Tải bản đầy đủ (.docx) (63 trang)

TÌNH HÌNH sử DỤNG máu và CHẾ PHẨM máu ở BỆNH NHÂN CHẤN THƯƠNG tại BỆNH VIỆN hữu NGHỊ VIỆT đức năm 2019 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (378.54 KB, 63 trang )

B GIO DC V O TO
TRNG I HC Y H NI

B Y T

-----***-----

NG TH HềA

TìNH HìNH sử dụng MáU
Và CHế PHẩM MáU ở BệNH NHÂN CHấN
THƯƠNG
TạI BệNH VIệN HữU NGHị VIệT ĐứC
NĂM 2019 - 2020
Chuyờn ngnh
Ma sụ

: Huyt hc -Truyn mỏu
: 8720107

CNG LUN VN THC S Y HC
Ngi hng dn khoa hc:
1. TS. Bch Quục Khỏnh
2. PGS.TS Nguyn Mnh Khỏnh

H NI - 2019


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CPDA-1
CTSN


CTN
CTB
CTX
ĐCT
Hb

Citrate phosphat dextrose adenin
Chấn thương sọ não
Chấn thương ngực
Chấn thương bụng
Chấn thương xương
Đa chấn thương
Hemoglobin

HCT

Hematocrit

HLA

Human leucocyte antigen

HST

Huyết sắc tô

HTTĐL
KHC
KTC
MTP

SLHC
SLTC
WHO
TMKLL
TNGT
TNSH
TNLĐ

Huyết tương tươi đông lạnh
Khôi hồng cầu
Khôi tiểu cầu
Máu toàn phần
Sô lượng hồng cầu
Sô lượng tiểu cầu
World Health Organization
Truyền máu khôi lượng lớn
Tai nạn giao thông
Tai nạn sinh hoạt
Tai nạn lao động


MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC BIỂU ĐỒ



6

ĐẶT VẤN ĐỀ
Truyền máu là một liệu pháp điều trị rất có hiệu quả trong nhiều bệnh lý
và đã góp phần hỗ trợ quan trọng trong điều trị và bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
Cũng như mọi liệu pháp y học khác, truyền máu cần được sử dụng đúng đắn,
hợp lý nhằm phát huy tôi đa hiệu quả và hạn chế tôi thiểu những tai biến
truyền máu[1].[2].
Trước đây việc sử dụng máu toàn phần là phổ biến, nhưng ngày nay với
sự phát triển của khoa học kỹ thuật, từ những đơn vị máu của người hiến con
người đã sản xuất ra những chế phẩm máu khác nhau: huyết tương, hồng cầu
khôi, tiểu cầu...cùng với sự hiểu biết sâu rộng về lĩnh vực truyền máu mà
nguyên tắc cơ bản của truyền máu hiện đại có sự thay đổi: “Chỉ định hợp lý;
truyền đúng; truyền đủ; cần gì truyền nấy; không cần không truyền”.
Máu được coi là một loại thuôc đặc biệt vì thế lợi ích và vai trò của
truyền máu phụ thuộc vào từng điều kiện cụ thể, cho đến nay người ta khẳng
định truyền máu có hiệu quả trong những mục đích điều trị như:
1. Khôi phục lượng huyết sắc tô nhằm duy trì chức năng vận chuyển oxy
của máu.
2. Khôi phục thể tích máu nhằm duy trì chức năng sông của cơ thể.
3.Khôi phục khả năng đông cầm máu tránh các nguy cơ mất máu tiếp diễn.
4.Trợ giúp khả năng chông nhiễm trùng của cơ thể thông qua vai trò của
bạch cầu hạt[1].
Trong thực tế lâm sàng có rất nhiều tình huông xảy ra, vì thế việc sử dụng
máu hay chế phẩm máu cần sự phôi hợp của nhiều yếu tô nhiều thành phần, ví
dụ như tình trạng bệnh nhân, tình hình ngân hàng máu, chỉ định của bác sĩ.
Chấn thương là một vấn đề sức khỏe nghiêm trọng không chỉ ở Việt Nam mà
trên toàn thế giới. Theo báo cáo trên tạp chí gây mê của Anh, tập 95 sô 2 tháng



7

8/2005, chấn thương chiếm 1/10 ca tử vong trên toàn thế giới và gần 50% tỷ lệ tử
vong liên quan đến chấn thương là ở những người trẻ trong độ tuổi từ 15 đến 44
tuổi, do đó gánh nặng cho xã hội do mất năng suất lao động là rất lớn.[3]
Trên bệnh nhân chấn thương không đơn thuần là tổn thương riêng lẻ mà
có sự phôi hợp các tổn thương: mạch máu, xương, tạng trong ổ bụng,...vì thế
lượng máu mất trên bệnh nhân chấn thương có thể rất lớn, truyền máu kịp
thời có thể cứu sông bệnh nhân là tiền đề cho thành công của phẫu thuật.
Ngày nay hồi sức cho bệnh nhân chấn thương đã được cải thiện đáng kể.
Tuy nhiên, chảy máu không kiểm soát vẫn là một thách thức lớn, và là một
trong những nguyên nhân gây tử vong liên quan đến chấn thương, vì thế kiểm
soát chảy máu có hiệu quả có thể làm giảm tỷ lệ tử vong, do đó chỉ định điều
trị truyền máu và chế phẩm máu hợp lý, kịp thời là biện pháp điều trị rất quan
trọng trong các trường hợp thiếu máu nặng nhằm cung cấp đủ oxy cho người
bệnh, đồng thời có thể ngăn ngừa chảy máu cho bệnh nhân.
Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức là bệnh viện đầu ngành về lĩnh vực ngoại
khoa của cả nước, thường tiếp nhận và điều trị những trường hợp nặng nên
nhu cầu sử dụng máu và chế phẩm máu là rất cần thiết, vì thế việc chuẩn bị
tôt máu và chế phẩm máu là hết sức quan trọng tạo điều kiện thuận lợi trong
điều trị, vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài: “Tình hình sử dụng máu và chế
phẩm máu ở bệnh nhân chấn thương tại Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức năm
2019 - 2020” với hai mục tiêu sau:
1.

Mô tả đặc điểm sử dụng máu và chế phẩm máu ở
bệnh nhân chấn thương có chỉ định truyền máu tại
Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức năm 2019 - 2020.

2. Phân tích việc chỉ định truyền máu, chế phẩm máu

và mô tả một số thay đổi về lâm sàng, xét nghiệm sau
truyền máu và chế phẩm máu trên bệnh nhân chấn thương.


8

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Lịch sử truyền máu trên thế giới và tại Việt Nam
1.1.1. Lịch sử truyền máu trên thế giới
Những ý tưởng về truyền máu xuất hiện từ thời Hy Lạp và La Mã cổ đại
tuy nhiên do hạn chế hiểu biết về máu và sinh lý tuần hoàn nên truyền máu
chưa được biết đến rộng rãi.
Đầu thập niên 1600 một bác sĩ người Pháp đã tiêm máu bê non vào cơ
thể người điên và kết quả thật bi thảm, người đàn ông đổ mồ hôi, nôn mửa
tiểu ra nước màu đen rồi qua đời sau đợt truyền máu kế tiếp.
Vào năm 1628 bác sĩ người Anh là William Harvey (1578 - 1657) mô tả
được chức năng của tim và sự tuần hoàn của máu trong lòng mạch. Ông chỉ ra
rằng tim là một cái bơm và sự co bóp của tim đẩy máu vào trong động mạch,
máu đó trở lại tim sau khi đã lưu thông qua tĩnh mạch, do đó máu lưu thông
tuần hoàn trong cơ thể [4], [5].
Người đầu tiên ghi nhận truyền máu từ người này sang người khác là
James Blundell, một bác sĩ sản khoa tại bệnh viện Guy and St.Thomas tại
London, ông đã chứng kiến nhiều trường hợp xuất huyết sau sinh, điều này đã
thôi thúc ông nghiên cứu truyền máu trên chó, ông nhận thấy rằng xuất huyết
trên chó có thể cầm được bằng việc truyền máu tĩnh mạch, hiệu quả đạt được
cũng như truyền vào động mạch. Ông kết luận rằng “chỉ nên truyền máu
người cho người”, sau khi quan sát thấy những con chó nhận máu từ người
cho luôn luôn chết. Ông đã đưa ra báo cáo đầu tiên truyền máu từ người này
cho người khác trên báo Medico Chirurgical Society tại London vào 22 tháng

12 năm 1818. Đây là khởi đầu của kỷ nguyên truyền máu y học hiện đại.
Blundell đã đúng về việc máu người mới truyền được cho người, nhưng vẫn
chưa đủ, một người chỉ có thể nhận máu từ 1 sô người nhất định mà thôi.


9

Lịch sử truyền máu trong y học thực sự mở ra vào năm 1901 khi Karl
Landsteiner (1868-1943) phát hiện ra 3 nhóm máu A, B, O và sau đó một năm
(1902) Decastello và Sturli tìm ra nhóm máu AB. Phát minh vĩ đại này đã mở
ra một kỷ nguyên mới cho truyền máu. Năm 1913, Ottenberg học trò của
Landsteiner đã đưa ra xét nghiệm trước truyền máu nhằm loại các máu gây
phản ứng ngưng kết và đưa ra sơ đồ truyền máu mang tên ông, từ đây đã khắc
phục được tình trạng tử vong do truyền nhầm nhóm máu.[4],[5]
Từ 1927- 1947, Landsteiner và các cộng sự đã phát hiện phát nhiều hệ
nhóm máu ngoài ABO như M,N, P,Rh,... với đặc điểm không có kháng thể có
sẵn trong huyết thanh. Cho đến nay, kế tục kết quả của Landsteiner các nhà
khoa học đã phát hiện >300 kháng nguyên hồng cầu góp phần làm tăng hiệu
quả an toàn truyền máu.
Tuy nhiên có một trở ngại trong truyền máu là máu chỉ được lấy từ
người cho, sau khi ra khỏi thành mạch máu sẽ đông lại nhanh chóng, do đó
lượng máu có thể thu thập sử dụng cho truyền máu là rất ít. Do đó các nhà
khoa học đã nghiên cứu ra chất chông đông, ngoài tác dụng chông đông máu,
các chất chông đông còn có khả năng nuôi dưỡng hồng cầu, tiểu cầu và giảm
hao hụt năng lượng, chức năng tế bào không thay đổi.
Các chất chông đông, nuôi dưỡng và bảo quản máu ngày càng được phát
minh và cải tiến. Vào năm 1905, Richard Lewinsohn bác sĩ tại bệnh viện
Mount Sinai ở New Jork, công bô dung dịch natri citrat 0.2 % có tác dụng
chông đông, đồng thời không có độc tính ngay cả khi truyền 2500 ml máu,
tuy nhiên nó chỉ được sử dụng vài giờ sau khi hiến không được sử dụng với

mục đích lưu trữ lâu dài, năm sau ông tiến hành nghiên cứu trên thỏ ông nhận
thấy rằng sau khi đã thêm dextrose vào máu với thời gian bảo quản 2 tuần vẫn
có hiệu quả điều trị sau khi truyền cho thỏ. Từ đó đến nay dung dịch chông
đông ngày càng được cải thiện, ACD (acide citrate dextrose), CPD(citrate


10

phosphat dextrose), CPDA-1(citrate phosphat dextrose adenin) bảo quản máu
được 42 ngày ở nhiệt độ 2-6oC.[4],[5]
Vào năm 1921, tổ chức tiếp nhận máu đầu tiên được thành lập ở London,
do Percy Olive là người sáng lập (1878-1944) ông là thư ký của tổ chức
Camberwell trực thuộc hội chữ thập đỏ Anh. Tháng 10 năm 1921, tổ chức của ông
đã nhận được cuộc gọi điện thoại từ đại học King, có người tình nguyện hiến máu
cho bệnh nhân, điều này đã thôi thúc ông thành lập những nhóm người tình
nguyện trong sô những người quen của ông để có thể liên lạc được nhanh nhất có
máu tươi truyền. Những người hiến máu tình nguyện được kiểm tra về thể chất và
xét nghiệm huyết thanh học để xác định nhóm máu và phát hiện nhiễm giang mai.
Quyền và trách nhiệm của người hiến máu cũng dần được hình thành.
Tuy nhiên việc gọi người hiến máu đến trong khoảng thời gian ngắn để
hiến máu là rất khó khăn, vì thế vào năm 1937, ngân hàng máu đầu tiên đã
được xây dựng ở Chicago- Mỹdo BernardFantus thuộc bệnh viện Cook Cook
thành lập, lúc này máu vẫn thu thập bằng chai và được lưu trữ trong tủ lạnh 10
ngày. Ở Nga do nguồn máu còn rất hạn chế nên đã khiến các bác sĩ lấy máu từ
những người chết . Tới năm 1940, đại chiến thế giới thứ hai, do nhu cầu máu
cho chiến tranh, Mỹ đã thành công động viên được nhiều người cho máu và xây
dựng chương trình thu gom máu qua Hội Chữ thập đỏ. Từ đó, nhiều bệnh viện
đã tổ chức thu gom máu qua Hội Chữ thập đỏ. Nhờ vậy, lượng máu thu được
ngày càng lớn.Trong chiến tranh việc vận chuyển máu bằng chai thủy tinh khó
khăn, nên Murphy và nhiều tác giả khác ở Mỹ đã dùng túi sản xuất từ chất dẻo

polyvinyl lấy máu thay chai.Cùng năm đó Gibson đã chứng minh túi làm từ
plastic dẻo hơn và không gây độc hại như polyvinyl, đặc biệt dễ tách huyết
tương sau khi để lắng hoặc ly tâm. Ngay sau đó các nước tiên tiến đã thay chai
bằng túi dẻo plastic, đây chính là khởi nguyên của tách các thành phần máu và
truyền máu từng phần.[4],[5]
Bên cạnh các thành tựu phát hiện ra kháng nguyên hệ nhóm máu, các cải
tiến về dụng cụ thu gom máu, bao gồm chất chông đông, túi lấy máu, khả năng


11

tách các thành phần máu,... các nhà khoa học còn phát hiện các bệnh nhiễm
trùng, các kỹ thuật mới và hiện đại về an toàn truyền máu. Trong thời gian này
một loạt các bệnh lây qua đường truyền máu đã được xác định: hiv, hbv, sôt
rét...và trở thành một nguyên tắc đảm bảo an toàn truyền máu.[6]
1.1.2. Lịch sử truyền máu tại Việt Nam
Trước năm 1954, công tác truyền máu do quân đội PHÁP tổ chức đầu
tiên tại bệnh viện 108, sau đó là một sô bệnh viện ở Sài Gòn
Từ năm 1954-1975 truyền máu ở Việt Nam chủ yếu phục vụ cho chiến
tranh. Từ 1975- 1993, do nhu cầu điều trị, ngoài các bệnh viện quân đội, các
bệnh viện khác cũng tổ chức tiếp nhận máu và truyền máu. Nguồn máu thu
được chủ yếu từ người bán máu (>95%), tiếp nhận máu bằng chai thủy tinh,
không có trang bị bảo quản, lưu trữ máu, chưa có sàng lọc bệnh nhiễm trùng
trừ (sàng lọc bệnh sôt rét, giang mai), truyền máu toàn phần 100%.[5]
Từ 1993, truyền máu Việt Nam phát triển toàn diện theo hướng phát triển
của khu vực và thế giới với mục tiêu: tập trung, hiện đại, an toàn và hiệu quả.
Ngày 24/1/1994 tại Viện Huyết học - Truyền máu đã phát động phong trào vận
động hiến máu nhân đạo, cho tới nay đã có khoảng 90% máu đang dùng là
donhững người hiến máu tình nguyện. Các trang thiết bị tiếp nhận, bảo quản
máu cũng ngày càng được đổi mới. Sô lượng máu trong toàn quôc thu được

liên tục tăng đội ngũ cán bộ, nhân viên huyết học - truyền máu cũng đã được
bổ sung nhiều và được đào tạo chuyên sâu ở trong và ngoài nước.
Sản xuất và chuẩn hoá các chế phẩm máu bao gồm: khôi hồng cầu nghèo
bạch cầu, khôi tiểu cầu pool, khôi tiểu cầu được tách từ một cá thể trên hệ
thông máy tự động, huyết tương tươi, huyết tương tươi đông lạnh, tủa lạnh
yếu tô VIII và khôi bạch cầu hạt trung tính.
Năm 1992, Bộ Y Tế ban hành “Điều lệnh truyền máu”, năm 2007 là
“Quy chế truyền máu” và tháng 9/2013 thay bằng thông tư 26/2013/TTBYT hướng dẫn hoạt động truyền máu.[7]


12

Phát triển truyền máu lâm sàng: chỉ định và sử dụng hợp lý máu và các
sản phẩm máu. Truyền máu từng phần giúp tránh được những tác dụng phụ
của truyền máu toàn phần như phản ứng tan máu, sôt, dị ứng, tăng sắt huyết
thanh, các biến chứng chuyển hóa, nguy cơ lây truyền các bệnh truyền nhiễm.
Truyền máu từng phần là sử dụng hiệu quả nhất nguồn máu quý giá, tránh
lãng phí do một đơn vị máu có thể tách ra các thành phần máu khác nhau và
được truyền cho nhiều bệnh nhân.[8]
1.2. Đặc điểm của hệ nhóm máu hệ ABO, Rh và các hệ nhóm máu khác
Máu của những người khác nhau có những đặc tính kháng nguyên và
kháng thể khác nhau vì thế kháng thể trong huyết thanh của người này có thể
phản ứng với kháng nguyên trên hồng cầu người khác gây tai biến.
Hiện nay, trên màng hồng cầu người, người ta đã tìm thấy >300 kháng
nguyên trong đó có khoảng 30 kháng nguyên thường gặp. Việc phát hiện thêm
nhiều nhóm kháng nguyên này đã góp phần làm tăng hiệu quả an toàn truyền máu.
1.2.1. Hệ thống nhóm máu ABO
1.2.1.1. Kháng nguyên hệ ABO
Năm 1901, Karl Landsteiner đã phát hiện ra hệ nhóm máu ABO và đây
là hệ nhóm máu có vai trò quan trọng nhất trong truyền máu. Hệ nhóm máu

ABO gồm bôn nhóm máu. Tên của nhóm máu là tên của kháng nguyên có
mặt trên màng hồng cầu.[9],[10], [11]
Bảng 1.1. Đặc điểm các nhóm máu hệ ABO
Nhóm máu

Kháng nguyên
trên hồng cầu

Kháng thể trong
huyết thanh

A

A

Chông B

B

B

Chông A

AB

A và B

Không

O


Không có

Chông A và chông B


13

Ngoài ra trong kháng nguyên A có hai loại kháng nguyên A 1 và A2. Như
vậy nhóm A thực ra có hai nhóm A1 và A2, cũng như có hai nhóm AB là A 1B
và A2B. Trong đó hồng cầu A1 bị ngưng kết mạnh với kháng thể chông A còn
hồng cầu A2 phản ứng kém với kháng thể chông A.
1.2.1.2. Kháng thể hệ ABO
Kháng thể chông A, chông B có trong huyết thanh của những người
không có kháng nguyên tương ứng. Có hai loại:
- Kháng thể tự nhiên[9]: Đặc điểm của hệ nhóm máu ABO là trong huyết
thanh có mặt các kháng thể tương ứng với các kháng nguyên vắng mặt trên
màng hồng cầu, những kháng thể tự nhiên này xuất hiện khi trẻ sinh ra và tồn tại
suôt đời, cụ thể:
+ Kháng thể chông A ở người nhóm máu B;
+ Kháng thể chông B ở người nhóm máu A;
+ Kháng thể chông A và chông B ở người nhóm máu O.
- Kháng thể miễn dịch[9]: Kháng thể miễn dịch xuất hiện do quá trình
kích thích miễn dịch; các điều kiện kích thích miễn dịch.
+ Miễn dịch đồng loài: xuất hiện do bất đồng nhóm máu giữa mẹ và
con; hồng cầu con mang kháng nguyên mà người mẹ không có, khi chuyển
dạ, một ít hồng cầu con sang máu mẹ gây đáp ứng miễn dịch ở mẹ.
+ Miễn dịch khác loài: khi tiếp xúc với các sinh phẩm nguồn gôc động
vật, các huyết thanh (kháng bạch hầu, uôn ván)…
1.2.2. Đặc điểm chính hệ nhóm máu Rh

Năm 1940, Landsteiner và cộng sự đã phát hiện ra hệ nhóm máu “Rh”
trên loài khỉ Rhesus. Giông như kháng nguyên A và B của hệ thông ABO, sự
có mặt hay vắng mặt kháng nguyên Rh là do di truyền.[9], [10], [11]
Nhóm máu hệ Rh là hệ thông nhóm máu phức tạp nhất gồm có 50 kháng
nguyên khác nhau. Tuy nhiên có 5 kháng nguyên quan trọng nhất là D, C, c, E, e.


14

Bản chất kháng nguyên hệ Rh là các protein, các kháng nguyên này được
trải rộng trên màng hồng cầu. Kháng nguyên hệ Rh được phát triển một cách
khá đầy đủ ngay từ những ngày đầu của thai kỳ và duy trì suôt đời.
Người có kháng nguyên D trên bề mặt hồng cầu được gọi là người nhóm
máu Rh(+). Người không có kháng nguyên D trên bề mặt hồng cầu được gọi
là người có nhóm máu Rh(-).
Kháng thể anti-D là kháng thể miễn dịch, bình thường không có trong
huyết thanh của cả Rh(+) và Rh(-). Khi truyền máu Rh(+) cho người Rh(-) thì
những người Rh(-) sẽ sản xuất kháng thể anti-D. Sự tạo thành kháng thể antiD xảy ra chậm, khoảng sau 2- 4 tháng sau nồng độ kháng thể mới đạt đến tôi
đa. Nếu lần sau những người Rh(-) này lại nhận được máu Rh(+) thì các
kháng thể anti-D trong cơ thể họ sẽ làm ngưng kết các hồng cầu cho Rh(+) và
sẽ xảy ra phản ứng truyền máu. Như vậy, không được truyền Rh(+) cho người
nhận Rh(-) nhưng có thể truyền máu Rh(-) cho người Rh(+).
Ngoài ý nghĩa trong truyền máu, kháng nguyên Rh đặc biệt là kháng
nguyên D còn có vai trò trong bệnh tan máu sơ sinh. Người mẹ có nhóm Rh(-)
mang thai con có nhóm máu Rh(+) có thể sinh kháng thể chông D, do khi
chuyển dạ hồng cầu của con đã lọt vào hệ tuần hoàn của mẹ, kích thích cơ thể
mẹ tạo kháng thể và gây tan máu khi mẹ mang thai đứa trẻ có nhóm máu
Rh(+) ở những lần mang thai sau[11].
Ngoài ra, cho đến nay người ta phát hiện rất nhiều kháng nguyên Rh
khác như: kháng nguyên Du, kháng nguyên D từng phần, kháng nguyên C w,

kháng nguyên phức hợp,…
Kháng thể hệ Rh hầu hết kháng thể miễn dịch là IgG, trừ một tỷ lệ thấp
kháng thể miễn dịch chông D là IgM. Kháng thể tự nhiên rất hiếm gặp.
1.2.3. Các hệ nhóm máu khác
Hiện nay đã có tới 35 hệ nhóm máu được ISBT công nhận, đó là hệ nhóm
máu ABO, MNS, P1PK, Rh, Lutheran, Kidd, Kell, Lewis, Duffy, Diego, Yt, Xg,


15

Scienna, Dombrock, Colton, Landsteiner-Wiener, Chido/Rodgers, H, Kx,
Gerbich, Cromer, Knops, Indian, Ok, Raph, John Milton Hagen, I, Globoside,
Gill, RhAG, Forssman, Jr, Lan, Vel, CD 59 [5], [9],[10],[11].
1.3. Máu và các chế phẩm máu
1.3.1. Máu toàn phần
- Là máu tĩnh mạch lấy với dung dịch chông đông từ người hiến máu đã
được tuyển chọn theo quy định.
- Bảo quản máu toàn phần: ở nhiệt độ +2oC đến +6oC trong tủ lạnh chuyên
dụng, trong 35 ngày với dung dịch chông đông CPDA-1. Khi bảo quản ở nhiệt
độ từ +20oC đến +24oC, hạn sử dụng không quá 24 giờ.
1.3.2. Khối hồng cầu đậm đặc
Khôi hồng cầu đậm đặc (hồng cầu lắng) là phần còn lại của máu toàn
phần đã tách huyết tương sau khi ly tâm hoặc để lắng và không thực hiện
thêm bất kỳ công đoạn xử lý nào khác. Lượng hemoglobin tôi thiểu là 10g
từ100ml máu toàn phần được điều chế. Hematocrit từ 0,65 đến 0,75L/L [7].
1.3.3. Khối hồng cầu có dung dịch bảo quản
Khôi hồng cầu có dung dịch bảo quản là phần còn lại của máu toàn phần
đã loại bỏ huyết tương và còn rất ít bạch cầu, tiểu cầu sau khi được ly tâm
hoặc để lắng và có bổ sung dung dịch bảo quản hồng cầu nhằm cải thiện chất
lượng hồng cầu. Hematocrit khoảng 0,50- 0,60L/L[7]

1.3.4. Khối hồng cầu giảm bạch cầu
Khôi hồng cầu giảm bạch cầu là khôi hồng cầu được tách bạch cầu bằng
phương pháp ly tâm loại bỏ trên 70% bạch cầu có trong đơn vị máu toàn phần
ban đầu.Sô lượng bạch cầu còn lại ít hơn 1,2x109 từ mỗi đơn vị khôi hồng cầu
giảm bạch cầu. Hematocrit từ 0,50 đến 0,70L/L[8]
1.3.5. Khối hồng cầu lọc bạch cầu
Khôi hồng cầu lọc bạch cầu là khôi hồng cầu được loại bỏ bạch cầu bằng
bộ lọc bạch cầu (ít hơn 1x106bạch cầu/đơn vị) và được bảo quản trong dung
dịch bảo quản hồng cầu[7]


16

1.3.6. Khối hồng cầu rửa
Khôi hồng cầu rửa là khôi hồng cầu được loại bỏ huyết tương bằng cách
rửa nhiều lần (tôi thiểu 3 lần) với dung dịch muôi đẳng trương và được pha
loãng trong dung dịch muôi đẳng trương hoặc trong dung dịch bảo quản hoặc
trong huyết tương phù hợp.[9]
1.3.7. Khối tiểu cầu [8]
Có hai loại khôi tiểu cầu:
- Khối tiểu cầu pool
+ Được điều chế từ khoảng 1 lít máu toàn phần.Thường từ 3-4 đơn vị
máu toàn phần cùng nhóm ABO có thể chuẩn bị (sản xuất) được 1 đơn vị pool
tiểu cầu (tập hợp tiểu cầu từ nhiều người cho máu).
+ Thành phần: Sô lượng tiểu cầu của 1 đơn vị khoảng 5,5x1010.
- Khối tiểu cầu được gạn tách từ một người cho
+ Là khôi tiểu cầu được chiết tách từ một người cho bằng hệ thông máu
tự động.
+ Thành phần: có ≥ 3,0x1011tiểu cầu/ đơn vị, có ít bạch cầu.
1.3.8. Các chế phẩm huyết tương

- Huyết tương tươi và huyết tương tươi đông lạnh
+ Phần huyết tương tách ra từ máu toàn phần trong thời hạn 6 giờ và tôi
đa không quá 18h kể từ lúc lấy máu gọi là huyết tương tươi (HTT).[16]
+ Huyết tương tươi được làm đông lạnh và được bảo quản ở nhiêt độ
-18oC gọi là huyết tương tươi đông lạnh (HHTĐL).[16]
+ Lượng huyết tương tách từ một đơn vị máu hiện nay códung tích
khoảng 125-150ml. Người ta thường pool (gộp) lượng HTT của hai đơn vị
máu toàn phần cùng nhóm và như vậy dung tích khoảng 250-300ml.
- Tủa lạnh yếu tố VIII[16]
+ Được sản xuất từ những đơn vị HTTĐL được tan đông 2- 6oC.
+ Thành phần: chứa 150- 200mg fibrinogen, 80- 120 đơn vị yếu tô VIII,
20- 40% yếu tô XIII, fibronectin.
- Albumin và globulin miễn dịch
+ Albumin có 2 dạng 5% (50g protein/100ml) và 20% (200g
protein/100ml) được sử dụng cho các trường hợp giảm thể tích tuần hoàn,


17

giảm thể tích protein máu.[8]
+ Globulin miễn dịch: thường được sản xuất dưới dạng dung dịch
truyền tĩnh mạch. Sử dụng cho các trường hợp thiếu hụt gammaglobulin thiếu
hụt miễn dịch, điều trị xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch.
1.3.9. Khối bạch cầu
Chế phẩm giàu bạch cầu hạt được tách từ nhiều đơn vị máu toàn phần. Thể
tích 250ml với sô lượng bạch cầu hạt trung tính > 0.6x1010 bạch cầu. Các đơn vị
khôi bạch cầu này được bảo quản ở 22oC, thời gian bảo quản < 24h.
- Thận trọng: Sử dụng sớm ngay sau khi điều chế.[16]
1.4. Tai biến truyền máu
Truyền máu có thể cứu sông tính mạng của bệnh nhân như bệnh nhân bị

mất máu nhiều trong chấn thương, tai biến sản khoa, phẫu thuật… hay hỗ trợ
điều trị nhiều bệnh… Tuy nhiên truyền máu có thể gây ra nhiều tai biến không
mong muôn. Vì vậy để truyền máu đạt hiệu quả tôt cần hiểu rõ tác dụng có hại
của truyền máu để tìm cách hạn chế, phòng ngừa và xử trí các hậu quả.
1.4.1. Xếp loại tai biến truyền máu theo thời gian biểu hiện [18]
1.4.1.1. Tai biến sớm (cấp)
- Phản ứng tan máu: tan máu cấp tính do truyền máu;
- Tổn thương phổi cấp do truyền máu (Transfusion-Related-Acute-LungInjury: TRALI);
- Phản ứng dị ứng do truyền máu;
- Phản ứng sôt không do tan máu;
- Máu nhiễm khuẩn;
- Tắc mạch khí;
- Nhiễm độc citrat;
- Tăng kali máu;
- Bất thường về đông máu (sau truyền máu khôi lượng lớn);


18

- Quá tải tuần hoàn.
1.4.1.2. Tai biến muộn
- Tan máu muộn do truyền máu;
- Nhiễm virus: viêm gan B, viêm gan C, viêm gan D, HIV...;
- Xoắn khuẩn giang mai;
- Ký sinh trùng sôt rét;
- Nhiễm sắt;
- Phản ứng do đồng miễn dịch.
1.4.2. Một số tai biến truyền máu không mong muốn
1.4.2.1. Các tai biến cấp do truyền máu
 Phản ứng tan máu cấp do truyền máu

- Bệnh sinh: Thường do truyền máu toàn phần hoặc khôi HC không
tương đồng về nhóm máu ABO. Kháng thể kháng A hoặc B (là IgM) vôn có
trong huyết tương bệnh nhân gây ngưng kết hồng cầu có kháng nguyên tương
ứng truyền vào gây tan máu nội mạch cấp tính.[18], [19]
- Biểu hiện lâm sàng: Thường xuất hiện rất sớm sau khi truyền được vài ml
máu. Bệnh nhân thường bắt đầu với các dấu hiệu đau hoặc cảm giác nóng ở
vùng đặt kim truyền máu, kích thích, vật vã, đỏ mặt, ngực, đau thắt lưng, bụng
hoặc đau ngực, buồn nôn và nôn... Các triệu chứng thực thể đi từ nhẹ đến nặng:
sôt, rét run, khó thở, tụt huyết áp, mạch nhanh, đái đỏ do đái huyết sắc tô, thiểu
niệu, vô niệu, xuất huyết và sôc.
 Phản ứng sốt sau truyền máu không do tan máu
- Bệnh sinh: Do không phù hợp nhóm bạch cầu và tiểu cầu của máu
người cho và người nhận (hệ HLA). Kháng thể và kháng nguyên tương tác
dẫn đến giải phóng các chất gây sôt.[18]
- Biểu hiện lâm sàng: sôt có thể kèm theo rét run hoặc không xảy ra
trong hoặc ngay sau truyền máu.
 Các phản ứng dị ứng


19

- Mề đay
+ Bệnh sinh: bệnh hay gặp ở những người có tiền sử dị ứng. Bản chất là
do các dị nguyên có trong huyết tương và các chế phẩm máu có chứa huyết
tương giải phóng histamin từ các mastocyt bị kháng thể (IgG, IgE) bao phủ.
+ Biểu hiện lâm sàng: nổi sẩn ngứa, xuất hiện sớm khi đang truyền máu
hoặc sau truyền máu.[18], [19]
- Sốc phản vệ
+ Bệnh sinh: thường gặp hơn ở những người thiếu hụt IgA bẩm sinh, do
đó có thể tạo ra kháng thể kháng IgA.

+ Biểu hiện lâm sàng: khó thở, tụt huyết áp, co thắt phế quản, nôn, đau
bụng, vã mồ hôi, đại tiểu tiện không tự chủ... thường xảy ra rất sớm sau khi
bắt đầu truyền máu.[18], [19]
 Phản ứng do đồng miễn dịch
- Bệnh sinh: do cơ thể bệnh nhân có phản ứng miễn dịch với các đồng
kháng nguyên có trong chế phẩm máu truyền vào (kháng nguyên hồng cầu,
kháng nguyên HLA, kháng nguyên tiểu cầu đặc hiệu).
- Biểu hiện lâm sàng:
+ Đồng miễn dịch với kháng nguyên hồng cầu gây tan máu cấp hoặc
tan máu muộn sau truyền máu.
+ Đồng miễn dịch với kháng nguyên HLA trên tiểu cầu gây tình trạng
không đáp ứng với truyền máu. Biểu hiện: xuất huyết không giảm hoặc nặng
lên và sô lượng tiểu cầu không tăng sau truyền khôi tiểu cầu. Giảm tiểu cầu
miễn dịch ở trẻ sơ sinh biểu hiện bằng hội chứng xuất huyết rất sớm sau khi
sinh: xuất huyết não- màng não, xuất huyết tiêu hóa.
 Tổn thương phổi cấp do truyền máu (TRALI)
- Bệnh sinh: phản ứng này thường do các kháng thể có trong huyết tương
của các chế phẩm được truyền chông lại bạch cầu của bệnh nhân. Do tương


20

tác kháng nguyên-kháng thể làm cho bạch cầu, tiểu cầu ngưng tập nhiều ở hệ
vi tuần hoàn phổi, làm giải phóng nhiều chất hoạt mạch, làm tăng thấm mạch,
thoát huyết tương và tế bào máu vào phế nang và tổ chức kẽ, gây phù phổi
cấp, hậu quả phổi không trao đổi được khí, giảm oxy máu.
- Lâm sàng: TRALI thường xảy ra trong khoảng 4 giờ sau khi bắt đầu
truyền máu. Bệnh nhân thường có các triệu chứng lâm sàng như phù phổi cấp
(vì vậy TRALI còn được gọi là phù phổi cấp không do tim mạch): sôt, rét, tím
tái, khó thở, huyết áp tụt, phổi có các ran ẩm nhỏ hạt hai đáy phổi... Xét

nghiệm khí máu thấy SaO2 giảm. Xquang phổi: có những nôt mờ rải rác hai
đáy phổi.
 Nhiễm khuẩn cấp
- Nguyên nhân do các chế phẩm bị nhiễm khuẩn trong quá trình thu gom,
sản xuất, lưu trữ. Thường là các vi khuẩn Gram âm (Pseudomonas, E.coli...)
- Biểu hiện lâm sàng: thường là rất nặng bao gồm sôc nhiễm khuẩn do
nội độc tô, đông máu rải rác trong lòng mạch...
 Tai biến do truyền máu khối lượng lớn
- Truyền máu khôi lượng lớn là truyền cho người bệnh một thể tích máu
bằng hoặc lớn hơn thể tích máu của cơ thể bệnh nhân trong thời gian 24 giờ.
- Thường gặp trong các trường hợp cấp cứu chấn thương, phẫu thuật
hoặc tai biến sản khoa. Truyền máu khôi lượng lớn có thể gây ra các biến
chứng sau:
+ Quá tải tuần hoàn;
+ Nhiễm độc citrat và giảm canxi máu;
+ Tăng Kali máu và giảm pH máu;
+ Hạ thân nhiệt;
+ Giảm nặng các yếu tô đông máu;
+ Đông máu rải rác trong lòng mạch.


21

- Khi bắt buộc phải truyền máu khôi lượng lớn, cần theo dõi chặt chẽ
tình trạng lâm sàng của bệnh nhân cũng như xét nghiệm có liên quan để có
thể xử trí kịp thời. Tùy theo loại tai biến mà có biện pháp xử trí thích hợp.
1.4.2.2. Tai biến muộn do truyền máu
 Phản ứng tan máu muộn sau truyền máu.[18], [19]
- Bệnh sinh: do có hiện tượng miễn dịch thứ phát chông lại các đồng
miễn dịch kháng nguyên hồng cầu (ví dụ: hệ Rh, Kell, Kidd...). Kháng thể bắt

đầu tạo ra sau khi người bệnh tiếp xúc với kháng nguyên lạ trong máu truyền
vào 1-2 tuần.
- Biểu hiện lâm sàng:thường không có biểu hiện lâm sàng đặc hiệu cho
tan máu mà chỉ có hiện tượng giảm nồng độ hemoglobin không do các
nguyên nhân khác. Trong trường hợp có cơn tan máu nặng bệnh nhân có biểu
hiện đặc trưng như: sôt rét run, vàng da, thiếu máu...
 Nhiễm sắt do truyền máu nhiều lần[18]
- Bệnh sinh: tích tụ sắt trong tổ chức gây tổn thương các hệ cơ quan bị
nhiễm sắt.
- Biểu hiện lâm sàng: sạm da, tổn thương các hệ cơ quan nhất là tim,
gan, hệ nội tiết, thường thấy sau khi truyền khoảng 30-50 đơn vị máu.
Ngoài ra người bệnh còn có thể bị nhiễm các bệnh lây qua đường truyền
máu: HBV, HIV, HCV, Giang mai, Sôt rét.
1.5. Truyền máu và các chế phẩm máu ở bệnh nhân chấn thương
1.5.1. Một số loại chấn thương thường gặp
Chấn thương là bất kỳ tổn thương nào cho cơ thể do tác nhân vật lý và
cơ học gây nên. Bệnh nhân chấn thương cần được chẩn đoán và xử trí kịp thời
các tổn thương đã có hoặc các tổn thương có nguy cơ xảy ra bởi đội ngũ bác
sĩ liên khoa, nhằm tránh tỷ lệ tử vong hoặc thương tật do chấn thương gây ra.


22

Tất cả các bệnh nhân chấn thương đều có thể gây mất máu, tuy nhiên
lượng máu mất phụ thuộc vào loại bệnh và loại phẫu thuật và người thầy
thuôc cần phải biết lúc nào thì cần truyền máu cho bệnh nhân. Có những bệnh
nhân chấn thương nặng (chấn thương sọ não, vỡ tim, vỡ động mạch chủ hoặc
mạch máu lớn ...) chảy máu cấp tính ồ ạt, nguy cơ rôi loạn đông máu cao,
bệnh nhân có thể shock do giảm thể tích tuần hoàn nguy cơ tử vong cao nếu
không được hồi sức đúng, tuy nhiên cũng có trường hợp bệnh nhân chấn

thương chảy máu rỉ rả (tổn thương ở những mạch máu nhỏ) biểu hiện thiếu
máu xuất hiện vài ngày thậm chí vài tuần sau[27]
1.5.1.1. Chấn thương sọ não(CTSN) [21]
Chấn thương sọ não là tình trạng người bệnh bị sang chấn vào đầu gây
tổn thương hộp sọ và các cấu trúc khác bên trong hộp sọ. Đây là nguyên nhân
gây tử vong cao và để lại di chứng nặng nề cho người bệnh.
Triệu chứng và biểu hiện của chấn thương sọ não thường biểu hiện qua
hai thể là các tổn thương nguyên phát và tổn thương thứ phát.
Nguyên phát là tổn thương có ngay sau tai nạn:


Tổn thương da đầu, thường thấy là da đầu bị rách gây mất máu nhiều.



Hộp sọ, hộp sọ có thể bị vỡ rạn, vỡ theo đường chân chim, vỡ lún gây chèn
vào màng não hoặc tổ chức não. Ở trẻ em, vỡ xương sọ có thể có vỡ sọ tiến triển.



Tổn thương tại màng não, màng não bị rách gây chảy dịch não tủy hoặc
tổ chức não thoát ra ngoài.



Tổn thương ở mạch máu gây máu tụ ngoài màng cứng, dưới màng
cứng. Tổ chức não bị dập và chảy máu trong não.




Ngoài ra còn tổn thương liên quan đến quán tính: Do đầu di động nên
não chịu sự tăng tôc, giảm tôc đột ngột gây ra tổn thương trục lan tỏa làm
bệnh nhân hôn mê kéo dài, triệu chứng lâm sàng không tương xứng với cận
lâm sàng (nặng nề hơn).
Tổn thương thứ phát:


23



Máu tụ trong sọ: Do tổn thương mạch máu xảy ra ngay sau khi tai nạn
hoặc thứ phát sau khi tai nạn xảy ra.



Phù não: Tổn thương hàng rào máu não và tổn thương màng tế bào gây
ra sự tích tụ nước bất thường ở tổ chức kẽ và trong tế bào.



Dãn não thất là hiện tượng do chảy máu làm tắc đường lưu thông của
nước não tủy gây ra.
1.5.1.2. Chấn thương ngực (CTN) [22]
Theo nghiên cứu của TS. Đoàn Quôc Hưng, bộ môn ngoại trường ĐH Y
Hà Nội đây là một chấn thương thường gặp, chiếm khoảng 10-15% chấn
thương tại bệnh việnHN Việt Đức. Nguyên nhân gây ra bao gồm tai nạn giao
thông, tai nạn lao động, tai nạn trong sinh hoạt, dao đâm; còn trong chiến
tranh thì phần lớn là do đạn bom hoặc mảnh đạn.
Chấn thương ngực kín (CTNK): một dạng thương tổn ở thành ngực hoặc

các tạng trong lồng ngực do vật tù đập mạnh vào ngực hoặc do chấn động.
Vết thương thấu ngực (VTTN): khoang màng phổi thông thương với bên
ngoài, chia thành 2 loại: vết thương ngực kín và vết thương ngực hở.
Lồng ngực bao gồm : cơ hoành, xương sườn, phổi, tim, khí - phế
quản,các mạch máu lớn và thần kinh.
Do đó chấn thương lồng ngực nguy cơ chảy máu nhiều là rất lớn, việc
hồi sức tích cực trong đó truyền máu đóng vai trò quan trọng.
1.5.1.3. Chấn thương bụng (CTB) [23]
Thương tổn các tạng trong ổ bụng do chấn thương gây ra là một cấp cứu
ngoại khoa rất thường gặp, tỷ lệ tử vong do mất máu, nhiễm trùng là rất cao
nếu không được phát hiện kịp thời.
Các tổn thương có thể gặp: vỡ gan, vỡ lách, vỡ tụy,dạ dày, bàng quang,
ruột...ngoài ra các tạng cũng có thể bị tổn thương do dây chằng, mạc treo bị rách.
1.5.1.4. Chấn thương gãy xương (CTX) [24]


24

Chấn thương gãy xương là một tổn thương hay gặp, gãy xương là mất
tính liên tục của xương, gãy xương có thể do chấn thương hoặc do bệnh lý,
trong đó nguyên nhân do chấn thương hay gặp nhất.
Xương được nuôi dưỡng bởi hệ mạch máu phong phú, vì thế khi xương
tổn thương thường kèm theo tổn thương mạch máu.
Gãy những xương nhỏ như xương sườn ít ảnh hưởng tới toàn thân,
nhưng gãy những xương lớn như xương đùi, xương chậu, xương cẳng chân...
có thể gây mất máu nhiều, bệnh nhân có thể suy sụp tuần hoàn nếu không
được truyền máu sớm và cô định xương tôt.
Khi bị gãy xương đặc biệt là những xương dài, lượng mỡ từ tủy xương
chảy ra gây tăng áp lực và ngấm lại vào máu, gây nguy cơ tắc mạch. Bệnh
nhân kích thích, lơ mơ, hôn mê, xuất huyết dưới da và kết mạc.Tình trạng này

kéo dài sẽ dẫn tới rôi loạn đông máu, xét nghiệm hồng cầu, tiểu cầu,
hematocrit đều giảm.
1.5.1.5. Đa chấn thương (ĐCT)
Bệnh nhân chấn thương không đơn thuần là tổn thương riêng lẻ mà có
thể có nhiều tổn thương phôi hợp. Đa chấn thương là những bệnh nhân có từ 2
thương tổn nặng trở lên ở các vùng hoặc các cơ quan hệ thông khác nhau,
trong đó có ít nhất một tổn thương hoặc kết hợp các tổn thương đe dọa tính
mạng bệnh nhân (làm rôi loạn chức năng hô hấp, chức năng tuần hoàn)
1.5.2. Phân loại mức độ mất máu trong chấn thương
Dựa vào mức độ mất máu: Theo Advanced Trauma Life Support (ATLS)
[29]

Độ 1

Độ 2

Độ 3

Độ 4


25

Thể tích máu < 750 ml
mất (ml)

750 - 1500 ml 1500-2000 ml

> 2000 ml


Thể tích máu < 15 %
mất (%)

15 % - 30 %

30 - 40 %

>40 %

Huyết áp tôi đa Bình thường
(mm Hg)

Bình thường

Giảm

Giảm

Thời gian về Bình thường
đầy mao mạch

Kéo dài

Rất dài

Không có

Nhịp thở (l/p)

14 - 20


20- 30

30 - 40

> 45

Da, niêm mạc

Hơi nhợt

Da nhợt

Da nhợt, lạnh

Da rất nhợt, hạ
thân nhiệt (35º
C)

Thể tích nước > 30
tiểu (ml/ giờ)

20 - 30

5 -15

<5

Tri giác, thần Tỉnh, hơi lo
kinh


Lo lắng

Lờ đờ, giảm Thờ ơ với ngoại
cảm giác, giảm cảnh/ mất tri giác,
trương lực
đồng tử giãn, rồi
loạn
cơ tròn

Điều trị

Tinh thể

Tinh thể

Tinh thể, máu

Tinh thể, máu

1.5.3. Chỉ định truyền máu và chế phẩm máu trên bệnh nhân chấn thương
A. Dựa vào triệu chứng lâm sàng [33], [29]

• Biểu hiện lâm sàng
- Da xanh niêm mạc nhợt.
- Huyết áp tâm thu dưới 90 mmHg.
- Mạch trên 100 lần/ phút.
- Nhịp thở >20l/p
- Nước tiểu <20 ml/h



×