Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Giao tiếp với trẻ chậm phát triển trí tuệ (CPTTT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.16 KB, 19 trang )

Giao tiếp với trẻ chậm phát triển trí tuệ (CPTTT)
1. Giao tiếp của trẻ CPTTT
1.1. Đặc điểm giao tiếp và ngôn ngữ của trẻ CPTTT.
Việc nghiên cứu tình trạng ngôn ngữ và giao tiếp của trẻ em CPTTT đã
được nhiều nhà khoa học đề cập tới như L.S Vugotsky, A.G Spikin, D.B
Elkonin, S.L Rubinstein…đều đã có một nhận xét chung: trẻ em CPTTT
không chỉ kém về mặt nhận thức mà thường kéo theo sự khiếm khuyết về
khả năng ngôn ngữ, tác giả cho rằng sự khiếm khuyết này đều do:
(1) Sự suy yếu các chức năng bên trong vỏ não tới việc hình thành rất
chậm mối liên hệ phân biệt có điều kiện trong tất cả các cơ quan phân tích
tiếng nói, kèm theo sự rối loạn của hệ thần kinh gây khó khăn cho việc xác
lập những định hình năng động trên vỏ não.
Tình trạng kém phát triển ngôn ngữ còn do nguyên nhân những mối liên hệ
có điều kiện không bền vững được hình thành chậm ở vùng cơ quan phân
tích thính giác. Do những nguyên nhân này mà đứa trẻ không hiểu được
những từ mới và cụm từ mới. Chính vì lẽ đó trẻ chỉ lựa chọn được số ít
các từ vựng dẫn đến tình trạng nghèo vốn từ – một số từ mà trẻ tích lũy
được cũng dần bị lãng quên nếu không được củng cố một cách liên tục.
Trẻ em CPTTT phân biệt rất kém các âm gần giống nhau đặc biệt là các
phụ âm. Mặt khác, trẻ còn mắc nhiều lỗi phát âm sai và các tật ngôn ngữ
như nói khó, nói ngọng, nói lắp…
(2) Qua nghiên cứu người ta còn cho thấy sự phát triển rất kém của thính
giác âm vị dẫn đến sự thay thế âm này bằng âm khác trong phát âm của
đứa trẻ. Các tác giả đều cho rằng quá trình ngôn ngữ bao giờ cũng phụ
thuộc vào hai loại điều chỉnh:
+ Điều chỉnh nhờ vào sự phát triển thính giác (sự nghe)
+ Điều chỉnh cho hoạt động của các cơ quan vận động ngôn ngữ.
Các trẻ CPTTT do bị tổn thất trung tâm ( TW thần kinh) kéo theo sự ảnh
hưởng nghiêm trọng đến tri giác nghe, hiện tượng co giật hay bị liệt cứng
làm tổn thất đến cơ quan vận động ngôn ngữ sẽ nảy sinh các khuyết tật về
ngôn ngữ và giao tiếp (như nói khó, không nói được, nói ngọng, nói lắp…).


Đặc điểm cơ bản của trẻ em này là chậm biết nói, nhiều trẻ 5 hoặc 6 tuổi
mới có được âm đầu, nhiều trẻ do tình trạng bệnh lý nên kéo theo khiếm


khuyết về mặt ngôn ngữ thường mắc các khuyết tật nói khó, nói ngọng, nói
lắp hoặc phát âm, nhưng rào cản lớn nhất của trẻ em này là:
Sự mặc cảm tật nguyền, ảnh hưởng của bệnh lý về thần kinh nên trẻ hay
sợ sệt, nhút nhát không giám tiếp xúc với những người lạ, không muốn
thâm gia vào các hoạt động tập thể…
Đa số các trẻ vốn từ rất nghèo, ngữ pháp thấp kém, trẻ nói nhưng ta không
hiểu chúng nói gì và ngược lại ta nói trẻ cũng không hiểu được những
điều ta vừa nói với trẻ, như vậy cả hai đều không hòa hợp không hòa hợp
trong giao tiếp. Ngay ở trong gia đình nhiều trẻ cũng bị lãng quên, không
hỏi han, dạy dỗ khiến cho trẻ rơi vào tình trạng ngày càng trầm trọng hơn.
Đặc điểm về nhận thức “ trẻ chậm hiểu – nhanh quên “ nên rất khó khăn
trong việc tiếp thu các từ mới và hiểu nghĩa từ – Những từ được tiếp thu
trong kinh nghiệm sống của trẻ cũng sẽ bị lãng quên rất nhanh.
Trẻ thường không biết biểu đạt nhu cầu của bản thân bằng lời nói, đôi khi
trẻ phải dùng cử chỉ điệu bộ. Nếu không được đáp ứng kịp thời các nhu
cầu đó của trẻ, trẻ thường gào thét, có thể tức giận, nếu kích thích gia tăng
thường đập phá…
Trẻ không biết trả lời các câu hỏi mà ta hỏi chúng dù đó là những câu hỏi
đơn giản nhất.
Trẻ thường không biết hợp tác với bạn bè, tự chơi một mình, đôi khi lẩm
bẩm nói một mình nhưng vẫn không phát ra được những ngôn ngữ rõ
ràng.
Đặc điểm phổ biến ở trẻ em này là rất khó tiếp xúc và làm quen nếu ta
chưa chiếm lĩnh được tình cảm của trẻ.
Những đặc điểm nêu trên đã dẫn trẻ đến hạn chế khả năng giao tiếp, vì
vậy ngôn ngữ của các trẻ này cũng trong tình trạng chậm phát triển.

Để giúp trẻ khắc phục được hạn chế nói trên, ta cần có nhiều biện pháp
dạy trẻ (sẽ đề cập tới ở mục sau). Điều cốt lõi vẫn phải cung cấp cho trẻ
vốn từ bằng nhiều hình thức khác nhau, vốn từ là nền tảng để hình thành
ngôn ngữ ở trẻ. Sở dĩ trẻ ngại giao tiếp và ít dùng lời nói chính là do từ
ngữ quá nghèo, trẻ muốn diễn đạt mà không thể nói ra được.
Khi trẻ đã có được những vốn từ mới có thể hình thành khả năng ngữ
pháp cho trẻ, muốn vậy cần phải tăng cường những hoạt động làm thay


đổi các trạng thái tâm lý ở trẻ, trẻ mới mạnh dạn tiếp xúc, sẽ tạo điều kiện
để trẻ giao tiếp.
Để dạy được trẻ phải hết sức kiên trì, giàu lòng nhân ái và biết cách trinh
phục trẻ thì mới mang lại kết quả mong muốn. Tóm lại, cần nhớ trẻ có bốn
đặc điểm cơ bản dẫn đến khó khăn trong giao tiếp đó là:
+ Vốn từ trẻ quá nghèo
+ Trẻ thường mắc các khuyết tật ngôn ngữ
+Trẻ không có trình độ ngữ pháp ( chưa biết đặt câu chủ vị )
+ Ngại giao tiếp, ứng xử.
Nếu giải quyết tốt được bốn đặc điểm nói trên, ta đã hình thành và phát
triển được khả năng ngôn ngữ giao tiếp cho trẻ.
1.2. Các hình thức và mức độ giao tiếp của trẻ chậm phát triển trí tuệ
a) Hình thức giao tiếp
Có hai hình thức giao tiếp đó là có âm và vô âm. Giao tiếp có âm là giao
tiếp trong đó thông điệp được chuyển đi nhờ vào giọng nói và âm thanh.
Giao tiếp vô âm là giao tiếp trong đó thông điệp được chuyển đi nhờ các
hình thức biểu hiện khác không có âm thanh nhưng có thể nhìn thấy, và
cảm thấy.
b) Mức độ giao tiếp

Mức độ giao tiếp phi biểu tượng

Có thể dễ dàng nhận thấy những biểu hiện ở cấp độ phi biểu tượng.
Chúng ta không phải học những biểu hiện này. Ngay cả khi ở một nước
khác, ta vẫn có thể hiểu được chúng. Ví dụ như: đỏ mặt khi xấu hổ; sắc
mặt tái đi khi mệt mỏi v.v.
Mức độ giao tiếp biểu tượng
Biểu tượng là một “mã hiệu” với ý nghĩa nào đó mà chúng ta sử dụng để
thể hiện bản thân. Dựa trên sự thống nhất chung, mỗi “mã hiệu” nhất định
sẽ đại diện cho một ý nghĩa cụ thể. Nói một cách khác, biểu tượng là cái
thay thế cho đồ vật hay đối tượng mà ta muốn đề cập. Ví dụ từ “bàn” là
biểu tượng cho cái bàn.



Ngôn ngữ nói (có âm) là dạng biểu hiện thông dụng nhất của giao tiếp ở
mức độ biểu tượng. Tuy nhiên, ngôn ngữ vô âm như ngôn ngữ viết và
ngôn ngữ ký hiệu cũng sử dụng các biểu tượng.


Có rất nhiều cách sử dụng ngôn ngữ ký hiệu. Trước hết đó là các ký hiệu
biểu tượng tự nhiên hay cụ thể. Những ký hiệu này nhiều khi mang tính
quốc tế, mọi người đều hiểu, ví dụ như vẫy tay chào tạm biệt. Rất nhiều
người trong xã hội đã tạo ra các ký hiệu một cách tự phát. Thứ hai là các
hệ thống ký hiệu đã được thống nhất, ví dụ như đánh vần bằng ngón tay.
Trong ngôn ngữ viết, chữ viết được dựa theo ngôn ngữ nói chính là sự tái
tạo bằng văn bản ngôn ngữ nói, ngoài ra còn có sơ đồ tranh biểu tượng,
đây chính là việc sử dụng hệ thống các bức vẽ đơn giản mà mọi người đã
nhất trí để giao tiếp với nhau.
Mức độ giao tiếp tiền biểu tượng
Giữa mức độ giao tiếp biểu tượng và mức độ giao tiếp phi biểu tượng có
một mức chuyển tiếp. Đó chính là những biểu hiện ở mức tiền biểu tượng.

Những biểu hiện này ngụ ý sự việc, người hay đồ vật, đó là những vật liệu
cụ thể như đồ vật thu nhỏ, ảnh, hình vẽ, tranh dùng để thay thế cho đồ vật
hoặc đối tượng thật. Ví dụ trẻ đưa ra một cái cốc để thể hiện rằng em
muốn uống nước, đưa ra ảnh một chiếc xe buýt để thể hiện rằng em sắp
về nhà.



1.3. Mức độ chậm phát triển trí tuệ của trẻ và vấn đề giao tiếp của
chúng
a) Trẻ chậm phát triển trí tuệ rất nặng
Trẻ CPTTT rất nặng hầu như không nói. Đối với những trẻ có khả năng
diễn đạt bằng ngôn ngữ thì sự diễn đạt này thường chỉ giới hạn ở mức độ
sử dụng một số từ đơn lẻ.
Trẻ thường chỉ vào các đồ vật trẻ mong muốn và cầm tay bạn ngụ ý làm rõ
điều mình muốn. Trẻ cũng thể hiện mong muốn hoặc cảm xúc của mình
qua tư thế, khóc, cười, hoặc chọn một vị trí trong phòng hay một cách di
chuyển nào đó v.v. Tiến xa hơn, trẻ có thể biết vận dụng các âm thanh
trong môi trường xung quanh hoặc bắt chước các cử chỉ. Có một số
nguyên tắc chung các giáo viên thường vận dụng khi giao tiếp với trẻ loại
này nhằm giảm thiểu những điểm hạn chế của trẻ. Các nguyên tắc cụ thể
như nhấn mạnh ngữ điệu; dung các công cụ giao tiếp bổ trợ như cử chỉ,
ảnh, đồ vật và các điệu bộ, tư thế cơ thể; đáp lại mọi hình thức giao tiếp;
khen ngợi mọi hình thức giao tiếp; thông báo cho mọi người tất cả nhưng
thông tin có được về cách trẻ giao tiếp; không nên kỳ vọng sẽ nhận được
nhiều phản ứng từ trẻ; nhìn nhận những bước tiến nhỏ của trẻ như là sự
tiến bộ lớn.


b) Trẻ chậm phát triển trí tuệ nặng

Trẻ CPTTT nặng học cách tạo các liên kết nhờ vào các kinh nghiệm lặp lại.
Trẻ học được rằng các âm thanh, từ ngữ, cử chỉ nhất định thuộc về các đồ
vật và tình huống cụ thể.
Trẻ bắt đầu hiểu những hoạt động đơn giản trong các tình huống sống
hàng ngày. Có vẻ trẻ gần như hiểu được mọi thứ có liên quan tới ngôn ngữ
nhưng vẫn bị bó buộc trong phạm vi các tình huống rất cụ thể. Ngoài việc
nói các từ và câu ngắn, trẻ sử dụng các cử chỉ một cách tự nhiên như chỉ
tay, cầm tay người khác để dẫn đi xem vật gì. Trẻ cũng đồng thời sử dụng
nhiều hình thức giao tiếp cùng một lúc; khi nói, trẻ vẫn có các cử chỉ, tạo
giao tiếp bằng mắt và sử dụng điệu bộ cụ thể v.v.
c) Trẻ chậm phát triển trí tuệ trung bình
Đối với trẻ CPTTT trung bình, ngôn ngữ trong các tình huống hàng ngày
chiếm vị trí trung tâm. Trẻ sử dụng các câu dài và phức tạp hơn; có khả
năng diễn đạt cảm xúc bằng lời; có thể nói và nghĩ về các sự vật, sự việc
trong quá khứ và hiện tại; có thể lập kế hoạch; có khả năng tương đối
trong giao tiếp với người khác.
d) Trẻ chậm phát triển trí tuệ nhẹ
Trẻ CPTTT có thể sử dụng ngôn ngữ và giao tiếp một cách sáng tạo không
chỉ dựa trên thói quen và điều kiện mà còn nhờ vào ngôn ngữ tiềm ẩn bên
trong. Trẻ cần được giải thích thêm nhưng giải thích không nên quá dài và
các câu phải rõ ràng, sử dụng các từ quen thuộc giải thích những từ và
câu mới để tăng khả năng hiểu của trẻ
. Để hiểu được trẻ người đối thoại phải hết sức kiên nhẫn, để trẻ tự tìm tòi
và cử chỉ, nhìn chung là nên trẻ chủ động giao tiếp.
Bảng xác định mức độ giao tiếp của trẻ
Dưới đây giới thiệu một bảng giúp xác định mức độ giao tiếp của trẻ, nhờ
bảng này ta có cơ sở để lựa chọn những cách kích thích giao tiếp tích cực
nhằm giúp trẻ thể hiện được bản thân và đồng thời để trẻ hiểu được đối
tượng giao tiếp của mình:
Bảng: Bảng xác định mức độ giao tiếp của trẻ




2. Giao tiếp tổng thể với trẻ CPTTT
2.1. Khái niệm, ý nghĩa và chức năng của giao tiếp tổng thể
a) Khái niệm
Giao tiếp tổng thể (GTTT) là phương pháp giao tiếp trong đó người ta sử
dụng một cách có ý thức tất cả các cách thức và hình thức có thể sử dụng
được để bày tỏ bản thân. GTTT diễn ra dưới nhiều hình thức và ở nhiều
cấp độ giao tiếp khác nhau.


Giao tiếp tổng thể chú ý tới khả năng của trẻ CPTTT chứ không phải
khuyết tật của trẻ. Mục tiêu quan trọng của giao tiếp tổng thể là tạo cơ hội
gợi ý giao tiếp cho trẻ ở mọi nơi mọi lúc, và điều này có thể thực hiện được
bằng các công cụ giao tiếp bổ trợ hoặc thay thế. Có nhiều công cụ có thể
hỗ trợ trẻ chuyển tải thông tin và tham gia vào giao tiếp, việc lựa chọn công
cụ phụ thuộc vào khả năng của mỗi trẻ. Mục tiêu chính là có được giao tiếp
(nghĩa là hiểu người khác và làm cho người khác hiểu mình), còn giao tiếp
như thế nào không phải là điều quá quan trọng. Khi trẻ hiểu và biết rằng có
thể giao tiếp theo nhiều cách khác nhau thì rất có thể sẽ điều chỉnh giao
tiếp của mình một cách có ý thức.
• Những lý do khiến trẻ CPTTT cần phát triển kỹ năng GTTT:
– Trẻ CPTTT thường hạn chế sử dụng ngôn ngữ nói và phi lời nói trong
giao tiếp.
– Ngoài khó khăn về trí tuệ, một số trẻ CPTTT còn có những khó khăn
khác như: nghe, nhìn khiến cho việc thâu nhận và biểu đạt bản thân khó
hơn. Vì thế, cần phát triển kỹ năng GTTT ở trẻ càng sớm càng tốt.
• Các công cụ có thể giúp trẻ phát triển kỹ năng giao tiếp tổng hợp
– Đồ vật thực: liên hệ chính xác với tình huống hoặc hoạt động của trẻ.

– Mô hình
– Ảnh
– Hình vẽ
– Tranh biểu tượng: là hình vẽ được đơn giản hóa mức độ cao.
– Ngôn ngữ ký hiệu
– Kí hiệu
– Cử chỉ, điệu bộ
– Chuyển động cơ thể
– Nét mặt, ánh mắt.
• Làm thế nào để phát triển kỹ năng GTTT ở trẻ
– Cung cấp cho trẻ nhiều hình thức giao tiếp


– Tìm ra công cụ giao tiếp phù hợp với trẻ và tập trung hỗ trợ cho trẻ.
– Huy động mọi giác quan của trẻ tham gia vào hoạt động giao tiếp.
– Tạo cơ hội cho trẻ giao tiếp
– Khuyến khích trẻ sử dụng
– Học cách diễn đạt của trẻ và tích cực sử dụng chúng.
b) Ý nghĩa của giao tiếp tổng thể đối với trẻ chậm phát triển trí tuệ
Giao tiếp tổng thể tạo ra nhiều cách diễn đạt và huy động tất cả các giác
quan. Sử dụng giao tiếp tổng thể mang lại những thuận lợi nhất định trong
giao tiếp với trẻ CPTTT.
Đặc biệt việc hình ảnh hoá thông tin và sử dụng ngôn ngữ ký hiệu có ý
nghĩa hết sức quan trọng.
Ý nghĩa của việc hình ảnh hoá thông tin
Hình ảnh hoá là một vấn đề hết sức quan trọng. Nếu trẻ được nhìn thấy
những gì mà người khác đang nói đến thì trẻ sẽ hiểu ngôn ngữ nói và nhớ
được dễ dàng hơn. Việc học các biểu tượng cũng sẽ trở nên dễ dàng hơn
khi chúng được hình ảnh hoá/trực quan hoá. Lời nói tồn tại trong vài giây
và rất dễ bị quên lãng, trong khi một bức tranh có thể lưu lại và luôn nhắc

nhở đứa trẻ về việc đang xẩy ra. Các biểu tượng trực quan thường có hình
thức cố định hơn lời nói. Có thể làm cho các biểu tượng trực quan tồn tại
lâu hơn bằng cách tạo ra ký hiệu chậm hơn, nhưng làm như vậy với ngôn
ngữ nói thì lời nói sẽ chẳng có ý nghĩa gì. Các biểu tượng trực quan
thường cụ thể, ít trừu tượng hơn lời nói. Một bức ảnh, một bức tranh về cái
cốc hay một cái cốc cụ thể sẽ giúp trẻ dễ nhận ra và liên hệ với cái cốc
trong hiện thực, nhưng nếu ta nói từ “cốc”, trẻ CPTTT khó có thể liên hệ
trực tiếp với đồ vật là cái cốc. Biểu tượng càng dễ hiểu thì đứa trẻ càng dễ
nắm được ý nghĩa của biểu tượng và sẽ sử dụng biểu tượng đó.



Ý nghĩa của việc sử dụng ngôn ngữ ký hiệu
Sử dụng ngôn ngữ ký hiệu có thể kích thích trẻ giao tiếp, vì dùng các ký
hiệu sẽ làm giảm áp lực đối với việc nói. Nếu trẻ chưa phát triển khả năng
nói, ngôn ngữ ký hiệu mang lại cho trẻ cơ hội giao tiếp. Để tạo một ký hiệu,
trẻ không cần có các kỹ năng vận động chính xác như khi nói. Có thể giúp
trẻ tạo các cử chỉ bằng cách cùng làm với trẻ, việc này không thể làm
được với ngôn ngữ nói. Nhìn chung khi trẻ sử dụng các hình thức diễn đạt
vô âm, chúng ta có thể hiểu được cách trẻ thể hiện bản thân qua quan sát.




c) Chức năng của giao tiếp
Hỏi hoặc yêu cầu: Qua giao tiếp trẻ thể hiện em muốn có cái gì hoặc muốn
người nào đó tới với mình. Cũng qua giao tiếp trẻ thể hiện rằng em muốn
một ai đó phải làm gì cho mình, hoặc xin phép được lấy cái gì hay làm điều
gì. Ví dụ trẻ chỉ vào đồ vật, có ý là “ô tô”, “cháu muốn”; đẩy người chăm
sóc đến gần đồ vật, ý là “giúp cháu”, sờ vào đồ vật, nhìn đồ vật có ý như

xin phép để được chơi.
Gây chú ý: Qua giao tiếp trẻ thể hiện rõ em muốn được ai đó để ý. Ví dụ
trẻ vỗ vào vai người chăm sóc và gọi “mẹ”
Từ chối: Trẻ từ chối một đồ vật mà người khác đưa cho, muốn ai đó đừng
làm việc gì, từ chối tuân theo một yêu cầu. Ví dụ: trẻ đầy bộ xếp hình hoặc
quả bóng ra xa và nói “không”, “thôi” đồng thời trẻ lắc đầu.
Đưa ra nhận xét, nhận định: Trẻ nói về các đặc tính của mình, của những
người khác hay của các đồ vật, những người hoặc những đồ vật này phải
được người nghe nhận biết và phải là một phần trong môi trường hoặc tình
huống trực tiếp. Ví dụ giơ cao một đồ vật cho mọi người thấy và nói “đây là
áo của cháu”, hoặc trẻ nói “Cường đang chơi ô tô” và chỉ vào một đứa trẻ
đang chơi.
Đưa và hỏi thông tin: Đưa thông tin: trẻ trình bày rõ điều gì đó cho một
người mà trẻ chưa từng biết trước đó. Đây có thể là việc mô tả một hoạt
động của bản thân trẻ hay của người khác hoặc một sự kiện đã xẩy ra
hoặc sẽ xẩy ra. Nó cũng có thể là câu trả lời cho một câu hỏi trực tiếp. Ví
dụ trẻ nói “hôm qua, Kim đi xe buýt”, khi thì hỏi “bút chì của Kim đâu?”,
đồng thời chỉ vào nơi để bút chì.
Hỏi thông tin: trẻ thể hiện rõ là mình muốn biết cái gì đó hoặc cần người
nào đó. Ví dụ trẻ hỏi “ô tô đâu?” “Kẹo đâu?” và nhìn vào đồ vật, rồi nhìn
vào người chăm sóc để chờ thông tin.
Thể hiện tình cảm : Trẻ thể hiện rõ những tình cảm của mình, thể hiện rõ
sự vui mừng hay buồn hoặc các sở thích cá nhân. Ví dụ: trẻ cầm tay mẹ và
nói “sợ quá”
Thể hiện các phép xã giao trong xã hội: Trẻ sử dụng những biểu hiện
thông thường trong các tình huống giao tiếp xã hội. Ví dụ trẻ nói “Chào mẹ
ạ” và cúi xuống khi chào, hoặc trẻ nói “Con cảm ơn cô” và nhìn về phía cô
2.2. Các nguyên tắc trong giao tiếp tổng thể với trẻ CPTTT



a) Tương tác
Do khuyết tật của mình, trẻ CPTTT bị hạn chế về kỹ năng sử dụng lời nói
trong giao tiếp. Ở môi trường sử dụng lời nói, thường người ta ít chú ý đến
các tín hiệu giao tiếp không lời. Những thông điệp không lời trẻ đưa ra có
thể bị bỏ qua hoặc bị hiểu sai. Ngoài ra ngôn ngữ có thể quá khó với trẻ và
trẻ không hiểu được. Trẻ có thể bị thất vọng, nổi cáu hoặc thể hiện những
hành vi mang tính thách thức. Nếu trẻ CPTTT có các khuyết tật về nghe,
nhìn hoặc khuyết tật khác thì hạn chế về giao tiếp của trẻ càng tăng lên.
Giao tiếp cần phải có sự tương tác giữa hai bên. Để giao tiếp với trẻ
CPTTT, ta phải điểu chỉnh bản thân theo trình độ giao tiếp của trẻ. Ta
không mong muốn trẻ điều chỉnh trình độ giao tiếp theo trình độ của mình.
Tất cả các hình thức giao tiếp cần phải được xem xét và quan tâm thích
đáng để mang lại hiệu quả trong giao tiếp với trẻ.
b) Thực tế
Giao tiếp phải diễn ra trong môi trường xã hội của trẻ CPTTT. Trên cơ sở
đó trẻ sẽ hiểu và liên kết được các trải nghiệm lặp đi lặp lại, nhờ đó giao
tiếp sẽ có ý nghĩa. Trẻ cần học giao tiếp để thể hiện những mong muốn,
nhu cầu tình cảm một cách trực tiếp trong chính môi trường sống của
mình.
Sử dụng giao tiếp tổng thể cần được diễn ra trong 24 giờ mỗi ngày. Khi trẻ
học giao tiếp, nên để trẻ học ngay trong các tình huống hàng ngày. Điều
quan trọng là tất cả môi trường xã hội và mọi người xung quanh đều phải
điều chỉnh mình theo trình độ giao tiếp của trẻ.
c) Thể hiện
Trong giao tiếp với trẻ CPTTT, ta phải sử dụng tất cả các hình thức giao
tiếp khác nhau, cả hình thức dùng lời nói và không lời để diễn đạt mong
muốn, nhu cầu và tình cảm của mình.
2.3. Sử dụng các loại phương tiện hỗ trợ giao tiếp
a) Các loại phương tiện hỗ trợ giao tiếp
Các loại phương tiện được sử dụng trong giao tiếp với trẻ chậm phát triển

trí tuệ là rất đa dạng như: vật thật, mô hình, ảnh, tranh minh họa, tranh
biểu tượng…
+ Vật thật: Vật thật được sử dụng trong giao tiếp với trẻ có liên hệ chính
xác với tình huống hoặc hoạt động cụ thể nào đó. Ví dụ: cái bát ăn cơm
chính là cái được dùng để liên tưởng tới hoạt động ăn. Vật thật thường


được sử dụng cho những trẻ CPTTT giao tiếp ở trình độ phi ngôn ngữ và
giao tiếp của trẻ luôn gắn với những tình huống cố định mà trẻ thường
được trải nghiệm trong cuộc sống hàng ngày.
+ Mô hình: Mô hình là đồ vật thu nhỏ một đồ vật khác đã có trong thực tế,
mô hình
được sử dụng trong giao tiếp để làm liên tưởng tới một hoạt động cụ thể
nhưng nó không được sử dụng cho hoạt động đó. Ví dụ như mô hình cái
bát làm liên tưởng tới bữa ăn nhưng bản thân cái bát đó không được dùng
để ăn… Những trẻ học cách giao tiếp với đồ vật là mô hình vẫn phải tiếp
xúc nhiều với tình huống thực tại cụ thể, đồng thời phải có khả năng nhìn
nhận và hiểu được công cụ giao tiếp này.
Khi trẻ CPTTT đã sử dụng được các phương tiện giao tiếp là vật thật, mô
hình; trẻ có khả năng giao tiếp ở trình độ tiền ngôn ngữ hoặc ngôn ngữ thì
có thể tiến đến sử dụng ảnh, tranh minh họa, tranh biểu tượng để giao tiếp
với trẻ.
+ Ảnh: Ảnh là hình thu, chụp được bằng máy ảnh. Ảnh được sử dụng như
một phương tiện giao tiếp khi nó đảm bảo các yêu cầu sau: Các hình ảnh
rõ ràng trên một nền trung tính, các phối hợp màu được lựa chọn cẩn thận,
không kết hợp các tập hợp màu phức tạp. Ảnh có thể đại diện cho tất cả
các đối tượng từ cụ thể đến tương đối trừu tượng. Chúng ta có thể dùng
ảnh để liên hệ với đồ vật, con người hay hoạt động. Ví dụ: Ảnh về các loài
hoa, các con vật, các phương tiện giao thông, các đồ dùng học tập, các
hoạt động khác nhau của con người…

+ Tranh minh họa: Tranh minh họa phản ánh hiện thực, tâm trạng bằng
đường nét, màu sắc. Tranh minh họa cũng khá phong phú và đa dạng. Ví
dụ: Tranh về các loại hoa quả, các con vật…; tranh về các hoạt động của
con người như: hoạt động ở lớp học, hoạt động vui chơi…
+ Tranh biểu tượng: Tranh biểu tượng là những hình vẽ được đơn giản
hóa ở mức độ cao. Tranh biểu tượng sử dụng các đường nét để diễn tả ý
nghĩa và biểu đạt những ý tưởng trực tiếp nhờ sự tương phản trắng đen.
Tranh biểu tượng đòi hỏi khả năng tư duy nhiều hơn so với các công cụ
giao tiếp như đồ vật thật, mô hình, ảnh hoặc tranh minh họa. Giống như
ngôn ngữ nói, tranh biểu tượng có thể dao động từ cụ thể sang trừu tượng.
Về bản chất, tranh biểu tượng rất đa dạng, nó có thể là những phần khác
nhau của ngôn ngữ nói.
Ví dụ như động từ “đi”, danh từ “quả”; tranh biểu tượng diễn tả các hoạt
động, các trạng thái khác nhau của con người.
b) Mục đích sử dụng các phương tiện hỗ trợ giao tiếp


Hỗ trợ tính tự quyết của trẻ:
Tính tự quyết ở đây chính là việc đứa trẻ CPTTT tự điều khiển cuộc sống
của mình và tự đưa ra các lựa chọn cho bản thân. Cụ thể là trẻ biết bản
thân mình muốn gì và biết cách thể hiện những mong muốn đó. Ví dụ: Khi
trẻ đói, trẻ phải biết thể hiện cảm giác đói, biết thể hiện mình muốn ăn hoặc
uống gì? Trẻ có thể thể hiện điều đó bằng nhiều cách khác nhau như ngôn
ngữ nói, ngôn ngữ viết, sử dụng cử chỉ điệu bộ…



Trẻ bình thường rất dễ dàng để diễn đạt sở thích và nhu cầu của mình cho
người khác hiểu. Nhưng với trẻ CPTTT có những hạn chế về giao tiếp,
nhiều trẻ không có khả năng diễn đạt sở thích và nhu cầu của mình bằng

ngôn ngữ nói hoặc viết. Do đó, các trẻ thường thể hiện nhu cầu của mình
bằng cách la hét, tự đập vào đầu mình… Vậy làm thế nào để trẻ thể hiện
những sở thích và nhu cầu của mình một cách phù hợp ?
Chúng ta có thể cung cấp cho trẻ các phương tiện hỗ trợ giao tiếp (như
các vật thật, mô hình, tranh, ảnh) để trẻ thể hiện sở thích, nhu cầu của
mình. Ví dụ: trẻ có thể sử dụng tranh, ảnh để thể hiện cho người khác biết
các nhu cầu của mình, để thể hiện tâm trạng vui, buồn, khỏe mạnh hay
mệt mỏi…
Hoặc trẻ được quyền lựa chọn các hoạt động khác nhau dựa trên các
phương tiện hỗ trợ giao tiếp phù hợp. Ví dụ: Giáo viên có thể đưa danh
sách các loại quả cho trẻ chọn những quả mà trẻ muốn ăn, đưa ra các
hoạt động khác nhau cho trẻ chọn hoạt động mà trẻ yêu thích…
Nhờ có các phương tiện hỗ trợ giao tiếp mà trẻ biết thể hiện nhu cầu của
mình một cách phù hợp. Do đó, các hành vi không mong muốn của trẻ
cũng được giảm thiểu. Ví dụ: Trẻ muốn ra ngoài em không phải tự đánh
vào đầu mình nữa mà có thể chỉ vào tranh để thể hiện rằng mình muốn ra
ngoài.
Hướng dẫn trẻ thực hiện các hoạt động khác nhau
Đối với trẻ bình thường để thực hiện một hoạt động nào đó có thể trẻ chỉ
cần nghe người khác hướng dẫn rồi nhớ và làm theo. Nhưng đối với trẻ
CPTTT, trí nhớ ngắn hạn và dài hạn đều kém, trẻ rất khó có thể thực hiện
hoạt động nếu chỉ nghe người khác hướng dẫn bằng lời. Trẻ cần được
hướng dẫn cụ thể, theo từng phần của một hoạt động phức tạp.



Để có thể hướng dẫn trẻ thực hiện tốt hoạt động, giáo viên cần:


Tiến hành phân tích hoạt động, có nghĩa là giáo viên phân chia hoạt động

định dạy cho trẻ thành nhiều bước nhỏ. Số lượng các bước để thực hiện
một hoạt động phụ thuộc vào mức độ CPTTT và khả năng của từng trẻ.
Đối với những trẻ CPTTT mức độ nặng hoặc rất nặng để thực hiện một
hoạt động, trẻ cần nhiều bước nhỏ hơn; nhưng cũng với hoạt động, đó
những trẻ CPTTT mức độ nhẹ chỉ cần một số bước nhất định cũng có thể
thực hiện tốt hoạt động.
Sử dụng tranh, ảnh để trực quan hóa cho từng bước của hoạt động đó.
Lưu ý: Các bước trong một hoạt động nên được sắp xếp dưới dạng sơ đồ
treo trên tường để trẻ dễ tiếp cận và nên sắp xếp các bước theo chiều dọc
từ trên xuống. Sắp xếp theo chiều này trẻ dễ hiểu hơn là sắp xếp theo
chiều ngang. Dưới đây là một ví dụ của việc sử dụng tranh biểu tượng để
dạy trẻ CPTTT (mức độ nặng) kỹ năng tự phục vụ chuẩn bị cho bữa ăn
Ví dụ: Phân tích hoạt động chuẩn bị cho bữa ăn

Lên lịch cho các hoạt động hàng ngày/ hàng tuần tại lớp học
Để mang lại ý thức về trật tự hay cấu trúc thời gian cho trẻ thì phải hỗ trợ
trẻ để trẻ có cái nhìn tổng quan về các hoạt động diễn ra trong một ngày.
Một bản kế hoạch về các hoạt động trong một ngày có thể được xây dựng
nhờ sử dụng các loại phương tiện hỗ trợ giao tiếp như đồ vật, ảnh, tranh
minh hoạ, tranh biểu tượng. Bảng kế hoạch đem lại cho trẻ cảm giác an
toàn, sự rõ ràng và ý thức về trật tự thời gian, vì khi đó các sự kiện trở nên
dễ phán đoán hơn. Mặt khác, bảng kế hoạch đem lại cho trẻ CPTTT cơ hội




giao tiếp với mọi người trong môi trường của mình về chương trình hoạt
động hàng ngày bất cứ lúc nào.
Bảng kế hoạch có thể sử dụng cho cả nhóm hoặc cho riêng từng trẻ. Khi
bảng kế hoạch dành cho cả nhóm thì nó phải được đặt tại nơi mà tất cả

các trẻ em đều nhìn thấy.
3. Các biện pháp phát triển giao tiếp cho trẻ CPTTT
Để hình thành và phát triển khả năng giao tiếp cho trẻ cần phải tiến hành
từng bước theo các qui trình sau:
3.1.Tạo ra một môi trường giao tiếp thuận lợi.
Môi trường giao tiếp thuận lợi là môi trường mà ở đó trẻ được phát triển tối
đa khả năng ngôn ngữ của mình. Điều này đã được các nhà ngôn ngữ học
khẳng định. Những thực nghiệm đáng tin cậy cho thấy rằng: nếu một đứa
trẻ bình thường chỉ tiếp xúc với gia đình, một trẻ cùng tuổi được đến lớp
học. Được tiếp xúc với cô giáo và bạn bè, tình trạng phát triển ngôn ngữ
giao tiếp là rất khác nhau. Đứa trẻ chỉ tiếp xúc với gia đình vốn từ nghèo
hơn, khả năng nói kém hơn, tính tình nhút nhát và không linh hoạt. Điều đó
cho thấy tạo ra được những môi trường thuận lợi cho trẻ học giao tiếp là
hết sức cần thiết với mọi đối tượng trẻ em. Vì vậy giáo sư Rubin Stein chỉ
ra rằng: Nếu để trẻ CPTTT tiếp xúc với nhau, cách ly với môi trường bên
ngoài thì khả năng phát triển ngôn ngữ cũng không phát triển. Nếu chúng
được tiếp xúc đúng môi trường, xã hội và bạn bè… thì khả năng giao tiếp
ngôn ngữ của chúng sẽ tốt hơn rất nhiểu.
Như vậy, việc tạo ra các môi trường ngôn ngữ thích hợp, trẻ được thoải
mái, gia tăng hưng phấn, không chỉ ở nội tạng mà còn có những kích thích
khách quan, giúp trẻ CPTTT phát huy được tối đa khả năng ngôn ngữ của
mình. Vậy môi trường ngôn ngữ như thế nào là hợp lý:
Môi trường giao tiếp giữa trẻ với trẻ: Có thể nói đây là một môi trường phát
triển ngôn ngữ tốt nhất, bởi lẽ phương ngôn có câu “ Học thầy không tầy
học bạn”, sự giao tiếp giữa trẻ với trẻ, trẻ học hỏi được nhiều hơn, nhập
tâm nhanh hơn. Nhưng cần tạo ra các hoạt động phù hợp như: hoạt động
với đồ chơi, với trò chơi hoặc sinh hoạt theo chủ đề, kể chuyện và đọc
chuyện cho nhau nghe. Cần tạo ra những nhóm bạn để trẻ sinh hoạt học
hỏi.
Trong quá trình sinh hoạt nên tạo ra những hoạt động dưới nhiểu hình thức

khác nhau, thật đa dạng như ca hát, đọc thơ, kể chuyện, sắm vai trong các


tiểu phẩm. Cần động viên trẻ và khuyến khích, tránh mọi sự phê phán vì
trẻ dễ mặc cảm.
a) Môi trường giao tiếp giữa trẻ và cô giáo:
Do điều kiện bệnh lý của trẻ sẽ nảy sinh ra nhiều tình huống mà thày cô
giáo phải biết cách xử lý sao cho phù hợp để khuyến khích trẻ cộng tác.
Cần chiếm lĩnh được lòng tin của trẻ, xóa đi mọi ranh giới về mặc cảm, trẻ
chỉ nhận thấy khi thầy cô yêu thương mình thực sự sẽ xóa đi những rào
cản trong quan hệ giao tiếp, sẽ phát hiện được điểm mạnh điểm yếu của
trẻ để phát huy và khắc phục. Nếu thầy cô để trẻ mặc cảm, không thích
tiếp xúc, không cộng tác, xa lánh sẽ rất khó khăn giáo dục.
b) Môi trường giao tiếp xã hội:
Sự cần thiết cho trẻ tiếp xúc với môi trường ngôn ngữ cộng đồng như giao
lưu, hội hè, mua bán. Lúc đầu trẻ cần được nghe, tạo ra thói quen
nhậptâm, những nguồn ngôn ngữ này là rất đa dạng phong phú, rất có ích
cho trẻ. Vì thế nên tổ chức các hoạt động ngoại khóa như việc tham gia lễ
hội, tham gia vãng cảnh, đi chợ mua sắm , cần để trẻ tự chủ trong giao
tiếp, thầy cô chỉ đóng vai trò hỗ trợ giúp trẻ thực hiện được ý muốn của
bản thân.
c) Môi trường giao tiếp ngôn ngữ ở gia đình:
Đây cũng là một môi trường ngôn ngữ hết sức quan trọng vì 2/3 tthời gian
trẻ sống ở nhà được tiếp xúc với bố mẹ, anh chị và những người ruột thịt
khác. Trong môi trường này, nếu cha mẹ, anh chị của trẻ được các thầy cô
tư vấn về cách dạy trẻ giao tiếp, phát triển ngôn ngữ thì khả năng phát
triển giao tiếp và ngôn ngữ sẽ giúp trẻ tiếp cận rất nhanh. Trước hết phải
xây dựng được tình yêu thương ruột thịt để chiếm lĩnh được trẻ, có vậy khi
nói hoặc giảng giải thì trẻ mới chịu nghe. Để làm được điều này thì cha mẹ
của trẻ cần phải được thầy cô giáo tư vấn kiến thức chăm sóc trẻ trong gia

đình. Cần dạy trẻ chào hỏi, tiếp khách cùng bố mẹ, dạy trẻ nói, đọc, viết.
Đây chính là hoạt động phát triển ngôn ngữ.
3.2. Những biện pháp cơ bản để phát triển ngôn ngữ giao tiếp cho trẻ
CPTTT.
Khi đã tạo ra được môi trường ngôn ngữ thuận lợi để trẻ ham muốn được
giao tiếp bằng cử chỉ, lời nói là điều rất tốt. Vì vậy thâỳ cô phải nắm vững
các phương pháp phát triển ngôn ngữ nói cho trẻ. Chỉ khi trẻ nói được
nhiều, chứng tỏ ngôn ngữ của chúng đã phát triển, vốn từ cũng phong phú
hơn, ngữ pháp từ đó được hình thành. Cần vận dụng các biện pháp sau:


– Biện pháp kích thích bằng đồ chơi ( hoạt động trẻ với trẻ ):
Trong các giờ chơi với đồ chơi giáo viên chuẩn bị hàng loạt đồ chơi để các
em chọn theo ý thích nhưng muốn chơi đồ chơi nào thì trẻ phải nói: Thưa
cô, em thích đồ chơi này ( gọi tên đồ chơi) hoặc đồ chơi kia (gọi tên ).
Không được dùng tay chỉ. Khi chọn xong đồ chơi cho các nhóm trẻ cùng
chơi trong hoàn cảnh này trẻ tự giao tiếp với nhau dưới sự hướng dẫn của
cô cũng có thể nói tên đồ chơi. Trong đống đồ chơi cô đưa từng thứ và hỏi:
“ Đây là đồ chơi gì?” để cho mọi trẻ trả lời, trả lời đúng được, khen ngay,
trẻ trả lời sai, nhắc lại.
– Biện pháp kích thích bằng trò chơi ( hoạt động của trẻ với trẻ):
Giáo viên chuẩn bị tốt các trò chơi có chủ định có thể là các trò chơi mang
tính hoạt động cũng có thể là trò chơi tĩnh. Giáo viên giải thích cách chơi
cho cả nhóm. Sau đó, từng em nói lại quy tắc chơi rồi mới cho trẻ thực
hành. Trong sự giao lưu này trẻ sẽ phải giao tiếp với nhau bằng lời – ví dụ
trò chơi truyền tin chẳng hạn – Cô truyền tin cho em xếp đầu, các em sẽ tự
tiếp nối đến người cuối ( cô nhận thông tin ở người cuối cùng). Hoặc trò
chơi bắt và tung bóng, muốn tung cho ai phải nói tên bạn ấy. Tương tự
như vậy, cô phải buộc trẻ giao tiếp bằng lời. Đối với các trò chơi tĩnh như
nhận mặt chữ, nhận mặt số hoặc nhận biết gọi tên các vật vẽ trong tranh

cũng đòi hỏi trẻ phải dùng lời để biểu đạt.
– Biện pháp kich thích bằng nghe kể – kể nghe:
Cô kể những cốt chuyện hấp dẫn để toàn nhóm nghe và sau đó cho từng
em kể lại. Khuyến khích trẻ kể đúng cốt chuyện và kể có diễn cảm. Hoặc
cũng có thể cho trẻ tự kể về mình, cô gợi ý và các bạn trong nhóm cùng bổ
xung. Trong sinh hoạt giao lưu này có thể cho các em đọc khá đọc một cốt
chuyện hấp dẫn để cả nhóm cùng nghe. Sau đó từng thành viên kể lại cổt
chuyện vừa nghe.
– Biện pháp kích thích thảo luận chủ đề ( hoạt động trẻ với trẻ ):
Hãy để trẻ chọn các chủ đề sinh hoạt mà các em ưa thích.Nhóm trưởng có
vai trò rất quan trọng trong quá trình điều khiển nhóm dưới sự chỉ dẫn của
cô giáo. Trong hoạt động này cần phải khuyến khích các cháu chậm phát
triển tham gia tích cực, với các chủ đề khó thì các cháu ngồi nghe các bạn,
các chủ đề này rất bổ ích như:
+ Chủ đề nhà trường: Hãy kể chuyện về thầy cô mà em yêu thích? Hoặc
muốn học tốt em phải làm gì?


+ Chủ đề về gia đình: Hãy kể về gia đình em? Hoặc muốn trở thành con
ngoan thì em phải làm gì?
+ Chủ đề về xã hội: Hãy kể chuyện về một chú bộ đội hay chú thương binh
mà em biết.
Còn có thể khai thác nhiều chủ đề khác để các em sinh hoạt và giao lưu
trong nhóm.
– Biện pháp kích thích bằng các họat động văn nghệ (hoạt động trẻ với
trẻ ):
Đây cũng là một hoạt động bổ ích đối với trẻ và chính trong quá trình giao
lưu này mà trẻ có thể học được rất nhiều từ như: Tập hát, tập đóng kịch,
hoặc vừa hát, vừa múa vui.
+ Tập hát phải dạy cho trẻ từng câu: Khi các câu đã thuộc mới ghép thành

bài và cũng phải thường xuyên luyện tập.
+ Tập đóng kịch: Cho các em tự sắm vai cùng với nhóm diễn. Cũng có thể
là vai chính hoặc vai phụ, sao cho các vai phụ em ưa thích thì mới tích cực
học lời của vai diễn.
Tất cả điều nêu trên đó là các hoạt động trong môi trường giữa trẻ với trẻ.
Giáo viên chỉ đóng vai trò hướng dẫn uón nắn sai sót mà thôi. Không nên
bao biện làm thay.
– Biện pháp phát triển ngôn ngữ nói thông qua hội thoại ( hoạt động giữa
cô và trò):
Đây cũng chính là phương pháp cá biệt hóa vì cô phải làm việc với từng
em. Có các hình thức sau:
+ Hội thoại dùng tranh ảnh: Cô hỏi học sinh trả lời.
+ Hội thoại bằng hình thức kể nghe – nghe kể: Cô giáo kể chuyện cho các
trẻ nghe, trẻ kể lại câu chuyện hoặc kể chuyện theo tranh để phát triển
ngôn ngữ.
+ Luyện tập phát âm: Đối với trẻ khả năng phát âm còn kém cô cần phải
luyện phát âm cho trẻ – Luyện cả về cường độ theo phương pháp phát
âm “ Nhại lại” tức là cô đọc trước trò đọc sau.
+ Sửa tật ngôn ngữ: Nếu phát hiện thấy trẻ mắc tật ngôn ngữ cần phải sửa
tật theo phương pháp phát âm tiết, phương pháp dùng âm tiết trung gian…


– Biện pháp phát triển ngôn ngữ tại gia đình:
+ Dạy cho trẻ cách giao tiếp: Mời chào khi khách đến thăm nhà, giúp ba
mẹ chuẩn bị tiếp khách.
+ Kể chuyện cổ tích hoặc chuyện vui ( tiết mục kể chuyện đêm khuya )
+ Đọc hoặc kể rồi bắt trẻ kể lại
+ Dạy trẻ phát âm và tập đọc
Muốn làm được điều này cha mẹ học sinh cần phải được tập huấn bồi
dưỡng các phương pháp về dạy trẻ, cần phải làm cho họ nâng cao được

vai trò trách nhiệm với con em mình, tích cực cộng tác dạy trẻ.
Theo “Đại cương về giáo dục trẻ CPTTT” của tiến sĩ Huỳnh Thị Thu
Hằng



×