Tải bản đầy đủ (.pdf) (165 trang)

Lập luận trong luật tục êđê

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.38 MB, 165 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

TRẦN THỊ THẮM

LẬP LUẬN
TRONG LUẬT TỤC ÊĐÊ
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 9.22.90.20

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. TẠ VĂN THÔNG
2. PGS.TS. ĐẶNG THỊ HẢO TÂM

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các ngữ liệu
trong luận án là xác thực. Những kết luận khoa học của luận án chƣa từng đƣợc ai
công bố trong bất kì công trình nào khác.
Tác giả
Hà Nội, ngày

tháng năm 2019

TRẦN THỊ THẮM



MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI ......................................................................... 1
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ...................................................... 2
3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ....................................................... 3
4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .......................................................................... 3
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN ............................................................................... 4
6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN ............................................................................... 4
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÍ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN ...................................................................................................... 6
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ..................................................... 6
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về lập luận ................................................................ 6
1.1.2. Tình hình nghiên cứu luật tục và luật tục Êđê ........................................... 11
1.2. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ................................................................. 17
1.2.1. Cơ sở lí luận ............................................................................................... 17
1.2.2. Cơ sở thực tiễn ........................................................................................... 36
1.3. TIỂU KẾT ......................................................................................................... 42
Chƣơng 2. CẤU TRÚC LẬP LUẬN TRONG LUẬT TỤC ÊĐÊ ...................... 44
2.1. THÀNH PHẦN LẬP LUẬN TRONG LUẬT TỤC ÊĐÊ ................................ 44
2.1.1. Thành phần luận cứ trong luật tục Êđê ...................................................... 44
2.1.2. Thành phần kết luận trong luật tục Êđê ..................................................... 54
2.2. CHỈ DẪN LẬP LUẬN TRONG LUẬT TỤC ÊĐÊ ......................................... 61
2.2.1. Tác tử lập luận trong luật tục Êđê .............................................................. 61
2.2.2. Kết tử lập luận trong luật tục Êđê .............................................................. 69
2.3. MỘT SỐ MÔ HÌNH CẤU TRÚC LẬP LUẬN PHỔ BIẾN TRONG LUẬT
TỤC ÊĐÊ ................................................................................................................. 96
2.4. TIỂU KẾT ....................................................................................................... 101



Chƣơng 3. ĐẶC TRƢNG VĂN HÓA CỔ TRUYỀN CỦA NGƢỜI ÊĐÊ
PHẢN ÁNH QUA LẬP LUẬN TRONG LUẬT TỤC ÊĐÊ ............................. 103
3.1. LẬP LUẬN TRONG LUẬT TỤC ÊĐÊ PHẢN ÁNH THẾ GIỚI QUAN
CỦA NGƢỜI ÊĐÊ ............................................................................................... 104
3.1.1. Chất liệu xây dựng lập luận trong luật tục Êđê phản ánh đặc trƣng môi
trƣờng sống của ngƣời Êđê ................................................................................ 104
3.1.2. Chất liệu xây dựng lập luận trong luật tục Êđê phản ánh đặc trƣng văn hóa
sản xuất của ngƣời Êđê ...................................................................................... 118
3.1.3. Chất liệu xây dựng lập luận trong luật tục Êđê phản ánh văn hóa tín
ngƣỡng của ngƣời Êđê ....................................................................................... 123
3.2. LẬP LUẬN TRONG LUẬT TỤC ÊĐÊ PHẢN ÁNH NHÂN SINH QUAN
CỦA NGƢỜI ÊĐÊ ................................................................................................ 126
3.2.1. Kết quả khảo sát lẽ thƣờng trong lập luận của luật tục Êđê .................... 127
3.2.2. Đặc điểm của lẽ thƣờng trong lập luận của luật tục Êđê ......................... 129
3.3. TIỂU KẾT ....................................................................................................... 144
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 146
CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ....................................................................................... 150
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 151


DANH MỤC CÁC KÍ TỰ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

STT

KÍ HIỆU

NỘI DUNG VIẾT TẮT

1


HLLL

hiệu lực lập luận

3

KL

kết luận

4

KT

kết tử

5

KTDNLC

kết tử dẫn nhập luận cứ

6

KTDNKL

kết tử dẫn nhập kết luận

7


KTĐH

kết tử đồng hƣớng

8

KTNH

kết tử nghịch hƣớng

9

KT2VT

kết tử hai vị trí

10

KT3VT

kết tử ba vị trí

11

KT3VTĐH

kết tử ba vị trí đồng hƣớng

12


KT3VTNH

kết tử ba vị trí nghịch hƣớng

13

LC

luận cứ

14

LT

luật tục

15

QHLL

quan hệ lập luận


DANH MỤC BẢNG
Trang
Bảng 2.1. Thống kê lập luận dựa vào số lƣợng luận cứ ............................................45
Bảng 2.2. Thống kê tác tử lập luận trong luật tục Êđê ..............................................61
Bảng 2.3. Bảng tổng hợp chức năng của tác tử trong luật tục Êđê ...........................68
Bảng 2.4. Thống kê kết tử lập luận trong luật tục Êđê .............................................69

Bảng 2.5. Phân loại kết tử hai vị trí trong lập luận của luật tục Êđê.........................78
Bảng 2.6. Phân loại kết tử ba vị trí trong lập luận của luật tục Êđê ..........................84
Bảng 3.1. Từ ngữ chỉ thực vật trong lập luận của luật tục Êđê .............................. 104
Bảng 3.2. Từ ngữ chỉ động vật trong lập luận của luật tục Êđê ............................. 112
Bảng 3.3. Từ ngữ chỉ đồ vật trong lập luận của luật tục Êđê ................................. 119
Bảng 3.4. Từ ngữ chỉ lực lƣợng siêu nhiên trong lập luận của luật tục Êđê .......... 123
Bảng 3.5. Thống kê lẽ thƣờng trong lập luận của luật tục Êđê .............................. 127


1

MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Trong Ngữ dụng học, ngôn ngữ đƣợc xem xét ở những tình huống giao
tiếp, các chủ thể giao tiếp luôn hƣớng đến những đích nhất định. Muốn đạt đƣợc
những đích này, ngƣời nói (ngƣời viết) trƣớc hết phải chú ý đến tổ chức ngôn từ. Sự
tổ chức các căn cứ logic và hình thức ngôn ngữ để dẫn đến kết luận chắc chắn,
thuyết phục, đƣợc xem là quá trình lập luận. Trong hội thoại, lập luận là yếu tố
hàng đầu để “thuyết phục ngƣời khác”. Lập luận là để chứng minh, khẳng định,
bác bỏ hoặc thuyết phục ngƣời nghe đồng tình với những ý kiến của mình. Cách
thức lập luận còn thể hiện khả năng tƣ duy logic và trình độ ngôn ngữ của ngƣời
nói. Lập luận có vai trò quan trọng và xuất hiện phổ biến trong mọi hoạt động giao
tiếp bằng ngôn ngữ.
1.2. Luật tục còn đƣợc gọi là “tập quán pháp”, bao gồm cả luân lí, đạo đức
và phép ứng xử. Luật tục có cơ chế tổ chức, hội đồng và hình thức chế định để đảm
bảo việc thi hành những chuẩn mực xã hội. Muốn tổ chức và hình thức thƣởng phạt
có đủ sức mạnh để mọi ngƣời tuân theo thì luật tục cần có những lập luận thuyết
phục. Luật tục Êđê bao gồm những lập luận nhƣ vậy.
Sở dĩ luật tục đã đi vào cuộc sống và đáp ứng đƣợc mục đích mà cộng đồng
hƣớng đến trong bối cảnh một xã hội còn in đậm dấu ấn của tổ chức công xã thị tộc;

tôn giáo và tín ngƣỡng đang ở thời kì phát triển cuối cùng của tín ngƣỡng nguyên
thủy, bên cạnh việc đạt đến một trình độ cao về nghệ thuật ngôn từ thì việc thiết lập
một hệ thống luận cứ và kết luận hết sức hợp lí, chặt chẽ trong lập luận của luật tục
Êđê đã trở thành yếu tố quyết định sự thành công trong hiệu lực thuyết phục.
1.3. Luật tục Êđê là những quy ƣớc của cộng đồng trong sinh hoạt của ngƣời
Êđê nhằm giữ gìn bản sắc văn hóa, điều hòa các quan hệ trong cộng đồng tộc ngƣời.
Có thể xem đó là "công cụ quản lí cộng đồng". Luật tục Êđê có giá trị về nhiều mặt.
Đây là tài liệu quý để nghiên cứu tộc ngƣời và văn hóa tộc ngƣời nói chung, văn
hóa tộc ngƣời Êđê nói riêng; là vốn tri thức dân gian về nhiều phƣơng diện nhƣ
quản lí cộng đồng, quy tắc ứng xử, văn hóa làng buôn,… Nghiên cứu lập luận trong


2

văn bản luật tục Êđê góp phần lí giải mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, thấy
rõ khả năng nhận thức và trình độ phát triển, tính chặt chẽ, tính nhân văn, … của
một chế định xã hội, qua phƣơng tiện ngôn ngữ (tiếng Êđê).
Chỉ ra đƣợc những nét đặc trƣng trong ngôn ngữ và văn hóa ứng xử cộng đồng
của ngƣời Êđê trong bộ luật tục nói trên là một trong những con đƣờng để tiếp cận
ngôn ngữ, văn hóa, lịch sử của một vùng đất, một dân tộc. Việc làm này đặc biệt có
ý nghĩa trong hoàn cảnh hiện nay của dân tộc này, của Tây Nguyên và cũng là của
chung các dân tộc ở Việt Nam.
Ngày nay, khi luật pháp thành văn của Nhà nƣớc đƣợc ban hành chi tiết và
sát thực thì không gian áp dụng của luật tục cũng thu hẹp dần. Luật tục Êđê, cũng
nhƣ luật tục của nhiều dân tộc khác (vốn ở dạng truyền khẩu) đang đứng trƣớc sự
mai một, thất truyền. Do vậy, cần “bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa dân tộc,
các giá trị văn học, nghệ thuật, ngôn ngữ, chữ viết và thuần phong mĩ tục của các
dân tộc…” (Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX). Luật tục Êđê có không ít điều
khoản phù hợp với pháp luật hiện hành của Nhà nƣớc, thể hiện sự tiến bộ, đặc sắc
cần đƣợc nghiên cứu để bảo tồn, phục vụ việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Qua

sự phân tích về sự thuyết phục của luật tục, có thể có cơ sở vận dụng những điều
luật có tính hợp lí vào việc quản lí cộng đồng vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây
Nguyên, theo hƣớng kết hợp giữa truyền thống và hiện đại.
Xuất phát từ những lí do trên, đề tài Lập luận trong luật tục Êđê đã đƣợc
xác định là hƣớng đi của luận án này.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
2.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu lập luận trong luật tục Êđê, luận án nhằm chỉ ra và nhận dạng đƣợc
đặc điểm lập luận luật tục Êđê. Đặc điểm lập luận luật tục Êđê cũng là một phƣơng
diện giúp tìm hiểu những đặc trƣng văn hóa cổ truyền của ngƣời Êđê. Luận án góp
phần chứng minh vai trò quan trọng của lập luận trong ngôn ngữ học và trong một
văn bản cụ thể, khẳng định mối quan hệ hữu cơ giữa ngôn ngữ và văn hóa.


3

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu trên, luận án xác định các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
(i) Tổng quan nghiên cứu về lập luận, luật tục và luật tục Êđê; xác định
khung lí thuyết làm cơ sở triển khai đề tài: lí thuyết về lập luận, về mối quan hệ
giữa ngôn ngữ và văn hoá; phân tích cơ sở thực tiễn có liên quan đến luận án (về
ngƣời Êđê, về luật tục Êđê, …).
(ii) Xác định và miêu tả cấu trúc lập luận trong luật tục Êđê.
(iii) Lí giải đặc trƣng văn hoá của ngƣời Êđê đƣợc phản ánh qua lập luận
trong luật tục ở một số nội dung cụ thể.
3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là lập luận trong luật tục Êđê.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu: luận án nghiên cứu lập luận trong luật tục Êđê ở những

nội dung nhƣ: cấu trúc lập luận (các thành phần lập luận, chỉ dẫn lập luận), đặc
trƣng văn hóa thể hiện qua lập luận trong luật tục Êđê.
Phạm vi tƣ liệu: luận án khảo sát lập luận trong luật tục Êđê ở “Những điều quy
ƣớc chung” và 10 chủ đề khác nhau đƣợc cụ thể hóa thành 236 điều quy định (ngƣời
sƣu tầm biên soạn thành 11 chƣơng). Nguồn ngữ liệu khảo sát là kết quả sƣu tập luật
tục Êđê đƣợc văn bản hóa trong “Luật tục Êđê (Tập quán pháp)” (Ngô Đức Thịnh Chu Thái Sơn - Nguyễn Hữu Thấu (1996), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội).
4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phƣơng pháp điền dã ngôn ngữ học: luận án thực hiện việc điền dã ở một
số vùng ngƣời Êđê sinh sống ở vùng Tây Nguyên để thu thập và bổ sung tƣ liệu,
tìm hiểu đặc điểm phong tục, tập quán và ý tứ lập luận của ngƣời Êđê có liên quan
đến luật tục.
- Phƣơng pháp miêu tả: phƣơng pháp này giúp ngƣời nghiên cứu làm rõ
đƣợc nguồn ngữ liệu khảo sát với các số liệu, nội dung cụ thể.


4

+ Miêu tả nhằm phân tích các vấn đề lí luận chung về lập luận, về văn hóa
tộc ngƣời để làm rõ đặc trƣng lập luận của ngƣời Êđê trong luật tục ở các phƣơng
diện nhƣ: cấu trúc, đặc trƣng văn hóa thể hiện qua lập luận.
+ Các thủ pháp luận giải bên trong (phân loại, hệ thống hóa tƣ liệu, so sánh,
đối chiếu, …) và các thủ pháp luận giải bên ngoài (văn hóa xã hội, tâm lí tộc ngƣời,
mô hình hóa, …) đƣợc sử dụng để làm rõ vấn đề nghiên cứu.
- Phƣơng pháp tiếp cận đa ngành và liên ngành: luật tục Êđê là sản phẩm
mang đặc trƣng ngôn ngữ, văn hóa, tâm lí xã hội, … của một cộng đồng, do vậy,
luận án đã sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu đa ngành và liên ngành các khoa
học xã hội nhƣ: ngôn ngữ - dân tộc học, ngôn ngữ - tâm lí học, xã hội - dân tộc học,
… để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài.
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
5.1. Về lí luận

- Luận án khẳng định vai trò của nghiên cứu lập luận trong ngôn ngữ học.
- Luận án góp phần khẳng định và làm rõ thêm những luận điểm về ngôn
ngữ - văn hóa của một cộng đồng. Từ đó, luận án góp phần cung cấp thêm những
cách thức cho việc nghiên cứu ngôn ngữ ở phƣơng diện hành chức trong đời sống.
5.2. Về thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể đƣợc sử dụng nhƣ một tài liệu tham
khảo cho việc nghiên cứu, biên soạn và phổ biến khoa học lập luận vào giảng dạy
trong nhà trƣờng.
- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần bảo tồn ngôn ngữ và phát huy
truyền thống văn hóa ngƣời Êđê trong tình hình có nhiều biến động làm biến đổi về
văn hóa - xã hội; phần nào giúp các ngành chức năng tìm đƣợc cơ chế thích hợp
trong quản lí nhà nƣớc ở địa phƣơng, phát huy và điều chỉnh văn bản pháp quy sao
cho sát thực với đời sống thực tế và phong tục tập quán của ngƣời Êđê.
6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, luận án đƣợc triển khai thành 3 chƣơng:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lí luận và thực tiễn
Chƣơng này sẽ trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu về lập luận, về luật
tục và luật tục Êđê; khái quát một số vấn đề lí thuyết về lập luận, một số vấn đề về


5

ngôn ngữ - văn hóa (khái niệm văn hóa, về mối quan hệ giữa ngôn ngữ - văn hóa tƣ duy dân tộc); trình bày cơ sở thực tiễn về ngƣời Êđê và luật tục Êđê để làm căn
cứ triển khai nội dung của luận án.
Chương 2. Cấu trúc lập luận trong luật tục Êđê
Chƣơng này làm rõ những đặc điểm về cấu trúc của lập luận trong luật tục
Êđê, bao gồm: thành phần lập luận trong luật tục Êđê, chỉ dẫn lập luận trong luật tục
Êđê, mô hình lập luận thƣờng gặp trong luật tục Êđê.
Chương 3. Đặc trƣng văn hóa cổ truyền của ngƣời Êđê đƣợc phản ánh
qua lập luận trong luật tục Êđê

Chƣơng này tìm hiểu đặc trƣng văn hóa cổ truyền của ngƣời Êđê đƣợc thể
hiện qua lập luận trong luật tục Êđê. Thông qua cách tiếp cận thế giới quan của
ngƣời Êđê đƣợc thể hiện trong lập luận, luận án phân tích những đặc trƣng văn
hóa của ngƣời Êđê: đặc trƣng văn hóa gắn liền môi trƣờng sống, văn hóa sản
xuất, văn hóa tín ngƣỡng. Nhân sinh quan của ngƣời Êđê đƣợc thể hiện qua hệ
thống lẽ thƣờng, do đó, chƣơng này cũng tập trung phân tích hệ thống lẽ thƣờng
đƣợc sử dụng trong lập luận của luật tục Êđê để thấy rõ những quan niệm sống
của ngƣời Êđê.


6

Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU,
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về lập luận
1.1.1.1. Tình hình nghiên cứu về lập luận ở nước ngoài
a. Ở phương diện tư duy
Logic học quan tâm đến vấn đề lập luận ngay từ thời cổ đại (trong lôgic hình
thức của Aristote), lập luận tiếp tục đƣợc nghiên cứu ở các thời kì cận hiện đại và
trong cả logic biện chứng [15], [16], [30]. Theo logic học, suy luận là hình thức của
tƣ duy nhằm rút ra phán đoán mới từ một hay nhiều phán đoán đã có. Nếu nhƣ phán
đoán là một sự liên hệ giữa các khái niệm thì suy luận là sự hiện diện giữa các phán
đoán. Suy luận cũng đƣợc hiểu là một thao tác logic nhằm rút ra kết luận theo một
cách thức nhất định.
Phép suy luận trong logic học đƣợc dùng với hai nghĩa: (1) chỉ toàn bộ quá
trình tìm ra kết luận; (2) là một bƣớc trong quá trình chứng minh. Do vậy, các
phƣơng pháp chứng minh, bác bỏ cũng đƣợc logic học chú ý nghiên cứu. Logic học

chỉ ra rằng mỗi suy luận thƣờng gồm có hai phần: tiền đề (là những phán đoán sẵn
có) và kết luận (đƣợc rút ra từ tiền đề). Giữa tiền đề và kết luận có liên hệ về mặt
nội dung. Tính đúng đắn của kết luận phụ thuộc vào tính đúng đắn của các tiền đề
và tính chính xác của lập luận. Logic học cũng chỉ ra các điều kiện của một suy luận
đúng: (1) tiền đề phải đúng; (2) quá trình lập luận phải tuân theo các quy tắc, quy
luật logic [16], [30]. Các công trình nghiên cứu về logic học phân chia cách thức
suy luận thành hai loại: suy luận diễn dịch và suy luận quy nạp.
Sự ra đời của logic toán ở nửa sau thế kỉ XIX do nhà triết học Lep - nitx
(1646 -1761) sáng lập đã đánh dấu bƣớc phát triển của logic hình thức trong đó có
những đóng góp quan trọng về nghiên cứu lập luận. Logic hình thức nghiên cứu các
quy luật hình thức của tƣ duy trừu tƣợng. “Logic hình thức cho ta các quy luật để


7

hình thành các khái niệm, phán đoán và đặc biệt là các phƣơng pháp suy lí để tiến
hành các lập luận trên các phán đoán đó. Logic hình thức xem mỗi phán đoán có
một giá trị chân lí xác định, tức là mỗi phán đoán hoặc đúng, hoặc sai. Và các quy
luật suy lí cho ta cách lập luận để từ các giá trị chân lí của một số phán đoán cho
trƣớc suy ra giá trị chân lí của một phán đoán đang xét” [127]. Logic hình thức sử
dụng kí hiệu hình thức và các phép toán đại số cùng với các nguyên tắc nhất định về
giá trị chân lí nhằm xác định tính đúng đắn của các lập luận. Logic hình thức chú ý
nghiên cứu các mối quan hệ logic trong kết luận của suy luận. Các phép toán logic
mệnh đề, logic vị từ cho phép chúng ta dùng kí hiệu để tiến hành suy luận và kiểm
tra tính chân thực của suy luận. Logic hình thức cũng vạch ra bốn quy luật cơ bản
của tƣ duy: (1) luật đồng nhất; (2) luật phi mâu thuẫn; (3) luật triệt tam; (4) luật lí
do đầy đủ.
Nhƣợc điểm của logic hình thức là chỉ nghiên cứu những tƣ tƣởng, khái niệm
phản ánh sự vật trong trạng thái tĩnh, trong sự ổn định tƣơng đối của nó, bỏ qua sự
hình thành, biến đổi, phát triển của các khái niệm, tƣ tƣởng đó. Nhận thức đƣợc hạn

chế này của logic hình thức, Hegel (1770 - 1831) đã sáng lập ra logic biện chứng
nhƣng phải đến K.Marx (1818 - 1883), F.Engels (1820 - 1895) và V.I. Lenin (1870
- 1924) thì logic biện chứng mới đƣợc nhìn nhận trên cơ sở duy vật. Nếu logic hình
thức nghiên cứu những hình thức và quy luật của tƣ duy phản ánh sự vật trong trạng
thái tĩnh, trong sự ổn định tƣơng đối của chúng thì logic biện chứng lại nghiên cứu
những cách thức và quy luật của tƣ duy phản ánh sự vận động và phát triển của thế
giới khách quan. Quan điểm này chỉ ra rằng “logic biện chứng - ngƣợc lại với logic
học cũ, hoàn toàn hình thức - không bằng lòng với việc chỉ nêu ra những hình thức
vận động của tƣ duy, tức là những hình thức khác nhau của phán đoán và suy lí, và
với việc xếp những hình thức ấy cái nọ bên cạnh cái kia không có sự liên hệ nào cả.
Logic học biện chứng, trái lại, suy từ hình thức này ra hình thức khác; xác định mối
liên hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa chúng, chứ không phối hợp chúng với nhau; nó
phát triển những hình thức cao từ những hình thức thấp” (Ph.Ăng ghen, “Biện
chứng của tự nhiên”, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1972, tr.343-344).


8

b. Ở phương diện ngôn ngữ
Trong ngôn ngữ học, ngay từ thời cổ đại, lập luận đã đƣợc chú ý nghiên cứu,
gọi bằng thuật ngữ thuật hùng biện, trình bày trong “Tu từ học” của Aristote. Sau
đó, sự lập luận cũng đƣợc trình bày trong các phép suy luận logic, trong thuật ngụy
biện hay trong những cuộc nghị luận, tranh cãi ở tòa [16, tr.163].
Từ nửa sau thế kỷ XX, lập luận đƣợc nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm
nghiên cứu, có thể kể đến các tác giả có đóng góp lớn cho vấn đề nghiên cứu lập luận
nhƣ: S.Toulmin (1958), Olbrechts - Tyteca (1969), Grize (1982), Perelman (1988), ...
Đáng lƣu ý là công trình của hai tác giả ngƣời Pháp là J.C. O.Ducrot và Anscombre
(1983), họ đã chứng minh lập luận là một sự kiện ngôn ngữ học, “đã đƣa ra một kiến
giải mới, căn bản và độc đáo về lí thuyết lập luận trong ngôn ngữ học” [16, tr.163].
Hƣớng nghiên cứu này đƣợc đánh giá là “gặt hái đƣợc nhiều kết quả thú vị, bất ngờ

và hiện nay đƣợc nhiều ngƣời quan tâm” [16, tr.163]. Tác giả J.C.Anscombre đặc
biệt quan tâm đến nhân tố lập luận trong hội thoại. Trƣớc ông, ngƣời ta mới chỉ xem
xét lập luận trong văn bản viết chứ chƣa đề cập đến lập luận trong lời nói của nhân
vật. Ông cũng là ngƣời đƣa lí thuyết đa thanh vào trong lập luận.
Nhiều cuộc hội thảo chuyên về lập luận đã đƣợc tổ chức khi Trung tâm châu
Âu về nghiên cứu lập luận đƣợc thành lập (1985). Nghiên cứu về Ngữ dụng học,
F.Armengaud (1993) đề cập đến vấn đề lập luận với khẳng định “nói là tác động;
muốn tác động có hiệu quả cần nói có lí lẽ, mạch lạc, nghĩa là cần lập luận” (dẫn
theo [16, tr.13]).
Quá trình nghiên cứu lập luận trong ngôn ngữ học đánh dấu hai giai đoạn
nhìn nhận lập luận “đối với thuật hùng biện cổ điển, lập luận đƣợc coi nhƣ là có tác
dụng làm tăng thêm giá trị thông tin miêu tả của ngôn ngữ, còn đối với một số nhà
nghiên cứu hiện nay thì lập luận đƣợc coi nhƣ là yếu tố thứ nhất trong sự nói năng:
mọi cứ liệu mang tin đều là biến tƣớng của giá trị lập luận của phát ngôn, cũng có
nghĩa là phát ngôn nào cũng mang giá trị lập luận” [2, tr.488].
Nhìn chung, lập luận đã đƣợc chú ý nghiên cứu về cấu trúc, phân biệt lập
luận theo logic với lập luận thuyết phục, các chiến lƣợc lập luận, các lí lẽ về sự


9

thuyết phục, ... Những nghiên cứu về lập luận đạt đƣợc những thành tựu nhất định
và chiếm vị trí quan trọng trong ngôn ngữ học.
1.1.1.2. Tình hình nghiên cứu về lập luận ở Việt Nam
Thứ nhất, hướng nghiên cứu về lập luận nói chung
Ở Việt Nam, cho đến trƣớc năm 1993, lập luận vẫn còn là một khái niệm “lạ
lẫm đối với Việt ngữ học, kể cả các nhà nghiên cứu quan tâm đến dụng học” [9,
tr.200]. Sau này, với sự phát triển mạnh mẽ của ngữ dụng học, vấn đề lập luận đã
đƣợc nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm nghiên cứu. Các tác giả: Hoàng Phê, Đỗ
Hữu Châu, Nguyễn Đức Dân, ... là những ngƣời có đóng góp lớn cho việc nghiên

cứu lập luận trên tƣ liệu tiếng Việt. Các công trình nghiên cứu: “Logic ngôn ngữ
học” (1989) của Hoàng Phê, Đại cƣơng ngôn ngữ học (2007) của Đỗ Hữu Châu và
“Ngữ dụng học” (tập 1, 2000), “Nhập môn logic hình thức và phi hình thức” (2004)
của Nguyễn Đức Dân đã đề cập đến lí thuyết lập luận một cách có hệ thống, bao
gồm việc chỉ ra các khái niệm lập luận, các thành phần lập luận, chỉ dẫn lập luận, cơ
sở của lập luận, ... Về cơ bản, các tác giả đều thống nhất khi đƣa ra khái niệm lập
luận “lập luận là đƣa ra những lí lẽ nhằm dẫn dắt ngƣời nghe đến một kết luận hay
chấp nhận một kết luận nào đấy mà ngƣời nói muốn đạt tới” [9, tr.155]. Các quan
hệ lập luận, thành phần lập luận, các dạng cấu trúc lập luận cũng đƣợc các tác giả
đề cập và đƣa ra những nhận định xác đáng.
Hoàng Phê và Nguyễn Đức Dân là những tác giả chú ý đến mối quan hệ giữa
logic và ngôn ngữ học, phân biệt sự khác nhau giữa chúng, phân tích các yếu tố, cấu
trúc ngôn ngữ trong vai trò diễn đạt các quan hệ lập luận. Nguyễn Đức Dân khẳng
định “Có mối quan hệ chặt chẽ giữa logic và ngôn ngữ tự nhiên ... Trong logic,
ngƣời ta xây dựng những phƣơng pháp tiếp cận và nhận thức thế giới. Đó là sự xây
dựng những khái niệm, phán đoán, các phƣơng pháp suy luận, nêu giả thuyết,
chứng minh, bác bỏ... Con ngƣời không thể tƣ duy nếu không dùng tới ngôn ngữ.
Khái niệm đƣợc thể hiện bằng từ ngữ, phán đoán đƣợc thể hiện bằng chuỗi câu...”
[17, tr.12]. Ông cho rằng “phép suy luận trong logic thì hoàn toàn hình thức còn
phép suy luận trong ngôn ngữ, ngoài sự hình thức nhƣ trong logic, con ngƣời còn
suy luận qua từ ngữ, qua tình huống, qua tri thức và kinh nghiệm” [17, tr.17].


10

Diệp Quang Ban trong “Giao tiếp diễn ngôn và cấu tạo của văn bản” (2009)
khẳng định quan hệ lập luận là sự biểu hiện của mạch lạc trong văn bản, ông cũng
chú ý đến việc phân tích các bộ phận của lập luận “lập luận có thể đƣợc xem xét ở
phƣơng cách cấu tạo, cấu tạo chung của lập luận là mối quan hệ giữa luận cứ và kết
luận, nhƣ vậy, trong lập luận có luận cứ, kết luận và quan hệ lập luận” [2, tr.488]...

Những vấn đề về lập luận đƣợc trình bày trong các công trình trên đã làm
hoàn thiện hơn lí thuyết lập luận nói chung và đƣợc xem là những công trình có tính
chất nền tảng cho các nghiên cứu về lập luận, đƣợc đánh giá “đi vào lí thuyết lập
luận, ngôn ngữ học Việt Nam không những mở thêm một hƣớng nghiên cứu mới
trong lĩnh vực ngữ dụng, không chỉ có thêm căn cứ để xây dựng vấn đề phân tích
diễn ngôn mà còn có thêm cơ sở lí thuyết và thực tiễn để nhìn lại những vấn đề ngôn
ngữ học truyền thống và phát hiện ra những đặc trƣng mới của tiếng Việt trong cấu
trúc nội tại cũng nhƣ trong hoạt động thực hiện chức năng của nó” [9, tr.200].
Thứ hai, dựa trên khung lí thuyết về lập luận, một số công trình đi sâu miêu
tả các thành phần lập luận, các dạng lập luận, các chỉ dẫn lập luận. Có thể kể ra
một số tác giả nghiên cứu lập luận theo hƣớng này nhƣ: Nguyễn Minh Lộc (1994)
với “Tìm hiểu kết tử nghịch hƣớng lập luận “nhƣng” trong tiếng Việt”; thông qua
việc tìm hiểu kết tử “nhƣng”, luận văn này góp phần làm sáng tỏ đặc điểm về cấu
trúc cũng nhƣ hiệu lực lập luận của các luận cứ và kết luận trong một lập luận
nghịch hƣớng. Lê Quốc Thái (1997) với “Hiệu lực lập luận của nội dung miêu tả,
của thực từ và của các tác tử “chỉ”, “những”, “đến”” đã hƣớng đến việc xác định
hiệu lực lập luận của nội dung miêu tả, của thực từ và của các tác tử lập luận, góp
phần khẳng định thêm về vai trò của tác tử trong việc “làm thay đổi hiệu lực lập
luận” vốn có của các nội dung miêu tả. Kiều Tuấn (2000) với đề tài “Các kết tử lập
luận “thật ra/thực ra”, “mà” và quan hệ lập luận” đã phần nào làm rõ vai trò kết tử
lập luận của “thật ra/thực ra”, “mà” và chỉ ra quan hệ lập luận, cấu trúc lập luận có
các kết tử trên. Đặc biệt, công trình “Kết tử lập luận trong tiếng Việt” (2016) của
Nguyễn Thị Thu Trang đã hệ thống hóa kết tử lập luận tiếng Việt, khẳng định vai
trò của kết tử lập luận tiếng Việt thông qua việc phân tích và lí giải chức năng cơ
bản của chúng trong các dạng lập luận...


11

Thứ ba, hướng nghiên cứu về sự biểu hiện cụ thể lập luận trong văn bản

Hƣớng nghiên cứu này vận dụng lí thuyết về lập luận để mô tả lập luận trong
một thể loại văn bản cụ thể. Hệ quả tất yếu của hƣớng nghiên cứu này bao gồm việc
chỉ ra, lí giải đặc điểm phong cách chức năng văn bản trong hoạt động giao tiếp. Có
thể kể đến một số công trình tiêu biểu nhƣ: Nguyễn Thị Nhin (2003) với “Lập luận
trong văn miêu tả”, Vũ Thị Hà (2005) với “Tìm hiểu các dạng lập luận trong tục
ngữ”, Trần Thị Tuyết Lan (2007) với “Đặc điểm của các dạng lập luận trong ca dao
Việt Nam”; Nguyễn Thị Bình (2012) với “Tìm hiểu các dạng lập luận trong danh
ngôn (trên ngữ liệu tiếng Việt)”, Đỗ Thị Thanh Nga (2016) với “Nghiên cứu lập
luận trong văn bản hành chính tiếng Việt từ góc độ dụng học”,...
Thứ tư, hướng nghiên cứu ứng dụng lí thuyết lập luận vào thực tiễn dạy học,
có thể kể đến: Bùi Thị Xuân (1997) với “Lý thuyết lập luận và lý thuyết đoạn văn
và hệ thống các bài tập rèn luyện kỹ năng lập luận trong đoạn văn nghị luận cho học
sinh cấp 3”; Trần Hữu Phong (2003) với “Lập luận với việc luyện cho học sinh
PTTH cách lập luận trong đoạn văn nghị luận”, ...
1.1.2. Tình hình nghiên cứu luật tục và luật tục Êđê
1.1.2.1. Tình hình nghiên cứu luật tục nói chung
Luật tục là một trong những đối tƣợng thu hút đƣợc sự quan tâm nghiên cứu
của nhiều bộ môn, chuyên ngành khác nhau: luật học, lịch sử, xã hội học, nhân
học,… Ban đầu, luật tục là đối tƣợng đƣợc các nhà luật học và nhà quản lí xã hội
quan tâm với mục đích phục vụ cho việc cai trị các nƣớc thuộc địa. Ở phƣơng Tây,
luật tục đƣợc chú ý nghiên cứu từ cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, khi đó ngành
luật một phần dựa vào nguồn tài liệu luật pháp La Mã xây dựng lí thuyết về luật tục,
và nó có ảnh hƣởng tới hệ thống luật pháp đƣơng thời và ngành luật nói chung. Ngô
Đức Thịnh [104] nhấn mạnh luận điểm của Bronislaw Maninowski “tất cả những
hiện tƣợng văn hóa đều cần thiết và mang chức năng nhất định trong một xã hội
nhất định”. Luận điểm ấy là cơ sở cho kết luận “không thể dùng một thể chế xã hội
này áp đặt cho một xã hội khác mà phải sử dụng bản thân thể chế vốn có để quản lí
xã hội đó” [104, tr.8].



12

Ở châu Âu và một số nƣớc châu Phi, luật tục đƣợc quan tâm khi từ góc độ
tập quán nâng lên thành luật pháp, đƣợc tòa án công nhận và đƣợc chấp nhận, thi
hành nhƣ là luật. Đầu thế kỉ XX, các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu luật tục từ
góc độ nhân học và bắt đầu văn bản hóa luật tục, mở rộng phạm vi nghiên cứu luật
tục trên nhiều phƣơng diện khác nhau, chẳng hạn nhƣ vấn đề lí luận và phƣơng
pháp nghiên cứu luật tục [104, tr.9]. Dựa trên quan điểm này, nhiều nhà khoa học
bắt đầu nghiên cứu luật tục của các dân tộc ở nhiều vùng, nhiều quốc gia trên thế
giới. Theo Ngô Đức Thịnh [104], châu Phi và châu Á là nơi có nhiều công trình
nghiên cứu về luật pháp và luật tục. Ở châu Phi, có thể kể đến công trình “African
Law and Legal Theory” (Luật và lí luận pháp luật châu Phi) (1951) của tác giả
G.R.Woodman và A.O.Obilade (chủ biên). Công trình này đề cập đến nhiều vấn đề
luật tục trong mối tƣơng quan với luật pháp, bản chất của luật tục châu Phi, luật tục
trong hệ thống pháp luật của nhà nƣớc, … Ở châu Á, phải kể đến công trình “Asian
indigenous law in Interaction with Received law” (Luật bản địa châu Á trong mối
quan hệ tƣơng hỗ với luật thành văn) (1986) của Masaji Chaba. Công trình này gồm
nhiều chƣơng viết về luật tục của nhiều dân tộc và quốc gia khác nhau nhƣ ngƣời
Ai Cập Hồi giáo, Iran Hồi giáo, Ấn Độ, Thái Lan, Nhật Bản,…
Từ góc độ nhân học luật pháp, các nhà nhân học, dân tộc học, folklore học đã
đề cập đến các vấn đề lí thuyết, phƣơng pháp sƣu tầm và nghiên cứu luật tục các
dân tộc. Các tác giả đã bàn tới nhiều vấn đề về luật tục nhƣ: Alan Dundes đề cập
đến vấn đề khái niệm luật tục (folk law), Anlan Watson đề cập đến vấn đề tiếp cận
luật tục, Van Den Dergh đề cập đến khái niệm luật tục trong khung cảnh lịch sử,
Obei Hag Ali nói tới vấn đề chuyển đổi luật tục trong luật pháp, … Các vấn đề
phƣơng Đông cũng đƣợc đặt ra nhƣ vấn đề văn bản hóa luật tục (T.O.Elias, 1994),
sƣu tầm luật tục (Simon Roberts, 1994),… Những vấn đề ứng dụng luật tục trong xã
hội cũng đƣợc quan tâm, nhất là vấn đề luật tục và bảo vệ và khai thác hợp lí các
nguồn tài nguyên thiên nhiên (S.Wiber, 1996) [104, tr.11].
Nhƣ vậy, việc nghiên cứu luật tục trên thế giới đã đƣợc quan tâm từ lâu và

đạt đƣợc kết quả nhất định về cả phƣơng diện lí luận, phƣơng pháp và nghiên cứu


13

các trƣờng hợp cụ thể. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu luật tục ở
Việt Nam.
Ở Việt Nam, hƣơng ƣớc và luật tục đƣợc quan tâm vào khoảng các thập kỉ
đầu thế kỉ XX. Ngày 30/7/1923, Toàn quyền Pháp ở Đông Dƣơng Pierre Pasquier
đã ra Thông tri yêu cầu thu thập và ghi chép luật tục nhằm khai thác và vận dụng
những quy tắc quản lí xã hội thuyền thống vào việc cai trị. Thông qua quá trình
triển khai Thông tri này, nhiều tác giả ngƣời Pháp đã cho ra đời những nghiên cứu
về luật tục của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Từ 1927, L.Sabatier đã cho công
bố bộ luật tục Êđê Klei duê bhiăn kđi (Tập quán pháp). Đến năm 1940,
D.Antomarchi đã dịch sang tiếng Pháp và công bố công trình này trên tạp chí
Trƣờng Viễn Đông Bác cổ (BEFEO). Bản dịch này đƣợc bổ sung, chỉnh lí để phù
hợp với ngôn ngữ và thực tế đời sống của dân tộc Êđê (về tình hình nghiên cứu luật
tục Êđê, chúng tôi sẽ trình bày cụ thể trong mục 1.1.2.2).
Việc sƣu tầm luật tục của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam vào đầu thế kỉ XX
đã đạt đƣợc những thành tựu nhất định. Có thể kể đến những công trình đã đƣợc
công bố nhƣ: Luật tục Êđê (1926), Luật tục Stiêng (1951), Luật tục Srê (1951), Luật
tục Bahnar, Xê đăng (1952), Luật tục Mạ (1957), … Các công trình sƣu tầm về luật
tục tiếp tục đƣợc bổ sung và công bố kể từ năm 1996 (khi Viện nghiên cứu văn hóa
dân gian phối hợp với các Sở Văn hóa Thông tin các tỉnh Tây Nguyên để sƣu tầm
và giới thiệu các bộ luật tục): Luật tục Êđê (1996), Luật tục J’rai (1997), Luật tục
M’nông (1998), … Những công trình này đƣợc đánh giá “đây là những cuốn sách
đƣợc biên soạn công phu, tập hợp tƣơng đối đầy đủ luật tục của ba dân tộc Êđê,
M’nông và Gia Rai; điều quan trọng là các tác giả đã ghi tiếng dân tộc, bên cạnh
bản dịch phổ thông. Các tài liệu trên có ý nghĩa rất quan trọng cho những ngƣời
quan tâm nghiên cứu luật tục” [41, tr.55].

Bên cạnh việc sƣu tầm, luật tục cũng trở thành đối tƣợng nghiên cứu trên
nhiều lĩnh vực khác nhau. Luật tục của đồng bào các dân tộc thiểu số đã đƣợc đặt ra
nhƣ một đối tƣợng nghiên cứu có hệ thống trên cơ sở quy chiếu bởi lí thuyết và
phƣơng pháp nghiên cứu về luật tục đƣợc sử dụng rộng rãi trên thế giới. Các nhà


14

nghiên cứu đã đề cập đến vấn đề bảo tồn, khai thác và phát huy những khía cạnh
tích cực của luật tục cho công cuộc xây dựng và đổi mới kinh tế, xã hội, văn hoá ở
vùng đồng bào các dân tộc thiểu số; nêu lên vấn đề quản lí xã hội và văn hóa gắn
kết với luật tục, đặc biệt là xác định nhu cầu làm rõ hơn mối quan hệ giữa luật tục
với luật pháp nhà nƣớc trong điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội hiện nay,… Những
vấn đề này đƣợc làm rõ trong Hội thảo khoa học quốc tế “Luật tục và phát triển
nông thôn hiện nay ở Việt Nam” (do Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn
Quốc gia kết hợp với UBND tỉnh Đắk Lắk tổ chức năm 1999). Một trong những
mục tiêu của hội thảo này là “làm thế nào để phát huy những yếu tố tích cực của
luật tục trong đời sống hiện nay, khiến luật tục, không những không đi ngƣợc luật
pháp, mà còn tạo điều kiện làm cho luật pháp trở nên gần gũi với đồng bào, góp
phần điều hòa các mối quan hệ trong buôn làng, góp phần thực hiện chiến lƣợc phát
triển nông thôn ở nƣớc ta” [111, tr.13].
Ngoài những vấn đề đã nói ở trên, luật tục còn đƣợc quan tâm nghiên cứu ở
lĩnh vực ứng dụng vào thực tiễn. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của tình hình xã hội
Tây Nguyên, năm 2001, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia phối
hợp với UBND tỉnh Gia Lai tổ chức Hội thảo “Luật tục - Hƣơng ƣớc và những vấn
đề phát triển kinh tế - xã hội buôn làng các dân tộc Tây Nguyên”. Nội dung hội thảo
tập trung vào việc ứng dụng luật tục - hƣơng ƣớc vào công việc quản lí cộng đồng
làng buôn của đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Từ kết quả hội thảo này,
Ngô Đức Thịnh đã hệ thống lại một số vấn đề đặt ra trong quá trình nghiên cứu luật
tục, biên soạn cuốn sách “Tìm hiểu luật tục các tộc ngƣời ở Việt Nam”. Các vấn đề

mà công trình đề cập đến nhƣ: nguồn gốc, bản chất và các đặc trƣng cơ bản của luật
tục; các hình thức phát triển của luật tục; nội dung của luật tục; việc thực thi luật
tục; giá trị của luật tục; luật tục và luật phát nhà nƣớc,... Công trình này là một đóng
góp quan trọng cho lĩnh vực nghiên cứu luật tục ở Việt Nam.
Tình hình hình nghiên cứu luật tục ở nƣớc ngoài và ở Việt Nam cho thấy luật
tục đƣợc quan tâm từ rất sớm và đã đạt đƣợc những thành tựu nhất định ở lĩnh vực
sƣu tầm và nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực: dân tộc học, luật học, xã hội học, văn


15

hóa dân gian, … Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu vẫn có hạn chế “việc nghiên
cứu còn dừng lại ở mức nhìn nhận một cách chung và tổng thể … còn quá ít công
trình đi sâu nghiên cứu về từng lĩnh vực và từng mặt” [85, tr.27].
1.1.2.2.Tình hình nghiên cứu luật tục Êđê
Nhƣ đã trình bày ở trên, cho đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên
cứu về luật tục của các dân tộc ở Việt Nam nói chung và luật tục của tộc ngƣời
Êđê nói riêng.
Việc sƣu tầm luật tục Êđê đã đạt đƣợc những kết quả nhất định. Cụ thể, vào
những năm đầu thập niên ba mƣơi của thế kỷ XX, viên Công sứ Pháp ở Đắk Lắk là
L.Sabatier đã tổ chức sƣu tầm luật tục của ngƣời Êđê bằng cách ghi âm tiếng Êđê và
ghi chép lại bằng chữ viết của tộc ngƣời này gọi là “Tập quán pháp ca” và công bố
vào năm 1927. Đến năm 1940, D.Antomarchi đã dịch và công bố luật tục này trên
tạp chí Trƣờng Viễn Đông Bác cổ (BEFEO). Năm 1984, Nguyễn Hữu Thấu đã dịch
bản luật tục ra tiếng Việt từ bản tiếng Pháp. Dựa trên văn bản luật tục Êđê của L.
Sabatier và các bộ luật tục mới sƣu tầm đƣợc, Ngô Đức Thịnh, Chu Thái Sơn,
Nguyễn Hữu Thấu đã biên soạn cuốn “Luật tục Êđê (tập quán pháp)” (Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, 1996). Công trình này thống kê, sắp xếp các nội dung của
luật tục theo các chủ đề và điều khoản dƣới dạng thức của một luật định, với việc
đặt tên theo các chƣơng và đƣợc trình bày bằng hai ngôn ngữ Việt - Êđê. Cùng với

đó, công trình cũng nêu những nét khái quát về sự hình thành, phát triển cũng nhƣ
vị trí, vai trò của luật tục trong đời sống xã hội của ngƣời Êđê. Luật tục Êđê đƣợc
xem là “nguồn tƣ liệu quý để nghiên cứu xã hội tộc ngƣời và văn hóa tộc ngƣời, là
di sản văn hóa độc đáo của dân tộc, là tri thức dân gian về quản lí cộng đồng” [103,
tr.32]. Các tác giả cũng nhấn mạnh “những vấn đề đặt ra trong luật tục là nhằm giải
quyết các mối quan hệ cộng đồng của làng buôn ...” [103, tr.38] và đặt ra nhiệm vụ
“việc nhìn nhận vấn đề luật tục là phải nhìn từ góc độ hệ thống, từ cái bộ phận đến
cái toàn thể, từ buôn làng tới quốc gia, dân tộc” [103, tr.38].
Ngoài việc sƣu tầm, luật tục Êđê đƣợc tập trung nghiên cứu ở những nội
dung nhƣ: cách thức tổ chức và vận hành của luật tục; những quy định về hình phạt


16

của luật tục; những yếu tố làm nền tảng cho luật tục; quá trình vận động và phát
triển của luật tục; bản chất và giá trị của luật tục; luật tục Êđê với việc bảo vệ nguồn
tài nguyên thiên nhiên; vai trò của ngƣời phụ nữ Êđê qua luật tục; vấn đề hôn nhân
và gia đình trong luật tục Êđê,... Những vấn đề này đƣợc đề cập trong kỉ yếu hội
thảo “Chuyên đề về luật tục” của Bộ Tƣ pháp (1997) và “Luật tục và phát triển
nông thôn hiện nay ở Việt Nam” (Nxb Chính trị Quốc gia, 2000).
Không dừng lại ở đó, luật tục Êđê còn đƣợc tiếp tục xem xét ở việc phản ánh
những giá trị xã hội và sự biến đổi của bộ luật này trong bối cảnh hiện đại hóa.
Đóng góp cho hƣớng nghiên cứu này là công trình “Luật tục Êđê, một nền tƣ pháp
hòa giải: Những giá trị xã hội và sự biến đổi” của Trƣơng Thị Hiền [41]. Cuốn sách
này đề cập đến những vấn đề nhƣ: luật tục xét nhƣ một hiện tƣợng xã hội; nền tảng
giá trị xã hội và sự biến đổi của luật tục Êđê; luật tục Êđê xét trong mối tƣơng quan
với luật pháp; về một nền tƣ pháp hòa giải. Tác giả cho rằng “vấn đề cấp thiết hiện
nay có lẽ không nằm ở những cố gắng mang tính “cƣỡng bức” nhằm loại bỏ các
điều khoản luật tục lạc hậu trong mối tƣơng quan với luật pháp mà chính là ở sự
thấu hiểu, thái độ tôn trọng luật tục để đi tới việc thay đổi những quan niệm không

còn phù hợp với xã hội đƣơng đại, hƣớng tới phát triển năng lực nội tại của cộng
đồng ngƣời Êđê” [41, tr.234].
Hƣớng đến việc xây dựng và hoàn thiện các giải pháp nhằm phát huy những
ảnh hƣởng tích cực, hạn chế những ảnh hƣởng không tích của của luật tục đối với
việc thực hiện pháp luật trong cộng đồng ngƣời Êđê ở các tỉnh Tây Nguyên, luận án
“Luật tục và ảnh hƣởng của luật tục đối với thực hiện pháp luật trong cộng đồng
ngƣời Êđê ở Tây Nguyên Việt Nam” của tác giả Bùi Hồng Quý [85] đã phân tích,
đánh giá thực trạng luật tục của ngƣời Êđê và ảnh hƣởng của bộ luật này đối với
việc thực hiện pháp luật trong cộng đồng ngƣời Êđê; đƣa ra những giải pháp nhằm
phát huy ảnh hƣởng tích cực và hạn chế những điểm không tích cực của luật tục đến
việc thực hiện pháp luật hiện hành.
Có thể thấy rằng, các công trình nghiên cứu về luật tục Êđê mới chỉ dừng lại
ở việc bàn đến giá trị nội dung, về vai trò, vị trí của luật tục Êđê hoặc về mối quan


17

hệ giữa luật tục Êđê và luật pháp, ... Cho đến nay, vẫn chƣa có những chuyên khảo
nghiên cứu sâu về giá trị ngôn ngữ hay đặc điểm nghệ thuật của luật tục nói chung
và luật tục Êđê nói riêng. Ở góc độ ngôn ngữ, luật tục Êđê mới chỉ đƣợc đề cập đến
ở một số vấn đề nhƣ: phƣơng thức so sánh (trong luận án “Phƣơng thức so sánh
trong văn bản luật tục Êđê” của Trƣơng Thông Tuần, 2010 [115]) hay một số hình
thức kết cấu tiêu biểu (trong luận văn thạc sĩ “Tìm hiểu một số hình thức kết cấu
tiêu biểu trong văn bản luật tục của ngƣời Êđê” của Đặng Minh Tâm, 2011 [95]).
Công trình của Trƣơng Thông Tuần nêu rõ những đặc điểm và vai trò của phƣơng
thức so sánh trong văn bản luật tục Êđê. Từ phƣơng thức so sánh trong văn bản luật
tục, luận án đã tìm ra một số biểu trƣng quan trọng trong đời sống tinh thần của
ngƣời Êđê cũng nhƣ những yếu tố văn hoá có liên quan. Luận án cũng phân tích
những điểm tƣơng đồng và khác biệt giữa luật tục Êđê với luật tục Jrai, với cách so
sánh và cách diễn đạt quen thuộc trong tiếng Việt (Kinh). Luận văn của Đặng Minh

Tâm đã khái quát một số hình thức kết cấu phổ biến và tiêu biểu trong luật tục Êđê,
phân tích khá sâu phƣơng thức trùng điệp, một phƣơng thức kết cấu đặc trƣng và có
tính hiệu quả cao về khả năng thuyết phục của ngƣời Êđê trong luật tục...
Nhƣ vậy, vấn đề luật tục và luật tục Êđê đã đƣợc sƣu tầm và nghiên cứu trong
nhiều công trình dƣới nhãn quan luật học, xã hội học, dân tộc học, văn hóa học,... và
đạt đƣợc những kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên, về phƣơng diện ngôn ngữ học, vẫn
còn thiếu vắng những công trình nghiên cứu về luật tục Êđê một cách hệ thống. Tìm
hiểu Lập luận trong luật tục Êđê là hƣớng nghiên cứu mới nhằm khai thác những giá
trị về nghệ thuật lập luận hết sức đặc thù của tộc ngƣời Êđê ở Tây Nguyên.
1.2. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.2.1. Cơ sở lí luận
1.2.1.1. Khái quát về lập luận
a. Lập luận và các thành phần lập luận
a1. Khái niệm lập luận
Mặc dù suy luận là hoạt động của tƣ duy trừu tƣợng, diễn ra trong đầu óc con
ngƣời nhƣng tƣ duy không thể tồn tại bên ngoài ngôn ngữ, do vậy, hoạt động suy
luận cần đƣợc hiện thực hóa dƣới dạng các phát ngôn (nói/viết). Quá trình tƣ duy


18

đƣợc hiện thực hóa trong quá trình giao tiếp sẽ tạo ra lập luận. Từ phƣơng diện
ngôn ngữ, lập luận đã đƣợc định nghĩa nhƣ sau:
Nguyễn Đức Dân cho rằng: “Lập luận là một hoạt động ngôn từ. Bằng công
cụ ngôn ngữ, ngƣời nói đƣa ra lí lẽ nhằm dẫn dắt ngƣời nghe đến một hệ thống xác
tín nào đó; rút ra một (/một số) kết luận hay chấp nhận một (/một số) kết luận nào
đó” [17, tr.165].
Đỗ Hữu Châu khẳng định: “lập luận là đƣa ra những lí lẽ nhằm dẫn dắt
ngƣời nghe đến một kết luận hay chấp nhận một kết luận nào đấy mà ngƣời nói
muốn đạt tới” [9, tr.155].

Đinh Văn Đức chú ý đến việc lập luận trong ngôn từ, “khi nói … ngƣời ta
nhằm đến một cái gì đó ngoài thông báo, hƣớng đến cái hiệu ứng tâm lí ở ngƣời
nghe” [32, tr.505]. Tác giả cho rằng: “tƣ duy bao giờ cũng sắp đặt các lập luận …
chuẩn bị những lí lẽ để dẫn ngƣời ta đến kết luận” [32, tr.505]. Ông nhấn mạnh cần
phân biệt lập luận bằng ngôn từ với lập luận theo logic. Trên cơ sở đó, ông định
nghĩa về lập luận “lập luận là loại hoạt động giao tiếp bằng ngôn từ, nó là một chu
trình khép kín gồm có luận chứng và lí lẽ, có lúc đƣợc lặp đi lặp lại trong hội thoại
và văn bản” [32, tr.507].
Diệp Quang Ban cũng chỉ ra rằng: thuật ngữ lập luận đƣợc hiểu theo hai nghĩa:
Một là quá trình thực hiện sự lập luận, tức là chỉ sự lập luận hay việc lập luận. Hai là
sản phẩm của quá trình lập luận, tức là chỉ toàn bộ cái kiến trúc gồm các bộ phận cấu
thành có quan hệ với nhau do sự lập luận tạo ra, đây là cái lập luận [2, tr.322].
Từ sự trình bày ở trên, có thể thấy các tác giả đều khẳng định: lập luận là
đưa ra những lí lẽ để hướng người nghe đến một kết luận nào đấy một cách thuyết
phục. Đây cũng là khái niệm chúng tôi lấy làm cơ sở để triển khai những vấn đề có
liên quan đến lí thuyết về lập luận trong luận án này.
Một lập luận có thể nằm trọn vẹn trong một phát ngôn (hoặc chỉ là một phần
của phát ngôn), lập luận cũng có thể do nhiều phát ngôn tạo nên. Tƣơng tự, một
luận cứ hay một kết luận có thể cũng chỉ là một phần của phát ngôn (hoặc một phát
ngôn hay hơn một phát ngôn). Trong luận án này, thuật ngữ “phát ngôn” đƣợc hiểu
là “đơn vị hiện thực của câu trong giao tiếp” [35, tr.339].


19

a2. Các thành phần của lập luận
1/ Luận cứ
i) Khái niệm luận cứ:
Khái niệm luận cứ trong các công trình ngôn ngữ thƣờng đƣợc trình bày theo
các cách diễn đạt: “trong quan hệ phát ngôn, lí lẽ đƣợc coi là luận cứ” [9, tr.155] và

“lí lẽ chính là nội dung của các phát ngôn”; “luận cứ là các dữ kiện xuất phát để làm
căn cứ cho lập luận, từ đó suy ra kết đề” [17, tr.174]. Có thể thấy rằng, dù cách phát
biểu khác nhau nhƣng các tác giả đều thống nhất luận cứ chính là căn cứ để lập
luận. Nhƣ vậy, có thể hiểu luận cứ là những căn cứ để từ đó rút ra kết luận.
ii) Số lượng và vị trí của luận cứ:
Mỗi một lập luận có thể có một hay nhiều luận cứ. Các luận cứ có thể xuất
hiện trong cùng một phát ngôn (câu) hoặc trong các phát ngôn của đoạn. Các luận
cứ có thể đứng liền kề nhau hoặc đứng xa nhau.
Trong một lập luận, các luận cứ thƣờng có hiệu lực lập luận không giống
nhau. Thông thƣờng, luận cứ có hiệu lực lập luận mạnh hơn, có tính quyết định hơn
thì thƣờng đƣợc đặt sát kết luận. Các luận cứ trong lập luận có thể xuất hiện trực
tiếp. Ví dụ: Sự thật (p) mất lòng (r). Đây là một lập luận đầy đủ thành phần. Luận
cứ (p) “sự thật” (nói một cách thẳng thắn về khuyết điểm của ngƣời khác) với lẽ
thƣờng là một đặc điểm tâm lí (không ai muốn nghe ngƣời khác nói về khuyết điểm
của mình). Luận cứ này dẫn đến kết luận tƣờng minh: “mất lòng” (làm ngƣời nghe
khó chịu về những điều đƣợc nói thẳng).
Luận cứ cũng có thể không xuất hiện trực tiếp. Ví dụ: Tốt gỗ hơn tốt nước
sơn (r). Lập luận này có (r) tƣờng minh “tốt gỗ hơn tốt nƣớc sơn” và một R hàm ẩn:
phẩm chất đạo đức của con ngƣời quan trọng hơn vẻ bề ngoài. Kết luận này đƣợc
suy ra từ hai luận cứ hàm ẩn: (p) gỗ là vật liệu để làm nên đồ vật, nếu gỗ tốt sẽ làm
đƣợc những vật dụng tốt, ngƣợc lại, gỗ xấu sẽ làm nên những vật dụng không tốt,
chóng hỏng; (q) nƣớc sơn là vật liệu quét lên mặt gỗ để làm cho đồ vật đẹp hơn
nhƣng nó không quyết định đƣợc độ bền của vật dụng.


×