Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

QUAN HỆ ĐỐI TÁC CHIẾN LƯỢC ASEANLIÊN BANG NGA DƯỚI GÓC ĐỘ THỰC TIỄN LỊCH SỬ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.86 KB, 20 trang )

QUAN HỆ ĐỐI TÁC CHIẾN LƯỢC ASEAN-LIÊN BANG NGA
DƯỚI GÓC ĐỘ THỰC TIỄN LỊCH SỬ
*Trần Hùng Minh Phương
ThS, NCS. Lịch sử Việt Nam, ĐHKHXH&NV- ĐHQG TP.HCM
)
TÓM TẮT
Bước vào thế kỷ XXI, các nền kinh tế khu vực ASEAN vẫn là nơi thu hút hấp dẫn đầu tư nước
ngoài, trở thành các đối tác thương mại lớn của cả Mỹ, Nhật Bản, EU, Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn
Quốc, Australia, New Zealand.... Quan hệ ASEAN - Liên bang Nga đã phát triển sang một giai đoạn
mới khi Hội nghị Thượng đỉnh lần đầu tiên giữa hai bên được tổ chức tại Kuala Lumpur tháng 12
năm 2005, đã tạo một khuôn khổ quan trọng làm nền tảng cho quan hệ Nga – ASEAN phát triển.
Tháng 5/2016, Hội nghị cấp cao ASEAN – Nga đã được tổ chức tại Sochi (Liên bang Nga). Đây
là sự kiện quan trọng không những đánh dấu chặng đường 20 năm ASEAN và Nga khởi động, duy trì
quan hệ đối tác đối thoại mà còn là cơ hội để hai bên vạch ra phương hướng hợp tác trong tương lai
nhằm nâng cao quan hệ lên một tầm mức chiến lược mới.
Từ khoá: ASEAN, chiến lược, đối tác, đối tác chiến lược, Liên bang Nga.
ABSTRACT

STRATEGIC PARTNERSHIP BETWEEN ASEAN – RUSSIA
THROUGH THE REALITY OF HISTORY
In the 21st century, ASEAN economies remain attractive destinations for foreign investment,
becoming major trading partners of the United States, Japan, EU, China, India and South Korea. ,
Australia, New Zealand .... ASEAN-Russian Federation has developed into a new stage when the first
summit between the two parties was held in Kuala Lumpur in December 2005, created a mold as
important as the foundation for Russian-ASEAN relations to develop.
In May 2016, the ASEAN-Russia Summit was held in Sochi (Russia). This is a milestone not only
marking the 20 years of ASEAN and Russia’s launching and maintaining the dialogue partnership, but
also an opportunity for the two sides to work out future directions for cooperation in order to improve
relations. to a new level of strategy.
Key words: ASEAN, strategic, partnership, strategic partnership, Russia.


1. Sự hình thành quan điểm của ASEAN và Liên bang Nga trong việc thiết lập
quan hệ đối tác toàn diện
Năm 1987, các quốc gia thành viên ASEAN đã hình thành một cơ chế giải
quyết xung đột chính thức, ASEAN đã sửa đổi Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác trên
cơ sở thành lập một Hội đồng cấp cao ASEAN như một cơ quan để “giải quyết các
tranh chấp thông qua các quy trình khu vực”(Tôn Sinh Thành, 2017: 42).
ASEAN tiếp tục mở rộng và củng cố quan hệ đối thoại chiến lược với các đối
tác bên ngoài, nhất là với các nước, thực thể lớn như Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Ấn
Độ, EU và Nga. Điểm đáng chú ý là từ cuối thập niên đầu của thế kỷ XXI, ASEAN

1


đã cải thiện nhanh chóng và mở rộng quan hệ đối thoại chiến lược với Mỹ. Cùng với
đó, ASEAN cũng chú trọng làm sâu sắc quan hệ hơn với Trung Quốc, nhất là trong
quan hệ kinh tế.
Bên cạnh đó, ASEAN đang nỗ lực tạo dựng được một một cấu trúc an ninh
mới ở khu vực lấy ASEAN làm trung tâm. Cùng với những định chế đã thiết lập từ hồi
Chiến tranh Lạnh và trong thập niên 90 của thế kỷ XX (như “Tuyên bố về sự Hòa
hợp ASEAN”,“Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác Đông Nam Á” (TAC), “Diễn đàn Khu
vực” (ARF),“Hiệp ước Đông Nam Á không có Vũ khí Hạt nhân”(SEANWFZ), từ
2005, ASEAN đã chủ động lập nên "Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á" (EAS). Đến
năm 2010, tham gia vào EAS ngoài 10 nước ASEAN còn có 8 đối tác bên ngoài là
Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Australia, New Zealand, Mỹ và Nga.
ASEAN vào năm 2010 đã tạo ra cơ chế Hội nghị Quốc phòng ASEAN mở
rộng (ADMM +). Lần đầu tiên trong lịch sử ASEAN và khu vực châu Á - Thái Bình
Dương có 18 Bộ trưởng Quốc phòng các nước (gồm của 10 nước ASEAN và 8 nước
đối tác là Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Nga, Ấn Độ, Australia và New
Zealand) ngồi lại bàn thảo về hợp tác quốc phòng an ninh.
Cùng với tiến trình trên, ASEAN thông qua ARF đẩy mạnh việc chuyển giai

đoạn từ xây dựng lòng tin sang ngoại giao phòng ngừatrong giải quyết các vấn đề an
ninh đang nổi lên. Từ Hội nghị ARF lần thứ 17 tổ chức tại Hà Nội năm 2010, ASEAN
đã mạnh dạn đưa các vấn đề nhạy cảm như tranh chấp Biển Đông ra bàn luận và tiếp
theo từ năm 2011 trở đi, vấn đề này được liên tục được nhắc đến tại các hội nghị tiếp
theo của ASEAN và đã thông qua được nhiều văn kiện khá quan trọng như "Bản
hướng dẫn DOC"(2011), "Tài liệu Quan điểm của ASEAN về các thành tố cần có của
COC" (2012), "Tuyên bố về nguyên tắc 6 điểm về Biển Đông" (2012), "Tuyên bố 10
năm DOC" (2013), "Tuyên bố của Bộ trưởng các nước ASEAN về Biển
Đông" (2014)... Cùng với đó, ASEAN đang thực hiện tương đối có hiệu quả nhiều
cam kết ghi trong Hiến chương ASEAN và trong Kế hoạch tổng thể APSC, trong đó
có việc việc lập nên Viện Hòa bình và Hòa giải ASEAN và Tuyên bố Nhân quyền
ASEAN.
Tuy nhiên, sự vận hành và tính hiệu quả của các cơ chế hợp tác an ninh trên nói
riêng, quá trình kiến tạo nên một cấu trúc an ninh mới ở khu vực với ASEAN làm

2


trung tâm nói chung đang đứng trước những thách thức lớn bởi không chỉ tồn tại sự
khác biệt về lợi ích, cách tiếp cận về an ninh, sự thiếu thống nhất và chiều sâu trong
hợp tác và hội nhập ASEAN, mà còn bởi sự gia tăng cạnh tranh giành ưu thế kiểm soát
địa chính trị của các nước lớn, trong đó có chính sách “chia để trị” của họ (Trần Khánh
và cộng sự, 2015, tr.3-10).
Sự nhận thức về vai trò hiện tại và tương lai của Nga khác nhau giữa Đông
Nam Á và Đông Bắc Á. Trong khi các nước Đông Nam Á có khuynh hướng coi chiến
tranh lạnh của Nga không ảnh hưởng sâu sắc đến khu vực nhưng ASEAN muốn có đối
thoại và quan hệ “cân bằng” với Nga; khác với khu vực Đông Bắc Á, nơi mà những lợi
ích và thách thức chiến lược liên quan đến Nga và các nước trong khu vực. “Trong khu
vực Đông Bắc Á, thì các vấn đề khó khăn nhất là tranh chấp vùng lãnh thổ phía Bắc
với Nhật Bản và vấn đề bán đảo Triều Tiên. Đông Bắc Á là nơi thực hiện thành công

chính sách đối ngoại đáng chú ý nhất của Nga tại Châu Á Thái Bình Dương – đó là
“đối tác chiến lược” của Nga với Trung Quốc” (Mark Hong, tr.8-21).
Sự điều chỉnh quan điểm của Nga trong quan hệ đối tác với ASEAN là một
trong những ưu tiên trong chính sách của Nga ở châu Á - Thái Bình Dương bởi Nga và
ASEAN có quan hệ gắn kết với nhau dựa trên nền tảng lịch sử bền vững, sự gần gũi
hoặc trùng hợp về quan điểm đối với nhiều vấn đề toàn cầu và khu vực, tạo khả năng
to lớn để hai bên cùng phối hợp hoạt động trong các công việc quốc tế. Liên bang Nga
và ASEAN ủng hộ việc xây dựng cấu trúc khu vực hoàn thiện hơn ở châu Á - Thái
Bình Dương theo nguyên tắc bình đẳng và minh bạch, dựa trên cơ sở đa trung tâm,
quyền tối cao của pháp luật, tính đến lợi ích của tất cả các nước trong khu vực dựa trên
cơ sở Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á mà Nga đã tham gia từ năm
2004.
Theo quan điểm của mình, Nga không có tham vọng giành ưu thế quân sự, cũng
không đặt ra nhiệm vụ bảo đảm an ninh biên giới phía Đông của Nga làm phương hại
đến an ninh của các nước khác; không có kế hoạch xây dựng căn cứ ở châu Á - Thái
Bình Dương, không xây dựng liên minh quân sự bí mật với các nước trong khu vực,
không cạnh tranh với bất kỳ các nước nào trong việc tranh giành ảnh hưởng. Nga
khẳng định tôn trọng chủ quyền của các nước trong khu vực, ủng hộ sự đa dạng của
mô hình phát triển, đối thoại giữa các nền văn hóa và tôn giáo; hợp tác với các nước

3


trong khu vực trong khuôn khổ cơ chế đa phương hiện có và sẵn sàng đề xuất sáng
kiến xây dựng các diễn đàn mới, như tăng cường tiếp xúc chặt chẽ hơn nữa giữa
ASEAN với Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO). Hai bên có đủ các điều kiện cần
thiết, gồm ý chí chính trị, truyền thống hữu nghị lâu đời, nền tảng hợp tác bền vững và
sự quan tâm về lợi ích của nhau. Diễn đàn Nga - ASEAN năm 2010 là sự kiện quan
trọng, đánh dấu bước phát triển mới trong lịch sử quan hệ giữa Nga và ASEAN. Tại
Hội nghị cấp cao ASEAN - Nga kỷ niệm 20 năm quan hệ đối tác đối thoại được tổ

chức tại Xô-chi (Nga) tháng 5-2016, hai bên đã đề ra khuôn khổ hợp tác mới để đưa
mối quan hệ đi vào chiều sâu, hướng tới quan hệ đối tác chiến lược trong tương lai.
Nga đã thông qua Học thuyết đối ngoại mới vào tháng 11 năm 2016 (thay thế
Học thuyết đối ngoại 2013)1 với nền tảng là chính sách đối ngoại độc lập và tự chủ, cởi
mở trên cơ sở bảo vệ lợi ích quốc gia và tôn trọng luật pháp quốc tế; có thể dự báo
trước, thực dụng, nhất quán, kế thừa; phát huy vai trò là nhân tố cân bằng trong việc
giải quyết các vấn đề quốc tế và quá trình phát triển nền văn minh thế giới.
2. Thực tiễn lịch sử của quan hệ đối tác chiến lược ASEAN – Liên bang Nga
2.1. Các nhân tố tác động bên ngoài
Bên cạnh các nhân tố khu vực và cá thể của từng quốc gia có những tác động
nhất định đến sự điều chỉnh chiến lược và phương thức phát triển của các quốc gia
ASEAN thực hiện trong quan hệ đối tác với Nga
Thứ nhất, thế giới đang có các biến chuyển phức tạp, sâu sắc và thay đổi nhanh
chóng, trên toàn cầu đã và đang xuất hiện sự cạnh tranh chiến lược mới giữa các
cường quốc
Thứ hai, khu vực ASEAN cùng với sự tăng trưởng về mặt kinh tế, thương mại
và đầu tư đã trở thành một khu vực kinh tế năng động, nhiều tiềm năng, thu hút sự
quan tâm của các cường quốc trên toàn thế giới. Bên cạnh đó, ASEAN với vị trí địa
chiến lược quan trọng với các vấn đề an ninh biển, an ninh khu vực, an ninh kinh tế…
có tầm ảnh hưởng đối với các cường quốc Mỹ hay Trung Quốc. Hiện nay chính sách
đối ngoại, quân sự, quốc phòng, an ninh của ASEAN sẽ tạo thách thức lớn trong xây
dựng “cộng đồng chính trị - an ninh” của ASEAN trong quá trình hội nhập thế giới.

1

/>
4


Đối với các cường quốc, trong quá trình thực thi chiến lược cân bằng quan hệ

quốc tế thì ASEAN rất chú trọng tăng cường mối quan hệ với Mỹ. Hiện nay, các quốc
gia ASEAN đều có nền độc lập, tự chủ nhưng một số quốc gia vẫn còn tồn tại các căn
cứ quân sự của Mỹ ở khu vực.
Đối với Mỹ, khi thời kỳ lưỡng cực kết thúc, theo quan điểm của Mỹ thì một trật
tự thế giới mới sẽ được xây dựng dựa trên ưu thế nổi trội của nước này và khuếch tán
các giá trị và niềm tin ra bên ngoài. Tuy nhiên, Mỹ bước vào thời kỳ hậu chiến tranh
Lạnh trong tình trạng yếu hơn về quyền lực, đặc biệt là kinh tế.
Với sự nổi dậy của những cơ hội đồng thời là sự không chắc chắn về mặt cấu
trúc, nhiều chủ thể hoạch định chính sách đối ngoại của Washington nhận thấy sự cần
thiết phải có các cơ chế mới để đương đầu với các thách thức đang nổi lên. Trong
những ngày đầu của nhiệm kỳ thứ nhất của Clinton, Trợ lý Ngoại trưởng phụ trách
Đông Á và Thái Bình Dương, Winston Lord, đã viết một lá thư sắc bén gửi Ngoại
trưởng Warren Christopher để cảnh báo rằng nước Mỹ đang vướng vào rắc rối nghiêm
trọng tại Châu Á. Một vài nước Châu Á đã bắt đầu chống đối những can thiệp của Mỹ
trong khu vực và nhận thấy Washington là một “vú em nếu không phải là một tên côn
đồ quốc tế”, như cách nói một quan chức cấp cao trong chính quyền (trích trong
Manning và Stern 1994, tr.86). Sự phát triển của chủ nghĩa đa phương được xem như
là một chiến lược thích hợp để giữ chân Mỹ trong khu vực và tăng cường cả về mặt tín
nhiệm lẫn pháp lý cho vị thế của Washington so với các chủ thể lớn khác trong khu
vực. Không như Chính quyền của Tổng thống George Bush, phần lớn các chủ thể
hoạch định chính sách liên quan trong chính quyền Clinton đều hoan nghênh chủ nghĩa
đa phương như một phần bổ sung (chứ không phải là một phần thay thế) cho sự tồn tại
của các dàn xếp song phương hiện hữu. Vì vậy, Mỹ ủng hộ các cách tiếp cận nhằm
tăng cường các diễn đàn đa phương hiện hữu (như APEC) và tạo ra những cơ chế đa
phương mới như là Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) (Baker, 1998, tr.165-90);
McGrew, 1998, tr.158-88; Dosch 2000, tr.87-110).
Trái ngược hoàn toàn với những kinh nghiệm trong quan hệ xuyên Đại Tây
Dương và có thể là lần đầu tiên trong lịch sử hiện đại, ở Châu Á-Thái Bình Dương, sự
xuất hiện một hệ thống đa phương của các mối quan hệ quốc tế lại được khởi đầu và bị
chi phối bởi các nước yếu chứ không phải các cường quốc thống trị trong khu vực.


5


Cũng nên lưu ý rằng vai trò của Mỹ là cốt yếu cho sự nổi lên của chủ nghĩa đa phương
trong khu vực, mặc dù Washington không bắt đầu tiến trình này. Thay vào đó, các
nước ASEAN được biết đến là người kiến tạo đối thoại an ninh khu vực. ASEAN xem
ý tưởng ARF như một cách thức để giữ Mỹ can dự vào khu vực và kiềm chế các thế
lực đang lên như Trung Quốc và Nhật. Nửa đầu năm 1993, Mỹ và Nhật ra tín hiệu ủng
hộ các diễn đàn an ninh đa phương. Cả Nhật và Mỹ đều hưởng ứng sáng kiến của
ASEAN trong việc đóng vai trò lãnh đạo ngoại giao nhằm thiết lập một dàn xếp đa
phương (Dosch, Jorn, 2004, tr.12-22).
Vào tháng 7 năm 1993, Tổng thống Mỹ Clinton đã xác nhận những đối thoại an
ninh giữa các nước Thái Bình Dương. Ông Clinton đã đề nghị một số hoạt động an
ninh chồng chéo lên nhau, từ các cuộc thảo luận đa phương như tranh chấp ở quần đảo
Trường Sa tới các biện pháp xây dựng lòng tin về thảo luận các học thuyết quân sự, sư
minh bạch trong mua sắm vũ khí và quản lý các xung đột. Đề nghị của Mỹ chính là
một phần trong “chiến lược mở rộng và can dự” theo chủ nghĩa Wilson mới của Mỹ,
đánh dấu một bước ngoặt trong chính sách đối ngoại của Mỹ tại khu vực này (Học
viện quan hệ quốc tế, 2003). Rob Wilson đã nhận định về khu vực này như sau:
“Châu Á-Thái Bình Dương” là một ý niệm hoàn mỹ của thị trường tự do, một chỉ
dấu đang nổi lên của các khát vọng xuyên quốc gia về một sự thống nhất siêu
quốc gia cao hơn mà ở đó các lực lượng toàn cầu và địa phương sẽ cùng gặp
nhau trong một tình huống “các bên cùng thắng”, và một thị trường mở sẽ hấp
thu văn hóa và chính trị vào trong dòng chảy không biên giới mạnh mẽ của nó”
(Rob Wilson, 2000, tr.566).
Thực tế, ASEAN hiện là đối tác thương mại lớn thứ tư của Mỹ, ngược lại các
công ty Mỹ là nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lớn nhất ở khu vực này. Các
công ty Mỹ đầu tư vào Đông Nam Á nhiều hơn so với vào Nhật Bản, Trung Quốc và
Ấn Độ cộng lại. FDI của Mỹ vào ASEAN đạt 226 tỷ USD (năm 2014), đưa Mỹ vào

nhóm các nhà đầu tư lớn nhất của ASEAN (An Nhiên, 2016).
Các nước ASEAN có lập trường và lợi ích khác nhau đối với tranh chấp ở Biển
Đông. Và để phù hợp với lợi ích này của các nước ASEAN, kể cả các nước ASEAN
không có tranh chấp với Trung Quốc, Mỹ luôn cố gắng tránh để khu vực này bùng
phát xung đột hay “quân sự hóa”. Mỹ đã và đang hợp tác với các nước ASEAN trong

6


việc bảo đảm hòa bình, ổn định ở Biển Đông cũng như hỗ trợ các nước ASEAN nâng
cao năng lực thực thi pháp luật trên biển, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển.
Bất kì phân tích nào về Mỹ ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương đều phải xét
đến ba nhân tố cấu trúc chính. Đầu tiên là tuyên bố của Mỹ về vai trò lãnh đạo quốc tế
hay vị thế hàng đầu của nước này; thứ hai là sự tự nhận thức về Thái Bình Dương như
là một khu vực ảnh hưởng tự nhiên của Mỹ, kiểu như “hồ của chúng tôi”; và nhân tố
thứ ba liên quan tới vận động thể chế trong hệ thống chính trị Mỹ, có nghĩa là sự cạnh
tranh giữa các chủ thể khác nhau trong nước đối với việc thực hiện chính sách đối
ngoạI (Dosch, Jorn, 2004: 12-22). Ngoài ra với Mỹ, cuộc chiến chống khủng bố tại
Đông Nam Á là một phần trong ý định của Mỹ chống lại điều mà các nhà phân tích an
ninh Mỹ gọi là “chủ nghĩa phiêu lưu quân sự Trung Quốc” tại khu vực (Nguyễn Văn
Lan, 2007, tr.96).
Đối với Nga, thì khu vực châu Á – Thái Bình Dương ngày càng có tầm quan
trọng đối với Liên bang Nga. Lợi ích kinh tế của Nga trong khu vực có tiềm năng rất
lớn, đặc biệt trong khoảng thời gian gần đây Nga đang cố gắng mở rộng ảnh hưởng
của mình về phía Đông. Những năm qua, Liên bang Nga bắt đầu thể hiện vai trò nổi
trội của quốc gia này tại khu vực Đông Nam Á và Đông Á. Nga đã chủ trì thành công
Hội nghị thượng đỉnh APEC.
Châu Á có tầm quan trọng ngày càng tăng trong toàn bộ chính sách đối ngoại của
Liên bang Nga, đó là do mối quan hệ trực tiếp của Nga với khu vực đang phát triển
năng động này và nhu cầu tăng trưởng kinh tế ở Siberia và Viễn Đông. Nhấn mạnh sự

tham gia của Nga tham gia vào các cấu trúc hội nhập chính của khu vực châu Á - Thái
Bình Dương như Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, Diễn đàn khu
vực về an ninh của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Thượng Hải gồm
5 quốc gia (Nga, Trung Quốc, Kazakhstan, Kirghizia, Tajikistan), trong đó Nga đóng
một vai trò tích cực. Nhiệm vụ chính như trước đây, đưa quy mô tương tác kinh tế phù
hợp với mức độ quan hệ chính trị (V.Putin, 2000).
Khu vực ASEAN là khu vực mà các nhà ngoại giao và các nhà doanh nghiệp
Liên bang Nga ít có thông tin và hiểu biết hơn so với các khu vực khác ở Đông và
Nam Châu Á. Sau một thời gian dài bỏ lỡ nhiều cơ hội tiến lại gần ASEAN, nước Nga
nhanh chóng phục hồi, từng bước vững chắc trở lại địa vị cường quốc, nhanh chóng

7


nắm bắt lấy Đông Nam Á - “vùng đệm” quan trọng trong chiến lược kiềm chế lẫn
nhau, lan tỏa ảnh hưởng giữa các nước lớn ở châu Á – Thái Bình Dương. Liên bang
Nga với hai thế mạnh vượt trội: Có nguồn năng lượng lớn nhất thế giới 2và khoa học kỹ thuật quân sự phát triển, Liên bang Nga có đầy đủ điều kiện cũng như ưu thế trên
con đường ghi dấu sự hiện diện của mình ở Đông Nam Á.
Với Trung Quốc, Trung Quốc đã thúc đẩy hợp tác khu vực châu Á sau cuộc
khủng hoảng tài chính năm 1997. Trong tháng 6 năm 2001, Trung Quốc, Nga,
Kazakhstan, Tajikistan, Kyrgyzstan, và Uzbekistan thành lập “Tổ chức Hợp tác
Thượng Hải” và trong tháng 11 năm 2001, Trung Quốc đạt được thỏa thuận với mười
quốc gia thành viên ASEAN ký thỏa thuận thương mại trong mười năm. Kế hoạch này
nhanh chóng mở rộng từ “ASEAN+ 1” thành “ASEAN+ 3”(ASEAN cộng với Trung
Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc), và cuối cùng là “ASEAN+ 6” (ASEAN cộng với
Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Úc và New Zealand) (Wang Hui, 2017).
Với APEC, Trung Quốc cùng với 17 thành viên của tổ chức này đã có nhiều cuộc trao
đổi để đẩy nhanh tiến trình hợp tác thị trường kinh tế tự do trong khu vực (Ezra
F.Vogel, 1997, tr.117).
ASEAN là điểm đến ưu tiên của Trung Quốc để xuất khẩu các lĩnh vực sản xuất

có ưu thế. Việc Trung Quốc triển khai hợp tác về năng lực sản xuất quốc tế với
ASEAN không những phục vụ cho việc nâng cấp chuyển đổi kinh tế trong nước mà
còn phù hợp với nhu cầu phát triển của các nước ASEAN, có lợi cho việc chuyển hóa
ưu thế sau khi thành lập Cộng đồng ASEAN làm động lực cho tăng trưởng kinh tế. Hai
bên cần tiếp tục lấy các khu công nghiệp hỗn hợp làm bàn đạp để thúc đẩy hợp tác về
năng lực sản xuất, nắm bắt chuẩn xác cơ hội để tập trung xây dựng một loạt khu công
nghiệp về sản xuất thiết bị, khai thác mỏ, luyện kim, truyền thông, thông tin khoa học
công nghệ. Kỹ thuật và thiết bị công nghiệp của Trung Quốc trong các ngành đường
sắt, viễn thông, năng lượng hạt nhân, xi măng, kính rất tiên tiến, có sức cạnh tranh
quốc tế, có khả năng phát huy thế mạnh trên thị trường ASEAN.
“Với chính sách chính trị thực thi bành trướng các hoạt động quân sự, chiếm dần
các đảo trên biển Đông, Trung Quốc đã tuyên bố “đường chính đoạn” đối với khu
2

Dầu mỏ của Nga chiếm 13% tổng trữ lượng dầu mỏ và 34% trữ lượng khí đốt thế giới đã được phát hiện, đứng đầu thế giới
về xuất khẩu khí đốt, đứng thứ 2 về xuất khẩu dầu mỏ, sản lượng điện chiếm 12% tổng sản lượng điện toàn cầu (Nguồn: Nền
kinh tế Liên bang Nga, )

8


vực biển Đông, và gần đây Trung Quốc đã ban hành cấm đánh bắt cá và nghiên
cứu trên vùng biển Đông từ ngày 01/01/2014. Trung Quốc từng bước mở rộng
các hoạt động quân sự trên Biển Đông, đồng thời thực hiện chính sách chiếm dần
các đảo trên Biển Đông” (Đặng Minh Đức, 2017, tr.37).
Trung Quốc không hài lòng với việc Liên bang Nga ngày càng mở rộng và phát
triển mối quan hệ với các quốc gia ASEAN kể cả các quốc gia đang có tranh chấp với
Trung Quốc trên Biển Đông về các lĩnh vực kinh tế, quốc phòng, an ninh, quân sự
(Đinh Công Tuấn, 2016). Các động thái của Nga xoay trục sang phía Đông, cùng hợp
tác trao đổi với Việt Nam khai thác dầu khí ở biển Đông, Nga bán cho Việt Nam các

vũ khí hiện đại như tàu ngầm, máy bay săn ngầm, tên lửa chống hạm… đã khiến cho
Trung Quốc không an tâm. Ngoài ra, Nga cùng Việt Nam xây dựng một số nhà máy
bảo dưỡng, sửa chữa các thiết bị quân sự, hải quân ở Cam Ranh (Khánh Hoà) đã làm
cho Trung Quốc càng thêm lo lắng về lợi ích của họ trong khu vực.
Vào những năm 90 của thế kỷ XX, do Mỹ không còn quan tâm đến khu vực
Đông Nam Á, Trung Quốc đã có cơ hội tìm kiếm ảnh hưởng của họ tại khu vực, có thể
thấy ảnh hưởng của Trung Quốc đã chiếm ưu thế ngay cả tại Thái Lan và Philippines
là hai đồng minh thân cận của Mỹ trong khu vực. Tại khu vực Đông Nam Á vào thế kỷ
XXI có nhiều thay đổi đặc biệt là sau khi Tổng thống Mỹ Barack Obama lên nắm
quyền từ tháng 1 năm 2008. Mỹ đã thực thi chiến lược và triển khai lực lượng quân sự
nhằm cân bằng cán cân tại khu vực nhiều biến động này, với mục đích kiềm chế ảnh
hưởng ngày càng lan rộng của Trung Quốc. Trong chiến lược tái cân bằng tại khu vực
thì Đông Nam Á có vai trò đặc biệt quan trọng đối với Mỹ hiện nay.
Theo các đánh giá của các học giả Phương Tây, Trung Quốc là cường quốc
đang lên và không hài lòng với nguyên trạng (status quo) (Aaron Friedberg, 2011).
Cần nhớ lại rằng, chính sự nổi lên nhanh chóng của nước Pháp (đầu thế kỷ 19) và Đức
(đầu thế kỷ 20) khi không có cơ chế quốc tế đủ mạnh để kiểm soát đã dẫn đến những
bất ổn định của cả châu lục. Điều này không có hàm ý nói rằng Đông Á sẽ có sự phân
chia lại về mặt lãnh thổ vào đầu thế kỷ tới do sự nổi lên của Trung Quốc vì tình hình
thế giới khi đó sẽ khác hẳn tình hình Châu Âu thế kỷ trước và mức độ phụ thuộc lẫn
nhau giữa các quốc gia cũng ngày càng chặt chẽ hơn. Tuy vậy, việc thiết lập một cơ
chế đủ mạnh để kiềm chế tất cả các nước, trong đó có Trung Quốc, để họ có cách xử

9


sự ôn hòa trong quan hệ quốc tế là yêu cầu trở nên cấp bách hơn bao giờ hết đối với tất
cả các nước trong khu vực.
Ngân sách quốc phòng của Trung Quốc không ngừng gia tăng theo tỉ trọng
phần trăm GDP, đã tăng từ 1,31% đến 1,34% trong giai đoạn 2011 – 2015, chỉ tiêu

quốc phòng năm 2014 đạt 190,9 tỉ USD hay 1,77% GDP3.
Sự trỗi dậy của Trung Quốc và sự “xoay trục” chiến lược, can dự nhiều hơn
của Mỹ vào các vấn đề của châu Á-Thái Bình Dương nói chung (Trần Khánh, 2014;
Trần Khánh và cộng sự, 2014), Đông Nam Á nói riêng đã và đang tạo ra cú hích mới
cho ASEAN theo đuổi chiến lược hướng ngoại, cân bằng ảnh hưởng trong quan hệ với
các nước lớn, duy trì vai trò trung tâm và chủ động của ASEAN như là một động lực
chủ chốt trong một cấu trúc khu vực mới đang định hình. Trung Quốc có một thị
trường với hơn 1,4 tỷ người, đang phát triển mạnh là cơ hội để mở rộng hợp tác, tăng
tính cạnh tranh của ASEAN. Việc Mỹ tăng cường can dự, hiện diện ở Đông Nam Á,
bằng chiến lược “tái cân bằng” cả về quân sự và kinh tế đã và đang giúp ASEAN có
điều kiện tốt hơn theo đuổi “cân bằng chiến lược” trong quan hệ với các nước lớn, hạn
chế tham vọng "Giấc mơ Trung Hoa" của Trung Quốc.
Với Ấn Độ, ASEAN là tổ chức hợp tác nằm ở khu vực có vị thế địa - chính trị
chiến lược quan trọng đối với Ấn Độ trong việc hội nhập khu vực Đông Á và châu Á Thái Bình Dương. ASEAN cũng là nhân tố quan trọng của tiến trình xây dựng Cộng
đồng kinh tế Đông Á và là đầu tàu dẫn dắt các cấu trúc hợp tác đa phương trong khu
vực, được Ấn Độ đặc biệt coi trọng. Nếu đứng riêng một mình, Ấn Độ khó có thể trở
thành đối thủ toàn cầu của Mỹ, nhưng họ lại có thể tạo thêm sức mạnh tiềm tàng cho
cán cân liên kết Trung-Nga-Ấn. Dù thế nào, liên kết này cũng không thể trở thành một
liên minh chống Mỹ mạnh mẽ (Joseph S. Nye Jr, 2003, tr.40).
Ngoài ra, cũng phải tính thêm vai trò của Ấn Độ trong phương trình quyền lực
Châu Á do sự gần gũi về mặt địa lý với các trung tâm quyền lực ở Châu Á và sự nổi
lên của nước này trong thời gian gần đây. Do thành công của các cải cách kinh tế được
tiến hành từ thời Chính phủ Rao đầu những năm 1990, hiện Ấn Độ được xếp là một
trong 10 nền kinh tế đang trỗi dậy trên thế giới. Một trong những điều chỉnh chiến
lược lớn của Ấn Độ là “chính sách hướng Đông” (Look East policy) bắt đầu từ năm
3

China’s defence budget more tham doubles since 2008, Craig Caffrey, Senior Defence Budget Analyst at IHS Aerospace,
Defence & Security – IHS Jane’s Defence.


10


1992 trong đó ASEAN là trung tâm để Ấn Độ vương ra Thái Bình Dương. Thủ tướng
Ấn Độ Narendra Modi đã từng nhấn mạnh ASEAN là “hạt nhân” trong chính sách
“Hành động hướng Đông” (Act East policy) của Ấn Độ và là trung tâm “giấc mơ” về
một thế kỷ châu Á, với những đặc điểm là hợp tác và liên kết4.
Trong quá trình đó, từ đối tác đối thoại, ASEAN và Ấn Độ đã trở thành đối tác
chiến lược. Hai bên đã nâng cấp quan hệ đối tác trên nhiều nền tảng thông qua 30 cơ
chế. Với mỗi thành viên ASEAN, Ấn Độ có mối quan hệ ngoại giao, kinh tế và an ninh
ngày càng phát triển. Hai bên chung tay hợp tác để bảo vệ vùng biển chung an toàn.
Dòng thương mại và đầu tư lớn mạnh gấp nhiều lần. ASEAN là đối tác thương mại lớn
thứ tư của Ấn Độ, và Ấn Độ là đối tác thương mại lớn thứ bảy của ASEAN. Khoảng
20% vốn đầu tư nước ngoài của Ấn Độ đổ vào ASEAN (D.An, 2018). Năm 2008,
ASEAN là bạn hàng lớn thứ tư của Ấn Độ với kim ngạch thương mại hai chiều đạt 47
tỷ USD (Lê Văn Toan và cộng sự, 2017, tr.221).
Vấn đề Biển Đông trước đây ít được đề cập trong các ưu tiên chính sách đối
ngoại của Ấn Độ, nhưng gần đây, Ấn Độ đã có bước chuyển mạnh về nhận thức và
hành động trong vấn đề này. Về phía ASEAN, Ấn Độ không chỉ là một thị trường lớn,
mà còn có một lực lượng lao động trẻ, dồi dào. Ấn Độ là nước có thế mạnh trong lĩnh
vực công nghệ thông tin và là điểm đến hấp dẫn cho đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tập
trung phát triển thương mại, dịch vụ với ASEAN giúp Ấn Độ có cơ hội sử dụng sức
mạnh cạnh tranh để trở thành một trung tâm dịch vụ xuất khẩu cho ASEAN. Quan hệ
chặt chẽ với ASEAN thông qua FTA sẽ tạo điều kiện giúp Ấn Độ tiến hành các cải
cách kinh tế sâu rộng hơn nữa, và quan trọng hơn, thúc đẩy Ấn Độ trong tương lai sẽ
trở thành một cường quốc kinh tế châu Á.
Với Nhật Bản, thông qua mong muốn ngoại giao kinh tế để phát huy vai trò
toàn diện trong khu vực Đông Nam Á và Đông Á. Nhật Bản là đối tác lớn với ASEAN
sau Mỹ. Trong năm 1998, mặc dù khủng hoảng tài chính đã gây ra những tác động lớn
đến nền kinh tế khu vực thương mại Nhật Bản vẫn chiếm 13,7% trong tổng kim ngạch

buôn bán của cả nhóm nước Đông Nam Á (Phạm Đức Thành, 2004, tr.418).
Để cạnh tranh với Trung Quốc tại khu vực Đông Nam Á, vào tháng 12 năm
2003, Nhật Bản đã tổ chức Hội nghị thượng đỉnh đặc biệt Nhật Bản-ASEAN tại
4

Bài phát biểu của Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi tại lể khai mạc Hội nghị thượng đỉnh ASEAN - Ấn Độ (2014), nguồn:
www.narendramodi.in/enghlish-rendering-of-the-india-ASEAN-summit-opening-statement-by-the-pm/

11


Tokyo. Đây là lần đầu tiên Hội nghị ASEAN+1 diễn ra tại một quốc gia ngoài khối
ASEAN. Tại đây, cả ASEAN và Nhật Bản cùng đưa ra Tuyên bố Tokyo về quan hệ đối
tác năng động và bền vững giữa ASEAN và Nhật Bản, Kế hoạch hành động Nhật BảnASEAN, và ký kết Thoả thuận chung về đối tác kinh tế toàn diện Nhật Bản-ASEAN
(Japan-ASEAN Comprehensive Economic Partnership, AJCEP), đặt cơ sở cho quan hệ
kinh tế giữa hai bên (Nguyễn Hoàng Giáp, 2013, tr.131).
Về tình hình Biển Đông, cả ASEAN và Nhật Bản đều nhấn mạnh tầm quan
trọng của hoà bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không ở Biển
Đông; bày tỏ lo ngại trước những diễn biến vừa qua trên thực địa có thể ảnh hưởng
tiêu cực tới tiến trình thương lượng Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông (COC); nhấn
mạnh việc các bên liên quan cần kiềm chế, không có các hành động đơn phương làm
phức tạp tình hình, không quân sự hoá và giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hoà
bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, bảo đảm thực hiện đầy đủ, hiệu quả DOC và sớm đạt
được COC có ý nghĩa và hữu hiệu.
2.2. Các nhân tố tác động bên trong
“Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương là khu vực tập trung nhiều lợi ích của các
nước lớn (Mỹ, Trung Quốc, Nga, EU, Ấn Độ), tập trung nhiều điểm nóng (Bán
đảo Triều Tiên, Đài Loan, Biển Đông, Campuchia), nhiều mâu thuẫn dân tộc, sắc
tộc, tôn giáo, lãnh thổ do hậu quả của chiến tranh lạnh để lại chưa được giải
quyết, vẫn đang tiềm ẩn tình trạng mất ổn định. Cuộc đấu tranh vì lợi ích quốc

gia - dân tộc sẽ diễn ra quyết liệt luôn cần đến vai trò của các nước lớn nhưng do
có đồng lợi ích nên ít có khả năng xảy ra xung đột, chiến tranh lớn, xu hướng
chính là hòa giải, thỏa hiệp, hy sinh lợi ích của các nước nhỏ” (Ngô Hữu Mạnh).
Đối với ASEAN, do nhiều vấn đề nhạy cảm và liên quan đến chủ quyền quốc gia
của các quốc gia ASEAN nên việc hợp tác quân sự ở cấp độ khu vực ASEAN còn
nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, sự khác nhau về cách tiếp cận quốc phòng, hợp tác quân
sự, mức độ đầu tư quốc phòng, đầu tư trang thiết bị quân sự cũng ảnh hưởng đến quan
hệ giữa các quốc gia ASEAN trên lĩnh vực quân sự. Hiện tại và tương lai vấn đề hợp
tác quân sự trong khối ASEAN tiếp tục phát triển trên cơ sở đa dạng về hệ tư tưởng,
mối quan ngại lẫn nhau, quan điểm về quốc phòng giữa các quốc gia thành viên
ASEAN.

12


Vấn đề thứ hai, đó là các xung đột tiềm tàng giữa một số quốc gia trong khu
vực. Đó là các mâu thuẫn trên bán đảo Triều Tiên, giữa Trung Quốc và Đài Loan liên
quan đến vấn đề lãnh thổ và độc lập của Đài Loan; các tranh chấp lãnh thổ giữa Trung
Quốc và Nhật (quần đảo Senkaku), giữa Nga và Nhật (quần đảo Kuril), giữa Trung
Quốc với một số nước ASEAN (quần đảo Trường Sa), giữa Singapore và Malaysia
(đảo Pulau Batu Butih), giữa Malaysia và Philppines (Sabah)... Các tranh chấp mang
tính lịch sử này, vốn đã bị chìm đi trong thời kỳ chiến tranh lạnh, nay lại bắt đầu nổi
lên, có khả năng tiềm tàng gây bất ổn định khu vực.
Vấn đề thứ ba, đó là các vấn đề có “tác động lan toả” (spill-over effects) ảnh
hưởng đến an ninh toàn khu vực do hệ quả của sự lệ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng về
kinh tế, chính trị và an ninh của các quốc gia trong khu vực. Đó là các vấn đề liên quan
đến nội trị của một số nước, vấn đề tăng cường vũ trang trong khu vực và các vấn đề
an ninh phi quân sự (non-military security issues) như năng lượng, lương thực, môi
trường... Lấy vấn đề tăng cường mua sắm vũ khí trong khu vực trong thời gian gần đây
làm ví dụ. Mặc dù có nhiều nguyên nhân để lý giải hiện tượng này, nhưng ở khía cạnh

nào đó, việc này thể hiện sự lo ngại lẫn nhau và thiếu lòng tin của các nước trong khu
vực về môi trường an ninh trong tương lai. Việc tăng cường vũ trang sẽ tạo ra một
vòng xoay luẩn quẩn, vì một số nước trong khi tìm cách đảm bảo an ninh cho mình đã
tìm cách tăng chi phí quốc phòng. Các nước láng giềng lại cảm thấy bất an và vì vậy
cũng tìm cách tăng ngân sách quốc phòng. Nên không có cơ chế kiểm soát vũ khí và
các biện pháp tăng cường lòng tin hữu hiệu, thì nguy cơ các nước trong khu vực lao
vào vòng đua tìm kiếm các vũ khí hiện đại sẽ diễn ra với tốc độ chóng mặt và khó có
điểm dừng.
Vấn đề thứ tư, đó là cơ chế hợp tác an ninh, chính trị giữa các quốc gia ASEAN
vẫn còn là một cơ chế lỏng lẻo. Diễn đàn an ninh Đông Nam Á (ARF) được thành lập
từ năm 1993 đã có những bước tiến triển đáng kể, là một diễn đàn cho đối thoại và hợp
tác về các vấn đề chính trị, an ninh khu vực. Tuy nhiên, hiện nay ARF vẫn còn là một
tiến trình lâu dài và phức tạp vừa hợp tác và đấu tranh, do tính đa dạng của các thành
viên cũng như tính chất các vấn đề an ninh khu vực nên không dễ dàng đi tới thống
nhất những quan điểm chung. Nguyên tắc đồng thuận, không can thiệp vào công việc

13


nội bộ của nhau đang bị tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ vừa
qua do tình hình chính trị - xã hội của một số nước thành viên trong khu vực.
Vấn đề thứ năm, đó là sự khác biệt về ý thức hệ, cơ cấu chính trị - xã hội, trình
độ phát triển giữa Việt Nam và một số nước trong ASEAN. ASEAN 10 gồm các nước
khác biệt về chế độ chính trị, xã hội, ý thức hệ và sự phát triển kinh tế cùng nhiều vấn
đề khác. Tính đa dạng của ASEAN về các mặt chính trị, văn hóa và lợi ích an ninh...
càng lớn thì ASEAN càng khó đạt lợi ích quốc gia và lợi ích chung của khu vực như
thời hạn thực hiện AFTA, khả năng đóng góp vào các hoạt động chung của hiệp hội...
Một vài nước hội viên ASEAN còn e ngại về Việt Nam vốn có những bất hòa và tranh
chấp lãnh thổ với Trung Quốc, nên nếu tăng cường hợp tác về chính trị, an ninh với
Việt Nam thì có thể sẽ làm phức tạp thêm mối quan hệ ASEAN - Trung Quốc (Ngô

Hữu Mạnh).
Vấn đề thứ sáu, việc tranh chấp lãnh thổ, biển đảo giữa các quốc gia trong
ASEAN. Bốn trong số 10 thành viên ASEAN (Việt Nam, Philippin, Malaysia và
Brunây) có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc ở Biển Đông - khu vực có ý nghĩa
chiến lược không chỉ đối với ASEAN mà còn đối với nhiều nước lớn và khu vực châu
Á - Thái Bình Dương. Tuy ASEAN đã đưa ra những nguyên tắc chung nhằm giải
quyết các tranh chấp Biển Đông (Tuyên bố của Hội nghị ngoại trưởng ASEAN tại
Manila tháng 7/1992) nhưng khi xảy ra sự việc cụ thể thì không phải các nước này đều
có phản ứng hoặc ứng xử như nhau. Các nước ASEAN chưa có sự thống nhất về giải
pháp đối với tranh chấp ở Biển Đông với Trung Quốc. Tình hình đó tạo điều kiện cho
bên ngoài lợi dụng, gây chia rẽ ASEAN (Ngô Hữu Mạnh).
Vấn đề thứ bảy, đó là vấn đề an ninh nội bộ của từng nước ASEAN nói riêng và
của toàn khu vực Đông Nam Á nói chung có nhiều diễn biến phức tạp, giữa các nước
thành viên ASEAN vẫn còn tồn tại nhiều tranh chấp về lãnh thổ, dân tộc, sắc tộc, tôn
giáo, văn hóa... Và còn tồn tại sự nghi kỵ lẫn nhau giữa một số thành viên (Malaysia
và Singapore...) cần phải có thời gian dài mới giải quyết được.
Tuy các thành viên của ASEAN có cùng mục đích tôn chỉ chung, song vì truyền
thống lịch sử hoặc lợi ích địa - chính trị riêng của từng nước nên mỗi thành viên
ASEAN lại có chính sách an ninh riêng. Một số nước có quan hệ an ninh với một số

14


nước ngoài khu vực, tạo điều kiện cho sự can thiệp của các nước ngoài trong trường
hợp xảy ra khủng hoảng liên quan đến an ninh của các nước ASEAN đó.
Về phía Nga, ngày 30 tháng 11 năm 2016, Tổng thống Liên bang Nga V. Putin
đã ký sắc lệnh thông qua Học thuyết Đối ngoại Liên Bang Nga 2016. Học thuyết được
công bố trong bối cảnh tình hình an ninh thế giới có nhiều thay đổi. Chính sách đối
ngoại của Nga trong Học thuyết Đối ngoại năm 2013 không còn phù hợp với sự phát
triển của tình hình. Những thách thức về an ninh Nga đang phải đối mặt đòi hỏi chính

sách đối ngoại cũng phải thay đổi cho phù hợp trong tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh
tế, quốc phòng, an ninh, văn hóa, xã hội. Ngoại giao của Nga sẽ tiếp tục đóng vai trò
quan trọng trong giải quyết các vấn đề an ninh đang nổi lên và những căng thẳng và
xung đột mới xuất hiện.
Học thuyết Ngoại giao của Nga cho rằng, hệ thống quốc tế đa cực, đa trung tâm
đang hình thành; trên thế giới xuất hiện các trung tâm chính trị và kinh tế mới; tiềm
năng sức mạnh và phát triển của thế giới đang dịch chuyển sang châu Á – Thái Bình
Dương (Ivan Timofeev, 2015). Cuộc đấu tranh giành vai trò chủ đạo trong việc xác
định các nguyên tắc then chốt xây dựng hệ thống quốc tế tương lai trở thành xu hướng
chính trong giai đoạn phát triển hiện nay.
Học thuyết xác định Nga thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, nhất
quán trên cơ sở lợi ích dân tộc và tuân thủ luật pháp quốc tế; chịu trách nhiệm với việc
bảo đảm an ninh toàn cầu và khu vực, sẵn sàng hợp tác với tất cả các quốc gia liên
quan để giải quyết nhiệm vụ chung. Nga tiếp tục củng cố vị thế của Nga tại khu vực,
thúc đẩy hợp tác với các nước châu Á – Thái Bình Dương là ưu tiên đối ngoại mang
tầm quan trọng chiến lược đối với Nga, theo đó, Nga sẽ tham gia tích cực các tiến trình
ở châu Á – Thái Bình Dương, phục vụ cho các chương trình phát triển kinh tế – xã hội
ở khu vực Xibêri và Viễn Đông; tham gia xây dựng cấu trúc an ninh và hợp tác khu
vực toàn diện, rộng mở, minh bạch và bình đẳng, dựa trên các nguyên tắc tập thể. Tiếp
tục củng cố vị thế, tăng cường tiềm lực chính trị và kinh tế của Tổ chức Hợp tác
Thượng Hải (SCO); củng cố quan hệ đối tác đối thoại lâu dài và toàn diện với ASEAN
và nâng tầm lên đối tác chiến lược, mở rộng hợp tác trong khuôn khổ Hội nghị
Thượng đỉnh Đông Á (EAS), Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ trưởng
Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+); ủng hộ hợp tác kinh tế cùng có lợi trong

15


khuôn khổ Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC), hợp tác trong
khuôn khổ Hội nghị Thượng đỉnh Á – Âu (ASEM), Hội nghị Thượng đỉnh về phối hợp

hành động và các biện pháp củng cố lòng tin ở châu Á (CICA); xây dựng không gian
kinh tế chung, rộng mở và không phân biệt đối xử đối với ASEAN, SCO và Liên minh
kinh tế Á – Âu (Концепция внешней политики Российской Федерации).
Trong khái niệm chính sách đối ngoại năm 2016 đã nêu lên rằng “Nga quan tâm
đến việc tham gia tích cực vào các quá trình hội nhập ở khu vực châu Á-Thái Bình
Dương, sử dụng khả năng của mình trong việc triển khai các chương trình phát triển
kinh tế và xã hội của Siberia và Viễn Đông, trong sự sáng tạo toàn diện, cởi mở, kiến
trúc an ninh minh bạch và công bằng và hợp tác trên cơ sở tập thể”5.
Thông qua việc công bố Học thuyết, Nga muốn gửi đến toàn thể thế giới, nhất
là Mỹ về một nước Nga với tư cách là “trung tâm quyền lực” có ảnh hưởng lớn trên
thế giới. Nội dung Học thuyết phản ánh nhận thức, tư duy mới của Nga về chính sách
đối ngoại, không chỉ nhằm bảo vệ các lợi ích của Nga mà còn tìm cách xây dựng lại
luật chơi quốc tế. Nga ngày càng muốn thể hiện vai trò quan trọng của mình trong các
vấn đề quốc tế.
So với các chiến lược và học thuyết được công bố gần đây thì Học thuyết Đối
ngoại sử dụng ngôn từ nhẹ nhàng hơn. Đối với khu vực châu Á – Thái Bình Dương,
Học thuyết thể hiện bước phát triển mới trong quan hệ ASEAN – Nga, nhấn mạnh mục
tiêu đưa hợp tác ASEAN – Nga lên tầm đối tác chiến lược và ý tưởng kết nối ASEAN,
SCO và Liên minh kinh tế Á – Âu (EAEU) để hình thành không gian kinh tế chung
(Ivan Timofeev, 2015).
3. Kết luận
Trên đây là một số các nhân tố tác động thực tiễn đến quan hệ giữa ASEAN và
Liên bang Nga. Vấn đề đặt ra hiện nay đó là trong khu vực vẫn chưa có các tổ chức an
ninh mang tính chặt chẽ như kiểu Tổ chức an ninh và hợp tác châu âu (OSCE) cho khu
vực châu Á – Thái Bình Dương để xử lý các vấn đề an ninh. Nhưng ở góc độ khác, cần
thấy rõ sự lệ thuộc với các cường quốc ngày càng tăng về lợi ích giữa các quốc gia
5

В. Путиным 30 ноября 2016 года, отмечается, что “Россия заинтересована в активном участии в интеграционных
процессах в Азиатско-Тихоокеанском регионе, использовании его возможностей при реализации программ

социально-экономического развития Сибири и Дальнего Востока, в создании в регионе всеобъемлющей, открытой,
транспарентной и равноправной архитектуры безопасности и сотрудничества на коллективных началах”. (См.: Указ
Президента Российской Федерации от 30 ноября 2016 г. № 640. URL: (дата обращения 1
декабря 2016 г.); СЗ РФ. 2016. № 49. Ст. 6886)

16


Đông Nam Á do kết quả của sự tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao, mức độ buôn bán
và đầu tư lớn giữa các nước trong khu vực đã và sẽ góp phần quan trọng thúc đẩy các
nước tìm kiếm các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp và ngăn không để xung
đột nổ ra. Hơn nữa, việc ra đời của Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình
Dương (APEC), Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF)... cũng là một trong các cố gắng
của các nước khu vực nhằm thúc đẩy việc thực hiện các mục tiêu đó.
Liên bang Nga có lợi ích chiến lược đặc biệt tại khu vực châu Á - Thái Bình
Dương nói chung cũng như khu vực Đông Nam Á nói riêng. Do đó, việc Liên bang
Nga tăng cường quan hệ với Cộng đồng ASEAN cũng như giữ vai trò chủ động hơn
trong các cơ chế khu vực, như Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS), Diễn đàn Khu
vực ASEAN (ARF) và Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+)
được cho là sẽ giúp tăng cường sự đóng góp của Liên bang Nga cho hòa bình, an ninh
và ổn định của khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á;
qua đó, thể hiện được vai trò và vị thế của Nga tại khu vực quan trọng này. Bước vào
thế kỷ XXI, các nền kinh tế khu vực ASEAN vẫn là nơi thu hút hấp dẫn đầu tư nước
ngoài, trở thành các đối tác thương mại lớn của cả Mỹ, Nhật Bản, EU, Trung Quốc, Ấn
Độ, Hàn Quốc, Australia, New Zealand.... Quan hệ ASEAN - Liên bang Nga đã phát
triển sang một giai đoạn mới khi Hội nghị Thượng đỉnh lần đầu tiên giữa hai bên được
tổ chức tại Kuala Lumpur tháng 12 năm 2005, đã tạo một khuôn khổ quan trọng làm
nền tảng cho quan hệ Nga – ASEAN phát triển trong vòng 10 đến 15 năm tới.
Dưới sự biến đổi mạnh mẽ của môi trường quốc tế và khu vực góp phần thúc
đẩy quan hệ ASEAN – Nga tiến về phía trước. Sự phục hồi và tăng trưởng kinh tế cao

của các nước ASEAN và Nga trong thập niên đầu thế kỷ XXI đã và đang tạo ra một
xung lực mới thúc đẩy sự tìm kiếm bạn hàng giữa hai thực thể này. Ngoài ra sự phong
phú về tài nguyên thiên nhiên nhất là về dầu khí và kim loại, sự hùng hậu về tiềm lực
quốc phòng và chiếm lĩnh nhiều ngành công nghệ cao cùng với tư cách là nước thành
viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc có quyền phủ quyết là cơ sở tiền
đề quan trọng cơ hội thuận lợi cho việc thúc đẩy quan hệ ASEAN – Nga lên tầm cao
mới trong thập niên tới./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Anne Booth. (2000). SOUTHEAST ASIA Towards a Sustained Recovery. Southeast Asian
Affairs.
17


Aaron Friedberg. (21/6/2011). Chủ nghĩa bá quyền với đặc tính của Trung Quốc (Hegemony
with Chinese characteristics). The National Interest, Số July-Aug.
Азиза АЛЬМУКАНОВА. (13/12/2015). Понятие «стратегическое партнерство» в
международных отношениях. el.kz/kz/news/archive/понятие-стратегическоепартнерство-в-международных-отношениях.
D.An. (26/1/2018). ASEAN - Ấn Độ: chia sẻ giá trị, cùng chung vận mệnh. Truy xuất từ
/>Baker, R.W. (1998). “The United States and APEC regime building”, in V.K Aggarwal and R.
Baker (eds) Asia- Pacific Crossroads: Regime Creation and the Future of APEC, New
York: St Martin’s Press.
Craig Caffrey (Senior Defence Budget Analyst at IHS Aerospace). China’s defence budget
more tham doubles since 2008. Defence & Security – IHS Jane’s Defence.
Crone, Donald. (1993). “Does Hegemony Matter? The Reorganization of the Pacific Political
Economy”, World Polittics, vol. 45, no. 4 (July).
David Wurfel & Bruce Burton. (1996). Southeast Asia in the New World Order, St.Martin’s
Press, Inc., Scholarly and Reference Division, New York.
Dosch, J. (2000). “Asia Pacific multilateralism and the role of the United States”,in J. Dosch
and M. Mols (eds) International Relations in the Asia – Pacific: New Patterns of Power,
Interest, and Co-operations, New York: Palgrave.

Dosch, Jorn. (2004). “The United State in the Asia Pacific”, in M.K.Connors, R.Davison, &
J.Dosch, The New Global Political of the Asia Pacific. New York: RoutledgeCurzon.
Đặng Minh Đức. (2017). Điều chính chiến lược và phương thức phát triển mới của Trung
Quốc và những tác động tới Liên bang Nga. Hà Nội: Nxb Khoa học xã hội.
Ezra F.Vogel. (1997). Living With China – U.S./China Realtion in the Twenty-First Century.
New York: W.W. Norton & Company.
Gilpin, Robert. (1993). “The Debate about the New World Economic Order”, in Danny Unger
and Paul Blackburn (eds) Japan’s Emerging Global Role (Boulder: Lynn Rienner).
Nguyễn Hoàng Giáp. (2012). Một số vấn đề chính trị quốc tế trong giai đoạn hiện nay. Hà
Nội: Nxb Chính trị quốc gia Sự thật.
Nguyễn Hoàng Giáp. (2013). Cạnh tranh chiến lược ở khu vực Đông Nam Á giữa một số
nước lớn hiện nay. Hà Nội: Nxb Chính trị quốc gia.
Huỳnh Văn Giáp. (2003). Địa lý Đông Nam Á – Môi trường tự nhiên và các đặc điểm nhân
văn, kinh tế - xã hội, Tp. HCM: Nxb ĐHQG.
Học viện Quan hệ quốc tế. (2003). Chiến lược của Mỹ ở châu Á – Thái Bình Dương sau chiến
tranh lạnh, Hà Nội.
Ivan Timofeev. (22/10/2015). “7 trends for Russian foreign policy you need to know”, Russia
Direct. Truy xuất từ />18


Ieva Gajauskaitė. Strategic Partnerships in Foreign Policy: Comparative Analysis of Polish Ukrainian and Lithuanian - Ukrainian Strategic Partnerships. Truy xuất từ
/>Joseph S. Nye Jr. (2003). Nghịch lý sức mạnh Mỹ. Phòng phiên dịch-Bộ Ngoại giao dịch,
tháng 4.
Krasner, Stephen. (1982). “Structural Causes and Regime Consequences: Regime as
Intervening Variables”, International Organization, vol. 36 (Spring).
Концепция внешней политики Российской Федерации (утверждена Президентом
Российской Федерации В.В.Путиным 30 ноября 2016 г.). (1/12/2016).
/>2248.
Vũ Khanh. (12/12/2016). Học thuyết đối ngoại Liên bang Nga 2016 có gì mới?. Truy xuất từ
/>Trần Khánh, Đàm Huy Hoàng. (2014). “Xu hướng gia tăng hợp tác kinh tế và chiến lược của

Trung Quốc với Đông Nam Á trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI”, Tạp chí Nghiên cứu
Đông Nam Á, Số 4.
Trần Khánh. (2014). “Xu hướng tái cân bằng chiến lược về kinh tế và ngoại giao của Mỹ ở
Đông Nam Á từ cuối thập niên đầu thế kỷ XXI”, Tạp chí Châu Mỹ Ngày nay, số 3; “Xu
hướng tái cân bằng chiến lược về quân sự của Mỹ ở Đông Nam Á từ cuối thập niên đầu
thế kỷ XXI”, Tạp chí Những vấn đề Kinh tế và Chính trị Thế giới, số 3.
Trần Khánh – Hồ Thị Ái Phương. (2015). Triển vọng ASEAN và sự chi phối của các nước lớn
- Những thách thức đối với Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 4 (181).
Mark Hong. The Rise of Asia and Russia's Options, Raffles Institution. Singapore
Publisher: ISEAS–Yusof Ishak Institute.
Nguyễn Văn Lan. (2007). Nhân tố địa-chính trị trong chiến lược toàn cầu mới của Mỹ đối với
khu vực Đông Nam Á. Hà Nội : Nxb Chính trị quốc gia.
Cù Chí Lợi. (2018). Điều chỉnh chiến lược của Trung Quốc và những tác động tới quan hệ
Mỹ - Trung Quốc. Hà Nội: Nxb Khoa học xã hội.
Võ Đại Lược. (2003). Bối cảnh quốc tế và những xu hướng điều chỉnh chính sách phát triển
kinh tế ở một số nước lớn. Hà Nội: Nxb Khoa học xã hội.
Ngô Hữu Mạnh. Những nhân tố thúc đẩy và hạn chế hợp tác an ninh chính trị Việt Nam Asean trong 5 năm qua. Truy xuất từ
/>McGrew, A. (1998). Restructuring foreign and defence policy: The USA, in A. McGrew and
C. Brook (eds) Asia – Pacific in the New World Order, London: Routledge.
19


Nhicolai Zlobin. (2012). Trật tự thế giới mới thứ hai – những vấn đề nan giải. Hà Nội: Nxb
Chính trị quốc gia.
Nick J. Freeman. (2001). SOUTHEAST ASIA’S ECONOMIES Corporate Sector Concerns
Return to the Fore. Southeast Asian Affairs.
An Nhiên. (11/3/2016). Quan hệ Mỹ - ASEAN : hợp tác vì tương lai. Truy xuất từ
/>Pashkov M. (2000). Реалии и Перспективы Стратегического Партнерства, Центр
Разумкова. 2012 02 01.
Putin. (28/6/2000). The Foreign Policy Concept Of The Russian Federation. Truy xuất từ

/>Stubbs, Richard and Geffrey Underhill. (1994). The Political Economyof the Changing
Global Order (Toronto: McClelland & Stewart).
Lê Văn Toan-Đỗ Đức Định. (2017). Kinh tế Ấn Độ - Tiến trình tự lực, tự cường. Hà nội: Nxb
Thông tin & truyền thông.
Đinh Công Tuấn. (2016). Quan hệ Mỹ - Nga – Trung trong trật tự thế giới mới và đối sách
của Nga. Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 2 (105), tháng 6.
Phạm Đức Thành. (2004). “Nhật Bản và Đông Nam Á”, Đông Á , Đông Nam Á –Những vấn
đề lịch sử và hiện tại. Hà Nội: Nxb Thế giới.
Tôn Sinh Thành. (2017). Hợp tác khu vực châu Á: Nhân tố ASEAN và Ấn Độ. Hà Nội: Nxb
Chính trị quốc gia.
Wang Hui. (02/4/2017). The Politics of Imagining Asia: Empires, Nations, Regional and
Global Orders, The Asia-Pacific Journal, vol 5. Truy xuất từ />Wilson, R. (2000). “Imagining “Asia-Pacific”: Forgetting politics and colonialism in the
magical waters of the Pacific: An Americanist critique”. Cultural Studies.

20



×