Tải bản đầy đủ (.docx) (103 trang)

ĐÁNH GIÁ SỰ VẬN DỤNG CHÍNH SÁCH KẾ TOÁN TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN IN VÀ DỊCH VỤ ĐÀ NẴNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.03 MB, 103 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC DUY TÂN

TRẦN VŨ KIM LIÊN

ĐÁNH GIÁ SỰ VẬN DỤNG CHÍNH SÁCH KẾ TOÁN TẠI CÔNG TY
CỔ PHẦN IN VÀ DỊCH VỤ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành : Kế toán
Mã số

: 60.34.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KẾ TOÁN

Người hướng dẫn khoa học : TS. PHAN THANH HẢI

Đà Nẵng – Năm 2017


MỤC LỤC

4


MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp trên Thành phố Đà
Nẵng nói riêng và trên cả nước nói chung đang bước vào một cuộc chiến thật sự
khốc liệt, có nhiều cơ hội kinh doanh mở ra nhưng cũng đầy ắp những rủi ro. Hiện


nay, báo cáo tài chính được nhiều đối tượng sử dụng vì nó phản ánh tổng quát nhất
4

về tình trạng tài chính của doanh nghiệp. Chính vì vậy mức độ trung thực và hợp lý
trên BCTC luôn là vấn đề được các doanh nghiệp chú trọng.
Ở nước ta, báo cáo tài chính được lập dựa trên các chuẩn mực kế toán, chế
độ kế toán và các thông tư hướng dẫn, mà các chuẩn mực kế toán chính là điều kiện
để các doanh nghiệp lựa chọn và vận dụng linh hoạt các chính sách kế toán nhằm
quản trị lợi nhuận theo từng mục tiêu khác nhau. Tuy nhiên, một hiện tượng tồn tại
ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ là thường chạy số liệu vào cuối năm để điều chỉnh
lợi nhuận, hoặc kế toán ở các doanh nghiệp thực hiện chỉ theo mục đích tính thuế,…
Do vậy, BCTC của Công ty khi công bố phần nào thể hiện ý chí của người chủ
doanh nghiệp. Đây chính là áp lực đối với bộ phận kế toán của doanh nghiệp, vì vậy
đánh giá sự vận dụng chính sách kế toán phù hợp với đơn vị là rất cần thiết.
Chính sách kế toán được đề cập trong các chuẩn mực kế toán Việt Nam từ
khi hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam vừa ban hành vào năm 2001 và ngày
càng là mối quan tâm của nhiều đối tượng sử dụng chính sách kế toán nói chung và
sử dụng BCTC nói riêng. Trên cơ sở kinh nghiệm thực tập tại Công ty, tác giả rút ra
được những vướng mắc của kế toán khi Công ty áp dụng chính sách kế toán hiện
tại, từ đó kết hợp với mục tiêu tài chính của doanh nghiệp, đặc điểm sản xuất kinh
doanh của Công ty để xây dựng chính sách kế toán phù hợp hơn.
Công Ty Cổ Phần In và Dịch Vụ Đà Nẵng là một trong những doanh nghiệp
sản xuất, với hoạt động kinh doanh đa dạng, với nhiều cơ sở ở nhiều nơi nên việc
đánh giá vận dụng chính sách kế toán cần phải xem xét. Mặc dù đơn vị này đã hoạt
động và đã có chính sách kế toán được công bố trên thuyết minh BCTC nhưng có
một số mục chưa được rõ ràng. Chính vì lý do đó tôi quyết định chọn đề tài “ Đánh
giá sự vận dụng chính sách kế toán tại Công Ty Cổ Phần In và Dịch Vụ Đà


Nẵng”


2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Trên cơ sở khái quát lý luận về chính sách kế toán trong doanh nghiệp, luận
văn tìm hiểu và đánh giá thực trạng vận dụng chính sách kế toán tại Công Ty Cổ
Phần In và Dịch Vụ Đà Nẵng. Từ đó luận văn đề ra các giải pháp hoàn thiện việc
vận dụng chính sách kế toán phù hợp với các yêu cầu quản lý và đặc thù hoạt động
4

tại Công ty.
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, luận văn tập trung nghiên cứu các 3 mục
tiêu sau:
- Tổng quát, hệ thống các vấn đề lý luận cơ bản về việc vận dụng chính sách
kế toán
- Đánh giá thực trạng chính sách kế toán hiện nay tại Công ty
- Giải pháp hoàn thiện chính sách kế toán để đáp ứng mục tiêu của nhà quản
lý.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tìm hiểu về việc vận dụng các chính sách
kế toán hiện tại; tập trung tìm hiểu, nghiên cứu các mục tiêu của nhà quản trị, đặc
điểm kinh doanh chủ yếu tại Công Ty Cổ Phần In và Dịch Vụ Đà Nẵng.
- Phạm vi nghiên cứu :
+ Về không gian: Tác giả tập trung đánh giá vận dụng chính sách kế toán tại
Công Ty Cổ Phần In và Dịch Vụ Đà Nẵng.
+ Về thời gian: số liệu sử dụng trong luận văn là số liệu từ năm 2013 đến
năm 2015 của Công Ty Cổ Phần In và Dịch Vụ Đà Nẵng.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận văn sử dụng phương pháp để giải quyết mục tiêu nghiên cứu. Do đề tài
liên quan đến một doanh nghiệp cụ thể trong một giai đoạn 2013-2015 nên phương
pháp cụ thể như sau:
- Chọn cách tiếp cận nghiên cứu tình huống tại Công ty Cổ Phần In và Dịch

Vụ Đà Nẵng bằng việc xem xét các chính sách kế toán công bố qua thuyết minh
BCTC 2 năm 2013-2015. Sau đó, luận văn sẽ khảo sát các số liệu kế toán để chứng


thực các chính sách kế toán đó tại đơn vị.
- Kết hợp sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, suy luận để nghiên cứu,
đánh giá sự vận dụng chính sách kế toán tại Công Ty Cổ Phần In và Dịch vụ Đà
Nẵng. Qua đó, đánh giá sự vận dụng chính sách kế toán phù hợp các mục tiêu tài
chính, đặc điểm kinh doanh hiện tại và trong thời gian tới của Công ty.
5. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
4

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, bảng biểu luận
văn được chia làm 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về chính sách kế toán trong các doanh nghiệp
Chương 2: Thực tế vận dụng chính sách kế toán tại Công Ty Cổ Phần In và Dịch Vụ
Đà Nẵng.
Chương 3: Hoàn thiện vận dụng chính sách kế toán tại Công Ty Cổ Phần In và Dịch
Vụ Đà Nẵng
6. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU LUẬN VĂN
Chính sách kế toán được đề cập trong các chuẩn mực kế toán Việt Nam từ
khi hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam vừa được ban hành vào năm 2001 và
ngày càng là mối quan tâm của nhiều đối tượng sử dụng chính sách kế toán nói
chung và sử dụng BCTC nói riêng, vì mỗi sự lựa chọn chính sách kế toán khác nhau
sẽ làm ảnh hưởng đến số liệu và thông tin của doanh nghiệp trên BCTC, đồng thời
do doanh nghiệp có quyền lựa chọn các chính sách kế toán cho phù hợp với đặc
điểm của Công ty, từ đó kết hợp với mục tiêu tài chính của doanh nghiệp, đặc điểm
sản xuất kinh doanh của Công ty để nghiên cứu chính sách kế toán phù hợp hơn.
Sau đây là một số tài liệu có liên quan được sử dụng để phục vụ cho việc
nghiên cứu đề tài:

Nghiên cứu TS. Trần Đình Khôi Nguyên (2010), “ Bàn về mô hình các nhân
tố ảnh hưởng đến vận dụng chế độ kế toán trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ” đã
thu thập thông tin qua bảng câu hỏi, kết quả điều tra thử nghiệm nhằm nghiên cứu
những chuẩn mực kế toán nào thường sử dụng phổ biến ở các doanh nghiệp và nhận
thức của kế toán viên, cán bộ thuế và các nhân tố ảnh hưởng đến việc công tác kế
toán hàng ngày ở doanh nghiệp như thế nào. Kết quả đã chỉ ra những hạn chế về


trình độ của kế toán viên cùng với sự tác động của hệ thống pháp luật đã ảnh hưởng
đáng kể đến việc vận dụng chuẩn mực; công tác kế toán ở các doanh nghiệp chỉ chú
trọng cho mục đích kê khai thuế, sự thay đổi cơ chế quản lý doanh nghiệp từ cơ
quan thuế cũng được xem là một nhân tố ảnh hưởng đến việc vận dụng chế độ kế
toán, chi phí cho công tác kế toán vẫn chưa được đánh giá cao trong việc ảnh hưởng
đến chất lượng thông tin kế toán và việc vận dụng các chuẩn mực kế toán.
4

Nguyễn Thị Kim Oanh ( 2012), “ Đánh giá sự vận dụng các chính sách kế
toán tại Công ty Lương thực và thực phẩm Quảng Nam”, và Lê Thị Chi (2012),
“Hoàn thiện chính sách kế toán tại Công Ty Cổ Phần Vật Tư Tổng Hợp Phú Yên” –
Luận văn thạc sỹ, Đại học Đà Nẵng. Các tác giả đã đi sâu nghiên cứu các chính
sách kế toán đang vận dụng tại Công ty CP lương thực và thực phẩm Quảng Nam
và Công ty CP Vật tư tổng hợp Phú yên thông qua phương pháp phỏng vấn, xem xét
số liệu, đối chiếu với các chuẩn mực kế toán. Các chính sách kế toán được trình bày
là các chính sách liên quan chủ yếu đến hoạt động của Công ty như các chính sách
về hàng tồn kho, TSCĐ, lập dự phòng khoản nợ phải thu khó đòi, ghi nhận doanh
thu, ghi nhận chi phí,...Kết quả chỉ ra, các chính sách kế toán đang được áp dụng tại
Công ty nhằm né tránh thuế, tuy nhiên để đảm bảo mục tiêu lợi nhuận trên vốn chủ
sở hữu hợp lý, Công ty cũng vận dụng một số chính sách để quản trị lợi nhuận..
Bộ phận kế toán vẫn chưa có sự chú trọng đến việc sử dụng các chính sách
kế toán đã hợp lý hay chưa, đã đáp ứng được nhu cầu của nhà quản trị hay chưa? Từ

đó, các tác giả cũng đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện việc nghiên cứu chính
sách kế toán tại Công ty như thay đổi các tính giá trị hàng xuất kho, hoàn nhập dự
phòng, hoàn thiện việc công bố các thông tin liên quan đến các chính kế toán trên
thuyết minh BCTC... Tuy nhiên các nghiên cứu trên vẫn chưa nghiên cứu được toàn
diện tất cả các chính sách kế toán đang được áp dụng ở công ty, đồng thời chưa
phân tích sâu các nhân tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn phương pháp và chính sách kế
toán ở doanh nghiệp.
Mai Thị Hạnh (2013), “ Xây dựng chính sách kế toán tại Chi Nhánh Công
Ty Cổ Phần Nam Việt Úc tại Đà Nẵng”, Luận văn thạc sỹ, Đại học Đà Nẵng. Tác
giả đã nghiên cứu thực trạng chính sách kế toán tại Chi nhánh Công ty Cổ phần


Nam Việt Úc tại Đà Nẵng với hoạt động kinh doanh sản xuất, thương mại, thi công
nội thất nhà. Việc nghiên cứu thông qua phương pháp phỏng vấn, so sánh, tổng hợp
đối chiếu với chuẩn mực kế toán. Tác giả nêu lên các nhân tố ảnh hưởng đến việc
xây dựng chính sách kế toán của doanh nghiệp gồm yếu tố đặc điểm kinh doanh,
yếu tố mục tiêu quản lý và yếu tố trình độ kế toán. Trong đề tài có trình bày các nội
dung về chính sách kế toán chung; các chính sách kế toán chủ yếu gồm chính sách
4

hàng tồn kho, tài sản cố định, nợ phải thu, doanh thu, chi phí; các chính sách liên
quan công bố thông tin trên thuyết minh báo cáo tài chính tại công ty. Kết quả cho
thấy mục tiêu quản trị tại công ty là tối thiểu hóa chi phí thuế thu nhập doanh
nghiệp, trì hoãn việc nộp thuế GTGT phải nộp trong kỳ. Mặc khác, bộ phận kế toán
vẫn chưa chú trọng việc vận dụng chính sách kế toán hợp lý, chưa đáp ứng nhu cầu
nhà quản trị. Từ đó, tác giả đề xuất xây dựng một số chính sách kế toán tại công ty
như thay đổi phương pháp tính giá hàng xuất kho, phân loại lại vật tư, hàng hóa
theo chức năng và giá trị, lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho, lập dự phòng nợ
phải thu khó đòi, xây dựng các chính sách liên quan công bố thông tin.
Tóm lại, tất cả các luận văn trên đây nghiên cứu về chính sách kế toán chỉ

mới dừng lại ở góc độ phản ánh thực trạng rồi đưa ra giải pháp hoàn thiện hoặc
phản ánh thực trạng lựa chọn chính sách kế toán là do ảnh hưởng của cơ quan thuế,
chưa có nghiên cứu nào từ việc nghiên cứu thực trạng, mục tiêu tài chính, đặc điểm
sản xuất kinh doanh của đơn vị rồi nghiên cứu chính sách kế toán cụ thể phù hợp
với mục tiêu tài chính, đặc điểm kinh doanh, những tồn tại hiện tại và yêu cầu của
Ban quản lý đơn vị.


8

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ CHÍNH SÁCH KẾ TOÁN TRONG
DOANH NGHIỆP
1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA CHÍNH SÁCH KẾ TOÁN
1.1.1. Khái niệm chính sách kế toán
Theo chuẩn mực kế toán số 29, ban hành và công bố theo Quyết định số
12/2005/QĐ-BTC ngày 15 tháng 02 năm 2005 của Bộ trưởng Bộ tài chính thuật
ngữ “ Chính sách kế toán” được định nghĩa là các nguyên tắc, cơ sở và phương
pháp kế toán cụ thể được công ty áp dụng trong việc lập và trình bày báo cáo tài
chính
Khi quyết định việc lựa chọn và sử dụng chính sách kế toán cụ thể trong báo
cáo tài chính người đứng đầu trong doanh nghiệp phải xem xét việc diễn giải này có
giúp cho người sử dụng hiểu được cách thức phản ánh các nghiệp vụ giao dịch
trong kết quả hoạt động kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Các chính sách kế toán doanh nghiệp thường đưa ra gồm: Ghi nhận doanh
thu; Hợp nhất công ty con và công ty liên kết; Hợp nhất kinh doanh; Các liên
doanh; Ghi nhận và phân bổ khấu hao tài sản cố định, phân bổ chi phí trả trước và
các khoản chi phí đi vay và các khoản chi phí khác; hàng tồn kho; các khoản dự
phòng;… Các chuẩn mực kế toán khác sẽ quy định một cách cụ thể việc trình bày
chính sách kế toán trong các lĩnh vực trên.

Mỗi doanh nghiệp cần xem xét bản chất hoạt động và chính sách của mình
để trình bày loại hình doanh nghiệp trên báo cáo tài chính. Khi một doanh nghiệp
thực hiện những nghiệp vụ ở nước ngoài có những giao dịch bằng ngoại tệ, thì
những người sử dụng sẽ mong đợi có phần diễn giải về các chính sách kế toán đối
với việc ghi nhận các khoản lãi và lỗ chênh lệch tỷ giá hối đoái và việc dự phòng rủi
ro hối đoái. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng có thể linh hoạt lựa chọn các chính
sách kế toán phù hợp cho mình. Việc diễn giải các chính sách không được quy định
trong các chuẩn mực kế toán hiện hành, nhưng được lựa chọn và áp dụng phù hợp
phải nằm trong khuôn khổ quy định của pháp luật.


9

1.1.2. Các đặc trưng của chính sách kế toán
Qua khái niệm cho thấy chính sách kế toán có những đặc trưng sau:
Chính sách kế toán bao gồm những nguyên tắc kế toán cụ thể: Nguyên tắc kế
toán được hiểu là các quy định, các thủ tục cho việc ghi nhận, đo lường các yếu tố
của BCTC để việc lập BCTC đạt được độ tin cậy cao, dễ hiểu và dễ so sánh. Các
nguyên tắc nền tảng cho BCTC được gọi là các nguyên tắc kế toán chung được thừa
nhận ( Generally Accepted Accounting Principles – GAAP). Đây là nguyên tắc
chung có tính chất bắt buộc đối với tất cả các doanh nghiệp, như: nguyên tắc kỳ kế
toán, nguyên tắc phù hợp, nguyên tắc giá gốc, nguyên tắc nhất quán, nguyên tắc
thận trọng, cơ sở dồn tích… Các doanh nghiệp có thể vận dụng các nguyên tắc một
cách linh họat nhưng nằm trong giới hạn cho phép để thay đổi các thông tin cung
cấp ra bên ngoài nhằm đáp ứng mục tiêu của nhà quản trị, như: Chuyển sau các kỳ
sau hoặc ghi nhận sớm hơn một số loại chi phí, như vậy sẽ làm giảm hoặc tăng chi
phí của niên độ hiện tại. Những loại chi phí này có thể được ghi nhận vào kỳ phát
sinh hoặc phân bổ cho một số kỳ theo nguyên tắc phù hợp, từ đó sẽ ảnh hưởng đến
lợi nhuận trong kỳ.
Chính sách kế toán bao gồm những lựa chọn trong công tác kế toán tùy theo

đặc thù và yêu cầu quản lý của mỗi đơn vị. Do đặc điểm sản xuất kinh doanh mỗi
doanh nghiệp là khác nhau nên các chuẩn mực kế toán luôn cho phép các doanh
nghiệp lựa chọn một cách thức đo lường phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh
của đơn vị mình. Việc lựa chọn và áp dụng các phương pháp khác nhau trong một
chính sách kế toán sẽ làm thay đổi thông tin trên BCTC nhằm hướng đến các lợi ích
khác nhau của doanh nghiệp như: thuế, lợi tức cổ đông, thu hút nhà đầu tư, vay vốn
ngân hàng… Ví dụ như: Với mỗi phương pháp xác định giá trị hàng xuất kho khác
nhau( Bình quân, nhập trước – xuất trước, thực tế đích danh, giá bán lẻ) sẽ có kết
quả giá vốn hàng bán khác nhau, từ đó ảnh hưởng đến lợi nhuận báo cáo trong kỳ;
lựa chọn phương pháp khấu hao TSCĐ khác nhau( Đường thẳng, sản lượng, số dư
điều chỉnh…) sẽ cho giá trị khấu hao TSCĐ khác nhau trong kỳ và sẽ làm cho lợi
nhuận trong kỳ báo cáo khác nhau giữa các phương pháp lựa chọn,…


10

Chính sách kế toán bao gồm các ước tính kế toán. Ước tính kế toán là các
khoản mục trên BCTC mà giá trị của chúng được ước tính chứ không thể đo lường
một cách chính xác, điều này là do chuẩn mực không thể cụ thể hóa được tất cả các
vấn đề phát sinh ở các đơn vị với tất cả các lĩnh vực. Các ước tính được sử dụng
trong kế toán nhằm đảm bảo cho thông tin trên BCTC phản ánh một cách trung
thực, đúng bản chất và hợp lý tình hình tài chính, tình hình kinh doanh của đơn vị.
Mức độ sử dụng các ước tính trong kế toán phụ thuộc nhiều vào các nguyên tắc kế
toán là nền tảng xây dựng chuẩn mực kế toán của mỗi nước, phù hợp với mức độ
phát triển kinh tế xã hội của quốc gia đó.
Theo hệ thống chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành, các ước
tính kế toán chủ yếu hai loại sau:
+ Thứ nhất: Ước tính kế toán liên quan đến các nghiệp vụ đã phát sinh như:
Khấu hao TSCĐ, phân bổ chi phí trả trước, ước tính doanh thu được ghi nhận theo
hợp đồng xây dựng, các khoản dự phòng về tổn thất tài sản ( dự phòng giảm giá

hàng tồn kho, dự phòng đầu tư tài chính, dự phòng nợ phải thu khó đòi…)
+ Thứ hai: Ước tính liên quan đến các khoản mục chưa phát sinh như: Các
khoản dự phòng về bảo hành sản phẩm, chi phí trả trước, dự phòng về tái cơ cấu
doanh nghiệp,…
Để đưa ra các ước tính này, người lập BCTC phải sử dụng các “ xét đoán
nghề nghiệp”. Vì xét đoán nên các ước tính này thường mang tính chủ quan, người
sử dụng BCTC khó có cơ sở để đánh giá tính hợp lý nên tính tin cậy các ước tính kế
toán là vấn đề mà người sử dụng BCTC đặc biệt quan tâm.
1.2. VAI TRÒ CỦA CHÍNH SÁCH KẾ TOÁN
- Đối với các đối tượng bên trong doanh nghiệp:
+ Đối với kế toán viên: Chính sách kế toán là cơ sở giúp các kế toán viên
thực hiện các công việc như đo lường đối tượng kế toán và các nguyên tắc công bố
thông tin kế toán trên báo cáo tài chính phù hợp với quy định pháp luật.
+ Đối với nhà quản trị: Do doanh nghiệp có tính tự chủ trong việc sử dụng
các nguồn lực của mình nên nhà quản trị cần có thông tin để hoạch định, tổ chức và
kiểm soát toàn bộ tài sản và hoạt động kinh doanh của mình. Chính sách kế toán là


11

phương tiện giúp nhà quản trị kiểm tra, kiểm soát tình hình biến động và sử dụng
nguồn lực trong hoạt động kinh doanh. Từ đó, giúp nhà quản trị có thể xây dựng các
kế hoạch ngắn hạn, trung hạn và dài hạn trong hoạt động kinh doanh. Ngoài ra,
thông qua chính sách kế toán, nhà quản trị có thể điều chỉnh lợi nhuận theo mong
muốn nhằm đạt được những mục tiêu của nhà quản trị.
- Đối với các đối tượng ngoài doanh nghiệp:
+ Đối với cơ quan thuế, tổ chức kiểm toán độc lập: Thông qua chính sách
kế toán được công bố của doanh nghiệp, là cơ sở để kiểm tra tình hình tuân thủ
pháp luật kế toán của các doanh nghiệp, đánh giá về tính trung thực và hợp lý của
thông tin kế toán phản ánh trên báo cáo tài chính.

+ Đối với nhà đầu tư, ngân hàng, các tổ chức tín dụng: Thông qua chính
sách kế toán cũng như thông tin trên báo cáo tài chính, giúp để đánh giá thực trạng
tài chính, hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Qua đó, có thể đưa ra
những quyết định tài trợ, đầu tư vốn thích hợp đối với từng doanh nghiệp nhàm bảo
toàn vốn và tối đa hóa lợi ích của mình.
Những phân tích trên cho thấy, việc vận dụng chính sách kế toán có vai trò
quan trọng vì nó ảnh hưởng đến thông tin kế toán trình bày trên báo cáo tài chính
của doanh nghiệp. Trong điều kiện kinh tế thị trường, nhận thức đúng đắn vai trò
này là rất cần thiết để vận dụng và lựa chọn các chính sách kế toán ở mỗi doanh
nghiệp vừa đảm bảo nhu cầu thông tin cho quản lý nội bộ, vừa đảm bảo nhu cầu
thông tin cho các đối tượng bên ngoài.
1.3. CÁC MỤC TIÊU CỦA DOANH NGHIỆP ẢNH HƯỞNG ĐẾN XÂY
DỰNG CHÍNH SÁCH KẾ TOÁN TẠI DOANH NGHIỆP
1.3.1. Mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp
Quản trị lợi nhuận là hành động điều chỉnh lợi nhuận kế toán của nhà quản trị


12

doanh nghiệp nhằm đạt được lợi nhuận mục tiêu thông qua công cụ kế toán.
Kế toán được xem là một công cụ của người quản lý để kiểm tra, giám sát
mọi hoạt động và vận hành doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Nếu nhà quản trị
coi trọng vai trò của kế toán đối với công tác quản lý thì có thể yêu cầu kế toán sử
dụng các chính sách kế toán phù hợp để đạt được mục tiêu lợi nhuận của doanh
nghiệp.
Tùy thuộc vào mục tiêu điều chỉnh tăng hay giảm lợi nhuận mà kế toán sẽ vận
dụng các chính sách kế toán phù hợp để điều chỉnh lợi nhuận theo yêu cầu của nhà
quản trị doanh nghiệp.
Mặt khác, khi nhà quản trị cần những thông tin của kế toán để cung cấp ra
bên ngoài cho các đối tác của doanh nghiệp thì cũng có thể yêu cầu kế toán vận

dụng các chính sách kế toán sao cho thông tin cung cấp có lợi nhất cho doanh
nghiệp.
1.3.2. Mục tiêu về thuế thu nhập doanh nghiệp
Nếu mức thuế suất của thuế thu nhập doanh nghiệp thay đổi thì các doanh
nghiệp có xu hướng vận dụng các chính sách kế toán sao cho mức thuế suất phải
nộp là ít nhất, hoặc nếu mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp không thay đổi
thì các doanh nghiệp cũng sẽ vận dụng các chính sách kế toán sao cho số thuế thu
nhập doanh nghiệp phải nộp hiện tại ít hơn so với tương lai để sử dụng khoản thuế
chậm nộp đầu tư vào các nhu cầu khác của doanh nghiệp.
Theo các tài liệu nghiên cứu thì thuế luôn là yếu tố quyết định đến việc vận
dụng các chính sách kế toán. Đây là nhân tố mạnh mẽ nhất.
Các nghiên cứu của Wolfson ( 1993), Cloyd ( 1996) và Bosnyák ( 2003) tại
Hungary về lựa chọn chính sách kế toán của các tập đoàn lớn và doanh nghiệp nhỏ
đã xác nhận phát hiện của mình về tác động của thuế đến kế toán, thuế luôn là yếu


13

tố mạnh mẽ nhất ảnh hưởng đến sự lựa chọn chính sách kế toán.
Các doanh nghiệp luôn có xu hướng giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải
nộp ở mức có thể. Tuy nhiên nhiều kế toán ở nước ta lại chưa nghĩ đến việc vận
dụng các chính sách kế toán khác nhau để điều chỉnh tăng giảm thuế thu nhập
doanh nghiệp phải nộp.
1.4. MỘT SỐ NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC ĐÁNH GIÁ SỰ VẬN
DỤNG CHÍNH SÁCH KẾ TOÁN CỦA ĐƠN VỊ
1.4.1. Thông tin trên thị trường
Khi nhu cầu về thông tin trên báo cáo tài chính có tính chất quyết định đối
với doanh nghiệp thì doanh nghiệp sẽ vận dụng chính sách kế toán để đưa ra những
thông tin có lợi nhất cho doanh nghiệp.
Đối với các nhà đầu tư: Trong một nền kinh tế mà nguồn vốn chủ yếu huy

động qua thị trường vốn thì vai trò của các nhà đầu tư được đặc biệt quan tâm. Việc
cung cấp các thông tin tài chính minh bạch cho các nhà đầu tư góp phần giảm thiểu
rủi ro và công cụ truyền đạt thông tin tình hình tài chính của doanh nghiệp đến các
nhà đầu tư chính là báo cáo tài chính. Khi thông tin trình bày trên báo cáo tài chính
của doanh nghiệp có ảnh hưởng đến quyết định các nhà đầu tư vào doanh nghiệp thì
doanh nghiệp sẽ vận dụng chính sách kế toán nhằm cung cấp thông tin trên báo cáo
tài chính là tích cực về doanh nghiệp đối với các nhà đầu tư.
Đối với ngân hàng: Trước khi cho doanh nghiệp vay vốn, ngân hàng tiến hành
xem xét mục đích sử dụng vốn vay của doanh nghiệp qua kế hoạch kinh doanh của
doanh nghiệp trong tương lai, đồng thời ngân hàng cũng phân tích các chỉ tiêu trên
báo cáo tài chính nhằm xác định tình hình tài chính của doanh nghiệp, thông qua đó
thấy được nhu cầu vốn của dự án, xem xét khả năng tự tài trợ của doanh nghiệp và
khả năng trả nợ của doanh nghiệp trong tương lai để đưa ra mức cho vay hợp lý
nhất. Điều này dẫn đến động cơ điều chỉnh lợi các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính
nhằm làm cho thông tin trên BCTC theo hướng tích cực để đáp ứng được yêu cầu
của ngân hàng.
Đối với cơ quan thuế: Việc cung cấp thông tin về nghĩa vụ của doanh nghiệp


14

thông qua báo cáo tài chính là một vấn đề được hầu hết các doanh nghiệp quan tâm.
Các doanh nghiệp ở Việt Nam hầu như chưa phân biệt rõ được giữa chi phí tính
thuế và chi phí kế toán, lợi nhuận kế toán và thu nhập chịu thuế. Mục tiêu của các
doanh nghiệp chủ yếu là đối phó với cơ quan thuế, điều này dẫn đến xu hướng các
doanh nghiệp thường áp dụng những chính sách kế toán sao cho cuối cùng là lợi
nhuận thấp nhất để tiết kiệm được chi phí thuế.
Chất lượng thông tin trên BCTC của doanh nghiệp thường bị ảnh hưởng bới
các nhân tố sau:
Chính sách kế toán mà doanh nghiệp đang áp dụng để phản ánh các nghiệp

vụ kinh tế phát sinh và lập BCTC. Ở một nền kinh tế có hệ thống kế toán bao gồm
các chính sách kế toán được ban hành và xây dựng phù hợp với nền kinh tế đó thì sẽ
tạo ra nền tảng cho BCTC các doanh nghiệp trong nền kinh tế phản ánh một cách
nhất quán và đầy đủ về tình hình tình tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp dựa trên các quy ước và nguyên tắc được công nhận trong hệ thống kế
toán đó. Mặc dù chế độ kế toán thường xuyên được thay đối và cập nhật cho phù
họp với xu thế phát triển nền kinh tế thị trường, song khó có thể đáp ứng kịp theo sự
phát triển của thị trường, vì vậy có một số nghiệp vụ kinh tế - tài chính hoạch toán
theo chế độ kế toán hiện tại vẫn không đáp ứng được bản chất của nghiệp vụ.
Tính minh bạch trong việc lập và trình bày BCTC: Theo Cooke (1989) và
Rafoumier (1995) khi nghiên cứu về các công ty tại Thụy Điển thì có mối quan hệ
giữa quy mô của doanh nghiệp với mức độ công bố thông tin. Theo đó, các doanh
nghiệp có quy mô nhỏ thường ít tiết lộ thông tin kể toán hơn, đồng thời việc lựa
chọn chính sách kế toán và công bố thông tin dựa trên năng lực cá nhân của họ và
tùy từng đối tượng sử dụng BCTC như: ngân hàng, thuế,...
Tại Việt Nam, các BCTC được kiểm toán thì cung cấp thông tài chính đáng
tin cậy hơn các BCTC chưa được kiểm toán, kế toán luôn cân nhắc nhu cầu thông
tin giữa các bên để lựa chọn chính sách kế toán cho phù hợp.
Việc cung cấp thông tin kế toán còn phụ thuộc vào tình hình sản xuất kinh
doanh của công ty. Theo Steven C.Hall và Stammerjohan, khi doanh nghiệp đang
thời kỳ sa thải lớn thì các nhà quản lý thường có động cơ sử dụng chính sách kế


15

toán để quản lý thu nhập [12, tr.33], lựa chọn chính sách kế toán làm giảm thu nhập
trong giai đoạn hiện tại sẽ cho phép báo cáo thu nhập thuận tiện hơn trong tương lai.
Ngoài ra, để tránh tác động tiêu cực của việc sa thải trên tinh thần nhân viên còn lại,
công ty cần chứng minh sự cần thiết phải sa thải (vì hoàn cảnh tài chính khó khăn
nên không có sự lựa chọn nào khác) và có thể báo cáo thu nhập được cải thiện hơn

sau đó để giảm bớt phải sa thải thêm. Như vậy, việc hiểu biết về hành vi kế toán
hiện tại xung quanh quyết định sa thải sẽ giúp các đối tượng hiểu rõ hơn về tình
hình tài chính thực sự của doanh nghiệp.
1.3.2. Đặc thù của doanh nghiệp
Việc sử dụng các chính sách kế toán để điều chỉnh thông tin trên BCTC phụ
thuộc vào hình thức sở hữu vốn của doanh nghiệp. Theo V. Gopalakrishnan, các
công ty không sử dụng vốn vay thường lựa chọn phương pháp kế toán làm tăng thu
nhập nhiều hơn so với các doanh nghiệp có sử dụng vốn vay [13, tr.33-34]. Hai giả
thuyết được sử dụng rộng rãi trong các tài liệu về lựa chọn chính sách kế toán là: (1)
Lý thuyết nợ/vốn chủ sở hữu: nếu các yếu tố khác không thay đổi, tỷ lệ nợ/vốn chủa
sở hữu các công ty càng lớn thì càng nhiều khả năng quản lý các công ty chọn
phương pháp kế toán nhằm chuyển đổi thu nhập báo cáo từ kỳ tương lai về kỳ hiện
tại; và (2) Giả thuyết về quy mô: nếu các yếu tố khác không đồi, quy mô của công
ty càng lớn thì càng nhiều khả năng các nhà quản lý công ty lựa chọn các phương
pháp kế toán nhằm trì hoãn thu nhập báo cáo từ kỳ hiện tại sang các kỳ sau.
Các doanh nghiệp có đặc thù khác nhau thì sẽ vận dụng chính sách kế toán
khác nhau để điều chỉnh thông tin trên BCTC. Chẳng hạn, các doanh nghiệp có
hàng tồn kho chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị tài sản thì sẽ vận dụng chính sách
kế toán liên quan đến hàng tồn kho để điều chỉnh, như: phương pháp tính giá xuất
kho của hàng tồn kho, việc trích lập dự phòng giảm giá của hàng tồn kho; nếu
doanh nghiệp có giá trị TSCĐ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị tài sản của
doanh nghiệp thì sẽ vận dụng chính sách kế toán liên quan đến TSCĐ, như: phương
pháp trích khấu hao TSCĐ, phân bổ chi phí trả trước (nếu không trích trước chi phí
sửa chữa TSCĐ), chi phí phải trả (nếu trích trước chi phí sửa chữa TSCĐ) để điều
chỉnh thông tin; nếu doanh nghiệp sản xuất thì sẽ vận dụng các chính sách kế toán


16

liên quan đến việc đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ; các doanh nghiệp xây lắp sẽ

quan tâm đến chính sách ước lượng phần trăm công việc hoàn thành (với các họp
đồng ghi nhận doanh thu theo tiến độ kế hoạch) để ghi nhận doanh thu và chi phí,...
Thông thường doanh nghiệp thường vận nhiều chính sách kế toán để điều chỉnh
thông tin trên BCTC phù họp với mục đích của doanh nghiệp.
1.3.3. Trình độ chuyên môn của kế toán
Hiện nay, nguồn lực kế toán, kiểm toán chất lượng cao đang thực sự khan
hiếm. Trình độ đào tạo kế toán, kiểm toán của Việt Nam nói chung còn quá yếu,
thiếu thực tiển so với thế giới. Nếu trong một đơn vị, đội ngũ kế toán còn non trẻ,
thiểu kinh nghiệm sẽ gây khó khăn cho đơn vị rất nhiều, như ghi nhận doanh thu
sai, chi phí sai lệch,... Điều này ảnh hưởng đến tình hình tài chính của doanh
nghiệp, làm cho doanh nghiệp đi không đúng hướng và dẫn đến phá sản.
Trình độ kế toán viên ảnh hưởng đến khả năng lựa chọn chính sách kế toán
để tối đa hóa lợi ích của doanh nghiệp. Trên thực tế, các kế toán viên ít quan tâm
đến nội dung các chuẩn mực mà chỉ quan tâm đến các thông tư hướng dẫn do Bộ tài
chính ban hành. Nhiều kế toán viên chỉ vận dụng các chính sách kể toán theo thói
quen để công việc được nhẹ nhàng nhất chứ chưa thực sự thỏa mãn được nhu cầu
của nhà quản trị trong việc quản trị lợi nhuận và điều chỉnh thông tin trên báo cáo
tài chính. Do vậy, đây được xem là rào cản lớn ảnh hưởng đến việc vận dụng các
chuẩn mực kế toán.
Trên thực tể, nhiều kế toán vẫn chưa hiểu được đúng đắn giữa lơi nhuận kế
toán và thu nhập chịu thuế, kế toán vẫn xem số liệu kế toán chủ yếu là nguồn thông
tin cho cơ quan thuế, do đó số liệu kế toán phải phản ánh phù hợp với các quy định
về thuế. Thay vì tập trung vào việc trình bày trung thực và hợp lý tính hình tài chính
và kinh doanh của doanh nghiệp thì kế toán hầu hết chỉ chú trọng cho mục đích kê
khai thuế. Trong nhiều trường hợp, kế toán chỉ mới quan tâm đến mục đích tính
thuế, nên bỏ qua rất nhiều sự lựa chọn về chính sách kế toán có thể áp dụng.
Do đó, để kế toán viên phải nâng cao trình độ của mình, đồng thời quan tâm
đến việc vận dụng chính sách kế toán để xử lý thông tin tài chính tốt thì chủ doanh
nghiệp phải có yêu cầu cao về thông tin kế toán.



17

1.4. CÁC CHÍNH SÁCH KẾ TOÁN ÁP DỤNG TRONG DOANH NGHIỆP
Chọn lựa chính sách kế toán là việc cân nhắc nằm trong khuôn khổ của
chuẩn mực kế toán về các nguyên tắc, cơ sở và các phương pháp kế toán mà doanh
nghiệp có thể áp dụng trong các trường hợp khác nhau nhằm phục vụ cho mục đích
chủ quan của nhà quản trị.
1.4.1. Chính sách kế toán liên quan đến hàng tồn kho
* Nguyên tắc kế toán chung:
Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 02, hàng tồn kho được tính theo giá
gốc. Giá gốc hàng tồn kho bao gồm: Chi phí mua, chi phí chế biến và các chi phí
liên quan trực tiếp khác phát sinh để có được hàng tồn kho ở địa điểm và trạng thái
hiện tại.
1.4.1.1. Xác định giá trị hàng tồn kho
Hệ thống quản lý HTK: Hàng tồn kho được quản lý theo hai phương pháp kê
khai thường xuyên và kiểm kê định kỳ
Phương pháp tính giá hàng xuất kho: Theo chuẩn mực số 02 - Hàng tồn kho,
việc tính trị giá xuất kho được áp dụng 1 trong 4 phương pháp sau: phương pháp
nhập trước - xuất trước, phương pháp giá bán lẻ, phương pháp thực tế đích danh,
phương pháp bình quân gia quyền. Với mỗi phương pháp mà đơn vị áp dụng sẽ ảnh
hưởng khác nhau tới các chỉ tiêu trên các báo cáo tài chính.
Phương pháp thực tế đích danh: là phương án tốt nhất trong các phương pháp
tính giá xuất kho, nó tuân thủ nguyên tắc phù hợp của kế toán; chi phí thực tế phù
họp với doanh thu thực tế. Giá trị của hàng xuất kho đem bán phù họp với doanh
thu mà nó tạo ra. Hơn nữa, giá trị hàng tồn kho được phản ánh trên báo cáo tài
chính đúng theo giá trị thực tế của nó. Tuy nhiên, việc áp dụng phương pháp này
đòi hỏi những điều kiện khắt khe, chỉ những doanh nghiệp kinh doanh có ít loại mặt
hàng, hàng tồn kho có giá trị lớn, mặt hàng ổn định và loại hàng tồn kho nhận diện
được thì mới có thể áp dụng được phương pháp này.

Phương pháp bình quân gia quyền: Theo phương pháp này giá trị của từng
loại hàng tồn kho được tính theo giá trị trung bình của từng loại hàng tồn kho đầu
kỳ và giá trị của từng loại hàng tồn kho được mua vào hoặc sản xuất trong kỳ.


18

Phương pháp bình quân được tính theo mỗi thời kỳ hay sau mỗi lần nhập hàng, tùy
thuộc vào tình hình của doanh nghiệp. Phương pháp này có ưu điểm đơn giản, dễ
tính toán nhưng trị giá hàng xuất không chịu ảnh hưởng của sự thay đổi giá cả trong
kỳ hiện tại. Vì vậy, phương pháp này làm cho chỉ tiêu trên báo cáo kết quả kinh
doanh không sát với giá thực tế.
Phương pháp nhập trước xuất trước: cho kết quả số liệu trong bảng cân đối
kế toán là sát nhất với giá phí hiện tại so vói các phương pháp tính giá hàng tồn kho
khác. Vì vậy chỉ tiêu hàng tồn kho trên báo cáo kế toán có ý nghĩa thực tế hơn. Tuy
nhiên, phương pháp này có nhược điểm là làm cho doanh thu hiện tại không phù
hợp với những khoản chi phí hiện tại.
Phương pháp giá bán lẻ: phương pháp này được áp dụng trong ngành bán
lẻ để tính giá trị hàng tồn kho với số lượng lớn các mặt hàng thay đổi nhanh chóng
và có lợi nhuận biên tương tự mà không thể sử dụng các phương pháp tính giá gốc
khác như các đơn vị kinh doanh siêu thị…
Việc lựa chọn phương pháp tính giá hàng tồn kho sẽ có ảnh hưởng đến tính
trung thực và hợp lý trong việc trình bày giá trị hàng tồn kho trên báo cáo tài chính
và kết quả lãi, lỗ của các hoạt động của một doanh nghiệp.
Thông tin về hàng tồn kho và kết quả lãi, lỗ theo từng hoạt động của doanh
nghiệp là cơ sở để phân tích, đánh giá và đưa ra các quyết định quản lý hàng tồn
kho và các quyết định kinh doanh. Sẽ có những thiếu sót, sai lầm trong các định
hướng sản xuất kinh doanh một khi các thông tin kế toán cung cấp không đảm bảo
kịp thời, trung thực và hợp lý.
Với ý nghĩa đó, trên cơ sở ưu nhược điểm của từng phương pháp tính giá trị

hàng tồn kho, đặc điềm và yêu cầu quản lý hàng tồn kho của doanh nghiệp, kế toán
mỗi doanh nghiệp xác định phương pháp tính giá hàng tồn kho phù họp cho mục
tiêu của doanh nghiệp mình.
1.4.1.2. Chính sách kế toán liên quan đến xác định giá trị sản phẩm dở dang
Đánh giá sản phẩm dở dang trong các doanh nghiệp sản xuất được xem là
một biểu hiện của ước tính kế toán. Chuẩn mực hàng tồn kho không đưa ra các
nguyên tắc đánh giá sản phẩm dở dang, mặc dù chuẩn mực vẫn thừa nhận đây là


19

một hình thức tồn kho của doanh nghiệp. Do vậy, xuất phát từ bản chất của quá
trinh sản xuất thì sản phẩm dở dang là sự kết tinh của chi phí vật liệu với các chi phí
chế biến còn đang làm dở cho những loại sản phẩm này. Việc ước tính sản phẩm dở
dang vì vậy, có thể gồm các trường hợp sau:
+ Ước tính sản phẩm dở dang theo chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
+ Ước tính sản phẩm dở dang theo phương pháp khối lượng sản phẩm hoàn
thành tương đương.
+ Ước tính sản phẩm dở dang theo chi phí sản xuất định mức.
Cho dù chọn lựa theo cách thức nào, nhưng cách thức tính toán thể hiện một
chính sách đo lường của doanh nghiệp, đảm bảo tính trung thực của thông tin về sản
phẩm dở dang.
Việc lựa chọn các phương pháp khác nhau sẽ làm ảnh hưởng đến gía thành
của sản phẩm khác nhau vì:
Tổng giá thành
Giá trị sản
Giá trị sản
Chi phí phát
sản phẩm hoàn
= phẩm dở dang +

- phẩm dở dang
sinh trong kỳ
thành
đầu kỳ
cuối kỳ
Với mỗi phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang khác nhau thì giá trị sản
phẩm dở dang sẽ khác nhau. Cụ thể như doanh nghiệp đánh giá sản phẩm dở dang
theo chi phí nguyên vật liệu trực tiếp thì giá trị sản phẩm dở dang chỉ tính trên giá
trị nguyên vật liệu còn các chi phí chế biến khác xem như không ảnh hưởng, ngược
lại nếu doanh nghiệp đánh giá sản phẩm dở dang theo phương pháp khối lượng sản
phẩm hoàn thành tương đương thì giá trị sản phẩm dở dang đều được đánh giá trên
ba loại chi phí: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi
phí sản xuất chung. Như vậy trong cùng một lượng sản phẩm dở dang nếu đánh giá
theo chi phí nguyên vật liệu trực tiếp thì giá trị sản phấm dở dang sẽ nhỏ hơn so với
phương pháp khối lượng sản phẩm hoàn thành tương đương. Điều này cho thấy khi
giá trị sản phẩm dở dang bé thì giá thành sản phẩm cao và giá vốn của hàng bán cao
dẫn đến lợi nhuận sẽ giảm và ngược lại.
Như vậy, nếu doanh nghiệp xác định phương pháp đánh giá sản phẩm dở
dang không hợp lý sẽ ảnh hưởng đến'các chỉ tiêu về sản phẩm dở dang, thành phẩm,
chi phí giá vốn trên báo cáo tài chính. Từ đó ảnh hưởng đến chỉ tiêu lợi nhuận của


20

doanh nghiệp cũng như ảnh hưởng đến chi phí thuế của doanh nghiệp.
1.4.1.3. Lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho:
Theo chuẩn mực số 02 - Hàng tồn kho, vào thời điểm cuối năm tài chính,
doanh nghiệp sẽ xem xét giá trị thuần có thể thực hiện được của hàng tồn kho trên
thị trường để xác định mức lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho. số dự phòng giảm
giá hàng tồn kho được lập là số chênh lệch giữa giá gốc của hàng tồn kho lớn hơn

giá trị thuần có thể thực hiện được của chúng. Theo thông tư số 228/2009/TT –
BTC thì:
Mức trích lập dự phòng tính theo công thức sau:
Lượng vật tư
Giá trị thuần
Mức dự phòng
hàng hóa thực
Giá gốc hàng
có thể thực
giảm giá vật tư
= tế tồn kho tại x tồn kho theo hiện được của
hàng hóa
thời điểm
sổ kế toán
hàng tồn kho
BCTC
Và giá trị thuần có thể thực hiện được của hàng tồn kho ( giá trị dự kiến thu
hồi) là giá bán ( ước tính) của hàng tồn kho trừ chi phí để hoàn thành sản phẩm và
chi phí tiêu thụ ( ước tính).
Việc lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho sẽ làm cho chi phí sản xuất kinh
doanh trong kỳ tăng lên, từ đó ảnh hưởng đến lợi nhuận. Việc đưa ra các khoản chi
phí tiêu thụ ước tính là tùy thuộc vào ý kiến chủ quan của doanh nghiệp. Đây là một
trong những ước tính kế toán nên chuẩn mực luôn tạo ra các khoảng không cho
doanh nghiệp tự do lựa chọn. Cuối kỳ kế toán năm tiếp theo, doanh nghiệp phải
thực,hiện đánh giá mới về giá trị thuần có thể thực hiện được của hàng tồn kho cuối
năm đó. Trường hợp cuối kỳ kế toán năm nay, nếu khoảng dự phòng hàng tồn kho
phải lập thấp hơn khoảng dự phòng giảm giá hàng tồn kho đã lập ở cuối kỳ kế toán
năm trước thì số chênh lệch lớn hơn phải được hoàn nhập để được đảm bảo cho giá
trị của hàng tồn kho phản ánh trên báo cáo tài chính là theo giá gốc (nếu giá gốc có
thể nhỏ hơn giá thuần có thể thực hiện được) hoặc giá trị thuần có thể thực hiện

được (nếu giá gốc lớn hơn giá trị thuần có thể thực hiện được).
Việc hoàn nhập hay trích lập thêm dự phòng trong năm tiếp theo cũng tùy


21

thuộc vào mức lựa chọn theo ý muốn chủ quan của các nhà quản trị. Mỗi sự lựa
chọn này đều ảnh hưởng trực tiếp đến việc ghi nhận chi phí và dự phòng giảm giá
hàng tồn kho trong kỳ từ đó ảnh hưởng khoản mục tài sản và lợi nhuận trên bảng
cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp.
Vào thời điểm cuối năm tài chính, doanh nghiệp sẽ xem xét giá trị thuần có
thể thực hiện được của hàng tồn kho trên thị trường để xác định mức lập dự phòng
giảm giá hàng tồn kho. Tài thời điểm lập báo cáo tài chính, giá bán của hàng tồn
kho doanh nghiệp có thể ước tính được dựa vào giá của hàng hóa thay thế tại thời
điểm đó. Tuy nhiên, còn khoản chi phí tiêu thụ ước tính thì doanh nghiệp phải tự
đưa ra, việc này mang tính chất chủ quan của doanh nghiệp. Do vậy, việc ước tính
chi phí nhiều hay ít sẽ ảnh hưởng đến mức lập dự phòng nhiều hay ít, từ đó ảnh
hưởng đến chi phí phát sinh trong năm tài chính đó nhiều hay ít và ảnh hưởng đến
giá trị của hàng tồn kho tại thời điểm lập báo cáo tài chính. Như vậy, nếu việc xem
xét chi phí tiêu thụ của hàng tồn kho tại thời điểm lập báo cáo tài chính không
khách quan và hợp lý thì sẽ ảnh hưởng đến thông tin cung cấp trên báo cáo tài chính
hay chính là lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ thay đổi.
1.4.2. Chính sách kế toán liên quan đến tài sản cố định
* Nguyên tắc kế toán chung
TSCĐ được ghi nhận theo nguyên tắc giá gốc. Nguyên giá TSCĐ hĩru hình là
toàn bộ chi phí doanh nghiệp phải bỏ ra để có được TSCĐ tính đến thời điêm đưa
tài sản đó vào sử dụng. Các chi phí phát sinh sau ngày ghi nhận ban đầu được tăng
nguyên giá TSCĐ nếu các khoản chi phí này chắc chắn làm tăng lợi ích kinh tế
trong tương lai do sử dụng tài sản. Xác định nguyên giá trong một số trường hợp
sau đây:

Nguyên giá TSCĐ hữu hình do các nhà thầu xây dựng bao gồm giá trị công
trình hoàn thành bàn giao, các chi phí liên quan trực tiếp khác.
Nguyên giá TSCĐ vô hình là toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra đế
có được TSCĐ đó tính đến thời điểm đưa tài sản đó vào sử dụng.
Một tài sản được xem là TSCĐ nếu thỏa mãn đồng thời cả bốn điều kiện sau:
-

Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản


22

đó.
-

Có thời gian sử dụng trên 1 năm trở lên.

-

Nguyên giá tài sản phải được xác định một cách tin cậy.

- Có đủ tiêu chuẩn theo quy định hiện hành(30.000.000 đồng trở lên)
1.4.2.1.Lựa chọn phương pháp khấu hao tài sản cố định
Việc lựa chọn phương pháp khấu hao thích hợp cho từng loại tài sản cố định
trong doanh nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Các yếu tố này có thể là: Đặc tính
hao mòn của tài sản cố định, cách thức sử dụng tài sản cố định để tạo ra lợi ích kinh
tế, mục tiêu quản trị của doanh nghiệp và chính sách quản lý của Nhà nước .
Theo chuẩn mực số 03 - Tài sản cố định hữu hình, giá trị khấu hao của TSCĐ
hữu hình được phân bồ một cách có hệ thống trong thời gian sử dụng hữu ích của
tài sản. Phương pháp khấu hao phải phù hợp với lợi ích kinh tế mà tài sản đem lại

cho doanh nghiệp, số khấu hao của từng kỳ được hạch toán vào chi phí sản xuất
kinh doanh trong kỳ. Có 3 phương pháp trích khấu hao TSCĐ bao gồm: phương
pháp khấu hao đường thẳng, phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần, phương
pháp khấu hao theo số lượng sản phẩm
-

Theo phương pháp khấu hao đường thẳng, số khấu hao hàng năm không

thay đổi trong suốt thời gian sử dụng hữu ích của tài sản.
-

Theo phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần, số khấu hao hàng năm

giảm dần trong suốt thời gian sử dụng hữu ích của tài sản.
-

Theo phương pháp khấu hao theo số lượng sản phẩm dựa trên tổng số

đơn vị sản phẩm ước tính tài sản có thể tạo ra.
Doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong ba phương pháp trên để tính và trích
khấu hao TSCĐ. Tùy thuộc vào đặc điểm của TSCĐ, hoạt động sản xuất kinh doanh
và mục đích của doanh nghiệp mà doanh nghiệp có thể lựa chọn phương pháp khấu
hao thích hợp. Bởi lẽ việc trích khấu hao TSCĐ sẽ được tính vào chi phí sản xuất,
kinh doanh trong kỳế Do đó, lựa chọn phương pháp khấu hao sẽ cho phép dịch
chuyển lợi nhuận giữa các niên độ. Cụ thể như doanh nghiệp áp dụng phương pháp
khấu hao theo số dư giảm dần sẽ làm gia tăng chi phí, giảm lợi nhuận trong những
năm đầu, hoặc áp dụng phương pháp khấu hao đường thẳng sẽ làm cho phần khấu


23


hao được ghi nhận vào chi phí liền đều qua các năm sử dụng,...
Theo chuẩn mực số 04 - Tài sản cố định vô hình và thông tư số 45/2013/TTBTC - Hướng dẫn chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định. Đối
với khấu hao TSCĐ vô hình: Giá trị phải khấu hao của TSCĐ vô hình được phân
bổ một cách có hệ thống trong suốt thời gian sử dụng hữu ích ước tính hợp lý của
nó. Thời gian tính khấu hao của TSCĐ vô hình tối đa là 20 năm. Việc tính khấu
hao được bắt đầu từ khi đưa TSCĐ vô hình vào sử dụng. Thời gian sử dụng hữu
ích của TSCĐ vô hình có thể vượt quá 20 năm khi có những bằng chứng tin cậy.
Việc trích khấu hao TSCĐ vô hình được ghi nhận vào chi phí sản xuất, kinh
doanh trong kỳ. Do vậy, lựa chọn phương pháp khấu hao và ước tính thời gian sử
dụng hữu ích của TSCĐ sẽ ảnh hưởng đến giá trị khấu hao cần trích lập từ đó ảnh
hưởng đến chi phí trong kỳ báo cáo.
Doanh nghiệp có thể thay đổi phương pháp khấu hao và thời gian sử dụng
hữu ích ước tính của tài sản, nếu trong suốt thời gian sử dụng hữu ích của TSCĐ vô
hình, doanh nghiệp xét thấy có thể thay đổi cách thức ước tính về lợi ích kinh tế
trong tương lai mà doanh nghiệp dự tính thu được. Do đó, có thể thay đổi phương
pháp khấu hao.
Ngoài ra, nếu thời gian sử dụng hữu ích ước tính của tài sản khác biệt lớn so
với các ước tính trước đó thì thời gian khấu hao phải được thay đổi tương ứng hoặc
thời gian sử dụng hữu ích có thể tăng lên do đầu tư thêm chi phí làm tăng năng lực
của tài sản so vói năng lực hoạt động được đánh giá ban đầu. Tùy thuộc vào từng
điều kiện cụ thể doanh nghiệp có thể lựa chọn thay đổi phương pháp khấu hao và
thời gian sử dụng hữu ích của tài sản, việc lựa chọn này nằm trong giới hạn cho
phép. Tuy nhiên, nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí ghi nhận trong kỳ để xác
định lợi nhuận kỳ báo cáo.
Vì vậy, việc lựa chọn phương pháp trích khấu hao của tài sản cố định hữu
hình và vô hình của doanh nghiệp đều làm ảnh hưởng trực tiếp đến khoản mục tài
sản trong tổng tài sản và nguồn vốn của bảng cân đối kế toán và lợi nhuận của báo
cáo kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
1.4.2.2. Chính sách kế toán liên quan đến chi phí sửa chữa TSCĐ



24

Để đảm bảo hoạt động bình thường và ổn định, duy trì năng lực hoạt động
cho TSCĐ, doanh nghiệp thường tiến hành sửa chữa, bảo dưỡng tài sản cố định.
Tùy theo quy mô sửa chữa TSCĐ, chi phí sửa chữa TSCĐ được phân thành hai loại:
-

Sửa chữa nhỏ: là loại sửa chữa có mức độ hư hỏng nhẹ, thời gian sửa
chữa ngắn, chi phí sửa chữa phát sinh ít. Do vậy, toàn bộ chi phí sửa
chữa doanh nghiệp hạch toán vào chi phí sản xuất, kinh doanh trong kỳ.

-

Sửa chữa lớn: là loại sửa chữa có mức độ hư hỏng nặng, thời gian sửa
chữa dài, chi phí phát sinh sửa chữa nhiều hoặc theo yêu cầu kỹ thuật
đảm bảo nâng cao năng lực sản xuất và hoạt động của TSCĐ. Đặc điểm
của sửa chữa lớn TSCĐ là thời gian tiến hành sửa chữa lớn thường dài,
chi phí sửa chữa phát sinh nhiều.

Nếu doanh nghiệp có kế hoạch sửa chữa lớn ngay từ đầu năm thì doanh
nghiệp có thể trích trước chi phí sửa chửa lớn TSCĐ theo kế hoạch. Mức chi phí
trích trước được ghi nhận vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ sẽ làm gia tăng
chi phí trong kỳ từ đó làm giảm lợi nhuận của kỳ báo cáo. Đây cũng là một trong số
các lựa chọn mà các nhà quản trị doanh nhiệp có thể sử dụng để điều chỉnh lợi
nhuận theo ý muốn chủ quan của họ.
Nếu doanh nghiệp không có kế hoạch trích trước thì doanh nghiệp sẽ phân
bổ dần chi phí sửa chữa lớn vào chi phí trong kỳ. Kế toán có thể lựa chọn số kỳ
phân bổ tùy thuộc vào ý muốn chủ quan của nhà quản trị, mức phân bổ chi phí sửa

chữa trong từng kỳ sẻ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của kỳ đó.
Như vậy, chính sách phân bổ (trích trước) chi phí sửa chữa TSCĐ sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến Bảng cân đối kế toán và Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp.
1.4.3. Chính sách kế toán liên quan đến nợ phải thu
Trong kinh doanh, để đẩy nhanh quá trính tiêu thụ thì doanh nghiệp thường
áp dụng phương pháp bán chịu. Phương thức này làm cho việc tiêu thụ sản phẩm,
hàng hóa nhanh hơn nhưng không phải các khoản khách hàng nợ lúc nào cũng thu
được. Tuy là doanh thu tăng nhưng doanh nghiệp phải chấp nhận một mức tổn thất
do không thể thu được nợ.


25

Theo thông tư số 228/2009/TT – BTC về hướng dẫn chế độ trích lập và sử
dụng các khoản dự phòng thì doanh nghiệp được phép lập dự phòng phải thu khó
đòi, doanh nghiệp phải dự kiến mức tổn thất có thể xảy ra hoặc tuổi nợ quá hạn của
các khoản nợ và tiến hành lập dự phòng cho từng khoản nợ phải thu khó đòi, hoặc
đối với nợ phải thu chưa đến hạn thanh toán nhưng tổ chức kinh tế đã lâm vào tình
trạng phá sản hoặc đang làm thủ tục giải thể; người nợ mất tích, bỏ trốn, đang bị cơ
quan pháp luật truy tố, giam giữ, xét xử hoặc đang thi hành án…thì doanh nghiệp
dự kiến mức tổn thất không thu hồi được để trích lập dự phòng.
Như vậy, việc trích lập dự phòng tại doanh nghiệp dựa vào dự kiến mức tốn
thất không thu hồi được. Do đó doanh nghiệp có thể dự kiến mức tổn thất cao hay
thấp là tùy vào nhận thức chủ quan của doanh nghiệp, đồng thời doanh nghiệp sẽ
ghi nhận mức trích lập dự phòng vào chi phí quản lý trong kỳ và sẽ ảnh hưởng đến
chi phí phát sinh trong kỳ. Theo đó, lợi nhuận của công ty trong kỳ cũng thay đổi
nghịch với sự thay đổi của chi phí. Để điều chỉnh lợi nhuận thì doanh nghiệp có thể
lựa chọn thời điểm và mức dự phòng cần lập của phải thu khó đòi; thời điểm khoản
dự phòng này được hoàn nhập và xóa sổ và mức hoàn nhập.

1.4.4. Chính sách kế toán liên quan đến đầu tư tài chính
Dự phòng giảm giá đầu tư ngắn hạn và dài hạn là ước tính phần giá trị có thể
bị tổn thất trong tương lai do các khoản đầu tư chứng khoán của doanh nghiệp bị
giảm giá tại thời điểm lập báo cáo tài chính để ghi nhận trước giá trị tổn thất vào chi
phí tài chính của kỳ kế toán hiện tại.
Đối với các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn của doanh nghiệp cho các loại
chứng khoán thị trường ( được niêm yết trên thị trường chứng khoán) thì việc xác
định giá thị trường tại thời điểm lập báo cáo tài chính sẽ dễ dàng và minh bạch hơn
các loại chứng khoán được tự do mua bán trên thị trường nhưng chưa được niêm yết
trên thị trường chứng khoán. Do đó, đối với các loại chứng khoán không niêm yết
trên thị trường chứng khoán, kế toán cần phải xem xét cẩn thận hơn để lập dự phòng
cho hợp lý. Theo thông tư số 89/2013/TT-BTC, mức lập dự phòng giảm giá các loại
chứng khoán đầu tư theo công thức sau:
Mức dự phòng

=

Số lượng

x

Giá chứng

-

Giá chứng


×