻ của nhà văn
nên nó bị chi phối bởi con người tư tưởng, quan điểm sáng tác của người cha sinh
ra nó. Việc tìm hiểu tác giả phải được coi như ta tìm hiểu về gia đình của một đứa
trẻ vậy. Điều tôi muốn nói là không nên sơ sài qua loa phần giới thiệu tác giả.Việc
giới thiệu tác giả còn tạo ấn tượng tình cảm, tâm thế ban đầu để các em tiếp cận dễ
dàng hơn.
Khi tìm hiểu về nhà thơ Rabindranath Tagore ta cần nhấn mạnh ở một số nét sau:
+ Năm sinh, năm mất, quê quán(Nước): Tagore sinh tại Kolkata, Tây Bengan, Ấn
Độ trong một gia đình trí thức. Ông bắt đầu sáng tác khi mới 14 tuổi, Ông để lại
cho thế một khối lượng tác phẩm đồ sộ: 12 bộ tiểu thuyết, 42 vở kịch, 2000 tranh
vẽ, 2000 bài hát…sáng tác quốc ca cho hai nước.Ông là nhà thơ tiêu biểu của châu
Á đầu tiên được nhận giải thưởng Nô- ben văn học(1913)

6


+Ông được cả thế giới tôn vinh là một trong số ít nhân tài toàn diện của thế giới.
Ông là nhà viết kịch, nhà thơ, nhạc sĩ, tiểu thuyết gia, nhà giáo dục, nhà nhân văn
học. Ông được nhân dân Ấn Độ yêu mến tôn làm thánh-Thánh Ta-go.
+ Ta-go đem đến cho thơ ca Ấn Độ một không khí thiêng liêng, mà gần gũi, biểu
đạt những rung cảm tinh tế trong tâm hồn thi sĩ trước đất nước quê hương, thiên
nhiên và cuộc sống, con người và tình yêu bằng một giọng điệu nồng nàn. Mặt
khác thơ Ta-go chứa đựng những triết lí thâm trầm về vũ trụ, con người, cuộc sống
và hạnh phúc, tình yêu. Điều này các em sẽ bắt gặp khi phân tích bài thơ Mây và
sóng mà hôm nay các em học.
+ Đặc biệt chú ý đến tư tưởng nhân văn được thể hiện trong các tác phẩm của ông.
Vấn đề này liên quan trực tiếp tới nội dung bài thơ Mây và sóng.
2.3.3.Xác định kiểu văn bản và phương thức biểu đạt.

Từ thực tiễn giảng dạy và thực tiến của yêu cầu đổi mới thì khi dạy bài thơ Mây
và sóng giáo viên khẳng cho học sinh về kiểu văn bản và phương thức biểu đạt. Đó
là kiểu văn bản biểu cảm.Phương thức biểu đạt biểu cảm kết hợp với tự sự.
2.3.4Xác định tư tưởng chủ đạo của bài thơ.
Việc xác định tư tưởng rất quan trọng. Mỗi tác phẩm nghệ thuật ra đời đều mang
theo một thông đệp mà nhà văn muốn gửi gắm và đó chính là tư tưởng nghệ thuật.
Tư tưởng nghệ thuật của bài Mây và sóng chính là những giá trị nhân văn cao đẹp.
Vậy đó là những giá trị nào? Đọc bài thơ ta dễ dàng nhận thấy những giá trị nhân
văn sau:
- Đối với trẻ thơ, mẹ và tình mẹ là thế giới kì diệu và hấp dẫn hơn bất kì sự kì diệu
nào. Giá trị này được thể hiện khi tác giả xây dựng lời mời gọi của những người
trên mây trên song. Lời mời gọi của họ vô cùng hấp dẫn đặc biệt với con trẻ.Cuộc
sống của họ suốt ngày chỉ vui chơi thỏa thích cùng với những hình ảnh thiên nhiên
đẹp. Tưởng chừng thế giới của họ sẽ rủ rê được em bé bởi em đã hỏi làm thế nào
để lên đó được, làm thế nào để ra đó được. Nhưng ngay sau đó em đã từ chối và trả
lời: Buổi chiều mẹ luôn muốn mình ở nhà, làm sao có thể rời mẹ mà đi được?
- Giá trị nhân văn thứ hai: Tình mẫu tử có thể giúp con người tránh xa những cạm
bẫy cám dỗ của cuộc dời. Trong bài thơ lời mời gọi của những người trên mây trên
song mang ý nghĩa biểu trưng cho những cám dỗ quanh ta, con người có thể gặp
bất cứ nơi nào, lúc nào. Và đã bị cám dỗ lôi đi thì khó mà trở về, khó có cuộc sống
vốn của con người- bình yên. Sự từ chối của em bé với một lí do rất đơn giản, rất
đáng yêu là vì mẹ, không thể rời xa mẹ, không muốn mẹ buồn, không muốn mẹ
7


chờ đợi. Khi sống bên mẹ, biết yêu thương mẹ, nghĩ tới mẹ con người sẽ đi đúng
hướng, không sai đường.
-Giá trị nhân văn thứ 3; Hạnh phúc không phải ở đâu xa lạ mà ngay trong ngôi nhà
của mình khi ta biết yêu thương cha mẹ, người thân, biết sống chan hòa với thiên
nhiên. Giá trị nhân văn này được thể hiện trong trò chơi của em bé.

2.3.5.Xác định bố cục bài thơ.
-Bài thơ có bố cục 2 phần rất rõ ràng:
+ Lời kể của em bé với mẹ về cuộc trò chuyện của em với những người trên
mây.
+Lời kể của em bé với mẹ về cuộc trò chuyện với những người trên sóng.
Giáo viên cần lưu ý. Đây không phải là hai lần kể mà chỉ là hai lời kể cùng một lúc.
2.3.6.Xác định cách phân tích.
Mặc dù bố cục hai phần nhưng căn cứ vào giá trị tương tưởng của bài thơ thì bài
Mây và sóng nên phân tích bổ dọc. Cụ thể như sau:
-Lời mời gọi của những người trên mây trên sóng: Ở phần này giáo viên sẽ liên hệ
thực tế cuộc sống của trẻ em ngày nay cũng rất nhiều áp lực, được sống giữu thiên
nhiên được vui chơi thỏa thích…là điều mơ ước đối với các em.Khẳng định đây là
lời mời gọi, lời rủ rê của một thế giới kì diệu.
-Lời từ chối của em bé: Ở phần này giáo viên rút ra hai giá trị nhân văn của bài
thơ. Đó là mẹ, tình mẫu tử là thế giới kì diệu hơn bất kì sự kì diệu nào.Đồng thời
giáo viên rút ra giá trị thứ hai là tình mẫu tử thiêng liêng,kì diệu có thể níu kéo con
người tránh xa những cạm bẫy cám dỗ của cuộc đời. Giáo viên có thể cho học sinh
thấy nghệ thuật đòn bẩy được sử dụng trong bài thơ ở chỗ này. Lời mời gọi của
những người trên mây trên sóng tưởng chừng quá hấp dẫn, tưởng như không còn
nơi nào đáng sống hơn, thích thú hơn. Nhưng lời từ chối của em bé đã khẳng định
có một nơi đáng sống hơn, hấp dẫn hơn đó chính là mẹ. Nghệ thuật này các em đã
được gặpkhi các em học văn bản Chị em Thúy Kiều ở Ngữ văn 9-tập 1.
-Trò chơi của em bé:Ở phần này giáo viên rút ra giá trị thứ ba đó là hạnh phúc
không phải nơi đâu xa lạ mà ngay trong chính ngôi nhà của mình khi ta biết yêu
thương cha mẹ, yêu thương những người thân và biết sống chan hòa với thiên nhiên
quanh ta.
2.3.7.Xây dựng hệ thống câu hỏi.
Sau khi xác định được hướng tiếp cận, khai thác, giáo viên sẽ xây dựng hệ thống
câu hỏi cho phù hợp. Khi xây dựng câu hỏi cần có dạng câu hỏi dễ, câu khó, câu
suy luận, câu mang tính khái quát, câu hỏi mang tính suy luận…. Giáo viên cần xác

8


định với câu hỏi nào là khó đối với học sinh để chủ động có câu hỏi gợi mở giúp đỡ
học sinh xác định vấn đề và giải quyết vấn đề.Tôi đã xây dựng như sau:
Phần 1. Lời mời gọi của những người trên mây trên sóng.
? Những người trên mây trên sóng đã mời gọi em bé như thế nào(Gv gợi ý: lời
mời gọi của người trên mây? Lời mời gọi của những người trên sóng).
Câu hỏi này học sinh sẽ tìm và trả lời:
+ Người trên mây: bọn tớ chơi từ khi thức dậy cho tới chiều tà, bọn tớ chơi với
bình minh vàng vầng trăng bạc.
?:Em có cảm nhận và suy nghĩ gì về lời mời gọi của những người trên mây
trên sóng? (Gv gợi ý: cuộc sống của họ như thế nào? Có thích không? vì sao?).
Nội dung hướng tới của câu hỏi này là: đây là lời mời gọi của một thế giới vô cùng
kì diệu và hấp dẫn đối với trẻ thơ.
Phần 2. Lời từ chối của em bé.
? Thái độ của em bé như thế nào khi mới nghe lời mời,lời rủ rê? Dấu hiệu
nhận biết?
-Em rất thích nên đã hỏi: làm thế nào mình lên đó được? làm thế nào mình ra đó
được?
? Thích như vậy nhưng tại sao em từ chối? Sự từ chối đó nói lên điều gì?
(Câu hỏi Sự từ chối của em bé nói lên điều gì là một câu hỏi khó vậy nên giáo
viên sẽ gợi mở cho học sinh: em bé là người thế nào? Tác giả gửi gắm gì qua lời từ
chối đó?)
- Em từ chối vì không thể rời xa mẹ-> em bé rất yêu mẹ và rất khéo léo khi từ
chối.Qua đó tác giả cũng khẳng định rằng: Mẹ là thế giới hấp dẫn nhất. Tình mẫu
tử có thể níu kéo con người ta tránh xa những cạm bẫy những cám dỗ của cuộc đời.
Phần 3. Trò chơi của em bé
? Sau khi từ chối em bế đã tưởng tượng ra những trò chơi nào?Nhận xét gì về
trò chơi của em.(Câu hỏi Nhận xét trò chơi của em bé có thể là câu hỏi khó với

học sinh thì giáo viên có thể gợi mở: trò chơi của em có gì hấp dẫn hay hơn trò chơi
của những người trên mây trên sóng)? Qua trò chơi, tác giả muốn gửi tới thông
điệp gì?
-HS trả lời:
+ Từ chối người trên mấy em đã tưởng tượng mẹ là trăng, con là mây, mái nhà là
bầu trời xanh thẳm. Từ chối người trên sóng, em bé đã tưởng tượng mẹ là bến bờ
còn con là sóng…
9


+ Trò chơi hấp dẫn vì em cũng được ngao du, được chơi với những hình ảnh thiên
nhiên đẹp mà không phải rời xa mẹ, được ở bên mẹ suốt ngày, được quấn quýt,
được sống trong vòng tay yêu thương của mẹ.
+ Qua trò chơi, tác giả muốn khẳng định rằng: hạnh phúc không phải nơi đâu xa lạ
mà có ngay trong chính ngôi nhà của mình, khi ta biết yêu thương cha mẹ, biết yêu
thương những người thân trong gia đình, khi ta biết yêu và sống chan hòa với thiên
nhiên.
2.3.8.Kĩ năng bình.
Một điều mà tất cả những người dạy văn phải khẳng định với nhau rằng, dù dạy
theo phương pháp nào, đổi mới tới đâu thì giờ học văn không thể thiếu những lời
bình.Lời bình có vai trò quan trọng giống như gia vị của một món ăn, thiếu nó sẽ
nhạt nhẽo. Hình hài của một giờ dạy văn có đẹp hay không phụ thuộc rất lớn vào
lời bình của người giáo viên. Để có lời bình hay, ấn tượng, sâu sắc và làm nổi bật
kiến thức muốn truyền tải người giáo viên trước hết phải nêu, phải cắt nghĩa được
hình ảnh, chi tiết nghệ thuật. Lời bình cũng cần có độ mở, độ dừng, độ nhấn hợp lí.
Muốn vậy người giáo viên cần biết khai thác ý nghĩa các ngữ liệu, phải biết tìm tòi
và phát hiện ra sự tương đồng hay đối lập về nội dung hay cách thể hiện. Để từ đó
có sự liên hệ, so sánh trong cùng tác phẩm hay ở tác phẩm khác để học sinh hiểu
sâu sắc vấn đề hơn. Và cũng có như vậy ta mới làm toát lên được cái hay, cái toàn
diện của vấn đề thể hiện qua văn bản. Và cũng vì thế ta sẽ truyền được cho học sinh

tư tưởng nghệ thuật sâu xa của tác phẩm văn học. Ngược lại, khi dạy văn ta chỉ biết
bám vào văn bản cụ thể, đơn lẻ thì chắc chắn sẽ có cái nhìn hời hợt, lời bình sẽ
nghèo nàn, thiếu sâu sắc, thiếu cái nhìn hệ thống.
Với bài Mây và sóng khi bình cần chú ý:
2.3.8.1. Liên hệ những tác phẩm cùng đề tài, những câu thơ cùng tư tưởng.
Cụ thể giáo viên có thể liên hệ với bài Con cò của Chế Lan Viên: những câu thơ:
+ Cò một mình cò phải kiếm ăn
Con có mẹ con chơi rồi lại ngủ
+ Dù ở gần con,
Dù ở xa con
Lên rừng xuống bể,
Cò sẽ tìm con,
Cò mãi yêu con.
Con dù lớn vẫn là con của mẹ,
Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con.
10


-Với bài Trong lòng mẹ, liên hệ đoạn văn nói về suy nghĩ của bé Hồng khi ở trong
long mẹ: Phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của
người mẹ, để bàn tay người mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm và gãi rôm ở sống lưng
cho mới thấy người mẹ có một sự êm dịu vô cùng.
-Với bài Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ, giáo viên có thể liên hệ câu
thơ: Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời.
Sự liên hệ giúp cho các em có kĩ năng liên hệ các tác phẩm có cùng chủ đề đồng
thời lằm sâu sắc thêm điều mà giáo viên đang muốn khẳng định với học sinh: được
ở trong lòng mẹ con chỉ có tiếng cười, chỉ có hạnh phúc,

2.3.8.2.Liên hệ thực tiễn cuộc sống.
Trong khi bình giáo viên có thể liên hệ cuộc sống:
+ Lời mời gọi của những người trên mây trên sóng chính là lời rủ rê từ những
bàn điện tử, ma túy, tai tệ nạn xã hội, tham vọng… ta có thể gặp bất cứ nơi đâu trên
đường đời vạn nẻo.
+ Các em đang có mẹ, đang sống trong tình thương yêu của gia đình hãy biết
trân trọng và giữ gìn, hãy biết làm những việc để cha mẹ vui long.
+ Biết yêu và giữ gìn thiên nhiên để chúng ta có cuộc sống tốt đẹp hơn, biết lựa
chọn những niềm vui giản dị trong cuộc sống.
2.3.8.3.Chọn hình ảnh và thời điểm bình.
Ở bài này giáo viên chỉ bình ở ba thời điểm. Đó là:
- Bình chốt ở phần 1- bình về cuộc sống của những người trên mây trên sóng vô
cùng hấp dẫn đặc biệt đối với trẻ thơ. Và liên hệ thực tế: thế giới kì diệu quanh ta
đôi khi nó là những cám dỗ(bàn điện tử, game…)(Bình nhẹ bởi lời mời gọi của
những người trên mây trên sóng chỉ là cái nền của tư tưởng mà nhà thơ gửi gắm)
-Bình chốt ở phần 2- lời từ chối của em bé. Giáo viên nhấn mạnh giá trị nhân văn
mà nhà thơ muốn gửi gắm: Lời mời gọi của những người trên mây trên sóng vô
cùng hấp dẫn. Tưởng chừng em bé sẽ đi ngay vì em đã hỏi: Nhưng làm thế nào
mình lên đó được, làm thế nào mình ra ngoài đó được. Nhưng ngay sau đó em đã
từ chối: làm sao có thể rời mẹ mà đi được...Lời từ chối của em rất khéo léo rất tế
nhị và cũng rất phù hợp với tâm lí trẻ thơ. Làm sao mà em bé có thể dửng dưng với
với lời mời gọi, với một cuộc sống mà chỉ có chơi, ca hát, ngao du mà không phải
học hành, không phải làm việc...Nhưng hấp dẫn hơn những điều đó chính là mẹ.
11


không có điều kì diệu nào hấp dẫn hơn người mẹ đối với trẻ thơ. Dù được vui chơi,
được ăn ngon mặc đẹp, không chịu áp lực của học hành…thì cũng không bằng
cuộc sống ở bên mẹ. Đây chính là giá trị nhân văn thứ nhất mà nhà thơ Ta go
muốn gửi gắm tới chúng ta. Bên cạnh đó ta thấy em bé rất yêu thương mẹ. Trong

sự lựa chọn, em đã chọn mẹ, rõ ràng em yêu mẹ hơn hết thẩy. Và qua đó nhà thơ
muốn khẳng định với chúng ta rằng tình mẫu tử có thể níu kéo con người ta tránh
xa những cạm bẫy, cám dỗ của cuộc đời. Bởi cuộc đời vốn chứa nhiều những bất
trắc, những chùng chình, những vòng vèo. Đứng trước nó con người khó có thể
cưỡng lại, sẽ sa ngã, sẽ đánh mất mình, sẽ đi lạc hướng… Nhưng có một thứ có thể
giúp ta tránh xa, giúp ta tỉnh táo đó chính là mẹ, là tình mẫu tử. Yêu thương mẹ,
nghĩ đến mẹ sẽ giúp ta sống đúng đắn hơn, sống tốt hơn.
- Bình ở khi chốt phần 3- Trò chơi của em bé. Trong trò chơi của em bé.
+ Bình trò chơi thứ nhất (Bình nhẹ).
+ Trò chơi thứ hai: Con là sóng và mẹ sẽ là bến bời kì lạ.
Con lăn, lăn, lăn mãi rồi sẽ cười vang vỡ tan vào lòng mẹ.
Và không ai biết mẹ con ta đang ở chốn nào.
Ở lời bình này giáo viên cần liên hệ với những bài thơ, câu thơ cùng đề tài để làm
nội bật nội dung, cái hay cái đẹp của hai câu thơ và gây hứng thú học bài.Gv có thể
chọn đây chính điểm nhấn tronggiờ dạy của mình
Gv: Có thể nóitác giả đã hóa thân vào em bé để tưởng tượng ra một trò chơi rất
hay và ý nghĩa. Con là sóng và mẹ là bến bờ. Trăm ngàn con sóng đều vỗ bờ, dù
sóng nhỏ dịu êm hay sóng bạc đầu dữ dội. Bến bờ chính là điểm dừng,là đích cuối
cùng của sóng, là ước mơ, là khát vọng. Còn bãi bờ thì không có quyền lựa chon
nhận hay không mà đón nhận sóng như một điều hiển nhiên và mong đợi. Sóng cập
bến sẽ tan. Qua trò chơi thứ hai này nhà thơ muốn khẳng định rằng:Với trẻ thơ
không chốn nào vui bằng lòng mẹ. Không chỗ nào ấp áp hơn vòng tay người mẹ,
không nơi nào bình yên hơn khi bên mẹ. Dù con trên đường đời có sa ngã, có
những sai trái, người khác có thể từ chối con, còn mẹ thì luôn dang rộng vòng tay
để chờ đón con như bờ kia vẫn đón nhận trăm ngàn con sóng vậy.Vì sao? Bởi vì ở
đó con đón nhận được vô vàn tình yêu thương mà không cần điều kiện. Con nhận
được sự chăm sóc vỗ về mà không cần phải suy tư. Mẹ đúng là một bến bờ kì lạ:
bến bờ của yêu thương, bến bờ của sự bình yên, bến bờ của hạnh phúc, của sự
nâng đỡ, bao dung. Trong bài Con cò nhà thơ Chế Lan Viên từng viết:
Cò một mình, cò phải kiếm lấy ăn,

Con có mẹ, con chơi rồi lại ngủ.
12


Rồi
Dù ở gần con,
Dù ở xa con,
Lên rừng xuống bể,
Cò sẽ tìm con,
Cò sẽ yêu con
Con dù lớn vẫn là con của mẹ,
Đi hết đời long mẹ vẫn theo con.
Tình mẹ luôn dai dẳng bền bỉ, đi theo con suốt hành trình dài rộng của cuộc đời.
Lúc nào mẹ cũng dành cho con những tình cảm yêu thương nhất dù trong vất vả
đau thương. Dành cho con những gì êm ái nhất. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm từng
viết về người mẹ Tà ôi vừa giã gạo vừa địu con:
Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời.
Bất cứ lời nào dành cho con cũng đều xuất phát từ trái tìm giàu lòng yêu thương.
Chính vì vậy ởđược ở bên mẹ, con chỉ có thể là tan chảy mà thôi. Nhà thơ Nguyên
Hồng sau bao nhiêu năm vẫn không thể quên những cảm giác sung sướng khi ở
trong lòng mẹ: Phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa
nóng của người mẹ, để bàn tay người mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm và gãi rôm ở
sống lưng cho mới thấy người mẹ có một sự êm dịu vô cùng. Cảm giác được ở
bên mẹ, nó vô cùng kì diệu mà chỉ có những người biết yêu thương mẹ, khát khao
mẹ mới cảm nhận được điều đó.
2.3.9.Bài tập vận dụng, phát triển năng lực.
Với bài thơ Mây và sóng giáo viên có thể cho các em làm các bài tập vặn dụng

nhằm phát triển năng lực như sau:
Bài 1. Từ hai câu thơ: Con là sóng và mẹ sẽ là bến bờ kì lạ
Con lăn lăn lăn mãi rồi sẽ cười tan vỡ tan vào lòng mẹ.
Hãy trình bày suy nghĩ của em về tình mẫu tử
*Gợi ý:
- Tình mẫu tử là tình cảm thiêng liêng và tự nhiên của mỗi con người: là tình cảm
mẹ dành cho con, là tình yêu con đối với mẹ:
+Mẹ sinh ra, nuôi con lớn lên từ dòng sữ ngọt, lời ru, dạy dỗ con, hi sinh tất cả vì
con…hạnh phúc của mẹ chính là con(dẫn chứng).
13


+ Hạnh phúc nhất của con là được sống bên mẹ, được mẹ yêu thương vỗ về…
(dẫn chứng).
-Tình mẫu tử có thể giúp con người tránh xa những cạm bẫy, cám dỗ của cuộc đời
(chứng minh).
-Phê phán phận làm con chưa biết yêu thương, trân trọng mẹ.
-Bài học nhận thức:
+ Yêu thương mẹ, trân trọng mẹ.
+ Biết lấy mẹ làm điểm tựa cho cuộc đời con sẽ tránh xa được cám dỗ của cuộc
sống.
Bài 2.Từ bài thơ Mây và sóng và những hiểu biết xã hội, em hãy viết một đoạn văn
ngắn trình bày những suy nghĩ của em về những niềm vui giản dị trong cuộc sống
của mỗi con người.
* Gợi ý:
- Giải nghĩa niềm vui giản dị là gì: Sự lựa chọn niềm vui là một
phương châm sống. Niềm vui có thể đơn giảnlà được sống giữa
thiên nhiên, sống hòa hợp và biết yêu thương thiên nhiên. Hay
đơn giản chỉ là được sống bên người thân yêu…Đó là niềm vui
bình dị trước cuộc đời mà chỉ những tâm hồn nhạycảm, tinh tế,

những tấm lòng nhân hậu, bao dung mới có thể cảm nhậnđược.
-Suy nghĩ về niềm vui trong cuộc sống:
+ Niềm vui là những điều mang lại cảm xúc vui vẻ, hạnh phúc,
hân hoan, sung sướng cho con người trong cuộc sống. Niềm vui
không hẳn là những điều to tát, lớn lao mà có thể chỉ là những
điều nhỏ bé, giản dị, quen thuộc.
+ Biết trân trọng những hạnh phúc bé nhỏ, trọn vẹn với niềm vui
giản dị: yêu thương cha mẹ, người thân, yêu gia đình, yêu thiên
nhiên sống hòa hợp với thiên thiên…là chúng ta đã biết sống một
cách ý nghĩa. Đó là bài học sâu sắc và thấm thíavề cách sống cho
mỗi người.
- Liên hệ bản thân
+ Cần biết phát hiện, trân trọng, những niềm vui giản dị, đời
thường trongcuộc sống: người thân, bạn bè, quê hương, thiên
nhiên… đó là cơ sở cho những niềm hạnh phúc lớn lao.
14


+ Phải luôn học tập, rèn luyện để hoàn thiện bản thân, có thái độ
sống tíchcực và đúng đắn
Bài 3. Từ bài thơ Mây và sóng em hiểu gì về nhận định sau:Tình cảm gia đình có
thể giúp con người chống lại những cám dỗ, tai ương của cuộc sống. Trình bày
bằng một đoạn văn.
* Gợi ý:
-Giải nghĩa nhận định:
+ Tình cảm gia đình bao gồm tình mẫu tử, tình bà cháu tình cha con….
+ Cám dỗ, tai ương: những khó khăn, những điều khiến con người ta sống lệch lạc
=>Đề cao vai trò của tình cảm gia đình với cuộc sống của mỗi con người, giúp con
người vượt qua những cám dỗ, tai ương.
-Khẳng định ý kiến đúng đắn

+ Tình cảm gia đình là những tình cảm đẹp, thiêng liêng, rất tựi nhiên, vô cùng quý
giá không gì có thể so sánh được
+ Tình cảm gia đình có vai trò quan trong với mỗi con người: nơi tìm thấy sự ấm
áp, sự sẻ chia, sự yêu thương, sự tiếp sức và nâng đỡ(Chúng minh trong bài Mây và
sóng, trong cuộc sống).
-Bài học nhận thức.
+ Cuộc sống vốn dĩ chứa đầy những cám dỗ, những chùng chình, vòng vèo và cả
những điều bất trắc. Đối diện với nó dễ khiến con người ta sa ngã, dễ đánh mất
mình, sống lạc hướng. Nghĩ đến những người thân yêu trong gia đình: như mẹ, bố,
ông bà…sẽ cho ta thêm độnglực vượt qua.
+Trân trọng nâng niu tình cảm gia đình.
2.4. Kết quả đạt được.
Sau khi áp dụng đề tài này, tôi nhận thấy hiệu quả rõ rệt. Tâm thế học sinh trong
giờ học chủ động không căng thẳng. Các em rất chăm chú mỗi khi cô giáo bình liên
hệ thực tế cuộc sống hay những bài thơ khác. Các em nói rằng: lúc đầu đọc bọn em
thấy thơ chẳng ra thơ mà chuyện chẳng ra chuyện nhưng giờ học xong em lại rất
thích bài thơ này. Nghe các em bộc bạch tôi thực sự rất hạnh phúc bởi xứ mệnh của
người giáo viên dạy văn chỉ có thế mà thôi. Tôi thiết nghĩ nhà văn đưa các em(học
sinh) tới sứ sở của cái đẹp còn người giáo viên dạy văn như chúng tôi lại có nhiệm
vụ giúp đỡ các em đi trên con đường ấy và nhận ra chúng dễ dàng hơn, đầy đủ và
sâu sắc hơn.

15


Bên cạnh đó thì đồng nghiệp dự giờ cũng đánh giá cao tiết học. Người dự cảm
thấy thích thú, thoải mái vì bài giảng có chiều sâu rộng.Hệ thống câu hỏi có sự dẫn
dắt, đơn giản, học sinh trả lời dễ dàng. Giáo viên truyền tải hết đơn vị kiến thức
mong muốn, giờ dạy hấp dẫn.Với bản thân tôi mỗi khi được dạy bài thơ tôi luôn
cảm thấy tự tin và khao khát.

Dưới đây là kết quả khảo sát chất lượng bằng phiếu học tập về bài thơ Mây và
sóng Ngữ văn9 năm học 2017-2018 khi áp dụng đề tài .
Lớp-Sĩ số
Kết quả
Giỏi

9A- 39
9D-37

Khá

TB

Số
lượng

Tỉ lệ
%

Số
lượng

Tỉ lệ
%

Số
Tỉ lệ
lượng %

7

5

17,9
13,5

23
19

59,1
51,4

8
12

20,5
32,4

Yếu
Số
lượn
g
1
1

Tỉ
lệ
%
2,5
2,7


Nhận xét kết quả kiểm tra: Qua quá trình theo dõi kết quả kiểm tra của khối 9 khi
áp dụng kinh nghiệm này vào giảng dạy cho thấy số học sinh hiêu bài sâu sắc hơn,
yêu thích bài học, học sinh khá giỏi tăng trên cả hai phương diện. Học sinh yêu
thích giờ học và đặc biệt biết thương yêu cha mẹ, biết vận dụng làm những bài tập
vận dụng về tình mẫu tử
3. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT.
3.1. Kết luận
Qua việc nghiên cứu và áp dụng giảng dạy đề tài này, tôi rút ra một bài học cho bản
thân là khi dạy các tác phẩm văn học điều quan trọng là làm cho học sinh hiểu bài,
hấp dẫn, gây ấn tượng. Để làm được việc đó, theo tôi cần thực hiện một số vấn đề
sau:
*. Về phía giáo viên:
-Luôn nghiên cứa và soạn giáo án kĩ lưỡng.
- Giảng văn, trước hết phải cảm nhận sâu sắc và thật hiểu được tư tưởng nghệ
thuật của tác giả gửi gắm qua tác phẩm.
- Phải có sự liên hệ, so sánh, đối chiếu (tương đồng hay tương phản) để bài giảng
của mình có chất lượng.
- Việc bình của giáo viên là vô cùng quan trọng.
*. Về phía học sinh:
16


- Soạn bài kĩ trước khi lên lớp.
- Chuẩn bị bài theo sự hướng dẫn của thầy cô.
- Cũng phải có được kĩ năng so sánh, liên hệ khi cảm nhận nhân vật văn học.
3.2.Kiến nghị.
Tôi xin kiến nghị với Phòng giáo dục đối vớinhững sáng kiến có giá trị thực tiễn
cao nên phổ biến học tập rộng rãi ở tất cả giáo viên trong huyện cùng chuyên môn.
Trên đây là kinh nghiệm của cá nhân tôi. Hẳn còn nhiều điều cần bàn bạc, bổ sung.
Tôi kính mong sự đóng góp nhiệt tình của các bạn đồng nghiệp.

Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
Hòa Lộc, ngày 28 tháng 2 năm 2019.
ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm của tôi viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Người viết:

Mai Thị Bình

17


18


19



×