Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Một số giải pháp nhằm nâng cao việc hình thành năng lực, phẩm chất cho học sinh lớp 1 trong trường tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (465.41 KB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

PHÒNG GD&ĐT HUYỆN TRIỆU SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

“ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VIỆC HÌNH
THÀNH NĂNG LỰC, PHẨM CHẤT CHO HỌC SINH LỚP
1 TRONG TRƯỜNG TIỂU HỌC”

Người thực hiện: Lê Thị Tuyết
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học An Nông
SKKN thuộc lĩnh vực: Khác

THANH HOÁ, NĂM 2019
MỤC LỤC


1. MỞ ĐẦU .............................................................................................Trang 2
1.1. Lí do chọn đề tài ................................................ ..............................Trang 2
1.2. Mục đích nghiên cứu..........................................................................Trang 3
1.3. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................Trang 3
1.4. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................Trang 3
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:……………………….Trang 3
2.1. Cở sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.............................................Trang 3
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm…..........Trang 4
2.3. Các giải pháp nhằm nâng cao việc hình thành năng lực, phẩm chất cho học
sinh lớp 1 ở trường Tiểu học An Nông…………………………………...Trang 6
2.4. Kết quả nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm............................... Trang 14
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ: ...............................................................Trang 15


3.1. Kết luận: ............................................................................................Trang 15
3.2. Kiến nghị: ..........................................................................................Trang
16

1.MỞ ĐẦU
2


1.1 . Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết: mục tiêu của giáo dục là đào tạo con người nhằm
phát triển toàn diện có đạo đức, có tri thức, có sức khỏe, có thẩm mĩ, có nhân
cách tốt để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Việc hình thành nhân
cách, năng lực, phẩm chất của công dân, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa hiện đại hóa nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Để đảm bảo được điều đó,
phải đổi mới cách tiếp cận các yếu tố của quá trình dạy học như: mục tiêu dạy
học, chương trình dạy học, nội dung dạy học, phương pháp dạy học, hình thức
dạy học, kiểm tra đánh giá và các hình thức dạy học khác. Trong giai đoạn hiện
nay, nhiệm vụ hình thành năng lực, phẩm chất cho học sinh đang trở nên cấp
bách và cần thiết. Đặc biệt là đối với học sinh Tiểu học lại càng phải quan tâm
và coi trọng, bởi nó là một nhân tố phát triển nhân cách, là gốc rễ để phát triển
tài và đức của mỗi con người. Việc hình thành năng lực, phẩm chất, kĩ năng
sống cho học sinh Tiểu học là một việc làm rất quan trọng, đặc biệt đối với học
sinh lớp 1, đó là lứa tuổi nhỏ, lứa tuổi đang “ Như búp trên cành” “ Như tờ giấy
trắng”.
Với học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng, việc hình
thành các năng lực, phẩm chất phải được áp dụng bằng các phương pháp trải
nghiệm, tham gia thường xuyên vào các hoạt động học tập, vận dụng kiến thức
trong cuộc sống hàng ngày. Điều này được thể hiện qua việc chăm học, chăm
làm, tích cực hoạt động giáo dục, tự tin, tự trọng, tự chịu trách nhiệm; trung thực
kỉ luật… Giáo viên sẽ tổ chức, quan sát các biểu hiện trong hoạt động của học
sinh hàng ngày, hàng tuần để nhận xét, nhận định sự hình thành và phát triển

năng lực, phẩm chất của học sinh.
Bản thân tôi là người giáo viên Tiểu học, tôi luôn trăn trở làm cách nào để
giúp các em hình thành một cách tốt nhất về năng lực và phẩm chất. Trong
những năm vừa qua, khi thực hiện đánh giá học sinh Tiểu học theo thông tư 30
và thông tư 22, bản thân tôi đã mạnh dạn đổi mới, áp dụng các phương pháp kĩ
thuật dạy học tích cực vào quá trình dạy học từ khâu thiết kế bài học cho đến
việc lựa chọn các phương pháp phù hợp vào giảng dạy. Việc đổi mới phương
pháp, hình thức tổ chức dạy học nêu trên, bước đầu đã hình thành các năng lực,
phẩm chất cần thiết của học sinh như: năng lực tự học, giao tiếp, hợp tác, tự
trọng, tự tin, chăm học chăm làm, …Tuy nhiên, khi thực hiện đánh giá theo
thông tư 30 và thông tư 22, nhất là hai nội dung năng lực, phẩm chất; tôi thường
gặp nhiều vướng mắc và khó khăn như: khó khăn trong các bước thực hiện, khó
khăn trong việc xác định các biểu hiện chính, giúp việc nhận xét về năng lực và
phẩm chất của học sinh; khó khăn trong việc đưa ra nhận định, cách ghi nhật kí
đánh giá đối với học sinh. Là một giáo viên Tiểu học có tuổi đời 25 năm trong
nghề, đã trực tiếp giảng dạy nhiều khối lớp, tôi luôn suy nghĩ làm cách nào để
giúp các em hình thành một cách tốt nhất về năng lực, phẩm chất. Chính vì lẽ đó
tôi đã mạnh dạn nghiên cứu và đưa ra sáng kiến kinh nghiệm: “ Một số giải
pháp nhằm nâng cao việc hình thành năng lực, phẩm chất cho học sinh lớp 1
trong trường Tiểu học”.

3


1.2.Mục đích nghiên cứu
Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và góp phần nâng cao việc hình
thành phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh lớp 1 trong trường Tiểu học.
Đẩy mạnh việc nâng cao chất lượng dạy học, chất lượng giáo dục, trang bị về
năng lực, phẩm chất cho các em. Nâng cao nhận thức của phụ huynh về việc
phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh.

1.3.Đối tượng nghiên cứu
Một số giải pháp nhằm nâng cao việc hình thành phẩm chất, năng lực cho
học sinh lớp 1 trong trường Tiểu học.
1.4.Phương pháp nghiên cứu
Tôi đã lựa chọn những phương pháp phù hợp sau:
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu
+ Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin
+ Phương pháp thực nghiệm, trải nghiệm.
+ Phương pháp đàm thoại.
+ Phương pháp dạy học tích cực.
+ Phương pháp tổng hợp rút kinh nghiệm
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1.Cở sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Gia đình và nhà trường là hai môi trường học sinh Tiểu học được tiếp xúc
nhiều nhất, thường xuyên nhất trong cuộc sống của mình và đó cũng là những
môi trường có ảnh hưởng nhiều nhất đến việc hình thành năng lực, phẩm chất
cho các em. Ngoài ra, các điều kiện môi trường cuộc sống xung quanh cũng có
tác động không nhỏ tới việc hình thành năng lực, phẩm chất của các em. Giáo
dục trong nhà trường có vai trò quan trọng. Bởi con người là nhân tố quan trọng
sáng tạo mọi giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội. Con người có ý thức là
động lực to lớn cho sự phát triển nói chung; con người phát triển toàn diện về
nhân cách là con người được hình thành năng lực, phẩm chất chuẩn mực nhất ở
bậc Giáo dục Tiểu học. Trong đó phẩm chất bao gồm các nội dung gồm có:
phẩm chất chăm học chăm làm, phẩm chất tự tin trách nhiệm, phẩm chất trung
thực kỉ luật và phẩm chất đoàn kết thương yêu thương. Năng lực bao gồm các
nội dung: năng lực tự phục vụ tự quản, năng lực giao tiếp hợp tác, năng lực tự
giải quyết vấn đề. Đây có thể coi là năng lực, phẩm chất khung của nhân cách
theo quan niệm cấu trúc nhân cách hai thành phần ( đức, tài). Do vậy mối quan
hệ giữa dạy học phát triển năng lực, phẩm chất với phát triển nhân cách được
diễn ra như sau: năng lực, phẩm chất là hai thành phần của nhân cách, nhân cách

là chỉnh thể thống nhất giữa hai mặt phẩm chất và năng lực, việc dạy học phát
triển năng lực, phẩm chất là phương pháp tích tụ dần dần các yếu tố của năng
lực, phẩm chất người học để chuyển hóa và góp phần cho việc hình thành, phát
triển nhân cách.
Vì vậy, dạy học phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh Tiểu học hiện
nay vừa là mục tiêu giáo dục, vừa là nội dung giáo dục đồng thời cũng là
4


phương pháp giáo dục. Dạy học phát triển năng lực, phẩm chất có một ưu thế
vượt trội trong việc hình thành và phát triển nhân cách bởi nó hướng cho người
học đi vào hoạt động cá nhân ( hoạt động trong giờ, ngoài giờ, hoạt động giao
tiếp với tự nhiên, xã hội, môi trường, trải nghiệm…), mà các hoạt động sống,
hoạt động cá nhân có vai trò quyết định đối với hình thành nhân cách. Trong các
hoạt động dạy của nhà trường Tiểu học hiện nay, chúng ta luôn quan tâm tới việc
hình thành năng lực, phẩm chất. Để thực hiện những mục tiêu giáo dục con
người, thì giáo viên phải xác định nhiệm vụ của mình. Như vậy, vấn đề giáo dục
học sinh thành những người phát triển toàn diện chủ yếu là các thầy cô giáo và
chủ yếu là giáo viên chủ nhiệm lớp.
2.2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Năm học 2018 – 2019, tôi được phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp
1C. Qua thực tế giảng dạy tôi đã khảo sát giữa học kì 1, đánh giá năng lực, phẩm
chất của học sinh trong lớp chủ nhiệm như sau:
STT Năng lực

1

2

3


STT

1

Sĩ số
Số
Tỉ lệ
HS lớp HS đạt %
ở mức
tốt
(T)

Số
HS
xếp
Đạt
(Đ)

Tỉ lệ Số
%
HS
CCG
(C)

Tỉ lệ
%

Tự phục vụ,
tự quản

30

8

27

19

63

3

10

30

10

33

17

60

2

7

30


12

40

17

57

1

3

Hợp tác, giao
tiếp

Tự học,
GQVĐ

Phẩm chất

Chăm học, chăm
làm, tích cực
tham gia các hoạt
động giáo dục

Sĩ số
HS
Lớp

Số

HS
đạt ở
mức
tốt
(T)

Tỉ
lệ
%

Số HS
xếp
Đạt
(Đ)

Tỉ lệ
%

Số HS
CCG
(C)

Tỉ lệ
%

30

8

27


19

63

3

10

5


2
3
4

Tự tin, tự trọng,
tự chịu trách
nhiệm
Trung thực, kỉ
luật
Đoàn kết, yêu
thương gia đình
bạn bè và người
thân

30

9


30

19

63

2

7

30

10

33

18

60

2

7

30

11

36


17

56

2

7

Bảng thống kê trên, cho thấy thực trạng việc hình thành năng lực, phẩm
chất cho học sinh trong những năm qua đã có nhiều chuyển biến tích cực nhưng
kết quả chưa cao. Học sinh đã đạt được các năng lực, phẩm chất theo yêu cầu
nhưng số đạt mức hoàn thành tốt chưa nhiều, vẫn còn một số học sinh hạn chế
về năng lực, phẩm chất. Qua thời gian nghiên cứu và tìm hiểu tôi rút ra được các
nguyên nhân sau:
- Do chuyển từ hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập ( từ Mầm non
sang Tiểu học) nên các em chưa quen với hoạt động của Nhà trường Tiểu học.
- Một số gia đình coi trọng việc học tập kiến thức và kĩ năng, xem nhẹ
việc hình thành năng lực, phẩm chất cho các em.
- Nhiều gia đình bố mẹ đi làm ăn xa, ít có thời gian quan tâm tới con em
dẫn đến các em bước vào lớp 1 các em nhút nhát, chưa mạnh dạn, chưa tự tin
khi giao tiếp với cô giáo và bạn bè.
- Một số gia đình cha mẹ chưa gương mẫu về đạo đức lối sống làm ảnh
hưởng tiêu cực đến tư tưởng, tình cảm và phẩm chất của con. Rồi nhiều gia đình
gây áp lực việc học tập cho con em mình, yêu cầu con phải đạt được thành tích
này, danh hiệu về học tập kia, trách phạt con nặng nề khi trẻ mắc lỗi khiến cho
các em sợ sệt, thiếu tự tin, nói dối và làm đối phó,…
- Học sinh nhận thức chậm, khả năng tự học - tự giải quyết vấn đề còn
hạn chế, có thể là gia đình chưa quan tâm đến việc hoc tập của con em họ,
không dạy dỗ các em đó học thêm bài ở nhà, chỉ phó mặc cho cô ở trường hoặc
em đó có lỗ hổng về kiến thức kĩ năng nào đó gây việc chán nản học,…

- Học sinh chưa có ý thức tự quản, tự phục vụ và không biết làm những
việc đơn giản phù hợp với lứa tuổi bởi vì gia đình quá nuông chiều không yêu
cầu các em làm bất kể công việc gì.
- Một số gia đình có sự mâu thuẫn giữa bố hoặc mẹ bỏ mặc con cho ông
bà nuôi. Nhiều em đã tự kỉ ít nói, ngại hoạt động học tập vui chơi cùng với thầy
cô và bạn bè.
Mặt khác, một bộ phận không nhỏ giáo viên chỉ chú trọng việc dạy kiến
thức mà không chú trọng đến việc rèn luyện để hình thành năng lực, phẩm chất
6


cho học sinh. Để nâng cao việc hình thành năng lực, phẩm chất cho học sinh lớp
chủ nhiệm tôi đã đưa ra và áp dụng một số giải pháp sau.
2.3. Các giải pháp nhằm nâng cao việc hình thành năng lực, phẩm
chất cho học sinh lớp 1 ở trường Tiểu học An Nông.
2.3.1.* Nâng cao nhận thức của bản thân về tầm quan trọng trong việc
hình thành năng lực, phẩm chất cho học sinh lớp 1.
Qua thực tế giảng dạy, bản thân tôi thấy: hầu như tất cả giáo viên dạy lớp
1 chỉ chú trọng vào việc rèn chữ, luyện đọc, rèn kĩ năng tính toán cho học sinh là
chủ yếu. Còn việc hình thành các năng lực, phẩm chất chưa thực sự được quan
tâm. Nếu ngay ở đầu cấp mà chúng ta không hình thành những năng lực, phẩm
chất chủ yếu cho học sinh thì lên các lớp trên học sinh chỉ là những con rô bốt
làm việc một cách máy móc và khô khan. Tôi đã xác định được tầm quan trọng
của mình trong việc nâng cao hình thành năng lực, phẩm chất cho học sinh lớp
tôi chủ nhiệm đó là: Tôi thực hiện tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy phát
huy tính sáng tạo, tích cực của học sinh trong giao tiếp, phải biết khai thác, phát
huy tính tích cực tự giác, tự giải quyết vấn đề ở mỗi em học sinh thông qua các
tiết học, giờ học ngoại khóa. Tạo cho các em môi trường học tập thoải mái, tự
tin trong mọi lĩnh vực cuộc sống. Chính vì lẽ đó, việc nâng cao nhận thức cho
bản thân tôi về việc hình thành năng lực, phẩm chất cho học sinh lớp 1 là rất

quan trọng.
*Xác định nhiệm vụ cơ bản và trách nhiệm của bản thân giáo viên trong
việc hình thành năng lực, phẩm chất cho học sinh
Bản thân tôi đã nhìn thấy nhiệm vụ cao cả của mình trong việc làm này và
làm thế nào cho hiệu quả nhất? Đó là câu hỏi tôi và không ít giáo viên phải suy
nghĩ trăn trở. Từ đó, tôi đã xác định được nhiệm vụ cơ bản của mình trong việc
hình thành năng lực, phẩm chất cho học sinh như sau:
- Tôi đã tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự
sáng tạo, tích cực của học sinh, phải biết khai thác, phát huy năng khiếu, tiềm
năng sáng tạo ở mỗi học sinh vì mỗi học sinh là một nhân vật đặc biệt, phải giáo
dục học sinh như thế nào để các em cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống
của cuộc sống đời thường.
- Thường xuyên tổ chức các hoạt động chăm sóc giáo dục cho các em cho
thích hợp tuân theo một số quan điểm như: giúp các em phát triển đồng đều các
lĩnh vực thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm - xã hội và nhằm phát huy tích
tích cực hình thành năng lực, phẩm chất.
- Giúp các em có mối liên hệ mật thiết với những người bạn trong lớp,
trong trường; các em biết chia sẻ chăm sóc lẫn nhau, các em cần phải học cách
ứng xử, biết lắng nghe và trình bày vấn đề. Cần trang bị cho học sinh sự tự tin,
thoải mái trong mọi trường hợp giao tiếp, thường xuyên liên lạc với phụ huynh
học sinh để kịp thời nắm tình hình phát triển năng lực, phẩm chất của các em ở
mọi lúc mọi nơi.

7


Đối với những em có ý thức tự quản, tự phục vụ chưa cao. Tôi đã giáo
dục năng lực tự phục vụ, tự quản; giao tiếp và hợp tác trong hoạt động học tập
như: hoạt động học nhóm, cô giáo giao việc cho nhóm các em tự biết giao việc
cho nhau, từng thành viên trong nhóm nhận nhiệm vụ của mình.

Qua đây, tôi dạy cho học sinh kĩ năng học tập hợp tác, học sinh có kĩ năng
hợp tác là những em đã hiểu rõ những tri thức về kĩ năng hợp tác và các em đã
biết vận dụng kĩ năng hợp tác một cách đúng đắn, linh hoạt, mềm dẻo và hiệu
quả vào quá trình học tập cũng như trong cuộc sống. Bên cạnh đó, cần phải rèn
cho các em thói quen biết hợp tác với những người xung quanh, với bạn bè để
hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập; cá nhân trong nhóm học tập phải biết phối hợp,
chỉa sẻ, hỗ trợ các thành viên khác trong nhóm để hoàn thành nhiệm vụ chung.
2.3.2.Tìm hiểu tâm sinh lý và hoàn cảnh của lớp mình phụ trách.
Qua thực tế chủ nhiệm lớp, tôi nhận thấy hầu như tất cả các em trong lớp
chủ nhiệm việc tự phục vụ, tự quản chưa làm được do các em đang còn nhỏ nên
được cha mẹ nuông chiều, làm thay mọi việc. Từ việc soạn sách đi học, thay
quần áo, vệ sinh thân thể đều do cha mẹ đảm nhiệm. Nhiều em còn rụt rè, ngại
giao tiếp, hợp tác với bạn bè và mọi người xung quanh. Đặc biệt việc tự học, tự
giải quyết vấn đề đang còn hạn chế. Chính vì do tâm sinh lý của các em đang
còn non nớt, như một tờ giấy trắng. Một số phẩm chất: chăm học, chăm làm; tự
tin, tự trọng, chịu trách nhiệm; trung thực, kỉ luật; yêu gia đình bạn bè và người
thân đang còn mờ nhạt và mơ hồ đối với các em. Mặt khác, một số em gia đình
có điều kiện, lại là con một nên tất cả mọi việc đều do cha mẹ đảm nhận làm
thay và rất cưng chiều dẫn đến các năng lực của các em chưa được hình thành,
tạo cho các em tính ích kỉ, lệch lạc về phẩm chất. Phần đa học sinh trong lớp đều
có bố mẹ đi làm ăn xa nhà, nên phó mặc con cái cho ông bà già chăm sóc và dạy
dỗ. Ông bà chỉ quan tâm đến việc miếng ăn, giấc ngủ hàng ngày cho các em là
chủ yếu còn việc hình thành các năng lực, phẩm chất nêu trên chưa được quan
tâm, nên hầu hết các em phát triển một cách tự do theo bản năng. Một số gia
đình bố mẹ mâu thuẫn tình cảm, bỏ mặc con cái gửi cho các bác hoặc người thân
nuôi. Có em đã bị tự kỉ, ít nói ngại hoạt động học tập vui chơi cùng với thầy cô
và bạn bè.
Nắm bắt được tâm sinh lý và hoàn cảnh của từng em trong lớp để lựa
chọn phương pháp, cách thức hình thành năng lực, phẩm chất cho học sinh tốt
và hiệu quả nhất đòi hỏi người thầy phải chuẩn mực về năng lực và phẩm chất;

bởi học sinh thường rất nghe lời thầy cô giáo, thầy cô dạy bảo điều gì các em
luôn luôn ghi nhớ và làm theo, có khi hơn cả cha mẹ ở nhà. Tôi luôn dặn dò các
em: phải chăm chỉ học hành, khi làm bài kiểm tra không được nhìn bài của bạn;
trong buổi kiểm tra tôi chú ý quan sát các em làm bài; thường xuyên quan sát
thái độ ứng xử của các em trong giờ học, trong các buổi ra chơi, sinh hoạt tập
thể… chắc chắn đức tính trung thực sẽ dần được hình thành cho các em. Mặt
khác, tôi thường xuyên phối kết hợp giáo dục các em cùng với gia đình nhờ phụ
huynh thường xuyên nhắc nhở con chăm chỉ học hành; chú ý quan sát nề nếp
học tập của con hàng ngày ở nhà, cùng với những biểu hiện của đức tính trung
thực, ngay thẳng trong sinh hoạt gia đình, thì các em sẽ không thể có hành vi “
8


gian lận” trong học tập, trong các lần kiểm tra tại lớp. Chính vì tôi đã làm tốt
việc này nên hiện nay ở lớp tôi chủ nhiệm các em rất ngoan, chăm chỉ học tập,
trung thực trong học tập, biết nhận lỗi và sửa lỗi…Mặc dù các em mới chuyển từ
hoạt động vui chơi ( ở Mầm non ) sang hoạt động học tập ( ở Tiểu học) nhưng
các em đã quen dần với các hoạt động học tập có nề nếp tự phục vụ: biết tự soạn
sách vở đi học theo thời khóa biểu, biết sắp xếp ngăn bàn nơi ngồi của mình gọn
gàng ngăn nắp, biết tự chọn cho mình bộ quần áo đẹp mỗi buổi đến trường.
2.3.3. Phân loại đối tượng học sinh trong lớp, đưa ra các giải pháp giáo
dục học sinh.
Căn cứ vào tình hình chung của lớp sau một thời gian học tập, tôi đã tiến
hành phân đối tượng học sinh trong lớp để biết có bao nhiêu học sinh đạt mức
hoàn thành tốt, bao nhiêu em ở mức đạt và bao nhiêu học sinh cần cố gắng về
năng lực, phẩm chất. Để từ đó có biện pháp giáo dục các em, nâng cao trình độ
đồng đều trong lớp.
+ Đối với những em còn chậm tiến bộ (đạt mức Cần cố gắng) thì xếp những
em này ngồi ra đầu bàn, gần với em học hoàn thành tốt các môn học. Đặc biệt
cần phát triển tư duy, nâng cao kiến thức bồi dưỡng năng lực học tập tốt cho học

sinh. Nhất là học sinh lớp 1, giờ các em mới làm quen với môi trường mới,
nhiều em thao tác chậm, không có khả năng tự học, tự giải quyết vấn đề được.
Bản thân tôi đã lập kế hoạch giúp đỡ đối tượng bằng những việc cụ thể là:
- Đưa ra những câu hỏi từ dễ đến khó, để học sinh có thể trả lời được. Tôi
đã kịp thời khen, cho các bạn vỗ tay khen bạn, với học sinh lớp 1 các em rất
thích được khen. Từ đó phát huy được năng lực tự giác, tự tin trong giao tiếp,
các em sẽ phát huy tính tích cực trong học tập, thích giơ tay phát biểu bài.
Thường xuyên kiểm tra các em chậm chạp, rụt rè trong quá trình dạy trên lên
lớp. Tích cực rèn các kĩ năng sống và kĩ năng giao tiếp cơ bản cho những em
này như: biết chào hỏi thầy cô, người lớn tuổi, biết nói lời cảm ơn và xin lỗi...
Tôi thường xuyên cho học sinh hoạt động lồng ghép hoặc hoạt động ngoài giờ
lên lớp, múa hát sân trường, tạo cơ hội giao tiếp cho các em.
+ Đối với hoc sinh có ý thức tự quản, tự phục vụ chưa cao. Tôi phải thường
xuyên gặp gỡ phụ huynh trao đổi về tình hình học tập, sinh hoạt ở lớp cũng như
ở nhà của các em. Đặc điểm của học sinh lớp một là mau nhớ, nhanh quên nên
việc rèn luyện cho các em cần được làm thường xuyên, liên tục ở mọi lúc mọi
nơi. Vì thế, ngay đầu năm học, tôi đã đề cao công tác hình thành năng lực, phẩm
chất cho các em. Học sinh lớp 1 chưa quen với môi trường mới nên tôi luôn tạo
cho các em tập nhiều thao tác mạnh dạn khi giao tiếp như: học sinh được luyện
nói nhiều, thực hành giao tiếp, đóng vai,…Rèn cho các em kĩ năng sống như: tự
vệ sinh cá nhân, tự buộc tóc, tự soạn sách vở…Kĩ năng giải quyết mâu thuẫn.
Đây cũng là một trong những kĩ năng quan trọng trong việc hình thành phẩm
chất cho học sinh giúp các em học sinh tránh được sự mất đoàn kết, các em biết
thương yêu bạn bè, kính trọng người lớn tuổi và thầy cô giáo.
+ Đối với một số ít học sinh hạn chế về năng lực, phẩm chất, với những em
học sinh thuộc gia đình ít quan tâm, họ không chú trọng đến việc học của con
9


em mình, còn nuông chiều, cung phụng con cái khiến trẻ không có năng lực tự

phục vụ. Tôi đã tạo cho các em học sinh này hình thành mối quan hệ thầy trò: tôi
luôn là người đồng hành cùng học sinh thực hiện tốt những việc cần làm phục
vụ bản thân. Tôi còn có lời nói cử chỉ nhẹ nhàng với những em học sinh thiếu
tập trung, bài vở chưa tốt; cần phải nhắc nhở riêng từng em, từng đối tượng vào
đúng thời điểm tránh làm các em thẹn, xấu hổ với các bạn trong lớp. Cuối mỗi
tuần, cuối mỗi tiết học tôi đã hình thành năng lực, phẩm chất cho các em thông
qua các bài học, kĩ năng làm bài tập ở các môn học cụ thể là môn Tiếng Việt
như:

Hình ảnh: Cô và trò lớp 1C đang học môn Tiếng Việt
2.3.4. Xây dựng kế hoạch, nề nếp nội quy lớp học
Từ việc điều tra, khảo sát tôi đã nắm được mặt mạnh, mặt yếu của từng
học sinh trong lớp chủ nhiệm để có biện pháp giáo dục thích hợp. Tổ chức cho
lớp bầu ra: “Hội đồng tự quản” và ban này phải là những học sinh hoàn thành
xuất sắc các môn học, đối xử với bạn bè vui vẻ, nhanh nhẹn, nhiệt tình trong
công việc, tự quản lớp hoạt động tốt. Xây dựng lớp tự quản tốt là tạo cho các em
môi trường thân thiện. Vậy ngay từ đầu nhận lớp, tôi phải lên kế hoạch từng
tuần, từng tháng cho ban này hoạt động. Tôi chỉ là người tổ chức, theo dõi và
đánh giá kết quả hoạt động đó. Sau khi bầu xong hội đồng tự quản của lớp, tôi
họp ban này lại và giao nhiệm vụ cụ thể để “Hội đồng tự quản” hoạt động
thường xuyên và đạt kết quả.
Ngoài ra, giáo dục các em phải: “Nói lời hay, làm việc tốt”, thường xuyên
dạy các em thực hiện tốt nội quy nhà trường. Muốn các em thực hiện tốt đòi hỏi
tôi phải gương mẫu về mọi mặt để học sinh noi theo, nói phải làm, đề ra phải
thực hiện, luôn gần gũi và có lòng vị tha với học trò.
Ví dụ: Phía trên tay trái góc bảng ghi rõ lớp, sĩ số học sinh, dưới kí hiệu ở
góc bảng: “ +, B, V, S, 1,2,3,…”
Chỉ vào “+” là học sinh cả lớp vòng tròn tay, lắng nghe tôi giảng bài.
Tôi chỉ “ B” là cả lớp lấy bảng con ra làm bài.
Tôi chỉ vào “V” là ngay lập tức học sinh biết lấy vở ra chép bài….

10


Tôi chỉ vào số1, số 2 hay số 3 là học sinh biết ngay tổ mình là tổ 1, tổ 2, tổ 3
đang không nghiêm túc học bài và làm bài hoặc là ồn.
2.3.5. Xây dựng mối quan hệ đoàn kết trong lớp
Qua nhiều năm giảng dạy trên lớp, tôi nhận thấy rằng: chỉ khi nào xây dựng
được một tập thể lớp đoàn kết thì các giải pháp giáo dục khác mới đạt hiệu quả
cao. Để thực hiện được điều này, tôi phải tạo điều kiện cho các em hiểu nhau và
xử lý các tình huống một cách hợp lý. Hơn nữa với lớp 1 các em nhút nhát nên
phải tập cho học sinh thói quen biết thương yêu bạn, giúp đỡ bạn,…Đối với học
sinh thiếu thốn tình cảm, hay e rè, ích kỉ: tôi thường xuyên trò chuyện cởi mở
với các em, tạo không khí vui vẻ khuyến khích học sinh tham gia tích cực vào
các hoạt động của nhóm, lớp, trường. Lôi cuốn các em vào một sân chơi lành
mạnh, vui vẻ…thường xuyên kể cho học sinh nghe những câu chuyện về lòng
nhân hậu, tình đoàn kết, nói cho các em biết về tình đoàn kết. Mỗi khi nhà
trường tổ chức các hoạt động ngoại khóa tôi đều lôi cuốn các em tham gia, tuyên
dương các em khi tham gia các hoạt động đó như: văn nghệ, góp giấy vụn, ủng
hộ người nghèo… Cuối mỗi tháng, tôi lại tổng kết hoạt động, tuyên dương và
khen thưởng những học sinh có tiến bộ, những nhóm học sinh học tập đạt chất
lượng tốt.
2.3.6.* Chú trọng phát huy tính tích cực, chủ động trong quá trình tự học
của học sinh lớp mình phụ trách
Để làm được điều này đòi hỏi người giáo viên Tiểu học phải có hiểu biết
về chương trình của lớp học, cấp học, mạnh dạn đổi mới phương pháp, các hình
thức dạy học, tuyệt đối không được áp đặt kiến thức; phát huy tính tự học, tự tìm
tòi khám phá cái mới ở mỗi học sinh. Trong quá trình dạy học trên lớp, tôi
thường thực hiện như sau:
+ Giúp học sinh nắm được mục tiêu nhiệm vụ học tập.
+ HS tự giải quyết nhiệm vụ học tập.

+ Các bạn trong nhóm tự trao đổi bài cho nhau.
+ Báo cáo kết quả học tập trước lớp và thực hiện nhiệm vụ học tập mới
Trong khi học sinh học tập, tôi đã chọn vị trí thích hợp quan sát cử chỉ,
nét mặt để phát hiện em nào gặp khó khăn - vướng mắc nhằm kịp thời kiểm tra
kết quả nhiệm vụ học tập, cách dạy đó phát huy tốt các năng lực tự học và giải
quyết vấn đề; tự hợp tác và giao tiếp. Đến nay, học sinh trong lớp tôi đã biết cố
gắng thực hiện các nhiệm vụ của mình, chủ động giao tiếp, hợp tác chia sẻ kết
quả học tập với bạn… Đổi vở cho bạn kiểm tra chéo bài của nhau... Tôi đã dành
thời gian cho học sinh học trước vấn đề, thực hành trải nghiệm, với bài tập và
vấn đề thảo luận. Sau đó các em tự tương tác khi có nhu cầu trao đổi, cả lớp tự
phản biện học hỏi lẫn nhau giáo viên chỉ là người tổ chức.
* Áp dụng phương pháp dạy học: “ Bàn tay nặn bột” trong dạy học.
Đây là phương pháp dạy học tích cực dựa trên thí nghiệm áp dụng cho
việc giảng dạy “ Bàn tay nặn bột” là hình thành cho học sinh bằng việc các em
tự nghiên cứu tìm ra câu trả lời cho các vấn đề thông qua làm thí nghiệm, quan
sát, nghiên cứu… với một vấn đề được đặt ra, học sinh có thể tìm hiểu những
11


hiểu biết ban đầu, tiến hành các phân tích, thảo luận rồi đưa ra kết quả phù hợp.
Áp dụng phương pháp dạy học này tôi đã thực hiện như sau:
Ngoài việc chú trọng đến kiến thức, học sinh lớp tôi còn được rèn luyện
kỹ năng diễn đạt thông qua ngôn ngữ giao tiếp. Nhờ đó mà năng lực: tự học và
tự giải quyết vấn đề được nâng cao, các em đã biết vận dụng những điều đã học
để giải quyết các nhiệm vụ học tập; trong cuộc sống, các em đã biết phát hiện ra
những tình huống có mới liên quan và tìm cách giải quyết một cách triệt để. Một
trong những đức tính cần thiết để tạo nên sự thành công trong cuộc sống đó là
các em rất chăm chỉ. Và đức tính này đã được người xưa lồng vào câu tục ngữ: “
Có công mài sắt có ngày nên kim” như để nhắc nhở những người làm công tác
giáo dục nói chung, bản thân tôi nói riêng cần coi trọng phẩm chất chăm học,

chăm làm. Chăm chỉ học tập là đức tính quý báu của mỗi học sinh, của mỗi con
người. Những em có đức tính chăm chỉ học tập, chăm làm thì các em luôn đạt
được những gì các em mong muốn.

Hình ảnh: Cô và trò lớp 1C đang học môn Tự nhiên - xã hội
2.3.7. Lồng ghép việc hình thành năng lực, phẩm chất của học sinh vào
các môn học.
Các năng lực, phẩm chất của học sinh được hình thành trong quá trình rèn
luyện. Hiện nay, nội dung giáo dục năng lực, phẩm chất đã được lồng ghép vào
các môn học ở bậc Tiểu học. Trong quá trình dạy học trên lớp tôi đã dạy học
theo kiểu mô hình lồng ghép nhằm nâng cao việc hình thành năng lực, phẩm
chất của học sinh như sau:
Khi dạy các môn học tôi đã áp dụng các phương pháp dạy học tích cực
nhằm rèn luyện kĩ năng diễn đạt thông qua việc hình thành các năng lực: tự học
12


và tự giải quyết vấn đề. Học sinh lớp tôi đã biết vận dụng những điều đã học để
giải quyết nhiều tình huống trong cuộc sống, phát hiện những tình huống mới
liên quan và tìm cách giải quyết. Thông qua các môn học học sinh được rèn
luyện năng lực hợp tác, giao tiếp, mạnh dạn khi trình bày một vấn đề trước đám
đông. Nhất là ở tiết Tự nhiên xã hội và tiết Sinh hoạt tập thể…
Phương pháp dạy học của giáo viên vô cùng quan trọng để hình thành
năng lực, phẩm chất cho các em. Dạy học lồng ghép thông qua các môn học
như: môn Tiếng việt, môn Đạo đức, môn Tự nhiên và xã hội…tất cả các môn
học đều hình thành cho học sinh nhiều vấn đề, kỹ năng tư duy tích cực và tư duy
sáng tạo. Vậy trong các giờ học tôi luôn phải tìm tòi các phương pháp, hình thức
tổ chức cho phù hợp với nội dung tiết dạy nhằm nâng cao hiểu biết cho các em.
Cách dạy học này phát huy tốt các năng lực tự học và giải quyết vấn đề,
giao tiếp, hợp tác. Học sinh lớp tôi đã biết cố gắng thực hiện nhiệm vụ cá nhân

của mình, chủ động giao tiếp, hợp tác - chia sẻ kết quả học tập với bạn, hình
thành phẩm chất mạnh dạn, tự tin, chăm học cho các em. Học sinh trong lớp tôi
các em biết tự mình làm bài, thường xuyên trao đổi kết quả với bạn, mạnh dạn
trình bày ý kiến cá nhân về kết quả bài học theo hình thức nhóm, trình bày trước
lớp, trước đám đông trong cuộc sống học tập cũng như vui chơi hàng ngày. Học
như vậy, học sinh được học sâu hơn rất nhiều, nhớ bài kĩ hơn và chắc chắn hơn,
mà cũng từ cách học đó hình thành năng lực, phẩm chất của các em tốt hơn. Đối
với lớp 1 thì việc vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp dạy học lấy học
sinh làm trung tâm cũng được áp dụng thường xuyên, sử dụng các kĩ thuật dạy
học tích cực như: khăn trải bàn, sơ đồ tư duy, bàn tay nặn bột, nhóm cộng tác…

Hình ảnh: Học sinh lớp 1C trình bày và thảo luận nhóm
13


Để hình thành năng lực, phẩm chất cho các em có hiệu quả tôi đã vận
dụng lồng ghép rất nhiều qua các môn học, tiết học, nhất là các môn như: Toán,
Sinh hoạt tập thể. Tôi đã dạy học lồng ghép ở tiết Toán, các em đã hình thành
được năng lực tự học và tự giải quyết vấn đề, kĩ năng tư duy tích cực và tư duy
sáng tạo, năng lực ngôn ngữ và giao tiếp, các năng lực hợp tác, năng lực tính
toán. Hầu như các em đã được hình thành năng lực tư duy qua quá trình học
toán, thể hiện qua các thao tác chủ yếu như: phân tích và tổng hợp so sánh, đặc
biết hóa và khái quát hóa; các phẩm chất tốt như: chăm học chăm làm, các em
biết thương yêu bạn bè, đoàn kết giúp đỡ bạn vượt khó khăn. Học sinh trong lớp
nhiều em đã tích cực xây dựng bài, các tiết học sôi nổi, các em thi đua nhau xây
dựng bài.
2.3.8. Thường xuyên tổ chức các hoạt động trải nghiệm để tạo cơ hội cho
các em được hình thành năng lực, phẩm chất.
Các năng lực, phẩm chất của học sinh không chỉ được hình thành trong
hoạt động học tập và rèn luyện mà nó còn được hình thành nhiều ở các hoạt

động trải nghiệm trong và ngoài nhà trường. Hoạt động trải nghiệm có thể thực
hiện theo quy mô lớn nhỏ tùy vào thời gian, điều kiện của nhà trường, của lớp
học, của từng khối lớp cụ thể. Bản thân tôi đã áp dụng giải pháp này theo quy
mô nhỏ bởi học sinh chủ yếu hoạt động trên lớp; tôi thường xuyên, liên tục tổ
chức các hoạt động trải nghiệm thì học sinh mới hình thành được năng lực,
phẩm chất, kĩ năng sống cho học sinh. Tôi nghiên cứu, tìm hiểu thực tế và đưa ra
được giải pháp cụ thể như sau: để các hoạt động trải nghiệm diễn ra thường
xuyên ngay đầu năm tôi lên kế hoạch cụ thể cho hàng tuần, hàng tháng, trong
năm rõ ràng.
Ngay từ đầu năm tôi nhận lớp 1C, tôi bắt đầu cho các em trải nghiệm như:
lần lượt gọi tên từng em lên giới thiệu bản thân, gia đình, sở thích để hình thành
năng lực: giao tiếp; phẩm chất: mạnh dạn, tự tin. Hoặc các em trải nghiệm bằng
hoạt động thi xếp sách vở trong ngăn bàn và trong cặp sách; phát huy tính
nhanh, gọn, thi gấp quần áo…Tập cho học sinh trải nghiệm cách xử lý khi bị đứt
tay, chân và cách xử lý khi bạn bị nạn… Từ đó tôi đã hình thành được năng lực
tự quản, tự phục vụ cho các em; biết xử lý các vấn đề có liên quan mà các em
thường gặp trong cuộc sống hàng ngày. Mặc dù những em này bố mẹ đi làm ăn
xa, các em ở nhà với ông bà - với các bác.
Hàng tuần, dựa theo quan sát của tôi và dựa vào nhận xét quan sát đánh
giá của ban hội đồng tự quản lớp, nếu thấy năng lực, phẩm chất - kĩ năng sống
nào của các em chưa tốt thì tôi giúp các em xây dựng kế hoạch tổ chức trải
nghiệm lại cho tốt hơn, thành thạo hơn.
Hàng tháng, dựa theo chủ điểm cụ thể tôi đã gợi ý học sinh trải nghiệm,
lập chương trình hoạt động trải nghiệm…Thông qua đó mà ở lớp tôi chủ nhiệm
các em luôn biết lựa chọn hình thức tổ chức phù hợp với nội dung; nắm được
các bước cơ bản cần thực hiện, nắm được trách nhiệm của từng cá nhân khi
tham gia hoạt động trải nghiệm. Tôi hướng cho học sinh lựa chọn nội dung trải

14



nghiệm trong cả năm học dựa theo chủ điểm từng tháng, từng kì dựa vào điều
kiện của mỗi cá nhân, của lớp.
Ngay những ngày đầu đón nhận các em, tôi đã phát hiện có một số em
nhận thức chậm, khả năng tự học - tự giải quyết vấn đề còn hạn chế, các kiến
thức cơ bản còn nhiều lỗ hổng dẫn đến các em ngại đi học, chán học,… Tôi đã
sử dụng phương pháp tương tác nhóm “ Đôi bạn cùng tiến”, đã hướng dẫn cho
các em nhận biết cách học, tự học, tự hợp tác với bạn… bằng cách học nhóm,
nhằm phát huy kĩ năng giao tiếp giữa học sinh với học sinh. Khi hợp tác làm
việc với nhau, với nhóm trưởng để đạt được mục tiêu đề ra.
Ví dụ: khi cho học sinh thảo luận về vấn đề “ Thân cây có đặc điểm gì?”,
mỗi thành viên trong nhóm lần lượt đưa ra ý kiến của bản thân về vấn đề này.
Sau khi đã nêu ý kiến xong, các thành viên của nhóm khác theo dõi và nêu nhận
xét đúng - sai; tôi chốt kết quả đúng cho học sinh, góp ý và có cách sửa lỗi sai cụ
thể cho các em. Chính điều này đã giúp học sinh lớp tôi phát triển kĩ năng giao
tiếp và tương tác với các bạn trong nhóm học, trong lớp. Từ đó những em này
không còn ngại đi học nữa, ham đi học, thích giao tiếp với cô với các bạn, tự
giác trong học tập; từ đây cũng phát triển kĩ năng tạo môi trường hợp tác, kĩ
năng xây dựng niềm tin. Đây là một kĩ năng đặc biệt quan trọng bởi niềm tin là
linh hồn của quá trình hợp tác của trẻ. Niềm tin còn giúp các em tránh đi sự mặc
cảm trước khi đến lớp, nhất là đối với những em học sinh ngay ngày đầu vào lớp
1 bị chậm phát triển, gặp nhiều khó khăn trong học tập như không biết cầm bút
đúng, không thuộc bảng chữ cái
Qua việc tổ chức cho học sinh trong lớp được trải nghiệm ở các giờ học
trên lớp, ngoài lớp… tôi còn thường xuyên phát huy năng lực tự học, tự đọc
sách nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy, đảm bảo cho hoạt động có hiệu quả tốt,
bởi năng lực tự học của mỗi học sinh luôn được gắn liền với hoạt động chính
của các em.
2.4. Kết quả nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm
Các em do không còn có sự ganh đua, hay lo lắng về điểm số nên sẵn

sàng chia sẻ giúp đỡ khi bạn gặp khó khăn, vướng mắc. Những em vướng phải
khó khăn trong học tập cũng đã chủ động, mạnh dạn hỏi bạn; không còn ngại
ngùng, xấu hổ. Các em đã biết tự giác làm nhiều việc: sắp xếp sách vở đồ dùng
ngăn nắp mỗi khi ra chơi, xếp bàn ghế ngay ngắn, vệ sinh lớp học gọn gàng sạch
sẽ, khi tham gia hoạt động tập thể, các em mạnh dạn, nói rõ ràng, mạch lạc.
Đã trang bị cho các em những kiến thức, kĩ năng trong học tập và rèn cho
học sinh kĩ năng sống tốt; hình thành cho các em năng lực - phẩm chất tốt, các
em có đầy đủ sự tự tin đứng trước đám đông; chăm học, chăm làm bài...Tích cực
tham gia các hoạt động của lớp, của nhà trường đề ra.
*Kết quả đạt được của lớp 1C sau thời gian áp dụng các giải pháp trên là:
STT

Năng lực

Sĩ số
HS lớp

Số
HS

Tỉ lệ
%

Số
HS

Tỉ lệ
%

Số

HS

Tỉ lệ
%
15


đạt ở
mức
tốt
(T)
1
2
3

STT

1

2
3

4

Tự phục vụ,
tự quản
Hợp tác, giao
tiếp
Tự học,
GQVĐ


Phẩm chất
Chăm học, chăm
làm, tích cực tham
gia các hoạt động
giáo dục
Tự tin, tự trọng, tự
chịu trách nhiệm
Trung thực, kỉ luật
Đoàn kết, yêu
thương gia đình
bạn bè và người
thân

xếp
Đạt
(Đ)

CCG
(C)

30

15

50

15

50


0

0

30

16

54

14

46

0

0

30

15

50

15

50

0


0

Số
HS
xếp
Đạt
(Đ)

Tỉ lệ
%

Số
HS
CCG
(C)

Tỉ lệ
%

Sĩ số
HS
lớp

Số
HS đạt Tỉ
ở mức lệ
tốt
%
(T)


30

18

60

12

40

0

0

30

16

54

14

46

0

0

30


18

60

12

40

0

0

30

20

67

10

33

0

0

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1.Kết luận
Việc sử dụng các giải pháp trên chỉ là những kinh nghiệm nhỏ mà tôi đã

rút ra được trong quá trình giảng dạy, nhất là trong quá trình đổi mới phương
pháp như hiện nay. Do vậy, đây chỉ là bước đầu đã giúp tôi thu được những kết
quả khả quan. Để nâng cao việc hình thành năng lực, phẩm chất cho học sinh
lớp 1 trong trường Tiểu học. Tuy nhiên điều cơ bản mà tôi nhận thấy rằng đó
cũng là bài học tâm đắc nhất tôi rút ra được. Đó chính là sự nhiệt tình và ý thức
học hỏi ở sách vở, tài liệu và học hỏi ở bạn bè đồng nghiệp. Mỗi chúng ta cần
phải có sự đầu tư cho từng tiết dạy, hết lòng vì học sinh. Giáo viên phải xác định
rằng hiệu quả của mỗi tiết dạy là thước đo hiệu quả của mỗi giáo viên.
Với một vài kinh nghiệm mà tôi rút ra trong quá trình giảng dạy 25 năm
trong nghề và cụ thể là ở lớp 1C năm nay, nó chỉ là viên gạch nhỏ bé. Tôi rất
mong được sự nhận xét, góp ý chân thành của quý thầy cô, các bạn đồng nghiệp
gần xa để nâng cao việc: “ Hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất cho học
16


sinh lớp 1 trong trường Tiểu học ” góp phần giáo dục cho học sinh trở thành con
người phát triển toàn diện trong tương lai.
* Qua kết quả đạt được với một quá trình học tập và nghiên cứu nhiệt tình trách
nhiệm và tâm huyết. Bản thân tôi rút ra được những bài học kinh nghiệm sau:
Trong quá trình giảng dạy việc hình thành năng lực, phẩm chất cho học sinh
đòi hỏi: Giáo viên phải kiên trì, bình tĩnh trong thời gian không phải ngày một,
ngày hai mà đã làm được ngay, nó đòi hỏi phải trải qua một quá trình lâu dài và
được thử nghiệm nhiều lần. Đặc biệt phải lựa chọn phương pháp giảng dạy của
mình sao cho phù hợp với việc nhận thức của học sinh và gây hứng thú học tập
cho học sinh. Nhất là ở lứa tuổi lớp 1, các em mới bắt đầu chuyển giai đoạn:
“ Từ hoạt động vui chơi - ở Mầm non sang hoạt động học tập - ở Tiểu học”.
- Thường xuyên nghiên cứu tài liệu để nâng cao vốn hiểu biết cho bản thân.
Chú ý nội dung giảm tải điều chỉnh sao cho phù hợp với đặc điểm học sinh của lớp
mình. Không ngừng học hỏi trao đổi với đồng nghiệp để nghiên cứu đổi mới
phương pháp dạy và học nhằm nâng cao chất lượng cho học sinh về các môn học.

Rèn luyện cho học sinh khả năng tư duy và sáng tạo tránh rập khuôn một cách máy
móc. Rèn cho học sinh thói quen kĩ năng sống, kĩ năng tự phục vụ bản thân, kĩ
năng giao tiếp.
- Đổi mới cách đánh giá phải đáp ứng mục tiêu giáo dục, phải vì người
học. Chính vì thế, trong quá trình đánh giá đòi hỏi giáo viên phải thường xuyên
quan sát, theo dõi cá nhân học sinh, nhóm học sinh trong quá trình học tập để
nhận định, động viên và gợi ý, hỗ trợ kịp thời đối với từng việc làm, từng nhiệm
vụ của mỗi cá nhân hoặc cả nhóm. Đồng thời giáo viên còn phải quan sát từng
học sinh để còn kịp thời đưa ra nhận định về một biểu hiện của năng lực, phẩm
chất của học sinh.
- Tăng cường đổi mới phương pháp, tích cực dạy học lồng ghép các môn
học nhằm phát huy tính tự giải quyết vấn đề, phẩm chất chăm học chăm làm cho
học sinh.
- Thường xuyên chấm chữa bài, chỉ lỗi sai cụ thể cho học sinh.
* Để hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã phải trải qua rất nhiều
những tình huống, những tiết dạy, dự giờ góp ý kiến của đồng nghiệp. Trong quá
trình nghiên cứu thực hiện đề tài tôi có tham khảo ý kiến của các quý thầy cô đã
từng dạy tôi trong trường sư phạm và bạn bè đồng nghiệp gần xa và sử dụng tư
liệu của Nhà xuất bản Giáo dục. Đồng thời được sự giúp đỡ tận tình của Ban
giám hiệu, của tổ chuyên môn và các đồng nghiệp trong trường đã giúp tôi hoàn
thành bài viết. Tôi không biết nói gì hơn xin gửi tới quý thầy cô, đồng nghiệp và
các tác giả đã biên soạn các sách mà tôi đã tham khảo lời cảm ơn sâu sắc nhất.
Để bản sáng kiến này được hoàn thiện hơn nữa, tôi rất mong có sự góp ý của các
bạn đọc gần xa. Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!
3.2. Kiến nghị
- Đề nghị nhà trường cần có kế hoạch tham mưu với lãnh đạo địa phương
tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học hàng năm để giáo viên có đủ
phương tiện dạy học theo phương pháp mới thúc đẩy chất lượng giáo dục, nâng
17



cao việc hình thành năng lực, phẩm chất cho học sinh. Nâng cao hiệu quả giáo
dục theo kịp thời đại hiện nay.
- Đề nghị Phòng Giáo dục - Đào tạo nên chọn các sáng kiến hay về các
môn học, phân môn được giảng dạy trong trường Tiểu học cũng như nhiều lĩnh
vực khác in thành tập san để cung cấp cho các trường làm tài liệu tham khảo
sinh hoạt chuyên môn. Từ đó, có thể giúp giáo viên chúng tôi học hỏi được
nhiều kinh nghiệm quý báu góp phần nâng cao giáo dục toàn diện trong nhà
trường.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG Thanh Hóa, ngày 22 tháng 3 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
ĐƠN VỊ
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Người viết

Lê Thị Tuyết

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa môn Tiếng Việt từ lớp 1, tập 1, 2 (tài liệu hiện hành).
2. Sách giáo khoa các môn Toán,Tự nhiên và xã hội, Đạo đức... từ lớp 1
( tài liệu hiện hành)
2. Sách giáo viên các môn Tự nhiên và xã hội, Đạo đức... (tài liệu hiện
hành).
3. Hướng dẫn thực hiện Chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học ở Tiểu
học lớp 1 của Bộ GD&ĐT – Nhà xuất bản Giáo dục năm 2009.
4. Phân phối chương trình các môn học từ lớp 1(tài liệu hiện hành).

5. Các công văn chỉ đạo việc thực hiện chương trình ở Tiểu học (tài liệu
hiện hành).
6. Kinh nghiệm giảng dạy rèn năng lực, phẩm chất trên các kênh thông
tin khác.
7. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy các môn Tiểu học của Bộ GD&ĐT
–Vụ Giáo dục Tiểu học / Nhà xuất bản Giáo dục.
8. Thông tư 30 và thông tư 22 của Bộ giáo dục ban hành đánh giá, nhận
xét học sinh Tiểu học.
9. Một số tư liệu, hình ảnh tổ chức các hoạt động học cho học sinh Tiểu
học.

19


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
KINH NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH
VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Lê Thị Tuyết
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên, Trường Tiểu học An Nông – Triệu Sơn –
Thanh Hóa

TT

Tên đề tài SKKN

1.

Một số biện pháp làm tốt
công tác chủ nhiệm lớp


2.

Một vài biện pháp rèn KNS
cho học sinh lớp 2 thông qua
các môn học

Cấp đánh giá
xếp loại
(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh;
Tỉnh...)

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B,
hoặc C)

Năm học
đánh giá
xếp loại

Huyện

B

2011-2012

Tỉnh


B

2012-2013

3.
4.
5.
...

20



×