Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

CHỦ NGHĨA KHU VỰC NAM Á : TIẾN TRÌNH VÀ ĐẶC ĐIỂM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.37 KB, 17 trang )

1

CHỦ NGHĨA KHU VỰC NAM Á : TIẾN TRÌNH VÀ ĐẶC ĐIỂM

NCS. Nguyễn Thị Huyền Thảo
Khoa Lịch Sử
Tóm tắt :
Ý tưởng về sự phát triển chủ nghĩa khu vực Nam Á đã được đễ xuất vào năm
1945 khi Jawaharlal Nehru đưa ra lời kêu gọi thành lập ở Nam Á. Đến 1985 tổ chức
liên kết khu vực Nam Á mới được thành lập (SAARC). Chủ nghĩa khu vực với đỉnh
cao là sự liên kết và các quyết định dựa trên sự thống nhất giữa các quốc gia trên một
khu vực địa lý. Chủ nghĩa khu vực Nam Á lại có sự khác biệt. Chủ nghĩa khu vực
Nam Á luôn có hai khuynh hướng: Thống nhất trong chia rẽ và xung đột. Biểu hiện
của sự xung đột là khủng bố thường xuyên xảy ra và việc ràng buộc các quốc gia
trong một nguyên tắc chung đang là một thách thức với khu vực này. Hiện nay Nam Á
đang đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức hơn khi các nước trong khu vực tìm
cách liên kết với các nước bên ngoài.
Từ khóa : Chủ nghĩa khu vực, Nam Á, Ấn Độ, Hợp tác,

SOUTH ASIAN REGIONALISM: PROGRESS AND CHARACTERISTICS
Abstract
The idea of promoting regionalism in South Asia can be traced back to 1945 when the
Indian leader Jawaharlal Nehru made a plea for establishing a South Asian. Up to 1985

South Asian Association for Regional Cooperation was established. Regionalism with the
pinnacle is the alliance and unanimity as the basis of all decisions among all nations in
the geographic region. South Asian regionalism is different. South Asian regionalism
has two trends: unity in divisions and conflicts. The expression of conflicts that is
terrorism often occurs and binds countries in a general principles is one of challenges
to this region. Now, South Asia is facing to more difficulties and challenges when
some of countries in this region seek to connecting with outside countries.




2

Keywords: Regionalism, South Asia, India, Cooperation
1. Đặt vấn đề
Tác đông của cuộc chiến tranh Lạnh đã dẫn đến xu hướng liên kết khu vực diễn ra
mạnh mẽ vào những năm 50 của thế kỉ XX với hai khối liên minh kinh tế- chính trị
của các nước Tây Âu và Đông Âu đứng đầu là Mỹ và Liên Xô, để rồi sau đó tạo nên
trào lưu liên kết khu vực diễn ra mạnh mẽ ở khắp các khu vực và châu lục khác với
các mục tiêu và tính chất khác nhau như: ECSC(Cộng đồng than thép Châu Âu1951), Hiệp hội liên kết Mỹ la tinh (1960), Tổ chức thống nhất châu Phi (OAU1963), SELA (Hệ thống kinh tế Mỹ la tinh - 1975). Mỗi một khu vực lại có một tổ
chức liên kết, liên minh nhằm hướng đến mụ tiêu hợp tác cùng nhau phát triển và
cùng nhau giải quyết các vấn đề bất ổn liên quan đến an ninh-chính trị; an ninh- kinh
tế và khủng bố, ly khai mà có sự tham gia của các nước bên ngoài, hạn chế sự can dự
của các nước bên ngoài. Tuy nhiên, tiến trình hình thành và phát triển của mỗi khu
vực, không giống nhau và nó tạo nên sự khác biệt mang dấu ấn riêng khu vực đó. Vì
thế, việc tìm hiểu về tiến trình và đặc điểm chủ nghĩa khu vực có ý nghĩa quan trọng
đối với việc nghiên cứu. Chủ nghĩa khu vực là một lĩnh vực nghiên cứu có nhiều
trường phái lý thuyết khác nhau, được nhìn nhận, đánh giá và tiếp cận từ nhiều góc độ
khác nhau tạo nên sự đa dạng, phong phú. Để hiểu rõ hơn về chủ nghĩa khu vực Nam
Á và rút ra được đặc điểm về chủ nghĩa khu vực của nơi này , bài viết đi sâu vào việc
trình bày về chủ nghĩa khu vực Nam Á: tiến trình và đặc điểm.
2. Cơ sở lý luận về chủ nghĩa khu vực
Nghiên cứu về khu vực và chủ nghĩa khu vực xuất hiện từ cuối thế kỉ XIX và
phát triển mạnh mẽ ở phương Tây ( Lương Văn Kế, 2007, tr 15). Sau chiến tranh thế
giới thứ II (1939- 1945), việc nghiên cứu về khu vực ngành càng nhiều và tạo thành
các trường phái học thuyết khác nhau về khu vực. Cũng từ đây, khái niệm về chủ
nghĩa khu vực được nhắc đến và thu hút sự chú ý, quan tâm nghiên cứu của các học
giả, nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Đến nay, chủ nghĩa khu vực có nhiều khái
niệm, định nghĩa và cách tiếp cận khác nhau.



3

2.1. Tiếp cận ở góc độ nhận thức và văn hóa
Theo từ điển Merriam-Webster, chủ nghĩa khu vực là “sự nhận thức và lòng trung
thành đối với khu vực đặc thù với một cư dân tương đồng” ( nghĩa này đã cho thấy chủ nghĩa khu vực
được hiểu là những nét tương đồng của cộng đồng dân cư trên một khu vực địa lý nhất
định. Nó được hình thành trên cơ sở của nhận thức và lòng trung thành của các quốc
gia trên cùng một khu vực địa lý. Có nghĩa là chủ nghĩa khu vực đề cập đến tinh thần
và trách nhiệm của các quốc gia trên một khu vực địa lý đó. Từ điển Britanica cũng
dựa trên cơ sở về nhận thức về ý thức về thế giới quan và có sự nhấn mạnh nhiều hơn
đến vai trò của yếu tố tình cảm và bản sắc. Theo Britanica “Chủ nghĩa khu vực hay
nhận thức khu vực là sự liên quan về tư tưởng với nhận thức phát triển từ tình cảm về
bản

sắc

bên

trong

khu

vực”

( />
query=regionalism&source=MWTEXT). Theo đó, chủ nghĩa khu vực mang yếu tố
tinh thần, văn hóa. Nên có thể hiểu là chủ nghĩa khu vực là có sự giống nhau, tương
đồng về văn hóa và truyền thống.

Từ điển quan hệ quốc tế Penguin cho rằng :“ Đó là tập hợp thái độ, lòng trung
thành và tư tưởng mà đã tập trung tâm trí của các cá nhân cũng như tập thể về cái mà
họ nhận thức đó là chủ nghĩa khu vực của họ”(Graham Evans & Jeffrey
Newham,1998, tr 473).Với định nghĩa này, có thể hiểu chủ nghĩa khu vực bao gồm cả
thái độ, tinh thần trách nhiệm của các quốc gia mà tinh thần tập thể của các quốc gia
trên một khu vực địa lý nhất định. Định nghĩa này đề cao tinh thần tập thể của các
quốc trên cùng một phạm vi không gian địa lý.
2.2. Tiếp cận chủ nghĩa khu vực ở góc nhìn về quan hệ quốc tế
Ở các tiếp cận của quan hệ quốc tế, theo Hoàng Khắc Nam thì nghiên cứu về chủ
nghĩa khu vực là xem xét mối quan hệ giữa các quốc gia trong khu vực dựa trên nền
tảng là các yếu tố có liên quan đến lợi ích quốc gia.(Hoàng Khắc Nam, 2009, 45).
Khái niệm này cho rằng khi xem xét về chủ nghĩa khu vực thì xem xét mối quan hệ
giữa các nước trong cùng một khu vực địa lý, chú trọng đến chính sách đối ngoại của
các quốc gia với nhau. Trong đó, xem xét lợi ích mà các quốc gia cùng nhau đạt được


4

là mấu chốt và là nền tảng của sự liên kết các quốc gia trên một khu vực địa lý nhất
định.
Một số quan điểm khác cho rằng: chủ nghĩa khu vực chỉ được thiết lập khi khu
vực đó có một tổ chức đề thực thi các chính sách đối nội, đối ngoại nhằm giải quyết
các vấn đề chung của khu vực và chính sách đó được ban hành bởi những nhà lãnh
đạo. Tiêu biểu cho quan điểm này là John Ravenhill, ông cho rằng “chủ nghĩa khu vực
là sự cộng tác liên chính phủ trên một cơ sở giới hạn về mặt địa lý”(John Ravenhill,
2002, tr 168). Joseph Nye thì cho rằng chủ nghĩa khu vực là “ sự hình thành hiệp hội
hay nhóm liên quốc gia trên cơ sở khu vực” (Joseph Nye,1968, tr vii).
2.3. Chủ nghĩa khu vực là các mối quan hệ trên các lĩnh vực
Quan điểm này được PGS.TS Hoàng Khắc Nam (2009) cho rằng nghiên về chủ
nghĩa khu vực là nghiên cứu điều kiện địa lý, giao lưu văn hóa, hoạt động kinh tế và

hoạt động chính trị…(Hoàng Khắc Nam, 2009, tr 45).Theo khái niệm này thì chủ
nghĩa khu vực được xác định bởi khu vực địa lý nhất định, các quốc gia có mối quan
hệ giao lưu về văn hóa, kinh tế, chính trị. Nội hàm khái niệm chỉ rõ các lĩnh vực mà
các quốc gia trên cùng một khu vực địa lý hợp tác với nhau. Việc chỉ rõ các lĩnh vực
làm cơ sở cho phạm vi nghiên cứu, nhận định, đánh giá cụ thể và rõ ràng hơn so với
một số khái niệm trình bày ở trên. Khái niệm này không đặt ra sự phụ thuộc, ràng
buộc mà hướng đến việc các quốc gia có chung sự thỏa thuận và lợi ích khi hợp tác
với nhau.
Ở một góc độ khác, PGS.TS Nguyễn Ngọc Dung (2002) cho rằng “chủ nghĩa khu
vực là một hệ thống các nguyên tắc và tiêu chí, theo đó, các quốc gia- dân tộc trong
cùng một không gian địa- lịch sử, địa- văn hóa, địa- chính trị- xã hội có thể hợp tác
với nhau để cùng phát triển bản thân mỗi quốc gia cũng như toàn khu vực; không phụ
thuộc vào thể chế, chế độ chính trị- xã hội, hệ tư tưởng, trình độ phát triển kinh tế- xã
hội cũng như bản sắc văn hóa tôn giáo riêng của từng quốc gia dân tộc (tr 51)”.Tác giả
cho rằng chủ nghĩa khu vực mang tính hệ thống về các nguyên tắc và tiêu chí. Nghĩa
là các quốc gia đều tuân theo một quy chuẩn chung nhất định và các quốc gia trên
cùng một khu vực địa lý hướng đến cái chung nhất bên cạnh những cái riêng và sự
khác biệt giữa các quốc gia ấy. Khái niệm này rộng hơn và nội hàm cũng mở rộng hơn


5

về phạm vi, song nói lại có tính chất bó hẹp lại trong hệ thống quy định, ràng buộc đối
với các quốc gia trên cùng một khu vực địa lý nhất định.
Như vậy, có nhiều cách tiếp cận và nhận thức khác nhau về chủ nghĩa khu vực.Từ
đơn giản đến phức tạp, từ tự nhiên của địa lý đến sự quy định rằng buộc của các chủ
thể để đạt được lợi ích chung hay sự ràng buộc nhau trong các nguyên tắc, tiêu chí.
Dù là khái niệm có sự khác biệt, nhưng cho thấy chủ nghĩa khu vực vẫn chưa thống
nhất trong sự đồng thuận của các nhà nghiên cứu, song lại cho thấy điểm tương đồng
mà không thể bỏ qua đó chính là khu vực địa lý.

Trong bài viết này, tác giả chọn cách tiếp cận chủ nghĩa khu vực là một thực thể
thống nhất trong một tổ chức và thông qua các chính sách đối ngoại của các quốc gia
để đưa ra những nhận định, đánh giá về quá trình hình thành chủ nghĩa khu vực và đặc
điểm của chủ nghĩa khu vực Nam Á.
3. Sự hình thành chủ nghĩa khu vực ở Nam Á
Nam Á là một khu vực nhiều biến động về phân định hành chính quốc gia. Do di
sản của chế độ thực dân nơi đây cùng với việc xung đột tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ
nên phân định địa lý hành chính của các quốc gia chưa có sự thống nhất. Theo công
nhận từ Liên Hiệp Quốc thì Nam Á là khu vực bao gồm các quốc gia: Ấn Độ,
Bangladesh, Burma (Miến Điện), Nepal, Pakistan, Sri Lanka, Afghanistan và Iran.
Maldives là nước không có tên trong khu vực này. Theo địa lý tự nhiên thì Maldives
thuộc khu vực Nam Á.
`

Quá trình liên kết khu vực Nam Á diễn ra lâu hơn so với quá trình liên kết khu

vực khác trên thế giới. Hiện nay, tổ chức liên minh kinh tế- chính trị với tên gọi là
Hiệp hội Nam Á (SAARC) đã thành lập, đánh dấu cho sự ra đời của chủ nghĩa khu
vực ở nơi này. Hiện nay, SAARC bao gồm: Ấn Độ, Bangladesh, Bhutan, Pakistan, Sri
Lanka, Nepal, Maldives và Afganistan. Tổ chức này được thành lập xuất phát từ nhu
cầu, nguyện vọng và ý chí của các quốc gia trong khu vực.
Theo quan điểm của Michael Haas ý tưởng xây dựng hợp tác khu vực bắt đầu
nhen nhóm tại Hội nghị Quan hệ châu Á được tổ chức tại Delhi vào tháng 4-1947 tại
Delhi (Michael Hass, 1989, tr 275–276). Mục đích của Hội nghị này là thành lập Tổ


6

chức quan hệ châu Á phi chính phủ, với các mục tiêu tạo ra một khuôn khổ liên Á để
xây dựng hợp tác giữa các quốc gia. Tuy nhiên tổ chức này chỉ tồn tại trong thời gian

ngắn và giải tán vào năm 1957.
Đến năm 1954, lãnh đạo cấp cao của các quốc gia như Burma, Sri Lanka, Ấn Độ,
Indonesia và Pakistan đã tiến hành gặp gỡ tại Hội nghị Các Thủ tướng Nam Á được tổ
chức tại Kandy- Sri Lanka từ ngày 28-4 đến ngày 2-5-1954. Hội nghị này tổ chức hai
lần trong cùng một năm, nhằm hoàn tất các kế hoạch cho một Hội nghị liên kết khác
đó là Hội nghị các quốc gia Á- Phi.
Tháng 4-1955, phong trào Bangdung được thành lập vào trở thành phong trào
không liên kết (NAM), Hội nghị các Thủ tướng Nam Á đã không được tổ chức thêm
lần nào.Việc này đồng nghĩa với ý tưởng thành lập tổ chức khu vực bị gián đoạn trong
một thời gian dài.
Đầu thập niên 70 của thế kỉ XX, việc thành lập một tổ chức khu vực được nhen
nhóm trở lại. Năm 1977, trong các chuyến công du đến các nước như Nepal, Ấn Độ,
Pakistan và Sri Lanka từ 1977 đến 1980, Tổng thống Bangladesh, ông Ziaur Rahman
đã đề xuất, tiến tới bàn luận với các nhà lãnh đạo của các nước và lên kế hoạch về
việc thành lập tổ chức khu vực ở Nam Á. Sau đó, ông gửi thư đến các nhà lãnh đạo
chính phủ Bhutan, Ấn Độ, Maldives và Sri Lanka đề nghị tiến hành cuộc họp Thượng
đỉnh, để tìm kiếm khả năng xây dựng những thể chế cho việc hợp tác khu vực, nhưng
khi đó vẫn chưa đi đến thống nhất. Đến năm 1981, thì các nước mới đi đến thống nhất
các ý kiến và quan điểm cho việc thành lập tổ chức khu vực và cuộc họp đầu tiên của
các Thư ký ngoại giao 7 nước Nam Á (Bangladesh, Bhutan, Ấn Độ, Maldives,
Pakistan, Nepal và Sri Lanka) mới được tiến hành. Đây được xem là cột mốc quan
trọng cho việc thành lập tổ chức khu vực Nam Á. Nhưng do tình hình thế giới có
những chuyển biến khiến cho việc thành lập tổ chức khu vực khó thành hiện thực.
Yếu tố bên ngoài tác động đến quá trình liên kết chính là cuộc chiến tranh Lạnh.\
Vào những năm 70 của thế kỉ XX, khi chiến tranh lạnh bước vào giai đoạn căng
thẳng nhất với sự can thiệp của Liên Xô vào Afganistan (1978). Sự kiện này đã tác
động mạnh mẽ đến quan hệ giữa các nước trong khu vực, làm cho quan hệ giữa các
nước Nam Á căng thẳng và khó tìm được tiếng nói chung trong quá trình liên kết. Nên



7

đến cuối những năm 70, việc thành lập tổ chức tổ chức khu vực vẫn chưa được thông
qua.
Năm 1983, tại cuộc họp của Bộ trưởng Ngoại giao 7 nước ở khu vực Nam Á đã
đưa ra Tuyên bố về Hợp tác khu vực Nam Á (SAARC) và Chương trình phối hợp
hành động (IPA) được khởi động (Uttara Sahasrabuddhe,2008, tr4).Trong đó, chương
trình IPA được xác định, đây là chương trình hợp tác dựa trên 7 lĩnh vực: Nông
nghiệp, thông tin liên lạc, giáo dục- văn hóa- thể thao, môi trường và khí tượng học,
dân số, du lịch, sức khỏe, phát triển phụ nữ. Các chương trình hợp tác đã tạo cơ hội
cho các quốc gia xích lại gần nhau.
Tháng 12- 1985, lãnh đạo các quốc gia Nam Á đã gặp gỡ, ký kết và thông qua
Hiến Chương Hiệp hội Hợp tác khu vực Nam Á (SAARC). Từ đây, SAARC mới
chính thức được thành lập và đánh dấu cho chủ nghĩa khu vực được hình thành. Trong
quá trình hoạt động, tổ chức SAARC đã mở rộng thêm các nước thành viên.
Năm 2005, SAARC đã có thêm Afganistan. Ngoài ra, SAARC còn mở rộng hợp
tác với các nước trong khu vực châu Á như: Nhật Bản, Trung Quốc. Hai quốc gia này,
cũng tham gia vào các cuộc họp Thượng đỉnh với tư cách là quan sát viên. Từ 2006
đến nay, SAARC có thêm Hàn Quốc, Mỹ, Liên minh Châu Âu (2006) và Iran (2007),
Myanmar và Mauritius (2009).
Về cơ cấu tổ chức và hoạt động: Cũng như các tổ chức liên kết khu vực khác,
SAARC xem việc liên kết để cùng nhau hợp tác phát triển kinh tế- xã hội- văn
hóa.1Về cơ cấu, SAARC cao nhất có Hội nghị Thượng đỉnh, Hội đồng Bộ trưởng, Ủy
Ban thường trực. Trong đó, Ủy ban thường trực bao gồm thư ký ngoại giao của các
nước trong SAARC, có nhiệm vụ giám sát và tổ chức các chương trình hợp tác và giải
quyết các vấn đề liên quan trong khu vực. Hoạt động của SAARC được tổ chức như
một mô hình của tổ chức liên chính phủ, dựa trên sự đồng thuận của các quốc gia
(Muhammad Jameshed Iqbal, 2006, tr13).Mục đích chính của SAARC là tăng cường
1Được quy định tại Điều 1 của Hiến Chương.Tăng cường và củng cố tự lực chung trong số các nước Nam Á. Đóng góp cho
sự phát triển niềm tin lẫn nhau, hiểu và đánh giá cao vấn đề của các nước khác. Tăng cường hợp tác với các nước đang phát

triển.Tăng cường cộng tác tích cực và giúp đỡ lẫn nhau trong lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, kĩ thuật và khoa học. Tăng
cường hợp tác với nhau trong các diễn đàn quốc tế trên các vấn đề vì lợi ích chung. Xem thêm ( Muhammad Jameshed Iqbal
(2006),“SAARC Origin, Growth, Potenical and Achiviements” Pakistan Journal of History and Culture,
Vol.XXVII/2,Pakistan, p 133-134. )


8

hợp tác giữa các nước trong khu vực trên các lĩnh vực dựa trên nền tảng là vì lợi ích
chung của khu vực.
Từ khi tổ chức SAARC được thành lập, đã góp phần hoạch định các chương trình
hợp tác kinh tế, văn hóa, an ninh khu vực. Trên bình diện chung, SAARC có tác động
lớn đến việc thiết lập các mối quan hệ giữa các nước trong khu vực, giải quyết được
nhiều vấn đề an ninh- xã hội. Tuy nhiên, hiện nay, khu vực Nam Á đang đối mặt với
rất nhiều vấn đề bất ổn như an ninh- chính trị, hợp tác kinh tế- văn hóa- xã hội.
4. Đặc điểm của chủ nghĩa khu vực Nam Á
So với chủ nghĩa khu vực ở Đông Nam Á, Châu Âu và một số khu vực khác trên
thế giới. Chủ nghĩa khu vực Nam Á có những đặc điểm riêng, tạo nên sự khác biệt và
đa dạng cho các mô hình hoạt động của các tổ chức khu vực. Có thể điểm lại một số
đặc điểm sau:
4.1. Chủ nghĩa khu vực và chủ nghĩa quốc gia luôn song hành
Chủ nghĩa khu vực Nam Á được hình thành muộn hơn, song, lại có khá nhiều
khác biệt so với các khu vực khác. Ở Nam Á, Ấn Độ được xem là trung tâm của khu
vực. Với tiềm lực kinh tế, sức mạnh quân sự và chính sách đối ngoại linh động, uyển
chuyển, phù hợp với lợi ích chung của nhiều quốc gia. Ấn Độ có một vị trí vững chắc
trong khu vực. Đó chính là biểu hiện của chủ nghĩa quốc gia song song với chủ nghĩa
khu vực. Hai khuynh hướng này diễn ra song song và tồn tại ngay chính trong tổ chức
SAARC.
Tính khu vực được biểu hiện qua việc Ấn Độ vùng với các nước đã tiến hành ký
kết hiệp định thương mại tự do Nam Á (SAFTA- 1/2006), Chương trình tự do hóa

thương mại sẽ hoàn thành vào năm 2016, thuế hải quan sẽ giảm từ 0- 5% (2009 giữa
Ấn Độ với các nước như Pakistan, Sri Lanka) đối với các nước thành viên kém phát
triển sẽ nhận ưu đãi đặc biệt. Hợp tác phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ thuật
tại các Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 12, 13. Sự kiện trường Đại học Nam Á được
thành lập là thành công vượt trội của SAARC. Bên cạnh đó, Tổ chức văn học và Nhà
văn SAARC được thành lập… vv.(Navinta Chadha Behera, 2008, tr 16).Song, chủ
nghĩa khu vực ở Nam Á lại có một “ngoại lệ”. Các quốc gia liên kết với nhau còn vì


9

một mục đích khác, đó là kìm hãm lẫn nhau. Khuynh hướng này nhằm tạo thế cân
bằng quyền lực trong khu vực, xuất phát từ việc cạnh tranh quyền lực giữa nước trung
tâm là Ấn Độ với các nước khác. Cùng hợp tác nhưng không có nghĩa từ bỏ lợi ích
của mỗi quốc gia trong khu vực. Việc mở rộng chính sách đối ngoại của các quốc gia
trong khu vực Nam Á với các nước ngoài nhằm liên kết, tạo thế và lực làm giảm đi
sức ảnh hưởng, vai trò của nước có tiềm lực kinh tế, quân sự vượt trội hơn các quốc
gia còn lại trong khu vực. Đây chính là sự biểu hiện của chủ nghĩa quốc gia, dân tộc
tiêu biểu như Ấn Độ, Pakistan, Sri Lanka, Bangladesh…
Trong khi đó, Ấn Độ gần như được mặc định là trung tâm của khu vực. Với diện
tích, vị trí địa lý, dân số, khả năng kinh tế và điều kiện chính trị của Ấn Độ đều hơn
hẳn các nước láng giềng về mọi mặt.Trên lĩnh vực kinh tế, Ấn Độ là nước có nền kinh
tế phát triển, đặc biệt là sau chương trình cải cách đất nước vào những năm 90 của thế
kỉ XX.2Cùng với chính sách đối ngoại “hướng đông”, Ấn Độ đã và đang mở rộng
phạm vị ảnh hưởng ra khỏi khu vực Nam Á, hướng đến khu vực Đông Nam Á, Đông
Á nhằm tạo thế và lực để cân bằng quyền lực của mình ở khu vực châu Á. Khu vực
Nam Á là khu vực chịu sự tác động và ảnh hưởng của một số các nước bên ngoài như
Mỹ, Nga và Trung Quốc. Vì thế, khu vực này luôn xảy ra sự canh tranh địa chính trị
gay gắt và sự can thiệp từ bên ngoài.Điều này tạo nên sự không ổn định của khu vực
khi những nước nhỏ luôn có sự hậu thuẫn của các nước lớn.

Trong hai thập niên trở lại đây, Trung Quốc đã và đang trổi dậỵ và tác động đến
tình hình chung của thế giới cũng như ở khu vực châu Á. Xuất phát từ mong muốn
mở rộng và gia tăng ảnh hưởng của mình ở nhiều khu vực trên thế giới. Trung Quốc
không ngần ngại tiến hành các hôạt động đầu tư kinh tế ở nhiều khu vực trên thế giới.
Điển hình là chính sách “ một vành đai một con đường” từng bước biến các quốc gia
này thành “con nợ” của mình. Ở khu vực Nam Á hiện nay thì có Pakistan, Maldivels
là hai trong số các quốc gia nợ Trung Quốc nhiều nhất trong dự án trên (John Hurley,
Scott Morris, and Gailyn Portelance, 2018, tr 16-19).Việc này tác động đển việc lựa
chọn đồng minh của các nước trong khu vực Nam Á. Tiêu biểu là mối quan hệ giữa
2Nếu như Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Ấn Độ vào năm 1990 là 320,3 tỷ USD thì đến năm 2014GDP đã vượt mốc
2.000 tỷ USD…Theo đó, GDP của Ấn Độ đóng góp cho thế giới 3,33%. Xem thêm India GDP, Trading Economics.
access 18/1/2015.


10

Trung Quốc với các nước Sri Lanka, Pakistan, Bangladesh…. Trong đó, mối quan hệ
chồng chéo có liên quan đến vấn đề hạt nhân giữa Pakistan, Trung Quốc với Ấn Độ
khiến cho khu vực này và liên kết khu vực trở nên khó khăn trong các quyết định
chung (Trần Nam Tiến, 2016, tr 35). Điều này đã tạo nên sự nghi ngờ lẫn nhau, đặc
biệt là mối lo sợ của Pakistan về sự trổi dậy của Ấn Độ dẫn đến hợp tác kinh tế bị
phớt lờ từ các điều khoản của tổ chức này (Lưu Bảo Trung, 2016,tr 10).
4.2. Phản khu vực
Nếu như chủ nghĩa khu vực được xem là “đỉnh cao” của quá trình liên kết khu
vực, đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối các quốc gia, cùng hợp tác, cùng phát
triển và giải quyết các vấn đề chung của khu vực thông qua việc thống nhất, hòa hợp,
thì chủ nghĩa khu vực Nam Á lại rất khác biệt. Dường như tính phản khu vực lại hiện
diện và tồn tại khá rõ nét ở nơi đây so với các khu vực khác. Một trong những biểu
hiện của tính phản khu vực đó chính là xung đột và bạo lực thường xuyên diễn ra.
Tiêu biểu cho khuynh hướng này đó chính là tính bất ổn về an ninh- chính trị và bất

đồng về chính sách đối ngoại giữa các nước trong khu vực. Nổi bật nhất là quan hệ
Ấn Độ và Pakistan.
Từ trong lịch sử, quan hệ hai nước vốn dĩ đã căng do di sản của chế độ thực dân ở
Ấn Độ. Từ chính sách Maobattơn
( />username=thanhvn&science=145, đoạn 9). Anh đã chia Ấn Độ thành hai quốc gia dựa
trên yếu tố tôn giáo vào năm 1947.Từ đây hình thành nên hai quốc gia đó là: Ấn Độ
và Pakistan. Nên có thể xem việc xung đột giữa Ấn Độ và Pakistan có nguồn gốc từ
đây. Từ đây dẫn đến các cuộc chiến tranh xung đột tôn giáo, đối đầu với nhau trong
cuộc chiến tranh phân chia biên giới.
Cuộc nội chiến Đông-Tây Pakistan với sự tham gia của Ấn Độ đã biến
Bangladesh thành một quốc gia độc lập vào năm 1971. Các mối quan hệ song phương
giữa Ấn Độ với các quốc gia trong khu vực luôn ở trạng thái vừa hợp tác vừa “căng
thẳng”. Hai nước thường xuyên có các tranh chấp liên quan đến lãnh thổ. vấn đề
Kashmir, Siachen, Sir Creek(Lưu Bảo Trung, 2016, tr 10).Tình trạng đối đầu của hai


11

quốc gia còn gia tăng nhất là khi hai quốc gia đều thử bom nguyên tử vào năm 1998.
Sự phô trương sức mạnh hạt nhân khiến cho cả khu vực luôn trong tình trạng nghi kỵ
lẫn nhau.
Ấn Độ với Pakistan xung đột tại Kargil (1998), tấn công Quốc Hội Ấn (2001)
đỉnh cao là cuộc tấn công Mumbai khiến 163 người Ấn thiệt mạng (2008). Năm 2012,
Ấn Độ thử thành công tên lửa mang đầu đạn hạt nhân, càng làm cho tình hình trở nên
căng thẳng. Cuộc chạy đua vũ trang tiếp tục diễn ra giữa hai nước.
Vấn đề ly khai của các dân tộc trong một quốc gia như Sri Lanka. Mâu thuẫn giữa
các chính quyền với các nhóm dân tộc thiểu số đã khiến cho phong trào “Những con
hổ giải phóng Tamil” ra đời và tiến hành những hoạt động mang tính chất khủng bố,
đẩy quốc gia này rơi vào tình trạng hổn loạn. Phong trào ly khai đòi độc lập cho miền
Bắc Sri Lanka. Ngay cả quan hệ Ấn Độ - Sri Lanka căng thẳng cũng không kém các

quốc gia khác vào các năm 1987, 19893.
Từ khi thành lập, các nước trong SAARC đã tiến hành ký kết các hiệp định khu
vực nhằm chống khủng bố từ năm 1987 và gần đây nhất là năm 2004 nhưng vấn đề
khủng bố luôn làm cho quan hệ các nước luôn căng thẳng. Một trong những nguyên
nhân khiến cho vấn đề khủng bố trong khu vực không thuyên giảm do các nước thành
viên vẫn chưa thể đảm bảo một hệ thống luật pháp trong nước phù hợp với hiệp định.
Ban điều hành chống khủng bố được thành lập (STOMD) nhằm tìm được tiếng nói
chung và hành động tập thể. Nhưng chính sự thiếu vắng hành động tập thể, nền tảng
quan trọng nhất để triển khai các Hiệp định liên quan đến vấn đề khủng bố không tìm
được sự thống nhất. Cho nên, dù Hiệp định này được ký kết, song, không có tính hiệu
quả.(Huỳnh Thanh Loan, 2012, tr 23).Quan điểm này cũng được Mahendra P.Lama
cho rằng sự không hài hòa của hệ thống pháp luật, các biện pháp trừng phạt và những
quan điểm khác nhau về chủ nghĩa khủng bố khiến cho ban điều hành chống khủng bố
(STOMD) vẫn hoạt động không hiệu quả (Mahendra P. Lama, 2007, tr 414). Hiện nay,
bạo lực, khủng bố tiếp tục ảnh hưởng trên diện rộng ở các nước Nam Á.

3Tháng 7- 1987, Ấn Độ gửi lực lượng giữ gìn hòa bình đến Sri Lanka để giải quyết việc ly khai miền Bắc Sri Lanka. Sự có
mặt của lưc lượng quân đội Ấn tại Sri Lanka, đã làm bùng nổ cuộc xung đột giữa người Sinhalese và Ấn Độ. Đến năm 1989,
Sri Lanka trục xuất toàn bộ quân đội gìn giữ hòa bình Ấn Độ về nước.


12

Như vây, phản khu vực chính là sự hiện thân của sự xung đột ở Nam Á. Nguyên
nhân chính là hệ quả của sự hợp tác khu vực chưa hiệu quả. Tổ chức SAARC cần có
nhiều giải pháp và chính sách “cứng rắn” hơn trong việc thiết lập các cơ chế, chính
sách cho các quốc gia tham gia trong tổ chức.
4.3. Khác biệt
Điều này thể hiện rõ trong quá trình hình thành và phát triển của SAARC. Nếu
như EU được xem là điển hình cho sự hợp nhất thống nhất, được điều hành bởi một tổ

chức liên chính phủ. Tính hiệu quả trong liên kết khu vực được thể hiện rất rõ qua các
biện pháp và hành động tập thể nhằm duy trì sự ổn định, thống nhất, thúc đẩy hợp tác.
Khu vực Đông Nam Á, liên kết khu vực - ASEAN- vừa hợp tác và tạo sự cân
bằng quyền lực thông qua việc thực hiện cơ chế “đồng thuận”.Trong đó, mọi quốc gia
đều bình đẳng và dựa trên thỏa thuận hợp tác hay như Cộng đồng châu Âu (EU) có cơ
chế hợp tác dựa trên đa số quyết định, thì khu vực Nam Á lại là một “mô hình” khác.
Đó là
Tính thống nhất được thể hiện qua cơ chế hoạt động, có sự đồng thuận, song mức
độ đồng thuận và hành động tập thể được thể hiện qua hợp tác trên các lĩnh vực liên
quan đến lợi ích của các quốc gia như hợp tác kinh tế, văn hóa, khoc học- kỹ thuật.
Cũng như các tổ chức liên kết khu vực khác, việc mở rộng quan hệ hợp tác với
các nước bên ngoài khu vưc luôn được SAARC quan tâm và tạo nên cơ chế hoạt động
đa phương và thúc đẩy sự phát triển của các nước trong khu vực bên cạnh cơ chế song
phương của các nước trong khu vực. Hợp tác đa phương bên trong khu vực cũng được
mở rộng để cho thấy tính chất cởi mở của chủ nghĩa khu vực nơi đây. Biểu hiện là
nhiều “tiểu khu vực” hay nhóm các quốc gia trong khu vực tự thiết lập, liên kết với
nhau vừa cùng nhau phát triển và duy trì sức mạnh của từng nhóm quốc gia. Điều này
cũng đồng nghĩa với việc tạo nên sự khác biệt và là đặc điểm của chủ nghĩa khu vực
Nam Á. Nhóm tiểu vùng trong khu vực Nam Á liên kết với một số các quốc gia trong
khu vực Đông Nam Á, Đông Á. Cụ thể nhóm BBIN 4với Bangladesh, Bhutan, Ấn Độ
và Nepal; nhóm BCIM với Bangladesh, Trung Quốc, Ấn Độ và Myanmar; và
4Trọng tâm của nhóm BBIN có thể là các vấn đề về thủy điện, phong trào của các dân tộc, quyền quá cảnh


13

BIMSTEC5với Bangladesh, Bhutan, Ấn Độ, Nepal, Myanmar, Sri Lanka và Thái
Lan(Amita

Batra,


/>ItemID=308). Một số quan điểm cho rằng đây chính là biểu hiện của “chủ nghĩa tiểu
khu vực”. Trong tương lai sẽ là nền tảng chuẩn bị cho việc sáp nhập thành các nhóm
các quốc gia có chung lợi ích và lợi ích quốc gia. Nếu so sánh với các các khu vực
khác, thì có thể nhận thấy sự khác biệt ở khu vực này chính là EU luôn bộc lộ xu
hướng phát triển chung là ngày càng thu hẹp tính chất là một tập hợp các quốc gia
dân tộc có chủ quyền. Có lẽ đây là điểm khác biệt cơ bản nhất quy định mọi sự khác
nhau giữa mô hình EU và ASEAN.
( ASEAN luôn lấy
nguyên tắc đồng thuận để đưa ra các quyết định và tạo nên sự thống nhất cao nhất
trong khu vực. Trong khi đó, SAARC lại luôn không đạt được những điều như
ASEAN và EU. Quan điểm này được ông Kishore Mahbubani cho rằng SAARC cần
phải học hỏi ASEAN nhiều hơn về sự đồng thuận và thống nhất trong các chương
trình hoạt động. Vì theo ông, dù ASEAN cũng có những nét tương đồng với SAARC
về lịch sử, văn hóa, tôn giáo và xung đột, song vấn đề lại được giải quyết trong sự
đồng thuận và thống nhất cao, trong khi đó SAARC lại luôn căng thẳng, xung đột và
khó đạt được sự đồng thuận. ( />5. Tạm kết
Theo quy luật chung của sự liên kết, kết nối giữa các quốc gia để hình thành nên
một tổ chức, nhằm mục đích chung là hợp tác và cùng nhau phát triển. Điều này
không thể phủ nhận.Tuy nhiên, trong suốt nhiều thập niên vừa qua, SAARC vừa
thống nhất vừa đấu tranh và luôn tồn tại hai xu hướng mang tính chất đối lập nhau, đó
là vừa liên kết khu vực cũng đồng thời có tính chất phản khu vực. Nguyên nhân là (1)

5Trọng tâm của nhóm BCIM là việc kết nối và các hành lang kinh tế; và chuỗi cung ứng trong lĩnh vực dệt may
và đường ống dẫn khí đốt có thể tạo thành các chương trình hoạt động của nhóm BIMSTEC.


14

Nam Á là một khu vực đa dạng và phức tạp về các vấn đề văn hóa, chính trị, kinh tế,

tộc người. (2) Di sản của chế độ thực dân trong quá trình xâm lược và đô hộ mà cụ thể
là nước Anh đã chia rẽ Ấn Độ và khu vực này để tạo nên sự chia rẽ tinh thần đoàn kết
và thống nhất của khu vực này. Bên cạnh đó, sau khi giành được đôc lập thì lại có sự
tác động và can thiệp từ bên ngoài như Mỹ, Trung Quốc và một số các quốc gia Châu
Âu khác.(3) Chủ nghĩa khu vực Nam Á hình thành muộn và kéo dài lâu hơn so với
các khu vực khác trên thế giới. 4.Chủ nghĩa khu vực ở Nam Á hình thành đan xen với
chủ nghĩa quốc gia. Đây chính là sự khác biệt của chủ nghĩa khu vực so với Cộng
đồng Châu Âu (EU) hay chủ nghĩa khu vực ở Đông Nam Á (nhân tố để kiềm chế sức
mạnh của quốc gia trung tâm, tạo nên thế cạnh tranh quyền lực).
Có thể nói, đặc điểm chủ nghĩa khu vực Nam Á điển hình cho sự khác biệt so với
các khu vực khác trên thế giới. Điều này tạo nên sự đa dạng, phong phú trong nhận
thức về chủ nghĩa khu vực, đồng thời phá vỡ các lý thuyết tuyệt đối cũng như một
khái niệm bất định về chủ nghĩa khu vực.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Amita Batra, Dự báo về sự hợp tác của các nước trong khu vực Nam Ácủa Viện
nghiên

cứu

hòa

bình



xung

đột.


Truy

cập

ngày

11/4/2017.

( />ItemID=308)
2. Nguyễn Ngọc Dung (2002), Sự hình thành chủ nghĩa khu vực của Asean,
NXBĐHQGTPHCM.
3. Graham Evans & Jeffrey Newham (1998), The Penguin Dictionary of
International Relations, Penguin Books, London.
4. Hoàng Khắc Nam (2009), Nhận thức về chủ nghĩa khu vực, Nghiên cứu Lịch sử,
số 5- 2009.


15

5. Muhammad Jameshed Iqbal (2006),“SAARC Origin, Growth, Potenical and
Achiviements” Pakistan Journal of History and Culture, Vol.XXVII/2,Pakistan
6. Mahendra P. Lama (2007), SAARC Programs and Activities: Assessment,
Monitoring and Evaluation, Kỷ yếu Hội Thảo “ Economic Cooperation in
SAARC: SAFTA and Beyond, India Habitat Center, New Delhi
7. Graham Evans & Jeffrey Newham (1998), The Penguin Dictionary of
International Relations, Penguin Books, London.
8. Lương Văn Kế (2007), Thế giới đa chiều Lý thuyết và kinh nghiệm nghiên cứu
khu vực, NBXTGHN.
9. Hoàng Khắc Nam (2009), Nhận thức về chủ nghĩa khu vực, Nghiên cứu Lịch sử,

số 5- 2009.
10. Navinta Chadha Behera (2008), SAARC and Beyond- Civil Society and Regional
Intergration in South Asia, Policy Paper, Center for Policy Studies (SACEPS),
Kathmandu, Nepal.
11. Huỳnh Thanh Loan (2012), Vai trò của Ấn Độ trong Hiệp hội hợp tác khu vực
Nam Á ( SAARC), Tạp chí nghiên cứu Ấn Độ và Châu Á, số 3- 2012.
12. Mahendra P.Lama (2007), SAARC Programs and Activities: Assessment,
Monitoring and Evaluation, Kỷ yếu Hội Thảo “ Economic Cooperation in
SAARC: SAFTA and Beyond, India Habitat Center, New Delhi.
13. Michael Hass (1989),The Asian Way to Peace: A Story of Regional Cooperation,
Praeger.
14. John Hurley, Scott Morris, and Gailyn Portelance (2018), “Examining the Debt
Implications of the Belt and Road Initiative from a Policy Perspective.” CGD
Policy Paper. Washington, DC: Center for Global Development,
15. John Ravenhill (2002), A Three Bloc World? The New East Asia regionalism,
International Relations of the Asia - Pacific, Vol 2(2002).


16

16. Joseph Nye (1968), International Regionalism: Readings, Little Brown and
Company, Boston, p. vii.
17. Trần Nam Tiến (CB- 2016), Ấn Độ với Đông Nam Á trong bối cảnh quốc tế mới,
NXBVHVN.
18. Lưu Bảo Trung (2016), Quan hệ hợp tác của Ấn Độ với các nước thành viên
SAARC, Tạp chí nghiên cứu Ấn Độ và Châu Á, số 5- 2016.
19. Uttara Sahasrabuddhe (2008), RegiMuhammad Jameshed Iqbal (2006), “ SAARC
Origin, Growth, Potenical and Achiviements” Pakistan Journal of History and
Culture, Vol.XXVII/2,Pakistan, p 133-134.onalization Processes in South and
Southeast Asia : A Comparative Study, Mumbai

20.

/>
21.

/>
22. />23.

/>
24.

/> />
25.

asean/article22499756.ece

* Thông tin tác giả :
- Họ &Tên : Nguyễn Thị Huyền Thảo


17

- NCS - Khoa Lịch Sử
- Đơn vị công tác : THPT Chuyên Trần Đại Nghĩa Q1. Tp. HCM
-Email : Điện Thoại : 0947642692



×