Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Một số biện pháp rèn kĩ năng nghe và tập kể chuyện cho học sinh lớp 1 nhằm nâng cao chất lượng dạy và học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.35 MB, 18 trang )

MỤC LỤC
TT
1
1.1
1.2
1.3
1.4
1.5
2
2.1
2.2
2.3
2.4
3
3.1

Nội dung
Mở đầu
Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Những điểm mới của sáng kiến
Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Các biện pháp tổ chức thực hiện
Hiệu quả đạt được của sáng kiến
Kết luận và kiến nghị
Kết luận


Trang
1-2
2
2
2
2
3
3-6
6 - 18
18
18 - 19

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
Tiếng Việt trong trườngTiểu học là môn học rất quan trọng, được coi là công cụ
để học tốt các môn học khác. Tiếng Việt gồm nhiều phân môn, trong đó có phân
môn kể chuyện, đặc biệt là phân môn kể chuyện lớp 1 có vị trí hết sức quan trọng
trong việc hình thành nhân cách của học sinh. Kể chuyện ngoài mục đích giải trí,
kích thích hứng thú học tập, bồi dưỡng tâm hồn những cảm xúc và thẩm mĩ lành
mạnh cho học sinh mà còn đem lại niềm vui, sự yêu đời, hồn nhiên, trau dồi vốn
Tiếng Việt giúp các em phát triển tư duy và ngôn ngữ, mở rộng vốn từ ngữ Tiếng
Việt. Từ đó các em thêm yêu tiếng Việt hơn, biết giữ gìn Tiếng Việt ngày càng
trong sáng hơn.
Với Kể chuyện, nói đến vị trí và vai trò của nó trước hết ta phải nói nó là một
món ăn tinh thần không thể thiếu được trong cuộc sống, đặc biệt là với trẻ em. Các
em rất thích nghe kể chuyện, từ lúc 3 - 4 tuổi các em đã được nghe kể những mẫu
1


chuyện qua lời kể của bà, của mẹ, của cô giáo. Niềm say mê ngày càng lớn dần

cùng độ tuổi của các em. Khi đã biết đọc, biết viết, các em vẫn thích nghe cô kể
chuyện. Mỗi câu chuyện là một tình huống hấp dẫn, đều có sức thu hút mạnh mẽ sự
chú ý của các em. Do đó, môn Kể chuyện có trong chương trình Tiểu học nói
chung, trong chương trình lớp 1 nói riêng trước tiên là để thoả mãn nhu cầu nghe
kể chuyện và bước đầu tập kể chuyện của các em. Bên cạnh đó, kể chuyện còn là
phương tiện giáo dục rất cơ bản, quan trọng và có hiệu quả. Qua mỗi bài kể chuyện
đều là sự tích hợp kiến thức của các phân môn trong Tiếng Việt và vốn hiểu biết đó
đều được vận dụng một cách hợp lý, sáng tạo, đặc biệt rèn kỹ năng nghe - nói rất
nhiều. Kể chuyện giúp các em diễn đạt vấn đề một cách trôi chảy, lưu loát, biết biến
câu chuyện mà mình được nghe thành văn bản của mình để kể lại. Hơn thế nữa còn
giáo dục các em biết phân biệt rõ ràng giữa yêu và ghét, thích hay không thích, biết
sống có lý tưởng và vươn tới cái đẹp, hành động vì cái đẹp.
Nhiệm vụ của môn Kể chuyện ở trường Tiểu học là: Bồi dưỡng tâm hồn trẻ,
góp phần hình thành cảm xúc và thẩm mỹ lành mạnh, làm giàu thêm vốn sống và
vốn hiểu biết của trẻ, phát triển tư duy và nâng cao trình độ Tiếng Việt cho các em.
Mặt khác, môn kể chuyện còn có nhiệm vụ hình thành và rèn luyện cho học
sinh những kĩ năng cơ bản nghe và nói.
Nghe trong hội thoại. Nghe kết hợp đọc và hình thành đoạn của câu chuyện.
Nói trong giao tiếp. Biết chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi,… Đây là nền tảng rèn kỹ
năng nghe, kỹ năng kể, kỹ năng giao tiếp cho học sinh trong quá trình học tập và
rèn luyện.
Vậy với mục tiêu giáo dục, vị trí, vai trò và nhiệm vụ của môn kể chuyện như
vậy. Làm thế nào để nâng cao chất lượng giờ dạy? Đặc biệt là làm thế nào để học
sinh được nghe (để nắm bắt văn bản) và tập kể lại (một cách hấp dẫn câu chuyện
thật hồn nhiên). Liệu có một giải pháp hữu hiệu nào để các giờ kể chuyện luôn hấp
dẫn và gây hứng thú lôi cuốn các em không? Đó là điều mà tôi và đồng nghiệp rất
trăn trở trong nhiều năm qua. Ngoài ra còn tạo tiền đề cho các em lớp 1 bước vào
lớp 2 học tiếp chương trình trường học mới VNEN đạt kết quả tốt. Chính vì vậy tôi
mạnh dạn chọn đề tài “Một số biện pháp rèn kỹ năng nghe và tập Kể chuyện cho
học sinh lớp 1 nhằm nâng cao chất lượng dạy học”.

1.2. Mục đích nghiên cứu.
Tìm hiểu những khó khăn của giáo viên khi dạy học sinh tập kể chuyện và
tình hình thực tế của học sinh lớp 1D khi học kể chuyện, từ đó chỉ ra nguyên nhân
dẫn đến tình trạng học sinh còn rụt rè, nhút nhát, không tự tin, nói ngập ngừng, …
trong luyện nói, cũng như kể chuyện.
Tìm ra những phương pháp khả thi để học sinh có được kỹ năng nghe
chuyện, ghi nhớ nội dung chuyện và kể lại được nội dung câu chuyện.
2


1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Học sinh Trường Tiểu học ……………….
- Học sinh lớp 1D Trường Tiểu học…. … năm học 2018 - 2019.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp trắc nghiệm.
- Phương pháp đàm thoại, trao đổi.
- Phương pháp thực hiện.
- Phương pháp phối kết hợp với phụ huynh học sinh.
- Phương pháp thi đua khen thưởng.
5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm.
- Nghiên cứu về "Một số biện pháp rèn kỹ năng nghe và tập kể chuyện cho
học sinh lớp 1 nhằm nâng cao chất lượng dạy và học”.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận.
Ngày nay, xã hội ngày càng phát triển mạnh mẽ về mọi mặt. Việc rèn cho
học sinh kỹ năng nghe, nói, biết kể lại nội dung một câu chuyện hay một nội dung
văn bản nào đấy để các em có kỹ năng trong giao tiếp là một vấn đề đang được mọi
nhà, mọi người quan tâm. Việc rèn kỹ năng nghe, nói và tập kể chuyện cho học
sinh Tiểu học nói chung, học sinh lớp 1 nói riêng đã được rất nhiều thế hệ thầy cô

giáo quan tâm, trăn trở, góp nhiều công sức cải tiến vấn đề này.
Dạy cho học sinh kỹ năng nghe và tập kể lại chuyện là giúp cho học sinh tính
mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp. Ngoài ra còn giúp các em mở rộng vốn từ ngữ với
những chuẩn mực về nhân cách con người như lòng trung thực, tính thật thà, dũng
cảm, khiêm tốn, biết bảo vệ lẽ phải, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, cái đẹp
của thiên nhiên và con người Việt Nam. Tất cả được xây dựng và lưu truyền qua
các câu chuyện dành cho từng lứa tuổi học sinh, đặc biệt là lứa tuổi học sinh lớp
Một nói riêng và cấp tiểu học nói chung.
2.2. Thực trạng
1.Thuận lợi:
Trường chúng tôi nằm ngay giữa trung tâm Thị trấn, số lượng giáo viên đủ,
trình độ đạt chuẩn trở lên. Mỗi giáo viên đều có tinh thần trách nhiệm cao trong
3


công việc được giao. Trường có bề dày thành tích trong tất cả các hoạt động giáo
dục. Hằng năm trường chúng tôi rất vinh dự được đón nhiều đoàn khách trong
Tỉnh, trong Huyện, các tổ chức nước ngoài về thăm trường xứng đáng là địa chỉ đỏ
khối Tiểu học trong Huyện nhà.
Về lãnh đạo địa phương: Trường chúng tôi đã nhận được sự quan tâm đặc
biệt của các cấp lãnh đạo địa phương. Ngôi trường có 3 dãy nhà tầng khang trang
sạch đẹp, an toàn, lành mạnh cho học sinh học tập. Có đầy đủ các phòng chức năng
cho Giáo viên và học sinh học tập và các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
Về học sinh: Qua tìm hiểu tôi được biết, các em rất thích học môn kể chuyện.
Hình như hàng tuần, hàng giờ lúc nào các em cũng mong ngóng làm sao cho nhanh
đến giờ kể chuyện, mặc dù chưa biết đó là câu chuyện gì. Đặc biệt là trong giờ kể
chuyện, các em thích nghe cô kể hơn là cô đọc văn bản truyện vì cô kể sẽ hấp dẫn
hơn. Thích nghe và kể cho người khác nghe. Nếu được gọi kể thì các em chỉ kể
theo gợi ý của truyện sau mỗi tranh, chưa liên kết được các bức tranh (để có một
đoạn truyện hoặc cả truyện) lý do là các em chưa nắm được nội dung truyện khi

nghe kể và kỹ năng nói còn kém, mặc dù sau mỗi bài Tập đọc các em được rèn kỹ
năng nói. Song vẫn có một số ít học sinh biết kể lại cả chuyện một cách trôi chảy
và hấp dẫn, biết nhập vai nhân vật trong chuyện để kể lại. Qua đó ta thấy rằng, cái
hay của chương trình thay sách là nó bổ trợ một phần lớn cho phân môn kể chuyện.
Nhưng thực ra giúp các em nắm văn bản và mạnh dạn diễn đạt lại nội dung văn
bản. Nếu như có sự đầu tư hơn về việc rèn kỹ năng kể chuyện của giáo viên và tập
luyện cho học sinh, chắc chắn rằng các em sẽ có kỹ năng nghe - kể tốt hơn.
Về Phụ huynh học sinh: Phụ huynh quan tâm đặc biệt đến việc học hành của
con em, chăm sóc sức khỏe cho HS tốt các em tham gia học tập chuyên cần.
2. Khó khăn:
Do đặc điểm tâm sinh lí của các em mới rời trường Mầm non và bước
chân vào lớp 1. Tất cả mọi nề nếp, giờ giấc học tập đều xa lạ chưa đi vào nề nếp, kỉ
luật nhất định. Các em khá rụt rè chưa quen với cách học cũng như chưa mạnh dạn
bày tỏ ý kiến, khi phát biểu các em nói không rõ ràng, nói trống không. Nhiều em
nói chuyện theo thói quen và sở thích, nói tự do, rất dễ nhớ nhưng lại mau quên nên
việc ghi nhớ nội dung bài học còn máy móc, ngay cả khả năng lắng nghe của các
em cũng hạn chế nhiều.
Mặt khác, vốn từ ngữ Tiếng Việt của các em còn hạn chế, trình độ nhận thức
không đồng đều nên các em chưa phân biệt được sự khác nhau trong cách phát âm
mà chỉ tiếp nhận một cách chung chung, khả năng chú ý của các em không ổn định.
Kinh nghiệm sống của trẻ còn nghèo nàn, dẫn đến tình trạng trẻ dùng từ không
chính xác, câu lủng củng, phát âm do ảnh hưởng ngôn ngữ của người lớn xung
quanh, nói tiếng địa phương, nói ngọng.
Như chúng ta đã biết, hiện nay cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 phát triển
mạnh mẽ như vũ bảo, mạng lưới Internet phủ sóng khắp mọi miền đất nước nên các

4


em cần gì thì ngay lập tức sẽ được đáp ứng ngay nhu cầu của các em. Ngoài giờ

học trên lớp, về nhà bố mẹ cho con sử dụng điện thoại chơi trò chơi để con không
nghịch cho bố mẹ làm việc. Ví dụ, khi các em cần một tìm một trò chơi gì đấy các
em chỉ cần gõ Google là được đáp ứng ngay mà không cần dùng lời nói để yêu cầu
hoặc xin phép, đây cũng là một trong những nguyên nhân của việc chậm phát triển
ngôn ngữ cho các em.
Bên cạnh đó, bản thân đã dạy lớp 1 lâu năm, riêng phần kể chuyện thì bộ
tranh kể chưa có, chúng rôi chỉ dùng tranh pôtô cho nên tính khoa học và thẫm mĩ
chưa cao, hoặc dùng tranh trong sách giáo khoa vì tranh nhỏ chỉ học theo nhóm
không treo lên bảng được. Nếu treo tranh lên bảng thì tranh bé, học sinh khó khăn
trong việc quan sát tranh, khai thác nội dung tranh, hạn chế sự hứng thú kể chuyện
của các em. Ngoài ra, mỗi lần dạy kể truyện mà đi poto còn làm mất thời gian, gây
tốn kém.
* NGUYÊN NHÂN CỦA THỰC TRẠNG:
Đi sâu tìm hiểu thực tế qua các tiết dạy kể chuyện tôi thấy nguyên nhân dẫn
đến những hạn chế của học sinh lớp Một do các nguyên nhân chủ yếu sau đây.
a. Về học sinh:
Ở trường Mầm non hoạt động vui chơi là chủ yếu, khi bước vào lớp 1 thì
hoạt động học tập là chủ yếu. Ngay từ đầu năm học các em gặp rất nhiều khó khăn,
bỡ ngỡ trong cách học vì các em chưa đọc, viết thuộc bảng chữ cái, chữ ghép.
Vốn tiếng mẹ đẻ còn ít.
Các em nói tự do, nói bâng quơ, nói ngọng.
Do tâm lý lứa tuổi học sinh lớp Một, các em chóng nhớ nhưng lại mau quên,
nhanh chán, luyện tập theo đúng yêu cầu của giáo viên còn gặp nhiều hạn chế.
b. Về giáo viên:
- Trong quá trình dạy trực tiếp trên lớp với tinh thần trách nhiệm cao, hướng dẫn,
giúp đỡ học sinh tận tình nhưng kết quả thu được vẫn không hài lòng.
c. Về phụ huynh:
Một số ít phụ huynh chưa thực sự chú tâm đến phân môn kể chuyện, chỉ coi
trong đọc, viết, làm toán, Tiếng Anh, …. Phụ huynh nghĩ cứ học giỏi các môn đó
thì đã đạt tốt rồi.

Một số gia đình do phải mưu sinh với cuộc sống để con ở với ông bà đi làm
ăn xa nên sự giúp đỡ, chia sẻ việc học ở nhà với con còn gặp nhiều khó khăn, tất cả
phó mặc cho Thầy cô giáo.
TIẾN HÀNH KHẢO SÁT
Tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng của học sinh từ đó lấy căn cứ để làm cơ
sở kiểm chứng sau này. Ngay từ đầu năm học tôi cho học sinh lớp 1D lần lượt lên
kể trước lớp theo câu hỏi gợi ý của cô như sau:
? Em tên là gì?
? Năm nay em mấy tuổi?
? Nhà em ở đâu?
? Bố mẹ em làm nghề gì?
5


? Em thích ăn nhất là món gì?
? Em có thích đi học không? Vì sao?
Sau khi kiểm tra tôi thu được kết quả sau:
Tổng
HS
35 em

Tốt
(Kể chuyện hay, hấp dẫn mức bình thường)

Đạt yêu cầu
(Biết kể đúng nội
dung truyện)

Chưa đạt yêu cầu
(Chưa biết kể)


8 em ≈ 22,9%

11 em ≈ 31,4 %

16 em ≈ 45,7 %

Chính vì những lẽ đó mà tôi đã dành khá nhiều thời gian, tâm sức nghiên cứu
về vấn đề này. Hôm nay tôi mạnh dạn trình bày đề tài “Một số biện pháp rèn kỹ
năng nghe và tập kể chuyện cho học sinh lớp Một nhằm nâng cao chất lượng
dạy học” đúc kết kinh nghiệm từ quá trình dạy học của bản thân tôi trong các năm
học vừa qua, đặc biệt là năm học 2017 – 2018. Rất mong nhận được sự góp ý chân
thành của cấp trên cùng quý bạn đồng nghiệp để tôi ngày càng có thêm nhiều kinh
nghiệm qúy báu trong công tác dạy học, giúp tôi hoàn thành tốt hơn và cũng là
hoàn thiện bản thân mình hơn.
2.3. Các biện pháp tổ chức thực hiện.
Biện pháp 1. Tìm hiểu đặc điểm của học sinh:
a. Đặc điểm phát âm:
Để các em đã phát âm tốt hơn, rõ hơn, ít ê a, ậm ừ, nói ngọng, nói tiếng
địa phương thì trong quá trình dạy học phần học vần giáo viên phải dạy tốt cách
phát âm cho học sinh. Ví dụ, khi dạy bài 42: ưu- ươu, giáo viên phải giúp học sinh
phân biệt rõ những âm thanh khó, những từ có 2-3 âm tiết như: lựu, hươu, mướp,…
Để các em đọc đúng với những tiếng từ có âm tiết tương tự khi phát âm như: lựu –
lịu, hươu – hiu, iên – in, uôn – un, …..
b. Đặc điểm về vốn từ:
Vốn từ của các em tăng nhanh. Danh từ và động từ vẫn chiếm ưu thế,
tính từ và các loại từ khác các em đã sử dụng nhiều hơn.
Các em đã sử dụng chính xác các từ chỉ tính chất không gian như: Cao
thấp, dài ngắn, rộng hẹp, các từ chỉ tốc độ như: nhanh - chậm, các từ chỉ màu sắc:
đỏ, vàng, trắng, đen. Ngoài ra các từ có khái niệm tương đối như: hôm qua, hôm

nay, ngày mai, thì các em dùng chưa chính xác.
c. Đặc điểm ngữ pháp:
Câu dùng đã chính xác và dài hơn. Ví dụ: Câu phức đẳng lập: “Tích chu đi
chơi, tích chu không lấy nước cho bà”. Câu ghép chính phụ: “Cháu thích chơi lắp
ráp ở nhà thôi”, hoặc là “ Cháu xây được nhà đẹp thì bạn Huyền lại gỡ ra rồi”……..
Học sinh ít sử dụng câu cụt hơn, tuy nhiên trong một số trường hợp dùng từ
trong câu vẫn chưa thật chính xác:Ví dụ: Mẹ ơi, con muốn cái dép kia ( Phụ huynh

6


cháu Nguyễn Mai Đồng Tâm kể lại) phụ huynh đã sửa cho con nói là: “ Mẹ ơi, con
muốn có đôi dép kia”.
Các em có khả năng kể lại chuyện và kể chuyện có trình tự lô gic. Thế
nhưng qua tìm hiểu quá trình phát triển ngôn ngữ, tôi so sánh lớp tôi với lớp khác
thì đa phần các em vẫn chưa có khả năng kể chuyện mạch lạc có trình tự lô gic.
Biện pháp 2. Cơ sở lý thuyết cần chuẩn bị cho tiết kể chuyện
Rèn kỹ năng nghe truyện (để rèn kỹ năng nghe và hiểu - trọng tâm là việc
dạy của giáo viên). Nên giáo viên cần chuẩn bị tốt những việc sau:
a. Chuẩn bị cho tiết dạy:
Giáo viên cần nghiên cứu và nắm vững nội dung truyện (đọc kỹ văn bản cho
thật hiểu và nhớ truyện).
Phải có tranh minh hoạ cho truyện (tranh sách giáo khoa - có thể phóng to).
Lựa chọn địa điểm dạy (ngoài trời hay trên lớp, tuỳ theo nội dung truyện).
Dặn học sinh xem tranh và đọc câu hỏi dưới tranh phỏng đoán nội dung
truyện (xem ở bài).
Coi trọng phần luyện ở phân môn Tập đọc (đặc biệt là các tiết Tập đọc trong
Tập đọc trong tuần).
b. Giáo viên kể chuyện:
Nên kể chuyện (không nên đọc lại văn bản) để tăng sức hấp dẫn khi nghe

truyện. Kể lần 1, kể lần 2, 3 (vừa kể vừa kết hợp chỉ tranh).
Cần phải sử dụng giọng kể chuyện linh hoạt tuỳ theo nội dung câu chuyện,
lời nói nhân vật.
Phải có kỹ năng kể chuyện:
+ Giọng kể: Vui hay buồn, hào hùng hay êm ả...., có giọng kể cho cả bài, có giọng
kể cho từng đoạn.
+ Nhịp điệu: Nhanh hay chậm, dồn dập, gấp gáp hay hiền hoà khoan khoái.
+ Ngắt giọng tâm lý: Ngắt giọng với chú ý gây ấn tượng.
Khi kể giáo viên phải coi trọng các thủ pháp mở đầu câu chuyện, thêm tình
tiết cho văn bản truyện, mở đầu hay sẽ tạo sự hứng thú, sự chờ mong và kích thích
trí tò mò của các em.
Thông qua các môn học khác: Học tốt môn Tập đọc cũng là bước đầu vững
chắc cho môn kể chuyện. Đặc biệt là phần luyện nói học sinh mạnh dạn nói đủ
câu....
c. Hướng dẫn học sinh tập kể chuyện
Thực hành tốt phần luyện nói ở phân môn Học vần, từ bài 1 đến bài 103.
Phần luyện tập tổng hợp từ tuần 25 đền tuần 35. Phần Tập đọc (100% học sinh phải
được luyện nói theo chủ đề, chủ điểm của từng bài học).
Nói trong giao tiếp với bạn bè, thầy cô giáo tạo cho học sinh nói đủ ý để
người khác hiểu.
Mạnh dạn, tự nhiên khi nói trước đông người.
Xem tranh phỏng đoán nội dung câu truyện trước khi nghe kể.
Lắng nghe lời cô kể, nắm chắc cốt truyện.
7


Giáo viên phải tạo mọi điều kiện cho học sinh ở trình độ khác nhau đều được
kể chuyện, về nhà có thể kể lại cho người khác nghe.
Hướng dẫn học sinh cùng tham gia: Ở lớp 1, học sinh chưa thể tự tổ chức
hoạt động theo nhóm nên giáo viên cần theo dõi chỉ đạo, học sinh tham gia kể

chuyện qua trò chơi, đóng tiểu phẩm, dựng hoạt cảnh, kể chuyện tiếp sức.
Ví dụ: "Kể chuyện tiếp sức" theo đoạn, kể chuyện phân vai, dựng hoạt cảnh.
Ở mỗi tiết học cần thay đổi hình thức để tạo sự hấp dẫn.
Hướng dẫn học sinh tập kể từng đoạn truyện (truyện ngắn).
Khi tập kể chuyện, quan trọng nhất là phải dạy học sinh cốt truyện (không bỏ
qua tình tiết, chi tiết cơ bản).
Vì vậy, ta phải bám sát tranh minh hoạ và những câu hỏi gợi ý, có thể giáo
viên ghi vắn tắt cốt truyện với tình tiết cơ bản nhất vì lúc này học sinh đã biết đọc.
Khuyến khích để học sinh thích kể chuyện, kể tự nhiên, trong sáng.
Nắm từng nhân vật để nhập vai nhân vật về giọng kể, cử chỉ, điệu bộ (giọng
kể một cách hồn nhiên, sáng tạo, không máy móc, dập khuôn từng chữ đã nghe).
Luyện kể từng tranh (đoạn) liên kết một cách tự nhiên ta cần phải rèn cho
học sinh biết kể chuyện, nắm cốt truyện, nhập vai nhân vật mạnh dạn sẽ kể lại một
cách hấp dẫn.
d. Chuẩn bị và sử dụng đồ dùng trực quan để gây hứng thú cho học sinh kể
lại chuyện.
Chúng ta đã biết nhận thức của trẻ nhỏ luôn gắn liền với tranh, ảnh, vật thật.
Chính vì vậy trong quá trình dạy cho trẻ làm quen với một câu chuyện nào đó, giáo
viên nào cũng nghĩ là phải sử dụng đồ dùng trực quan để hỗ trợ giọng đọc, giọng kể
của mình. Song, việc sử dụng đồ dùng trực quan như thế nào cho hiệu quả mới là
vấn đề đáng được quan tâm. Cần phải thấy rằng, đồ dùng trực quan không chỉ hỗ
trợ cho giọng đọc, giọng kể của cô mà nó còn giúp học sinh kể lại truyện một cách
dễ dàng hơn. Tôi đã suy nghĩ để có nhiều loại đồ dùng khác nhau giúp các em có
thể kể lại được một đoạn, cả câu truyện với yêu cầu đồ dùng trực quan phải đảm
bảo đơn giản, đẹp, hấp dẫn và dễ sử dụng. Qua đây tôi thấy học sinh rất thích thú
khi sử dụng, các em có điểm tựa để kể lại chuyện và tích cực hoạt động hơn trong
giờ học.
Biện pháp 3. Rèn kỹ năng nghe và tập kể lại chuyện cho học sinh lớp 1 trong
giờ kể chuyện.
Từ các bước dạy của quá trình dạy học, tôi xin đề xuất quy trình riêng dựa

trên cơ sở lý thuyết đã nêu về việc: "Rèn kỹ năng nghe và tập kể chuyện cho học
sinh lớp 1".
a. Quy trình gồm 5 bước.

* Bước 1: Hoạt động cá nhân
8


- Làm quen với câu chuyện.
- Xem kỹ tranh và câu hỏi dưới tranh - phỏng đoán nội dung câu chuyện.
- Chuẩn bị đồ dùng dạy học (tranh).
- Dự kiến thực hiện bài dạy, địa điểm, cách tổ chức.
* Bước 2: Hoạt động chuẩn bị tâm thế
- Giáo viên thông báo cách tổ chức, tiến hành bài học, địa điểm học.
- Ổn định tư thế, học sinh kiểm tra sự chuẩn bị (có thể xem qua tranh một lần).
- Giới thiệu bài.
- Thu thập thông tin xung quanh bài kể chuyện.
- Phát hiện nhu cầu hứng thú của học sinh.
* Bước 3: Hoạt động nhận thức sáng tạo
- Giáo viên kể lần 1: Học sinh luyện nghe - ghi nhớ.
- Kể lần 2, 3: Kể từng đoạn kết hợp giới thiệu hình ảnh trong từng tranh, thầy trò
cùng hợp tác xử lý tình huống trong từng tranh, trò tự giải quyết vấn đề theo hướng
của thầy.
+ Nội dung: Tìm chi tiết, tình huống trong truyện.
+ Nghệ thuật: Lời kể và giọng điệu nhân vật.
+ Khái quát chủ đề: Cả truyện.
+ Nhận xét việc cảm thụ câu chuyện.
- Rút ra ý nghĩa của câu chuyện.
* Bước 4: Rèn kỹ năng kể
- Hướng dẫn cho học sinh xử lý tình huống diễn cảm, tự nhiên.

+ Kể từng đoạn (dựa vào tranh) theo yêu cầu của giáo viên (cá nhân - nhóm).
+ Kể cả câu chuyện.
+ Kể theo lời nhân vật.
+ Kể phân vai toàn truyện theo nhân vật.
* Bước 5: Hoạt động kiểm tra, đánh giá
- Cho học sinh nhận xét cách kể của cô, của bạn, của mình.
- Rút kinh nghiệm, có thể điều chỉnh cách kể.
- Kể chuyện nhiều lần ở nhà, chuẩn bị bài kể chuyện sau.
* Chú ý: Căn cứ khả năng tư duy của học sinh, có thể cho học sinh đặt tên mới cho
câu chuyện.
b. Thiết kế bài dạy theo quy trình (Thiết kế tóm tắt nội dung chính của tiết dạy).
Tên truyện: Rùa và Thỏ
A. MỤC TIÊU.

Học sinh nhớ và kể lại được một đoạn câu chuyện dựa theo tranh và gợi ý
dưới tranh. Sau đó kể phân vai được toàn bộ câu chuyện. Bước đầu biết đổi giọng
để phân biệt lời của Rùa, của Thỏ và lời của người dẫn chuyện.
Hiểu lời khuyên của câu chuyện: Chớ chủ quan, kiêu ngạo. Chậm như Rùa
nhưng kiên trì và nhẫn nại ắt thành công.
B. ĐỒ DÙNG DẠY HỌC.
9


Tranh minh hoạ sách giáo khoa phóng to.
Mặt nạ Rùa và Thỏ.
C. QUY TRÌNH DẠY HỌC
* Bước 1: Hoạt động cá nhân (Chuẩn bị trước khi đến lớp kể cả cô và trò).
Xem trước nội dung truyện (giáo viên - chú ý giọng kể).
Học sinh xem tranh và câu hỏi dưới tranh: Phỏng đoán nội dung từng tranh
và nội dung truyện.

Nhận xét chia 2 nhóm rõ ràng: Nhóm 1: Chủ quan - Kiêu ngạo
Nhóm 2: Kiên trì, nhẫn nại.
Đồ dùng: (đã nêu ở phần B).
Tổ chức kể chuyện tại lớp học.
Giáo viên kể, cả lớp lắng nghe, sau đó kể từng đoạn và kể phân vai. Xếp bàn
ghế theo cách chia nhóm 4 em, hình chữ U.
* Bước 2: Hoạt động chuẩn bị tâm thế
- Giáo viên cho học sinh ổn định tư thế ngồi.
- Học sinh: Tự kiểm tra lại bài đã chuẩn bị (xem lại một lần tranh và câu hỏi).
- Giới thiệu bài:
+ Phát hiện nhu cầu hứng thú của học sinh.
Với bài này để hấp dẫn học sinh, tôi cho học sinh đọc bài thơi: "Thỏ và Rùa".
Có một chú Thỏ
Và một chú Rùa
Buổi sáng sau giời
Cùng nhau đi học
.... .......................
............................
Rùa chậm chạp mà đến lớp vẫn đúng giờ, còn Thỏ nhanh nhẹn nhưng đến
trường lại muộn. Không chỉ thế Thỏ và Rùa lại còn có một cuộc chạy thi. Kết quả
như thế nào, cô mời các em hãy theo dõi câu chuyện "Rùa và Thỏ" để tìm câu trả
lời nhé.
* Bước 3: Hoạt động nhận thức, sáng tạo
Nội dung câu chuyện được minh hoạ qua 4 bức tranh:
- Cô kể lần 1: Học sinh ghi nhớ nội dung.
- Kể lần 2, 3: Vừa kể, vừa chỉ vào tranh, dùng câu chuyển ý giữa các tranh.
- Học sinh lắng nghe để học cách kể.
- Giáo viên: Có thể dừng lại trước mỗi tranh nêu câu hỏi - học sinh trả lời.
- Nghệ thuật:
+ Lời Thỏ đầy kiêu căng, ngạo mạn: "Chậm như Rùa (dài giọng mỉa mai) mà cũng

đòi tập chạy ?".
+ Lời Rùa chậm rãi, khiêm tốn nhưng đầy tự tin, dám thách Thỏ: "Anh đừng giễu
tôi! Anh với tôi thử chạy xem, coi ai hơn ?".
- Ý chủ đề: Thỏ: Chủ quan, kiêu ngạo
⇒ Thất bại.

10


Rùa kiên trì, nhẫn nại
⇒ Thành công.
- Rút ra ý nghĩa câu chuyện:
Nêu câu hỏi:
? Vì sao Thỏ thua Rùa ?
? Em học tập ai trong câu chuyện này ?
Học sinh trả lời, rút ra ý nghĩa truyện.
* Bước 4: Rèn luyện kỹ năng kể
- Cô: Học sinh xử lý tình huống diễn cảm, tự nhiên.
Rèn luyện kỹ năng kể bằng nhiều hình thức.
Học sinh: Kể từng đoạn: Chia mỗi nhóm 4 em, mỗi em kể một tranh, liên kết
thành câu chuyện.
+ Mỗi cá nhân kể 1 lần.
* Kể phân vai 1 lần.
- Vai Rùa, vai Thỏ - dùng mặt nạ để tăng sức hấp dẫn.
- Cô dẫn truyện.
* Kể phân vai lần 2, 3.... trò tự dẫn truyện.
- Học sinh khác nhận xét về lời kể của bạn.
- Cô: Bao quát chung, củng cố kỹ năng kể của học sinh.
* Bước 5: Hoạt động tự kiểm tra, đánh giá
- Cho học sinh nhận xét cách kể của mình.

? Em thích nhân vật nào nhất? Vì sao?
- Tự so sánh cách kể của mình với cách kể của cô, của bạn để điều chỉnh cách kể
của mình (chú ý luyện giọng nhân vật).
- Cô: Kết thúc truyện để rút ra bài học: Chúng ta cần học tập bạn Rùa, Rùa chậm
chạp thế mà nhờ kiên trì và nhẫn nại đã thành công.
- Liên hệ bản thân học sinh. Cho học sinh suy nghĩ và đặt tên khác cho truyện. Ví
dụ: Đừng kiêu ngạo.
* Cô giao nhiệm vụ:
- Kể chuyện ở nhà để mọi người cùng nghe.
- Xem trước truyện tuần sau: Trí khôn.
Biện pháp 4: Tự rèn luyện để nâng cao nghệ thuật kể chuyện của Giáo viên.
Như chúng ta đã biết, với học sinh lớp 1 ngay từ đầu năm học các em chưa
đọc được tác phẩm chuyện kể nào. Muốn câu chuyện đến được với các em thì phải
Thông qua yếu tố trung gian đó là cô giáo, ông bà, cha mẹ, hoặc anh chị của mình.
Nếu giáo viên truyền đạt tác phẩm tốt bao nhiêu thì sẽ giúp học sinh cảm nhận cái
hay, cái đẹp của tác phẩm bấy nhiêu. Vì vậy, biện pháp tiếp theo mà tôi thực hiện
chính là rèn luyện cho mình nghệ thuật kể chuyện. Để thực hiện được điều đó, mỗi
câu chuyện tôi phải nghiên cứu kỹ nội dung để xác định giọng kể cho phù hợp. Tôi
thường căn cứ vào diễn biến tâm trạng của nhân vật, hành động của nhân vật, bối
cảnh xảy ra nội dung chuyện, các tình tiết mà thể hiện ngữ điệu giọng điệu cho phù

11


hợp. Cùng là một nhân vật nhưng trong các bối cảnh khác nhau, sắc thái ngữ điệu
được thể hiện cũng khác nhau.
Ví dụ: Trong câu chuyện “Thỏ và Sư Tử” – Bài 21 – Tiết Ôn tập, nhân vật
Thỏ thể hiện giọng nhỏ nhẹ, thái độ bình tĩnh, thông minh và mưu trí. Nhân vật Sư
Tử thì giọng kể hung giữ, kiêu ngạo, câu hỏi của Sư Tử thì cao giọng mang tính đe
dọa. Không chỉ chú ý đến ngữ điệu giọng kể tôi còn chú ý đến nhịp điệu, cường độ

giọng, lúc từ từ, lúc dồn dập, lúc hối hả, lúc to, lúc nhỏ rồi những chỗ ngắt nghỉ
giọng. Tuy nhiên không phải ở truyện nào giọng sói cũng quát nạt, hung hăng mà
có những câu chuyện giọng sói nhẹ nhàng, ngon ngọt, ví dụ như truyện “Cô bé
quàng khăn đỏ” để đánh lừa cô bé, chó sói nói rất nhẹ nhàng biểu lộ tình thân ái với
cô bé. Đoạn chó sói đóng giả bà nói chuyện cùng cô bé, tôi đã cố gắng thể hiện
đúng ngữ điệu, cường độ giọng khác nhau. Càng về sau nhịp độ càng nhanh, cường
độ giọng càng lớn thể hiện mối nguy hiểm đang đến gần. Còn giọng cô bé ngược
lại, càng về sau giọng cô bé càng nhỏ, chậm thể hiện sự ngập ngừng lo sợ, nghi
ngờ.
Tôi nghĩ rằng bên cạnh giọng kể tốt khi kể chuyện, giáo viên cần thể hiện cả
về nét mặt, cử chỉ điệu bộ. Cử chỉ điệu bộ giúp cho cô đỡ khô cứng trong khi kể
chuyện, tăng khả năng diễn cảm. Tuy nhiên, không nên sử dụng quá nhiều cử chỉ
điệu bộ, chính sự lạm dụng đó sẽ làm trẻ mải chú ý xem cô làm mà quên nghe cô
kể. Cứ như vậy, với mỗi câu chuyện tôi đều tự nghiên cứu kỹ nội dung để xác định
giọng kể sao cho thật phù hợp. Thậm chí có những câu chuyện khó, tôi phải tập kể
đi kể lại nhiều lần, có khi tập kể vào băng bật đi bật lại, nghe để tự sửa, hoặc kể cho
đồng nghiệp nghe để góp ý, tập kể trước gương để sửa nét mặt. Cứ như vậy, tôi tự
rèn luyện nghệ thuật đọc, kể diễn cảm. Tôi cảm thấy tự tin, thoải mái hơn khi kể
chuyện cho các em nghe.
Mặt khác, để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng như phương
pháp dạy học phân môn kể chuyện cũng như các môn học khác. Bản thân luôn tự
học hỏi, dự giờ đồng nghiệp, học tập và rèn luyện trên đài, báo, ti vi, mạng Internet
để ngày càng vững vàng hơn trong công tác giảng dạy của mình.
Biện pháp 5. Tạo môi trường học tập thân thiện, tích cực.
- Tôi luôn tận dụng diện tích phòng học, chú ý bố trí sắp xếp các đồ dùng học tập,
để tạo môi trường học tốt và thoải mái nhất cho học sinh.
- Trang trí lớp sinh động với những hình con thú, cây cối sinh động, gần gũi với các
em hoặc trồng cây và hoa xung quanh lớp quanh năm xanh tốt có hoa nở bốn mùa.
Tạo cho các em niềm vui thích khi được đến trường.


12


13


Tổ chức tiết học nhẹ nhàng, linh hoạt, vào bài một cách sinh động để gây sự
chú ý cho học sinh.
Khi thực hiện các hoạt động làm quen với thể loại truyện kể mà trọng tâm là
dạy kể chuyện sáng tạo thì tôi luôn tận dụng không gian lớp học để trưng bày các
dụng cụ kể chuyện, như khung sân khấu, sắp đặt tranh và các con rối sao cho dễ sử
dụng, kích thích hoạt động học tập tích cực hơn.
Biện pháp 6. Phối hợp với phụ huynh học sinh:
Nếu như ở trường các em là học sinh của giáo viên chủ nhiệm lớp quản lí thì
ở nhà các em là thành viên của một gia đình, là con của cha của mẹ. Cả giáo viên
chủ nhiệm và cha mẹ các em đều là những người chịu trách nhiệm về kết quả giáo
dục của học sinh. Tôi thiết nghĩ, để công tác giáo dục đạt hiệu quả thì phụ huynh và
giáo viên chủ nhiệm phải đồng cảm, hiểu nhau, giúp đỡ, hổ trợ, phối hợp cùng nhau
trong công tác dạy dỗ con cái. Nếu như ở nhà, cha mẹ nhắc nhở, dạy bảo động viên
con em mình, ở trường thầy cô tận tình chỉ dạy thì chắc chắn học sinh sẽ tiến bộ,

14


vâng lời, tích cực học tập và luôn phấn đấu trở thành con ngoan, trò giỏi, cháu
ngoan Bác Hồ kính yêu.
Tôi trao đổi và vận động phụ huynh cố gắng dành thời gian để tâm sự với các
em và lắng nghe các em nói, kể lại câu chuyện mà em được học ở lớp hoặc nhứng
điều em quan sát được khi đến trường học tập. Khi trò chuyện với các em, cha mẹ
phải nói rõ ràng mạch lạc, tốc độ vừa phải để các em nghe cho rõ, cha mẹ người

thân phải cố gắng phát âm đúng cho các em bắt chước. Tránh không nói tiếng địa
phương, cần tránh cho học sinh nghe những hình thái ngôn ngữ không chính xác,
không nói tục, không nói trống không, nói lời làm người khác không vui. Bằng
kinh nghiệm sống của mỗi phụ huynh, những câu chuyện ngày mai học, phụ huynh
nên kể cho các em nghe trước, có thể giúp học sinh kể lại, đóng lại diễn biến nội
dung câu chuyện đó.

15


Biện pháp 7. Đánh giá, nêu gương và khen thưởng.
Như chúng ta đã biết, cả nước tiếp tục đang hưởng ứng tích cực cuộc đôi căn
bản trong nghành giáo dục. Dựa vào hướng dẫn đánh giá học sinh Tiểu học
Theo Thông tư số 30/2014/TTBGDĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014 và Thông
tư số 22/2016/ TT – BGDĐT ban hành ngày 28 tháng 8 năm 2014 của Bộ giáo dục
và đào tạo ban hành đánh giá học sinh Tiểu học. Giáo viên đánh giá học sinh bằng
những biểu hiện nổi bật thông qua các hoạt động giáo dục hằng ngày như sinh hoạt
tập thể, sinh hoạt lớp, học tập có sáng tạo, hợp tác, đoàn kết yêu thương, tự phục
vụ, tự quản, tự học tự giải quyết vấn đề, trung thực kỷ luật, …các mối quan hệ với
bạn bè, thầy cô giáo. Qua đánh giá, giáo viên ghi lại những lời nhận xét về học
sinh. Những lời nhận xét của cô giáo phải trong sáng, ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu,
đầy đủ thông tin cần truyền đạt. Mặt khác, lời nhận xét phải mang tính khuyến
khích, động viên để các em thấy được những điều các em đạt được tiếp tục phát
huy, khắc phục những hạn chế trong thời gian tới.
Bên cạnh những lời khen nhẹ nhàng cũng chính là động lực thúc đẩy sự
tiến bộ của học sinh thì giáo viên cần thường xuyên nêu gương trước lớp những
bạn kể hay kể giỏi, kể lưu loát, biết kết hợp cử chỉ điệu bộ, …. Để khuyến khích

16



học sinh và nhân rộng nhân tố mới. Tất cả những việc làm trên cũng chính là đòn
bẩy vững chắc để các em tiếp tục hoàn thiện mình hơn trong học tập và rèn luyện.
2.4. Kết quả đạt được.
Qua thời gian vận dụng vào dạy học. Cuối năm 2017 - 2018, khảo sát lớp 1D
là lớp tôi chủ nhiệm, kết quả kiểm tra thu được như sau:
Tổng
HS
35 em

Tốt
(Kể chuyện hay, hấp dẫn mức bình thường)

Đạt yêu cầu
(Biết kể đúng nội
dung truyện)

Chưa đạt yêu cầu
(Chưa biết kể)

16 em ≈ 46,4%

19 em ≈ 53, 6 %

0 em ≈ 0 %

Từ kết quả trên đã khẳng định biện pháp “ Rèn kỹ năng nghe kể và tập kể
chuyện cho học sinh lớp 1 nhằm nâng cao chất lượng dạy và học” mà tôi đưa ra
là phù hợp và có hiệu quả. Không những các em biết nghe, ghi nhớ chuyện mà còn
kể lại được đúng nội dung, diễn biến sự việc của từng câu chuyện. Bên cạnh đó,

chất lượng học tập của các em ngày càng được cải thiện nhiều hơn. Đó là điều đáng
mừng thúc đẩy tôi luôn phấn đấu vươn lên trong dạy học.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Nhớ lời Bác dạy: “Dù khó khăn đến đâu cũng tiếp tục thi đua Dạy tốt – Học
tốt”. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn trong giảng dạy và giáo dục học sinh, nhưng
tôi tin rằng: “Mỗi giáo viên đều có thể vượt qua được những khó khăn đó và
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao bằng chính sự tận tâm của mình”. Bản thân
tôi cần phải cố gắng nhiều hơn nữa trong việc rèn luyện phẩm chất đạo đức, học
tập, nghiên cứu tìm hiểu nâng cao kiến thức chuyên môn nghiệp vụ. Từ đó đúc kết
kinh nghiệm cho bản thân và tìm ra những giải pháp hiệu quả nhất để hướng tới
mục tiêu của ngành giáo dục nói chung, của trường, của lớp mình đang dạy nói
riêng để góp phần nhỏ bé của mình trong sự nghiệp trồng người.
Môn kể chuyện mãi mãi là môn học hấp dẫn đối với học sinh Tiểu học, đặc
biệt là học sinh lớp 1. Các em đến với các câu truyện như đến với một thế giới mới
cổ tích, đầy thú vị, hấp dẫn. Truyện mở mang thêm cho tâm hồn các em, giúp các
em biết nhìn nhận và đánh giá sâu sắc mọi vấn đề. Chính vì vậy môn kể chuyện có
tính giáo dục rất cao đối với trẻ. Đặc biệt dạy môn kể chuyện rèn được hai kỹ năng
cơ bản không chỉ rèn kỹ năng "nói" mà còn rèn được cả kỹ năng "nghe" cho học
sinh. Thông qua việc áp dụng: "Rèn luyện kỹ năng nghe và tập kể chuyện cho
học sinh lớp 1" vào dạy học, tôi đã rút ra được bài học kinh nghiệm sau:
Khi dạy kể chuyện cần.
+ Tranh vẽ phải rõ ràng, phù hợp nội dung câu chuyện.

17


+ Tạo ra mối tương quan giữa bài học kể chuyện với các bài học khác, cần phải biết
liên hệ kiến thức để tạo điều kiện giúp học sinh học tập tốt phân môn kể chuyện (ví
dụ phân môn Tập đọc).

+ Gây hứng thú cho học sinh khi vào bài bằng nhiều hình thức như: Bài hát, đoạn
thơ hoặc tranh vẽ.... liên quan đến nội dung bài.
+ Lời kể của giáo viên phải hấp dẫn, lôi cuốn.
+ Trong mỗi tiết học, giáo viên biết tạo cơ hội cho học sinh "thể hiện mình" và
động viên, khích lệ học sinh kịp thời cũng là một biện pháp tốt để nâng cao hiệu
quả giờ dạy.
Mặc dù bản thân đã có nhiều cố gắng song với khả năng còn hạn chế và thời
gian nghiên cứu còn hạn hẹp, đề tài này không tránh khỏi những thiếu sót. Rất
mong nhận được sự góp ý của các cấp lãnh đạo, của các đồng nghiệp để sáng kiến
của tôi có hiệu quả hơn
Tôi xin chân thành cảm ơn !

18



×