Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Bài thu hoạch lớp trung cấp lý luận chính trị huế với vấn đề quản lý di sản thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.25 KB, 15 trang )

Đề tài nghiên cứu : Huế với vấn đề Quản lý di sản thế
giới.
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của vấn đề cần nghiên cứu
Trên thực tế, hiện nay công tác quản lý những di sản thế giới ở Việt
Nam đang có nhiều vấn đề bất cập. Vì vậy cần có những nghiên cứu đánh giá
tổng quát và toàn diện về di sản thế giới ở Việt Nam hiện nay, từ đó đưa ra
những giải pháp và mô hình quản lý phù hợp nhằm bảo tồn và phát huy giá
trị của di sản thế giới ở Việt Nam một cách có hiệu quả.
Di sản văn hoá Việt Nam là tài sản quý giá, thể hiện bản sắc của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam, đã được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Di sản văn hoá có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước
của nhân dân ta, góp phần xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam. Chính vì vậy cần được bảo tồn và phát huy.
Vừa qua, chúng tôi đến Thành phố Huế, tôi được nghe, được trải
nghiệm về lịch sử Cố đô Huế, nét đặc sắc của di sản văn hóa Huế, đặc biệt là
Quần thể di tích Cố đô Huế. Hậu quả nặng nề của chiến tranh để lại và thiên
tai tàn phá làm cho nhiều di tích văn hóa ở Thành phố Huế vẫn thường xuyên
bị đe dọa, trong khi những nỗ lực trong công tác trùng tu, bảo vệ Di sản văn
hóa vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của một quần thể di tích có quy mô lớn,
đa dạng, phức tạp. Làm thế nào để gìn giữ được những di sản văn hóa Huế, để
các giá trị Di sản văn hóa Huế tiếp tục được phát huy có hiệu quả? Câu hỏi đó
đã thôi thúc tôi đi sâu tìm hiểu Di sản văn hóa Huế và vấn đề bảo tồn, phát
huy giá trị Di sản văn hóa ở Thành phố Huế hiện nay, với mong muốn được
đóng góp ý kiến và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc giữ
gìn và phát huy các Di sản văn hóa ở Thành phố Huế trong thời gian tới, góp
1


phần xây dựng Thừa Thiên Huế trở thành một tỉnh vững về chính trị, giàu về


kinh tế, đẹp về văn hóa, hướng đến phát triển một nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của bài thu hoạch là Huế với vấn đề Quản lý di
sản thế giới.
3. Phạm vi nghiên cứu
-Về nội dung nghiên cứu: Công tác quản lý và quá trình hoạt động của cơ
quan quản lý di sản thế giới (qua nghiên cứu thực tế tại Cố đô Huế).

2


II. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở lý luận về quản lý di sản
a. Các khái niệm cơ bản
- Di sản văn hoá phi vật thể: Di sản văn hoá phi vật thể được hiểu là
các tập quán, các hình thức thể hiện, biểu đạt tri thức, kỹ năng và kèm theo
đó là những công cụ, đồ vật, đồ tạo tác và các không gian văn hoá có liên
quan mà các cộng đồng, các nhóm người và trong một số trường hợp là các cá
nhân, công nhận là một phần di sản văn hoá của họ.
- Di sản văn hoá vật thể: Di sản văn hoá, bao gồm di sản văn hoá phi
vật thể và di sản văn hoá vật thể, “là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch
sử, văn hóa, khoa học được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở Việt
Nam” và “Di sản văn hoá vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn
hoá, khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh, di vật,
cổ vật, bảo vật quốc gia”.
- Khái niệm quản lý: Quản lý là một hoạt động nhằm đảm bảo sự vận
hành của một hệ thống, một tổ chức một cách liên tục, đúng chức năng.
Chúng ta cũng thường nói đến quản lý với tư cách là một khoa học, trong đó
quản lý dựa trên cơ sở vận dụng các quy luật phát triển của các đối tượng

khác nhau, quy luật tự nhiên hay xã hội. Những hình thức quản lý có ý thức
luôn gắn liền với hoạt động có mục tiêu, có kế hoạch của những tập thể lớn
hay nhỏ của con người và được thực hiện qua những thể chế xã hội đặc biệt.
Mục đích, nội dung, cơ chế và phương pháp quản lý xã hội tuỳ thuộc vào chế
độ chính trị - xã hội.
- Di sản thế giới
+ Các di chỉ: Các công trình của con người hoặc công trình kết hợp
giữa con người và thiên nhiên, và các khu vực gồm có các di chỉ khảo cổ có
giá trị nổi bật toàn cầu xét theo quan điểm lịch sử, thẩm mỹ, dân tộc học hay
nhân học.
+ Các di tích: Các công trình kiến trúc, các công trình điêu khắc và hội
3


hoạ, các yếu tố hoặc các cấu trúc có tính chất khảo cổ học, các dấu khắc, các
nơi cư trú hang động và tổ hợp các đặc điểm, có giá trị nổi bật toàn cầu xét
theo quan điểm lịch sử, nghệ thuật hay khoa học;
+ Các nhóm công trình xây dựng: Các nhóm công trình riêng lẻ hoặc
liên hoàn mà do kiến trúc, tính đồng nhất hoặc vị trí của chúng trong cảnh
quan có giá trị nổi bật toàn cầu xét theo quan điểm lịch sử, nghệ thuật hay
khoa học;
b. Cơ sở lý luận về quản lý di sản
Giữ gìn di sản văn hóa là nhiệm vụ quan trọng, bởi vì xã hội của chúng
ta có trách nhiệm đối với thế hệ hiện tại và tương lai để quản lý tốt nhất tài
sản, di sản đó. Quản lý di sản văn hóa cũng ngày càng trở nên gắn bó với các
mục tiêu chủ yếu khác của phát triển bền vững, một khuôn khổ sinh thái xem
các nguồn lực quý giá như vốn văn hóa quan trọng.
Thời gian qua, các tổ chức văn hóa thế giới như UNESCO và các tổ
chức quốc tế khác có liên quan đã nỗ lực thiết lập nên hệ thống các nguyên
tắc căn bản hoặc đề xuất các thực hành tốt nhất hỗ trợ các quốc gia trên toàn

thế giới trong công tác bảo vệ và quản lý di sản vật thể và phi vật thể. Vai trò
căn bản nhất của các hiến chương hoặc nguyên tắc công bố liên quan đến di
sản của các tổ chức quốc tế này là đưa ra tuyên bố về các nguyên tắc, hướng
dẫn cho công tác bảo tồn và quản lý các điểm có giá trị văn hóa. Các văn bản
này còn đề cập đến nhiều vấn đề khác như là giá trị của di sản, vấn đề bảo
tồn, vấn đề về ý nghĩa di sản và các giai đoạn liên quan tới quá trình lập kế
hoạch bảo tồn di sản. Nhiều nguyên tắc thực hành hiệu quả đề xuất bởi các
văn bản quốc tế này đã được nhiều quốc gia đưa vào trong các quy định pháp
lý hoặc chính sách quản lý di sản của riêng mình.
Hướng theo quan niệm và nhận thức đã nêu trên đây, di sản được coi
như sản phẩm của các quá trình văn hóa, như cách thức lựa chọn và sử dụng
quá khứ của ngày hôm nay, cho hôm nay và ngày mai. Quan điểm mới về di
sản có thể dẫn đến các quyết định thực tế và lô-gíc hơn cho quá trình quản lý
di sản. Hiểu một cách biện chứng và mang tính lịch sử là, vấn đề xã hội cần
4


hướng tới mục tiêu làm sao để sử dụng quá khứ (di sản văn hóa) cho phù hợp,
đem lại các lợi ích lớn nhất cho xã hội chứ không còn là gò bó đi theo quan
điểm này hay quan điểm khác về bảo tồn. Trong trường hợp cần thiết (với
quan điểm mới) người ta vẫn có thể quyết định bảo tồn yếu tố nào đó của quá
khứ nhưng bảo tồn không phải để bảo tồn, gìn giữ một cách cứng nhắc, thuần
túy, mà bảo tồn hiểu theo nghĩa rộng, đó là cách tốt nhất để gìn giữ và phát huy
các giá trị di sản. Và đương nhiên, bên cạnh các hình thức hoạt động bảo tồn,
vẫn còn có thể có nhiều cách khác giúp các nhà quản lý văn hóa và cộng đồng
phát huy giá trị di sản. Đây chính là một trong những cơ sở lý luận cần thiết cho
việc nghiên cứu quá trình quản lý di sản văn hóa trong xã hội hiện nay.
Quan điểm này xuất phát từ tiền đề là mọi di sản đều có tính phi vật
thể. Tuy nhiên trong khi nhấn mạnh vào tính phi vật thể và không bỏ qua tính
vật thể của di sản bởi lẽ: yếu tố xác định một địa điểm di sản hay một bảo

tàng là “di sản” chính là các ý nghĩa và giá trị mà chúng ta trao cho nó đó
chính là chất liệu của di sản. Vì vậy, cho dù là tính vật thể hay phi vật thể của
di sản thì thực chất chúng ta cũng đang bàn về một tập hợp các ý nghĩa và giá
trị. Chính giá trị và ý nghĩa là đối tượng thực sự của việc quản lý và bảo tồn di
sản, như vậy thì mọi di sản là “phi vật thể” cho dù những giá trị hay ý nghĩa
này được biểu trưng bởi một địa điểm, một di tích, một cảnh quan hay một
đại diện vật chất nào đó, hoặc được tái hiện trong các thực hành ngôn ngữ,
các điệu múa, lịch sử truyền miệng hay các hình thức di sản phi vật thể khác
như định nghĩa của UNESCO.
Từ những trình bày về các quan điểm lý thuyết trên đây, bài thu hoạch
sẽ xem xét việc quản lý di sản văn hóa nói chung và di sản thế giới nói riêng
theo quan điểm quản lý di sản bảo tồn, phát triển để di sản sống, phát huy
được các giá trị của nó trong đời sống văn hóa - xã hội đương đại, cần thiết
cho cuộc sống hôm nay và mai sau, coi quá trình quản lý di sản văn hóa là
quá trình tham gia vào xây dựng và phát triển văn hóa và xã hội, quá trình
sáng tạo văn hóa của các chủ thể hiện tại.
5


2. Thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị di tích Cố đô Huế
a. Đặc điểm tình hình
Quần thể di tích Cố đô Huế là những di tích lịch sử - văn hoá do triều
Nguyễn chủ trương xây dựng trong khoảng thời gian từ đầu thế kỷ 19 đến nửa
đầu thế kỷ 20 trên địa bàn kinh đô Huế xưa; nay thuộc phạm vi thành
phố Huế và một vài vùng phụ cận thuộc tỉnh Thừa Thiên-Huế, Việt Nam.
Phần lớn các di tích này nay thuộc sự quản lý của Trung tâm Bảo tồn Di tích
Cố đô Huế và được UNESCO công nhận là Di sản Văn hoá Thế giới vào
ngày 11 tháng 12 năm 1993. Di sản văn hóa Huế bao gồm quần thể di tích Cố
đô, với thành quách, cung điện, lăng tẩm, đàn miếu, chùa quán, cầu cống, phủ
đệ, hệ thống kiến trúc cộng đồng, tôn giáo và kiến trúc dân gian; các di sản

văn hóa phi vật thể liên quan, các khu cảnh quan môi trường độc đáo...
b. Thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị di tích Cố đô Huế
* Những kết quả, thành tựu trong bảo tồn và phát
huy giá trị di tích
Thành phố Huế là đô thị cổ, hình thành hơn 700 năm - Cố đô của Việt
Nam, nằm ở vị trí trung tâm của Việt Nam, trên trục giao thông quan trọng
xuyên Bắc - Nam, trục hành lang Đông - Tây nối Thái Lan, Lào, Việt Nam.
Thành phố là vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, hiện nay là tỉnh lỵ, trung
tâm chính trị, hành chính, kinh tế, văn hóa… của tỉnh Thừa Thiên Huế. Phía
Bắc giáp hai huyện Hương Trà, Quảng Điền, phía Đông giáp huyện Phú Vang,
phía Tây và Nam giáp huyện Hương Thủy. Thành phố có diện tích 5.053,99
km2. Thành phố Huế nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, nóng và ẩm, chịu
ảnh hưởng của khí hậu chuyển tiếp giữa hai miền Bắc - Nam.
Nhìn lại lịch sử, sau khi triều Nguyễn chấm dứt, hai cuộc chiến tranh
kéo dài suốt 30 năm (1945 - 1975) đã tàn phá nghiêm trọng di sản văn hóa
Huế. Từ năm 1975 đến năm 1980, việc bảo tồn di sản văn hóa Huế gặp muôn
vàn khó khăn do đất nước vừa bước ra khỏi chiến tranh, do nguồn nhân lực về
bảo tồn cũng như sự đầu tư hết sức hạn chế. Năm 1983, với sự nỗ lực của
ngành Văn hóa, các cấp các ngành và của địa phương, nguồn kinh phí về bảo
6


tồn di sản Cố đô Huế đã được phê duyệt. Từ đó, nguồn kinh phí đầu tư xây
dựng cơ bản của Nhà nước dành cho Huế ngày càng tăng, góp phần quan
trọng để cải thiện công tác bảo quản, chống xuống cấp và bước đầu trùng tu
các di sản của Cố đô.
Năm 1991, hầu hết các di tích quan trọng của Huế đã được lập hồ sơ
khoanh vùng bảo vệ theo Pháp lệnh Bảo vệ di tích năm 1984 và đã được các
ban, ngành liên quan từ trung ương đến cơ sở tổ chức thực hiện. Trên cơ sở
đó, năm 1992, một bộ hồ sơ khoa học mang tính tổng thể về di tích Cổ đô Huế

đã được thiết lập và được đệ trình lên Ủy ban Di sản thế giới của UNESCO.
Dưới sự chỉ đạo của Bộ Văn hóa - Thông tin và Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân
tỉnh Thừa Thiên - Huế công cuộc bảo tồn di tích Cố đô Huế đã được triển khai
và đạt kết quả rất quan trọng: Di sản văn hoá Huế đã vượt qua giai đoạn cứu
nguy khẩn cấp và từng bước hồi sinh diện mạo ban đầu của một cố đô lịch sử.
Công cuộc bảo tồn di tích Huế chuyển sang giai đoạn ổn định và phát triển
bền vững trên các mặt:
- Bảo quản cấp thiết hầu hết các di tích bằng các biện pháp chống dột,
chống sập, chống mối mọt, chống cây, cỏ xâm thực, gia cố và thay thế các bộ
phận bị lão hóa..., nhờ vậy mà trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt, các di tích
vẫn được bảo tồn và kéo dài tuổi thọ.
- Trùng tu, phục hồi một số công trình tiêu biểu, như Ngọ Môn, điện
Thái Hòa, Hiển Lâm các, cụm di tích Thế miếu, cung Diên Thọ, Duyệt Thị
đường, cung Trường Sanh, hệ thống Trường lang (Tử cấm thành), Minh Lâu,
điện Sùng Ân, Hữu Tùng Tự, Bi Đình (lăng Minh Mạng), điện Hòa Khiêm,
Minh Khiêm Đường, Ôn Khiêm Điện (lăng Tự Đức), Thiên Định Cung, Bi
Đình (lăng Khải Định), chùa Thiên Mụ, cung An Định, các cổng Kinh thành...
Tháng 11 năm 2003, UNESCO đã chính thức ghi danh Nhã nhạc Cung
đình Huế là kiệt tác di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại
(di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại). Đây là một sự kiện có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng, thể hiện tầm vóc và sự phong phú, toàn diện của di
sản văn hóa Huế trên cả hai lĩnh vực văn hóa vật thể và phi vật thể.
7


Đặc biệt, trong lĩnh vực đối ngoại, các giá trị di sản văn hóa Huế còn
được giới thiệu ở các nước, như Lào, Pháp, Bỉ, Áo, Nhật, Hàn Quốc thông
qua các đợt trưng bày triển lãm của Bảo tàng cổ vật Cung đình Huế; các giá
trị văn hóa phi vật thể được giới thiệu ở các nước, như Hàn Quốc, Philippin,
Pháp, Bỉ, Tây Ban Nha, Italia, Nhật Bản, Thụy Sĩ... thông qua các đợt lưu

diễn nghệ thuật của Nhà hát Nghệ thuật truyền thống Cung đình Huế.
Về du lịch, năm 2018 tổng lượt khách du lịch đến Huế ước tính đạt
4.100 nghìn lượt, tăng 7,9% so với năm 2017; trong đó khách quốc tế là 1.950
nghìn tăng 29,9%, khách nội địa là 2.150 nghìn lượt khách, giảm 6,5% so với
năm 2017. Doanh thu du lịch ước tính đạt 4.100 tỷ đồng, tăng 16% so với
năm 2017.
Đặc biệt, theo số liệu Báo cáo của Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô
Huế, năm 2013 Trung tâm đã đón gần 2 triệu lượt khách trong nội địa và
khách quốc tế, doanh thu trên 127 tỷ đồng, năm 2014 đón 1.932.813 lượt
khách, doanh thu trên 139 tỷ đồng, năm 2015 đón 2,3 triệu lượt khách doanh
thu trên 207 tỷ đồng. Việc khai thác và phát huy giá trị di sản cũng đã tạo điều
kiện cho công tác phục hồi các ngành nghề thủ công, các nghi lễ và nghệ
thuật truyền thống. Các nghề đúc đồng, sơn thếp, sản xuất đồ thủ công mỹ
nghệ, làm diều Huế, may áo dài, chằm nón lá, làm kẹo mè xửng, tôm chua,
nghệ thuật ẩm thực, ca Huế...đã có sự phục hồi và phát triền mạnh mẽ, đáp
ứng các nhu cầu của ngành du lịch.
* Hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được thì trước thực trạng
“mỗi nơi một kiểu” mô hình quản lý di tích ở các địa phương, khiến cho công
tác bảo tồn di sản gặp khó khăn. Bộ Văn hóa thể thao và du lich đã yêu cầu
các địa phương kiện toàn bộ máy quản lý di tích, để công tác bảo vệ và quản
lý di tích đạt hiệu quả hơn.
Từ thực trạng quản lý di sản thế giới ở Việt Nam hiện nay, qua nghiên
cứu cụ thể mô hình quản lý di sản thế giới Cố đô Huế (cấp tỉnh) chúng ta thấy
mô hình này vẫn còn nhiều hạn chế cần khắc phục để phát huy hiệu quả hơn
8


nữa trong tương lai, cụ thể như: Cơ chế tài chính, quy hoạch tổng thể… Cố đô
Huế được quản lý bởi Trung tâm bảo tồn di tích Cố đô Huế với một bộ máy

quản lý đồ sộ lên tới hơn 700 người với đầy đủ các phòng ban chức năng,
nghiệp vụ với 17 chức năng nhiệm vụ. Từ thực tế đó Trung tâm Bảo tồn di
tích Cố đô Huế cần phải kiện toàn, sắp xếp lại bộ máy quản lý, đội ngũ cán bộ
công nhân viên hiện nay theo hướng gọn nhẹ nhưng hiệu quả hơn, cần thường
xuyên đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ
hiện có của Trung tâm.
3. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý, bảo tồn và phát huy
giá trị của di sản thế giới
a. Giải pháp về mở rộng mô hình xã hội hóa, đẩy mạnh tuyên truyền,
giáo dục nhằm nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc bảo tồn và
phát huy giá trị Di sản văn hóa
Mở rộng mô hình xã hội hóa hoạt động bảo tồn, tôn tạo Di sản văn hóa để
huy động mọi nguồn lực từ người dân trong nước và nước ngoài, để họ có thể
tham gia vào công tác này dưới nhiều hình thức. Theo quan niệm của
UNESCO, di sản được bảo tồn tốt nhất là trong lòng cộng đồng và bảo tồn di
sản phải gắn liền với lợi ích của người dân. Người dân với vai trò là chủ thể
sáng tạo và hưởng thụ văn hóa, họ có đủ năng lực và thẩm quyền để đánh giá
các giá trị của Di sản văn hóa phi vật thể, quyết định lựa chọn các hiện tượng
văn hóa phi vật thể nào là cần thiết để bảo tồn. Tăng cường công tác tuyên
truyền trong và ngoài nước về giá trị Di sản văn hóa Huế. Tập huấn cho cán
bộ, các tình nguyện viên kiến thức và kỹ năng, thông qua đội ngũ này để
tuyên truyền cho mọi người thực hiện bảo vệ, gìn giữ di sản, nhất là sự tham
gia của lớp trẻ. Các cơ quan chức năng chỉ có thể làm tốt trách nhiệm của
mình khi mọi người nhận thức đúng và cùng tham gia một cách đầy đủ, tích
cực vào sự nghiệp phát triển văn hóa du lịch.
b. Giải pháp về huy động nguồn lực cho việc bảo tồn và phát huy giá trị
Di sản văn hóa
9



Để huy động nguồn lực (nguồn tài chính, nguồn nhân lực), Thành phố cần
thúc đẩy phát triển kinh tế, tăng tích lũy, huy động các nguồn xã hội hóa nhằm
tạo điều kiện tăng đầu tư cho việc bảo tồn và phát huy giá trị Di sản văn hóa.
Tranh thủ tối đa sự ủng hộ của Chính phủ và các Bộ ngành Trung ương để
huy động nguồn lực cho công tác trùng tu di tích. Tăng cường hợp tác trong
lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực, chú trọng các khâu đào tạo để bổ sung cán
bộ nghiên cứu, cán bộ kỹ thuật, bao gồm đào tạo tại chỗ, đào tạo tập trung,
đào tạo trong nước và nước ngoài đáp ứng nhiệm vụ bảo tồn và phát huy giá
trị các Di sản văn hóa. Có chính sách cơ chế khuyến khích đội ngũ nghệ nhân,
nghệ sĩ để họ truyền thụ kiến thức cho thế hệ kế tiếp. Tranh thủ sự hỗ trợ của
giới khoa học, các nhà chuyên môn vào việc hoạch định các chương trình,
giải pháp bảo tồn.
c. Giải pháp về tăng cường công tác nghiên cứu khoa học, nâng cao
năng lực quản lý Di sản văn hóa
Thành phố cần tiếp tục xây dựng các chương trình nghiên cứu, liên kết
với các cơ quan, Viện nghiên cứu để triển khai các đề tài khoa học theo hướng
chuyên sâu, ưu tiên tập trung vào các loại hình phi vật thể gắn với di tích,
nhằm đáp ứng các yêu cầu về thiết lập dự án, hoạch định chương trình bảo
tồn, góp phần vào quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Tranh thủ sự hỗ trợ
của Bộ Văn hóa Thông tin, của các nhà khoa học đầu đàn để làm tốt công tác
tư vấn cho các chuyên ngành khoa học bảo tồn. Tiến hành điều tra từng lĩnh
vực như Âm nhạc cung đình để tiến hành xác định kế hoạch đào tạo, phục hồi
các nội dung tác phẩm, tu bổ các địa điểm diễn xướng. Thẩm định các giá trị
về văn hóa phi vật thể để có biện pháp bảo tồn các lễ hội, các loại hình nghệ
thuật... một cách thiết thực hiệu quả.
Tập trung các nguồn lực để bảo tồn có hiệu quả các giá trị văn hóa theo
Dự án Quy hoạch Bảo tồn và phát huy giá trị di tích Cố đô Huế 1996-2010 đã
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Nâng cao chất lượng bảo tồn đảm bảo
các nguyên tắc của Công ước quốc tế và Luật Di sản Văn hóa quy định. Tập
trung đầu tư có trọng điểm cho việc bảo quản, tu bổ, phục hồi những điểm di

10


tích vật thể; Nghiên cứu, lập hồ sơ, tư liệu và phục hồi các Di sản văn hóa phi
vật thể quan trọng tại các khu Di sản văn hóa. Kết hợp đồng bộ giữa trùng tu
di tích, với xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật. Tiến hành sưu tầm, tổ chức trưng
bày các hiện vật độc đáo vào những không gian mà nó đã tồn tại; sớm xây
dựng kế hoạch sưu tầm tư liệu, bảo quản cất giữ để khi có kinh phí và điều
kiện khác, có thể triển khai kịp thời. Nâng cao chất lượng trưng bày ở các khu
di tích và ở Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế, tạo sự hợp lý giữa tính biên
niên và tính chủ đề, giữa nghệ thuật và lịch sử để đáp ứng yêu cầu của công
chúng và của du khách về mặt hưởng thụ các giá trị văn hóa.
Ứng dụng các kỹ thuật, công nghệ tiên tiến vào quản lý, bảo quản công
trình, hiện vật, các tư liệu văn hóa lịch sử. Thiết lập hệ thống tư liệu thông tin
về Di sản văn hóa động sản nhằm phục vụ công tác quản lý cũng như hợp tác
nghiên cứu giữa các khu di sản, các bảo tàng trong nước cũng như quốc tế,
nhằm ngăn chặn có hiệu quả sự xâm hại và tra cứu tìm kiếm khi hiện vật bị
mất mát. Tuyên truyền và phổ biến các quy định, kiến thức bảo quản để các tổ
chức, nhân dân biết và tiến hành giữ gìn những giá trị mà họ đang sở hữu.
d. Giải pháp về hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tăng
cường đổi mới công tác quản lý nhà nước
Ngành văn hóa và chính quyền địa phương Thành phố cần tập trung hoàn
thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Chấp hành nghiêm túc Luật Di
sản văn hóa trong quá trình xây dựng và thực hiện các dự án: chỉnh trang cảnh
quan đô thị; giải tỏa dân cư ở các khu di tích đã được khoanh vùng bảo vệ...
Tiếp tục ban hành các quyết định, quy chế quản lý cải tạo, xây dựng các công
trình kiến trúc trong khu Kinh thành và các lăng tẩm. Xây dựng các thiết chế
phục vụ cho các hoạt động chuyên môn tiến tới xây dựng Huế thành một
Trung tâm chuẩn mực về lĩnh vực bảo tồn.
Từng bước kiện toàn bộ máy nghiệp vụ bảo tồn tương xứng với quy mô

và tính chất công việc, tạo tiền đề cho việc không ngừng nâng cao năng lực
quản lý và hiệu quả của các cấp, các ngành trong việc phối hợp triển khai các
kế hoạch được xác định trong từng giai đoạn của Dự án Bảo tồn và Phát huy
11


giá trị di tích Cố đô Huế 1996-2010. Chỉ trên cơ sở đó mới thực hiện thắng
lợi các nhiệm vụ Nghị quyết TW5 (Khóa VIII) đã đề ra là: "Nâng cao chất
lượng của các thiết chế văn hóa hiện có, sắp xếp hợp lý các cơ quan hành
chính, các đơn vị sự nghiệp và kinh doanh, nâng cấp các đơn vị văn hóa nghệ
thuật trọng điểm tạo chất lượng mới cho toàn ngành".
e. Giải pháp gắn kết chặt chẽ Di sản văn hóa với phát triển du lịch
Thành phố cần tăng cường hợp tác giữa các cấp, các ngành ở Trung
ương và địa phương, giữa ngành du lịch và bảo tồn Di sản văn hóa để tạo ra
sự phát triển du lịch thực sự bền vững; lồng ghép tốt giữa Chương trình mục
tiêu quốc gia về chống xuống cấp và tôn tạo di tích, bảo tồn di sản văn hóa
phi vật thể và Chương trình quốc gia về du lịch, các chương trình về môi
trường, phát triển rừng, giáo dục, các quy họach phát triển kinh tế - xã hội tại
các khu vực có Di sản văn hóa. Từng bước nghiên cứu để tiếp tục triển khai
các phòng trưng bày, các bảo tàng chuyên đề mang tính độc đáo của vùng đất
lịch sử văn hóa như: Sưu tập các mẫu hình vật liệu xây dựng truyền thống,
Khoa cử giáo dục dưới triều Nguyễn, Di sản Hán Nôm Huế... ; Kết hợp trưng
bày với việc minh họa bằng biểu diễn các động tác nghề nghiệp, chế tác sản
phẩm tại chỗ, tạo nên những điểm tham quan mới hấp dẫn, giảm bớt mật độ
khách ở các điểm tập trung, làm cho Di sản văn hóa phi vật thể được khách
tiếp cận nhanh nhất. Phối hợp chặt chẽ giữa các ngành như giao thông vận tải,
hàng không và các cơ quan địa phương đảm bảo cho môi trường Di sản văn
hóa được trong sạch, tạo sự ổn định, bền vững cho di sản, sự an toàn cho
khách tham quan du lịch.
f. Giải pháp đẩy mạnh quan hệ hợp tác quốc tế

Thành phố cần đẩy mạnh quan hệ hợp tác đối ngoại để tìm kiếm thêm
sự hỗ trợ của các tổ chức chính phủ và phi chính phủ kể cả về nguồn vốn,
chuyên gia, kỹ thuật và đào tạo nhân lực. Thực hiện có hiệu quả các dự án đã
cam kết với UNESCO và các tổ chức quốc tế. Tăng cường liên kết để mở
rộng các đề tài khoa học, các chương trình hợp tác để khẳng định vị trí của
khu di sản Huế.
12


III. KẾT LUẬN
Các di sản thế giới đã thể hiện được vai trò là nhân tố thúc đẩy phát
triển kinh tế, văn hóa và du lịch một cách bền vững. Việc bảo tồn các di sản
thế giới trong thời gian qua Việt Nam đã có những nỗ lực to lớn trong việc
ban hành một hệ thống văn bản pháp lý về quản lý, bảo tồn di tích nói chung
và di sản thế giới nói riêng từ Trung ương đến địa phương ngày một hoàn
thiện hơn.
Những di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới là kết tinh hàng nghìn
năm và là trí tuệ của dân tộc Việt Nam qua từng thời kỳ lịch sử, là những giá
trị đặc sắc của thiên nhiên ban tặng mà nhiều thế hệ người Việt Nam đã dày
công gìn giữ. Quản lý, bảo tồn các di sản thế giới chính là vun đắp tình yêu
quê hương, đất nước, là niềm tự hào dân tộc trong mỗi người Việt Nam; đồng
thời còn xây dựng "nhịp cầu" văn hóa, hòa bình, hữu nghị nối dân tộc Việt
Nam với bạn bè quốc tế.
Kể từ năm 1993, khi di sản đầu tiên của Việt Nam là Cố đô Huế được
ghi danh là di sản thế giới đến nay, nhận thức của cả hệ thống chính trị và
người dân về giá trị và tầm quan trọng của di sản thế giới đã ngày càng được
nâng lên. Các cấp các ngành và các địa phương có di sản đã có nhiều chính
sách quản lý, bảo vệ, đầu tư và phát huy giá trị của di sản, góp phần vào công
cuộc phát triển kinh tế xã hội, trên thực tế nhiều di sản thế giới đã trở thành
nguồn lực đóng góp một phần không nhỏ vào phát triển kinh tế, tạo công việc

làm cho người dân tại địa phương.
Năm 2002, Luật Di sản văn hóa có hiệu lực và được sửa đổi bổ sung
năm 2009, trở thành cơ sở pháp lý để các cấp, các ngành, các đơn vị liên quan
thiết lập chức năng và trách nhiệm của mình trong việc phát huy tính chủ
động sáng tạo, xây dựng và triển khai có hiệu quả các mô hình hợp lý, khoa
học để bảo tồn, phát huy các giá trị của di sản thế giới ở Việt Nam trong thời
13


gian tới đạt hiệu quả cao hơn để các di sản thế giới thực sự là nhân tố quan
trong trong việc phát triển kinh tế xã hội.
Chuyến đi nghiên cứu thực tế tại Thành phố Huế đã giúp cho học viên
của lớp Trung cấp lý luận chính trị - hành chính chúng tôi có rất nhiều kỷ
niệm đáng nhớ, tăng sự nhận thức và hiểu biết về nhiều mặt, có nhiều trải
nghiệm và được bổ sung nhiều kiến thức thực tế rất bổ ích, làm căn cứ thực
hiện bài thu hoạch, giúp học viên vận dụng sáng tạo, phù hợp những kiến thức
có được qua trải nghiệm thực tế vào điều kiện, nhiệm vụ cụ thể của cơ quan,
đơn vị mình, góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của
địa phương và đất nước.
Xác nhận của GVCN

Học viên
( Ký và ghi rõ họ tên)

14


15




×