Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tiểu luận TRiết học giảng dạy NGỮ VĂN THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.85 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
I - MỞ ĐẦU..............................................................................................................2
1. Lí do chọn đề tài:...............................................................................................2
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:....................................................................3
3. Phương pháp nghiên cứu:..................................................................................3
4. Cái mới của đề tài:.............................................................................................3
II - CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN CỦA
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT.............................................................................4
1. Khái quát sự hình thành và phát triển của phép biện chứng:..............................4
1.1 Phép biện chứng tự phát, ngây thơ (chất phác) thời kì cổ đại:......................4
1.2 Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức.........................................................4
1.3 Phép biện chứng duy vật do Mác và Ăngghen sáng lập:..............................5
2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật:.....................6
2.1 Khái niệm mối liên hệ:.................................................................................6
2.2 Tính chất của mối liên hệ:............................................................................6
2.3 Ý nghĩa phương pháp luận:..........................................................................8
III - VẬN DỤNG NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀO CÔNG TÁC
GIẢNG DẠY NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG THPT HIỆN NAY....................................10
1. Quan điểm toàn diện:.......................................................................................10
1.1 Tình hình đổi mới toàn diện chung của giáo dục hiện nay theo quan điểm
toàn diện:..........................................................................................................10
1.2 Vận dụng vào công tác giảng dạy Ngữ văn ở trường THPT hiện nay:.......11
2. Quan điểm Ngữ văn - cụ thể:...........................................................................14
2.1 Tình hình cải cách giáo dục nước ta theo quan điểm Ngữ văn - cụ thể:.....14
2.2 Vận dụng vào công tác giảng dạy Ngữ văn ở trường THPT hiện nay:.......15
IV - KẾT LUẬN.....................................................................................................17
V- DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................18


I - MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:


Từ xa xưa, triết học ở phương Tây được xem là khoa học của mọi khoa học.
Nghĩa là nó bao gồm toàn bộ sự hiểu biết của con người về thế giới, nó thay thế cho
toàn bộ các khoa học. Nhưng dần dần nó nhờ sự tiến bộ của tri thức cụ thể của con
người dẫn tới có sự phân ngành khoa học thì triết học không còn là khoa học của
mọi khoa học. Nó trở thành khoa học độc lập.
Tuy vậy, ngay cả khi triết học trở thành một khoa học độc lập và Ngữ văn trở
thành một loại hình độc lập thì giữa chúng vẫn tồn tại một quan hệ khăng khít. Triết
học và Ngữ văn là những hình thái ý thức xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng do cơ
sở kinh tế quyết định. Mác: "Triết học không đứng ngoài thế giới" Bởi vì "các nhà
triết học không phải mọc từ dưới đất lên như nấm, họ là con đẻ của thời đại họ, cả
nhân dân nước họ, và những tinh hoa tốt đẹp nhất, quý báu nhất và khó trông thấy
nhất của thời đại và của nhân dân nước họ, đều thể hiện trong tư tưởng triết học. Cái
tinh thần đã xây dựng nên các hệ thống triết học trong bộ óc những nhà triết học,
cũng là cái tinh thần đã xây dựng đường sắt với những bàn tay công nhân".
Cũng như Ngữ văn, triết học là hình thái ý thức xã hội nhằm mục đích nhận
thức thế giới, nhận thức, khám phá chân lí cuộc sống để cải tạo thế giới, cải tạo
cuộc sống. Triết học chẳng qua là hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế
giới. Mặt khác, Ngữ văn là môn học mang tính nhân văn với mục đích chính là để
nâng cao khả năng tư duy ngôn ngữ và để con người ta có thể kết nối bộ não và thế
giới bên ngoài giúp phát triển con người một cách có ý thức. Nó không chỉ hướng
con người biết về những mối quan hệ hiện tại, kết nối thực tại với hệ thống ngôn
ngữ và phong cách truyền đạt độc đáo, mà còn tạo nền tảng để con người chúng ta
khám phá sự kì diệu của mối liên hệ giữa sự vật bên ngoài với tư duy suy nghĩ bên
trong bộ não. Đó là một sự kết nối đặc biệt, một sự thể hiện đẳng cấp của sự tiến bộ
loài người: dùng ngôn ngữ để biểu thị suy nghĩ, cảm xúc và dùng ngôn ngữ để tác
động trở lại vào cảm xúc, suy nghĩ. Ngoài ra nó còn là một công cụ để kết nối,
quảng bá, một công cụ để giáo dục cực kì sắc bén và hiệu quả trong việc truyền tải
những thông điệp ẩn chứa trong nội dung các bài học gây ảnh hưởng trực tiếp đến
sự phát triển của cộng đồng loài người trong tương lai. Nói đến triết học là nói đến
thế giới quan và nhân sinh quan, tức là nói đến ý thức tư tưởng. Nói đến Ngữ văn là

2


nói đến sự phản ánh, nghiên cứu về ngôn ngữ và cách truyền đạt. Quan hệ giữa triết
học và Ngữ văn là quan hệ giữa ý thức tư tưởng với phản ánh. Ngữ văn và triết học
tương đương nhau.
Trong quá trình học triết học, tôi nhận thấy được mối quan hệ chặt chẽ và tác
động qua lại lẫn nhau giữa Triết học với các ngành khoa học, trong đó có Ngữ văn.
Sự phát triển tư duy triết học phải dựa trên cơ sở tri thức do các khoa học cụ thể
đem lại. Ph.Ăngghen đã từng nhấn mạnh: “Mỗi lần có một phát minh mang ý nghĩa
thời đại ngay cả trong lĩnh vực khoa học lịch sử - tự nhiên thì chủ nghĩa duy vật lại
không tránh khỏi thay đổi hình thức của nó” 1. Lịch sử các khoa học cũng đã cho
thấy tác dụng quan trọng của hệ tư tưởng, đặc biệt là tư tưởng triết học đối với quá
trình khái quát những tài liệu khoa học.
Vì vậy, Triết học và Ngữ văn cũng sẽ có tác động qua lại lẫn nhau. Bản thân
là giáo viên dạy Ngữ văn ở trường THPT, tôi nhận thấy việc vận dụng triết học vào
công tác giảng dạy Ngữ văn là rất cần thiết. Ở bài tiểu luận này tôi xét khía cạnh
“Vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến vào công tác giảng dạy Ngữ văn ở
trường THPT hiện nay”
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:


Mục đích: Tiểu luận này sẽ làm sáng tỏ nội dung và ý

nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của
phép biện chứng duy vật. Đồng thời liên hệ giữa nguyên lý đó với
thực tiễn tình hình nền giáo dục Việt Nam. Từ đó vận dụng vào bản
thân trong công tác giảng dạy Ngữ văn ở trường THPT.



Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích trên, tiểu luận sẽ làm

nhiệm vụ các vấn đề sau:
Thứ nhất: Làm rõ sự ra đời của phép biện chứng duy vật, khái niệm và tính
chất của nguyên lý mối liên hệ phổ biến. Qua đó nêu ý nghĩa phương pháp luận của
nguyên lý.
Thứ hai: Từ những cơ sở lý luận nói trên, tiểu luận trình bày tình hình nền
giáo dục Việt Nam. Từ đó vận dụng vào công tác giảng dạy của bản thân.

1

C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t.21, NXB CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 409.

3


3. Phương pháp nghiên cứu:
Tiểu luận sử dụng phương pháp biện chứng duy vật, phương pháp thống nhất
giữa logic và Ngữ văn, phân tích, tổng hợp đối chiếu, so sánh, phân tích tổng kết
kinh nghiệm. Bên cạnh còn sử dụng phương pháp quy nạp, diễn dịch.
4. Cái mới của đề tài:
Dựa trên cơ sở tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng phong phú của
nguyên lý mối liên hệ phổ biến. Đặc biệt là vận dụng quan điểm toàn diện và quan
điểm lịch sử - cụ thể của ý nghĩa phương pháp luận mối liên hệ phổ biến của phép
biện chứng duy vật vào công tác giảng dạy Ngữ văn ở trường THPT hiện nay. Từ đó
có nhứng định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, luôn trao
dồi bản thân chúng ta một cách đúng đắn và toàn diện.
II - CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN
CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Khái quát sự hình thành và phát triển của phép biện chứng:

Phép biện chứng là một học thuyết, một lý luận triết học, đó là biện chứng
chủ quan, là sự phản ánh biện chứng khách quan vào nhận thức của con người
(Phép biện chứng là sản phẩm của con người, trong giới tự nhiên không có phép
biện chứng, chỉ có biện chứng khách quan).
Phép biện chứng là một hế thống các nguyên lý, quy luật, phạm trù, nhằm
phản ánh các thuộc tính biện chứng khách quan của thế giới vào trong bộ óc của
con người. Phép biện chứng là một hệ thống các quan điểm, trong đó một số quan
điểm đã có từ thời cổ đại. Đến nay để trở thành một khoa học thật sự, phép biện
chứng đã phát triển với ba hình thức cơ bản:
1.1 Phép biện chứng tự phát, ngây thơ (chất phác) thời kì cổ đại:
Phép biện chứng này gọi là tự phát, ngây thơ, bởi vì nó chủ yếu xuất phát từ
sự quan sát trực tiếp thế giới để phỏng đoán nên các quy luật vận động, phát triển
của thế giới, chưa có cơ sở khoa học
Các nhà biện chứng thời cổ đại xem xét thế giới như một chỉnh thể luôn luôn
vận động, phát triển không ngừng và đi tìm cơ sở của chỉnh thể ấy từ một hoặc một
số yếu tố vật thể cụ thể. Họ chỉ thấy toàn thể mà không thấy bộ phận, chỉ thấy rừng
mà không thấy cây. Do đó, phép biện chứng này mang tính sơ khai, mộc mạc vì
khoa học thời đó chưa phát triển. Khi phác họa bức tranh chung về thế giới, các nhà
4


triết học chỉ dựa trên những quan sát có tính trực quan, cảm tính, nhưng về cơ bản
là đúng. Cho dù còn hạn chế, nhưng phép biện chứng thời cổ đại đóng vai trò là cơ
sở cho sự phát triển của phép biện chứng sau này.
Ví dụ: Hêraclít coi sự vận động và phát triển của thế giới giống như dòng
chảy của một con sông “không bao giờ người ta tắm được hai lần trên cùng một
dòng sông”. Hêraclít trình bày một cách rõ rang: mọi vật đều tồn tại và đồng thời lại
không tồn tại, vì mọi vật đang trôi đi, mọi vật đều không ngừng phát sinh và tiêu
vong”2
1.2 Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức

Người khởi xướng là Cantơ và phát triển đỉnh cao bởi Hêghen.
Phép biện chứng này được gọi là phép biện chứng duy tâm, bởi vì nó chỉ nói
đền sự vận động, phát triển của các khái niệm, ý niệm tuyệt đối được đồng nhất với
bản thân các sự vật, hiện tượng.
Hêghen là người có công lớn trong việc xây dựng phép biện chứng thành
một học thuyết triết học có tính hệ thống. Tuy nhiên, phép biện chứng của Hegel là
phép biện chứng của ý niệm. Hêghen coi “Ý niệm tuyệt đối” là cái có trước và sinh
ra thế giới; còn các sự vật, hiện tượng đều chỉ là hiện thân của các ý niệm tuyệt đối.
1.3 Phép biện chứng duy vật do Mác và Ăngghen sáng lập:
Dựa trên những thành tựu khoa học của thế kỷ XIX, khắc phục những hạn
chế của phép biện chứng duy vật cổ đại và phép biện chứng duy tâm, Mác và
Ăngghen đã sáng lập ra phép biện chứng duy vật khoa học vào giữa thế kỷ XIX và
được V. I. Lênin tiếp tục phát triển. Đây là sự thống nhất giữa phép biện chứng và
chủ nghĩa duy vật làm cho phép biện chứng thực sự trở thành một khoa học.
Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng, các sự vật, hiện tượng tồn tại
trong liên hệ, ràng buộc, phụ thuộc, quy định lẫn nhau, trong sự tương tác qua lại,
trong trạng thái vận động, phát triển không ngừng với một tư tưởng biện chứng,
mềm dẻo, linh hoạt, “không chỉ nhìn thấy những sự vật cá biệt mà còn thấy cả mối
liên hệ giữa chúng, không chỉ nhìn thấy sự tồn tại của sự vật mà còn thấy cả sự hình
thành và tiêu vong của sự vật, không chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh mà còn thấy cả
trạng thái động của sự vật, không chỉ thấy cây mà còn thấy cả rừng”
Phép biện chứng duy vật có nội dung phong phú bởi vì đối tượng của nó là
thế giới vật chất vô cùng vô tận, trong đó nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và
2

C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t.20, NXB CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 35

5



nguyên lý về sự phát triển có ý nghĩa khái quát nhất. Với ý nghĩa đó, Ph.Ăngghen
đã định nghĩa: “Phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật
phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư
duy”3; “Phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến” 4; “Phép biện chứng là
học thuyết về sự phát triển”5.
V. I. Lênin khẳng định: “Phép biện chứng tức là học thuyết về sự phát triển,
dưới hình thức hoàn bị nhất và không phiến diện, học thuyết về tính tương đối của
nhận thức của con người, nhận thức này phản ánh vật chất luôn luôn phát triển
không ngừng”6.
Tiếp thu một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và vận dụng vào điều kiện
Ngữ văn - cụ thể của thực tiễn cách mạng nước ta, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chủ
nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng”.
Phép biện chứng duy vật khoa học bao gồm hệ thống các nguyên lý, quy
luật, phạm trù.
2. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật:
2.1 Khái niệm mối liên hệ:
Triết học Mác – Lênin khẳng định: Thế giới là một chỉnh thể thống nhất. Các
sự vật hiện tượng và các quá trình cấu thành thế giới đó vừa tách biệt nhau, vừa có
sự liên hệ qua lại, thâm nhập và chuyển hóa lẫn nhau.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, khái niệm mối liên hệ bao gồm hai
phương diện sau:
Một là, mối liên hệ là sự rang buộc, phụ thuộc quy định lẫn nhau, điều này
quyết định sự tồn tại của sự vật, hiện tượng.
Hai là, mối liên hệ là sự tác động qua lại lẫn nhau, điều này quyết định sự
phát triển của sự vật, hiện tượng.
Vậy, mối liên hệ là một phạm trù dùng để chỉ sự ràng buộc, phụ thuộc quy
định, tác động qua lại và chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố, các bộ phận
cấu thành nên sự vật hiện tượng; giữa các sự vật, hiện tượng với nhau; giữa sự vật,
hiện tượng với môi trường; mà trong đó sự biến đổi của sự vật, hiện tượng này sẽ
kéo theo sự biến đổi của sự vật hiện tượng khác.

3

C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t.23, NXB CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 201
C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t.20, NXB CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 455
5
C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t.20, NXB CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 455
6
V. I. Lênin, Toàn tập, t.23, NXB Tiến bộ, Mátcơva, 2005, tr. 53
4

6


2.2 Tính chất của mối liên hệ:
Mối liên hệ có tính khách quan, phổ biến và đa dạng, phong phú. Các tính chất
đó của mối liên hệ phản ánh tính chất của các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật
chất.
* Tính khách quan:
- Tính khách quan của mối liên hệ xuất phát từ tính thống nhất vật chất của
thế giới.
- Mối liên hệ là cái vốn có của bản thân các sự vật, hiện tượng; tồn tại độc
lập không phụ thuộc vào ý thức của con người.
Ví dụ: Con người dù muốn hay không cũng luôn luôn bị tác động của các sự
vật, hiện tượng khác (như ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, áp suất không khí ...)và các
yếu tố ngay trong chính bản thân. Ngoài sự tác động của tự nhiên, con người còn
tiếp nhận sự tác động của xã hội và của những người khác. Chính con người và chỉ
có con người mới tiếp nhận vô vàn các mối mối liên hệ. Do vậy, con người phải
hiểu biết các mối quan hệ vận dụng chúng vào hoạt động của mình, giải quyết các
mối liên hệ phù hợp nhằm phục vụ nhu cầu lợi ích của xã hội và bản thân con
người.

* Tính phổ biến:
- Tính phổ biến xuất phát từ bản thân tính biện chứng của thế giới.
- Mỗi sự vật, hiện tượng là một hệ thống có cấu trúc nội tại, không tồn tại
một cách cô lập, biệt lập với các sự vật, hiện tượng khác; cũng như không thể có
yếu tố hay bộ phận nào tồn tại tách biệt với các yếu tố hay bộ phận khác. Bản thân
sự vật, hiện tượng là một chỉnh thể thống nhất.
- Mối liên hệ có trong mọi sự vật, hiện tượng; mọi giai đoạn, mọi quá trình;
có cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy con người.
Ví dụ: Là giáo viên khi nhận xét đánh giá học sinh, đồng nghiệp phải xem xét
họ trong các mối quan hệ với bạn bè và gia đình, xã hội không nên đánh giá, nhận
xét một người chỉ qua vẻ bề ngoài hay một mặt nào đó.

* Tính đa dạng, phong phú:

7


- Tính đa dạng, phong phú xuất phát từ tính đa dạng, muôn hình, muôn vẻ
của thế giới vật chất.
- Trong thế giới có nhiều hình thức mối liên hệ mà mỗi hình thức mối liên hệ
có đặc điểm riêng, có vị trí, vai trò riêng đối với sự tồn tại, vận động, phát triển của
sự vật, hiện tượng. Cho nên sự phân loại mối liên hệ là điều hết sức cần thiết, bao
gồm: Mối liên hệ bên trong – mối liên hệ bên ngoài; Mối liên hệ cơ bản – mối liên
hệ không cơ bản; Mối liên hệ chủ yếu – mối liên hệ thứ yếu; Mối liên hệ bản chất –
mối liên hệ không bản chất; Mối liên hệ tất nhiên – mối liên hệ ngẫu nhiên; Mối
liên hệ trực tiếp – mối liên hệ gián tiếp.
Ví dụ: Học sinh không chỉ có các mối quan hệ trong trường học như: thầy trò, bạn bè; mà còn có các mối quan hệ khác như: cha mẹ - con cái, công dân - cộng
đồng... Thậm chí, thời gian học sinh ở trường học chỉ chiếm một phần trong quỹ
thời gian của các em. Đa số thời gian học sinh là ở trong các môi trường khác, chịu
ảnh hưởng trực tiếp của các lực lượng giáo dục khác như cha mẹ, anh chị, người

thân, bạn bè ngoài xã hội, cộng động, sách, tài liệu, phim ảnh.. Việc giáo dục học
sinh không phải là công việc của riêng giáo viên mà cả gia đình và xã hội cũng phải
phối hợp cùng thực hiện.
Hiện nay, khoa học hiện đại đã chứng minh rằng:
- Phương thức tồn tại của sự vật hiện tượng do cách thức liên hệ giữa các yếu
tố cấu thành quyết định.
- Sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng do sự tác động qua lại giữa
các yếu tố cấu thành quyết định, mà trước hết là do sự tác động qua lại lẫn nhau
giữa các mặt đối lập.
Ví dụ: Phong tục tập quán của dân tộc ta đã có lâu đời truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác, trong phục tập quán đếu có hai mặt là tích cực và hạn chế. Khi ta
giải quyết mâu thuẫn bằng việc xóa bỏ đi những mặt hạn chế, kế thừa tiếp tục
những giá trị tích cực là động lực phát triển của nền văn hóa dân tộc ta.
2.3 Ý nghĩa phương pháp luận:
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến đòi hỏi trong nhận thức và thực tiễn cần
phải có quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể:
* Quan điểm toàn diện yêu cầu:

8


Một là, khi xem xét tất cả các mặt, các mối liên hệ, kể cả các mắt khâu trung
gian trong những điều kiện không gian, thời gian nhất định. V. I. Lênin “Muốn thực
sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các
mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó”7
Hai là, trong vô vàn các mối liên hệ, trước hết cần rút ra những mối liên hệ cơ
bản, chủ yếu, tức là xem xét một cách trọng tâm, trọng điểm, nhờ đó nắm bắt được
bản chất của sự vật hiện tượng.
Ba là, sau khi nắm bắt được bản chất của sự vật, hiện tượng thì cần phải đối
chiếu với các mối liên hệ còn lại để tránh mất sai lầm trong nhận thức.

Bốn là, chống lại cách xem xét siêu hình, phiến diện, một chiều (chỉ thấy một
mặt mà không thấy nhiều mặt, chỉ thấy một mối liên hệ mà không thấy các mối liên
hệ khác).
Năm là, chống lại cách xem xét cào bằng, dàn trải (coi mối liên hệ như nhau);
có nghĩa là chống lại chủ nghĩa chiết trung về mối liên hệ.
Sáu là, chống lại thuật ngụy biện (quy cái thứ yếu thành cái chủ yếu, quy cái
không cơ bản thành cái cơ bản, bằng lý lẽ lập luận tưởng rằng có lý, nhưng thực
chất là vô lý).
* Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu:
Thứ nhất, khi xem xét các sự vật, hiện tượng, cần phải đặt chúng trong điều
kiện, môi trường cụ thể; trong từng hoàn cảnh lịch sử - cụ thể; trong từng điều kiện
không gian, thời gian cụ thể nhất định; trong từng mối liên hệ, quan hệ nhất định;
trong từng trường hợp cụ thể nhất định; trong từng hệ tọa độ cụ thể nhất định, …
Thứ hai, xét đến tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và các tình huống
khác nhau phải giải quyết trong thực tiễn.
Thứ ba, cần phải xem xét sự vật, hiện tượng trong vận động, phát triển ở
từng giai đoạn cụ thể nhất định, như V.I.Lênin đã từng nói “phân tích cụ thể mỗi
tình hình cụ thể”8 đó là “bản chất”, và là “linh hồn sống” của chủ nghĩa Mác”.

7
8

V. I. Lênin, Toàn tập, t. 42, NXB Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, tr. 364
V. I. Lênin, Toàn tập, t. 31, NXB Tiến bộ, Mátxcơva, 1981. tr. 201

9


III - VẬN DỤNG NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN VÀO CÔNG
TÁC GIẢNG DẠY NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG THPT HIỆN NAY

1. Quan điểm toàn diện:
1.1 Tình hình đổi mới toàn diện chung của giáo dục hiện nay theo quan điểm
toàn diện:
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, đặc biệt là Nghị quyết Trung
ương số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh
thế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Trên tinh thần Nghị
quyết đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thực hiện việc đổi mới toàn diện các mặt.
Trong các mặt đổi mới Bộ Giáo dục và Đào tạo lấy đổi mới đồng bộ các yếu tố cơ
bản các hoạt động giáo dục trong trường THPT theo định hướng phát triển năng lực
và phẩm chất học sinh là then chốt.
Mặt khác, trong từng mặt đổi mới cũng cần quán triệt quan điểm toàn diện:
Thứ nhất, đổi mới tiếp cận chất lượng và quản lý chất lượng giáo dục trường
THPT theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất học sinh:
- Chất lượng giáo dục thể hiện qua các hoạt động dạy học - giáo dục và các
dịch vụ giáo dục. Quan điểm tiếp cận “Chất lượng là sự đáp ứng mục tiêu” là xu
hướng phổ biến của các nước trên thế giới. Đối với nước ta, chất lượng giáo dục
phổ thông hiện nay được hiểu là chất lượng đạt được qua hoạt động giáo dục toàn
diện (đức dục, trí dục, thể dục, mĩ dục, giáo dục lao động và hướng nghiệp) thể hiện
ở người học trong một hế thống điều kiện cụ thể.

10


- Đổi mới quản lý chất lượng trường THPT theo định hướng phát triển năng
lực và phẩm chất học sinh: quản lý đồng bộ các yếu tố đảm bảo chất lượng giáo dục
gồm đầu vào, quá trình giáo dục và kết quả đầu ra trên cơ sở khai thác tối đa mặt lợi
của các tác động của hoàn cảnh; đảm bảo sự công khai chất lượng giáo dục của nhà
trường.
Thứ hai, đổi mới đồng bộ các yếu tố cơ bản các hoạt động giáo dục trong

trường THPT theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất học sinh:
- Đổi mới tiếp cận mục tiêu giáo dục: giáo dục học sinh phải phát triển toàn
diện, hài hoà đức - trí - thể - mỹ, đồng thời phát triển tốt nhất tiềm năng riêng của
mỗi người.
- Đổi mới tiếp cận chương trình, nội dung giáo dục: Nghị quyết số
88/2014/QH13 ngày 28 tháng 11 năm 2014 của Quốc hội về đổi mới chương trình,
sách giáo khoa giáo dục phổ thông, giáo dục phổ thông nói chung, giáo dục trung
học nói riêng trên phạm vi cả nước. Nội dung giáo dục được lựa chọn là những tri
thức cơ bản, đảm bảo vừa hội nhập quốc tế, vừa gắn với thực tiễn Việt Nam trong
giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Đổi mới tiếp cận về phương pháp, hình thức và phương tiện dạy học trong
chương trình giáo dục phổ thông: về phương pháp sử dụng phương pháp dạy học
tích cực (phương pháp dạy học thuyết trình, đàm thoại, giải quyết vấn đề,...) đề cao
chủ thể nhận thức của học sinh; về hình thức đa dạng hoá hình thức học tập (trải
nghiệm sáng tạo; giữa hoạt động tập thể, nhóm nhỏ và cá nhân; giữa dạy học bắt
buộc và dạy học tự chọn…), đồng thời với dạy học trên lớp phải chú trọng các hoạt
động xã hội và nghiên cứu khoa học; về phương tiện sử dụng phương tiện dạy học
theo hướng đề cao vai trò chủ thể nhận thức của học sinh.
- Đổi mới tiếp cận kiểm tra đánh giá giáo dục: Nghị quyết số 29-NQ/TW
yêu cầu đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả
giáo dục theo hướng coi trọng phát triển năng lực học sinh (đánh giá học sinh trong
quá trình học; đánh giá cuối kỳ, cuối năm học; đánh giá của người dạy với tự đánh
giá của người học; đánh giá của nhà trường với đánh giá của gia đình và của xã hội;
đổi mới phương thức thi và công nhận tốt nghiệp THPT…)
Thứ ba, đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, tăng quyền tự chủ và
trách nhiệm xã hội, coi trọng quản lý chất lượng ở trường THPT.
11


1.2 Vận dụng vào công tác giảng dạy Ngữ văn ở trường THPT hiện nay:

Sau khi nắm bắt quan điểm đổi mới toàn diện chung của giáo dục nước ta
hiện nay. Để công tác giảng dạy Ngữ văn có hiệu quả và đáp ứng được nhu cầu xã
hội, trước hết bản thân phải xác định đúng mục tiêu giáo dục hiện nay là theo định
hướng phát triển năng lực và phẩm chất học sinh. Giáo dục học sinh là phát triển
toàn diện, hài hòa đức – trí – thể – mỹ, đồng thời phát triển tốt nhất tiềm năng riêng
của mỗi người. Để thực hiện được mục tiêu đó, bản thân phải thay đổi toàn diện về
các mặt chương trình và nội dung giáo dục; phương pháp, hình thức và phương tiện
dạy học; kiểm tra và đánh giá học sinh. Cụ thể:
* Về chương trình, nội dung giáo dục:
Thấy được điều đó, bản thân dựa trên tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW
yêu cầu đổi mới nội dung giáo dục theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù
hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành nghề; tăng thực hành, vận dụng kiến thức vào
thực tiễn ngay từ đầu năm đã lên kế hoạch giảng dạy để dần vận dụng các chương
trình mới như: sự thay đổi triết lý, cấu trúc, nội dung và cả cách tổ chức dạy và học.
Do đó, bản thân thực hiện một số chuyên đề dạy học Ngữ văn theo “ Chủ
đề”, giúp học sinh có kiến thức mở rộng và sâu sắc hơn. Mục đích để sau khi học
xong phổ thông, dù không đi theo ngành khoa học xã hội mà theo các ngành khác,
nhưng nếu cần, các em có được năng lực tìm hiểu Ngữ văn suốt đời.
Ngoài ra nội dung chương trình đào tạo có thể phát triển thành các khóa đào
tạo ngắn hạn và chuyên sâu đáp ứng nhu cầu nguyện vọng của các học sinh trong
ứng dụng vào đời sống thực tế khi học xong môn này như: nâng cao khả năng giao
tiếp, hỗ trợ nâng cao khả năng viết theo yêu cầu ứng dụng nghề nghiệp tương lai,
tăng khả năng trình bày, nâng cao văn hóa ứng xử và văn phong dùng từ.
Hơn thế nữa quá trình giảng dạy sẽ lồng ghép một số bài học cuộc sống, một
số phong cách giao tiếp quan hệ, đối nhân xử thế của các chuyên gia, các vị lãnh
đạo, các tiền nhân ngày xưa liên quan trực tiếp đến các bài giảng để học sinh có thể
bước đầu tiếp cận được phần nào kiến thức về một kĩ năng mềm thực sự cần thiết
trong cuộc sống, tạo không khí đổi mới và kích thích tinh thần học tập cho lớp học.
Ví dụ, khi giảng dạy Ngữ văn, sẽ tạo điều kiện cho học sinh học tập, nghiên
cứ và thảo luận nhiều chủ đề khác nhau như: văn học trong nước, văn học nước

ngoài, văn học cận đại, văn học hiện đại. Qua đó sẽ giúp học sinh có cơ hội được
12


tiếp cận phong cách dùng từ của các tác giả từ thời xa xưa đến hiện đại, từ châu Âu
đến Châu Á và Việt Nam. Qua đó học sinh vừa được nâng cao vốn từ, vừa được tiếp
cận với nhiều nền văn hóa khác nhau sẽ làm tăng sự phong phú của bài giảng, nâng
cao tầm hiểu biết và hỗ trợ cho kĩ năng giao tiếp ứng xử thực tế trong cuộc sống.
* Về phương pháp, hình thức và phương tiện dạy học:
Ở cấp THPT Ngữ văn là môn học được lựa chọn theo nguyện vọng và định
hướng nghề nghiệp của học sinh, thuộc nhóm môn Khoa học xã hội. Với đặc trưng
của môn học, Ngữ văn giữ vai trò chủ đạo trong việc giáo dục học sinh và hình
thành những phẩm chất của công dân Việt Nam, công dân toàn cầu trong xu thế
phát triển của thời đại. Môn Ngữ văn giúp học sinh phát triển năng lực nhận thức,
đặc biệt là tư duy ngôn ngữ, các kĩ năng mềm như giao tiếp, viết qua đó vận dụng
các bài học Ngữ văn vào việc giải quyết những vấn đề của thực tế cuộc sống.
Do vậy việc giảng dạy Ngữ văn đòi hỏi sự thay đổi phương pháp phù hợp
với từng hoàn cảnh điều kiện bản thân và nhà trường để phát triển tối đa năng lực
của học sinh của giáo viên như: Thông qua việc tổ chức các hoạt động dạy học đa
dạng, tôi giúp học sinh phát huy năng lực sáng tạo trong học tập Ngữ văn, biến môn
Ngữ văn trở thành một môn hữu dụng thực tế bằng việc ứng dụng và phát triển các
kĩ năng mềm, tìm ra các thông điệp để truyền tải đến các em học sinh mà các bài
giảng hay các câu chuyện mang lại. Từ đó làm tăng sự nhận thức của học sinh về
tầm quan trọng của môn học, giúp tạo ra động lực và chứng minh cho học sinh thấy
rằng học tập là không bao giờ thừa, bất cứ môn học nào cũng đều có cái hay và có
giá trị nhất định của nó, không nên xem nhẹ hay bỏ qua, thờ ơ bất kì môn học nào.
Chú trọng việc đa dạng hóa các hình thức tổ chức dạy học, lựa chọn và phối
hợp có hiệu quả giữa các hình thức tổ chức và phương pháp dạy học Ngữ văn. Với
hình thức dạy học Ngữ văn theo chủ đề, tôi hướng dẫn học sinh củng cố hệ thống
kiến thức cơ bản, nâng cao nhận thức về Ngữ văn Việt Nam, khu vực và thế giới

thông qua hệ thống chủ đề Ngữ văn về chính trị, văn hóa, xã hội, tư tưởng, tôn giáo
- tín ngưỡng, nghệ thuật - kiến trúc, ngoại giao và quan hệ quốc tế, dân cư và tộc
người,…Thông qua hệ thống chủ đề này, tôi giúp học sinh có khả năng tiếp cận và
xử lý thông tin từ những nguồn khác nhau, tăng sự đa dạng trong cách dùng từ và
phong cách diễn đạt giúp học sinh tăng thêm lượng vốn từ của mình, tiếp thu và

13


tham khảo thêm các nét độc đáo trong văn hóa các khu vực và trong các thời đại
khác nhau.
Ngoài ra, việc tạo hứng thú học tập là điều kiện cần thiết để tiến hành giáo
dục và giáo dưỡng có hiệu quả, hình thành thế giới quan khoa học đối với học sinh.
Điều này cần được tiến hành trên tất cả các mặt nội dung, phương pháp, điều kiện
học tập,… Ngoài việc sử dụng các phương tiện trực quan, tôi còn sử dụng phương
pháp “tích hợp liên môn” ở các môn Lịch sử, Địa Lí, Giáo dục công dân, Nghệ
thuật,…vào trong các bài dạy Ngữ văn để tạo sự chú ý, gây hứng thú với học sinh,
định hướng và phát triển năng lực của học sinh.
Ví dụ: trong quá trình giảng dạy, luôn kết hợp việc truyền đạt kiến thức với trực
quan sinh động như tranh, ảnh, video, trình chiếu powpoint, sử dụng từ ngữ minh
họa phong phú kèm theo các cử chỉ tay, nét mặt với tông giọng tương ứng. Ngoài ra
kết hợp đưa học sinh vào những trải nghiệm mới như thư vai vào các nhân vật trong
các bài học, tham quan triển lãm văn học, học qua sách nói do chính giáo viên thu
âm và biên tập. Có như vậy sẽ tạo sự thú vị và giúp học sinh cảm thấy yêu mến
môn học hơn.

* Về kiểm tra đánh giá học sinh:
Trong quá trình đánh giá một học sinh tôi sẽ kết hợp nhiều khía cạnh đánh
giá để đánh giá đúng phẩm chất và năng lực học sinh như: kiểm tra lí thuyết, thực
hành, đóng góp ý kiến trong giờ học, quá trình tiến bộ có cố gắng, mối quan hệ bạn

bè, gia đình và xã hội, tự học sinh đánh giá,… Đảm bảo tính khách quan công bằng
trong kiểm tra đánh giá kết quả học tập, rèn luyện, tu dưỡng của HS. Kịp thời khen
ngợi, khuyến khích để động viên HS mạnh dạn tham gia bày tỏ ý kiến trong quá
trình học tập. Đồng thời, tôi chú trọng việc đánh giá học sinh dựa vào việc vận dụng
kiến thức, kỹ năng để giải quyết vấn đề thực tiễn của học sinh.
2. Quan điểm lịch sử - cụ thể:
2.1 Tình hình cải cách giáo dục nước ta theo quan điểm lịch sử - cụ thể:
Cải cách giáo dục là một dạng vật chất xã hội theo sự phân loại của triết học
Mác-Lênin. Cùng với sự vận động phát triển không ngừng của xã hội thì cải cách
giáo dục cũng phải luôn luôn đổi mới để thích nghi và đáp ứng tốt hơn nữa những
yêu cầu về hệ thống giáo dục trong xã hội mới. Do đó, cải cách giáo dục là một quá
14


trình tất yếu và không ngừng, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu về giáo dục trong sự
vận động và phát triển trong từng giai đoạn cụ thể, biết phân tích mỗi tình hình cụ
thể trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Cần phải thấy được các mối
liên hệ, sự biến đổi của cải cách giáo dục theo thời gian, cũng như trong những
không gian tồn tại khác nhau của mỗi mặt, mỗi thuộc tính đặc trưng, tránh khuynh
hướng giáo điều, chung chung, trừu tượng không cụ thể. Đây cũng chính là nguyên
tắc của quan điểm lịch sử cụ thể. Vận dụng quan điểm này từ sau Cách mạng tháng
8 năm 1945, giáo dục nước ta đã qua 3 cuộc cải cách:
-

Cuộc cải cách giáo dục thứ nhất (năm 1950), nhằm xây dựng nền giáo
dục dân chủ nhân dân: nhiệm vụ “chống giặc dốt” với ba phương châm:
dân tộc, khoa học, đại chúng. Cải tổ hệ thống giáo dục thành hệ thống
giáo dục phổ thông 9 năm gọn, nhẹ phù hợp (thay vì 12 năm của chế độ
cũ) với điều kiện của đất nước lúc đó là dựa vào sức dân.


-

Cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai (1956) phục vụ cho việc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước: nhằm phát
triển mạnh mẽ quy mô giáo dục, xây dựng một nền giáo dục phục vụ hai
nhiệm vụ chiến lược (xây dựng Miền Bắc, thống nhất nước nhà), hệ giáo
dục phổ thông được cải tổ lại thành hệ 10 năm, hệ giáo dục đại học và
trung học chuyên nghiệp cũng mở rộng phục vụ cho kiến thiết đất nước.
Việc phát triển giáo dục vẫn phải dựa vào sức dân, chế độ giáo viên dân
lập có từ trước vẫn tồn tại một thời gian dài .

-

Cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba năm 1979, Bộ chính trị Ban chấp hành
Trung ương (khóa III) quyết định tiến hành cuộc cải cách giáo dục lần thứ
ba, để xây dựng nền giáo dục chuyển từ dân chủ nhân dân sang xã hội
chủ nghĩa khi cả nước thống nhất.

Mỗi cuộc cải cách sẽ đáp ứng nhu cầu giáo dục tại từng thời điểm. Cuộc cải
cách lần 3 đã mang nhiều yếu tố hiện đại hơn, do đó tạo ra tiền đề chất lượng giáo
dục có thể đạt tới trình độ cao hơn trước. Tuy nhiên, trong những năm gần đây khi
mà công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển, công nghệ thông tin phát triển vũ bão,
nền kinh tế thị trường hội nhập quốc tế thì nảy sinh những nhiều vấn đề mới không
tuân theo những công thức có sẵn, bất biến, mà chúng cần được vận dụng linh hoạt,
mềm dẻo, luôn đổi mới để phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của mỗi nước và tình
15


hình quốc tế trong từng giao đoạn. Trong khoảng thời gian 3 năm gần đây Bộ giáo
dục và đào tạo đã mạnh dạng thay đổi các cách thi tốt nghiệp phổ thông khác nhau

và đổi mới phương pháp giáo dục lấy học sinh làm trung tâm để thích hợp với nhu
cầu giáo dục và đào tạo con người hiện nay.
2.2 Vận dụng vào công tác giảng dạy Ngữ văn ở trường THPT hiện nay:
* Nội dung, phương pháp giảng dạy:
Ngày nay, trên thế giới đang diễn ra quá trình tin học hóa trên nhiều lĩnh vực
hoạt động của xã hội loài người. Cũng giống như cuộc cách mạng công nghiệp,
cuộc cách mạng thông tin đang dẫn đến những thay đổi quan trọng trong cách sống
và ngay cả suy nghĩ của con người. Internet phát triển ngày càng rộng rãi, thông tin
sẽ dễ dàng tiếp cận đến mọi người nên việc cập nhật các phần mềm mới, các kiến
thức mới. Việc cập nhật những cái mới giúp giáo viên xây dựng kế hoạch, nội dung
hợp với xu thế phát triển của thế giới nói chung, của giáo dục nói riêng. Đồng thời
việc phát triển mạnh mẽ về công nghệ, Internet cũng đặt ra cho giáo viên một thách
thức mới trong việc truyền thụ kiến thức cho người học, đòi hỏi người giáo viên
phải thay đổi phương pháp dạy (phương pháp dạy học tích cực, lấy người học làm
trung tâm…) cho phù hợp với từng thời kì để giải quyết các vấn đề trong thực tiễn
hiện nay. Do đó, bản thân tôi cũng cần tự nâng cao trình độ chuyên môn, có sự đầu
tư vào bài giảng, thường xuyên cập nhật công nghệ thông tin vào giảng dạy nhằm
thu hút học sinh nhiều hơn.
Đồng thời, sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước ngày nay đòi
hỏi nguồn nhân lực không những chỉ đủ về số lượng mà còn phải có chất lượng.
Nguồn nhân lực đóng vai trò hết sức to lớn đối với đất nước. Vì vậy, phải phát huy
tính tích cực, tự giác, chủ động của người học, hình thành và phát triển năng lực tự
học. Điều đó, đặt ra cho bản thân tôi phải có sự đổi mới phương pháp dạy học Ngữ
văn để đáp ứng yêu cầu của nền giáo dục nước ta trong thời đại hiện nay như: Tuỳ
theo mục tiêu, nội dung, đối tượng và điều kiện cụ thể mà có những hình thức tổ
chức thích hợp như học cá nhân, học nhóm; học trong lớp, học ở ngoài lớp... Cần
chuẩn bị tốt về phương pháp đối với các giờ thực hành để đảm bảo yêu cầu rèn
luyện kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, nâng cao hứng thú cho
người học.


16


Bên cạnh đó, việc giúp học sinh vận dụng kiến thức đã học vào trong đời
sống thực tế cũng là một điểm mới và hết sức thực tế, hữu dụng. Ngoài việc dạy học
sinh với mục đích là truyền đạt kiến thức thì việc thực hành liên hệ những điều đó
vào đời sống thực tế là điều rất cần thiết giúp học sinh có thể phát huy tối đa khả
năng vận dụng những kiến thức đó để nâng cao kĩ năng mềm của bản thân như: kĩ
năng giao tiếp, kĩ năng truyền đạt, kĩ năng viết, thuyết trình, khả năng nói trước
đám đông và cách dùng từ khéo léo trong các quan hệ cuộc sống thực tế hàng ngày.
Để làm được điều đó cần phải đổi mới phương pháp đọc sách, phương pháp
ghi chép và phải xây dựng thêm cả phần kế hoạch hành động ứng dụng sau mỗi nội
dung học. Đối với việc đổi mới nội dung đọc sách cần phải giảng cho học sinh cách
đọc tóm tắt, cách đọc hiểu và đọc toàn bộ nội dung. Quá trình đọc phải ghi chú,
gạch chân từ khóa và các thắc mắc câu hỏi bên cạnh để làm cơ sở thảo luận và xin ý
kiến giáo viên giải đáp. Sau khi đọc xong và học xong các nội dung của từng bài
học thì phải ghi chép lại các nội dung chính quan trọng nhất của bài theo cách chia
trang giấy thành ba cột, cột trái cùng ghi tiêu đề, cột giữa ghi nội dung, cột phải
cùng ghi hành động tương ứng. Sau đó định hướng cho học sinh ghi ra các hành
động cụ thể ngay bên cạnh các kiến thức đã ghi chép và hướng dẫn học sinh thực
hành ngay trên lớp kết hợp kiểm tra, theo dõi, thống kê và đánh giá cụ thể sự tiến bộ
sau từng ngày, tuần, tháng.
* Kiểm tra và đánh giá học sinh:
Học sinh có nhiều giai đoạn phát triển khác nhau, tâm lí lứa tuổi thay đổi
theo từng thời kì. Một người giáo viên để đánh giá đúng một học sinh cần xem xét
khách quan từng giai đoạn cụ thể nhất định.
Ví dụ: Giáo viên không nên nhìn vào kết quả học sinh có ở cấp 2 là không
ngoan, lười học, quậy… mà khẳng định rằng lên cấp 3 thì học sinh đó cũng có
những biểu hiện tiêu cực. Việc xem xét này chỉ mang tính tham khảo, giáo viên cần
nhìn vào giai đoạn hiện tại biểu hiện của học sinh và các mối liên hệ liên quan để

đánh giá học sinh đó.
Bên cạnh đó, cần triển khai xây dựng ngân hàng câu hỏi để nâng cao chất
lượng các đề kiểm tra. Trong kiểm tra đánh giá kết quả học tập môn Ngữ văn của
học sinh, cần phải giảm bớt những câu hỏi mang tính chất lý thuyết đơn thuần mà
cần phải những câu hỏi ở mức độ thông hiểu và vận dụng sáng tạo. Có như vậy, mới
17


dần dần xóa bỏ được quan niệm cho rằng môn Ngữ văn là môn học nhàm chán, chữ
nghĩa.

IV - KẾT LUẬN
Trong quá trình học và nghiên cứu Triết học Mác – Lênin, đặc biệt là nội
dung và ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý mối liên hệ phổ biến của phép
biện chứng duy vật đã giúp cho chúng ta có những quan điểm sâu sắc khi nhìn
nhận, đánh giá sự vật, hiện tượng một cách toàn diện, bản chất trong mối liên hệ
mang tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú của nó. Từ sự nhìn
nhận, đánh giá đó dẫn đến khi cải tạo sự vật, phải tính đến mối liên hệ phổ biến của
nó, phải sử dụng nhiều biện pháp đồng bộ nhiều phương pháp, nhiều phương tiện
khác nhau, đồng thời xác định được trọng tâm, trọng điểm trong hoạt động nhằm
thay đổi mối liên hệ tương ứng.
Từ những cơ sở quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử - cụ thể của
nguyên lý mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật là kim chỉ nan giúp
cho chúng ta vận dụng vào công cuộc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đào
tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước trong điều kiện kinh
tế thị trường định hướng XHCN vào hội nhập quốc tế.
Do vậy, qua việc nghiên cứu đề tài này, chúng ta cần phải nắm chắc cơ sở lý
luận của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến giúp ta định hướng, chỉ đạo hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn, luôn trao dồi và đổi mới nhận thức bản thân
chúng ta một cách đúng đắn và toàn diện. Đồng thời, chúng ta vận dụng ý nghĩa

phương pháp luận của nó nhằm đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp dạy học
và cách kiểm tra đánh giá học sinh, chú trọng phát triển toàn diện phẩm chất và
năng lực học sinh. Bên cạnh đó, chúng ta cần tránh những giáo điều, những khuôn
sáo, trì trệ trong nhận thức và hành động. Do đó, chúng ta cần nắm chắc và vận
dụng đúng phép biện chứng duy vật vào hoạt động giảng dạy của chúng ta.
Đặc biệt, đối với bộ môn Ngữ văn, chúng ta cần phải nâng cao chất lượng
giáo dục môn Ngữ văn, giải pháp trước hết là cần đổi mới căn bản và toàn diện cả
hệ thống giáo dục môn Ngữ văn trong nền giáo dục phổ thông từ nhận thức vị thế,
18


yêu cầu giáo dục đến việc xây dựng lại chương trình, biên soạn lại sách giáo khoa.
Do đó, đòi hỏi cao đối với giáo viên dạy sử, ở đây sự thông tuệ về kiến thức được
đặt nên hàng đầu, cùng với đó là phương pháp giảng dạy thích hợp, tạo sự hấp dẫn
đối với học sinh, giúp học sinh có thể vận dụng một cách tối ưu và hiệu quả những
kiến thức được học vào trong thực tế cuộc sống.
V- DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS. Nguyễn Ngọc Khá (2017); Chuyên đề Triết học, NXB Đại học Sư

Phạm, TP. Hồ Chí Minh.
2. PGS.TS. Nguyễn Ngọc Khá (2011), Hỏi và đáp môn Những nguyên lý cơ

bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
3. PGS.TS. Nguyễn Ngọc Khá (2012); Phương pháp hệ thống một số vấn đề

lý luận và vận dụng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.
4. Bộ giáo dục và đào tạo (2006), Giáo trình Triết học (Dùng cho học viên

cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành Triết học); NXB Lý
luận chính trị; Hà Nội.

5. Khoa giáo dục chính trị - trường đại học sư phạm TP.Hồ Chí Minh, Hỏi &

Đáp môn Triết học Mác – Lênin; NXB Trẻ, TP.Hồ Chí Minh.
6. C. Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, t.20, NXB Chính trị quốc gia, Hà

Nội.
7. C. Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, t.21, NXB Chính trị quốc gia, Hà

Nội.
8. C. Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, t.23, NXB Chính trị quốc gia, Hà

Nội.
9. C. Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, t.42, NXB Chính trị quốc gia, Hà

Nội.
10. V. I. Lênin (1981), Toàn tập, t. 31, NXB Tiến bộ, Mátxcơva.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp

hành Trung ương khóa XI, Văn phòng trung ương Đảng, Hà Nội.
12. Tài liệu hội thảo (2016) – tập huấn đổi mới tổ chức và quản lý hoạt động

giáo dục ở trường THPT theo định hướng phát triển năng lực học sinh, Hà
Nội.

19


20




×