VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ BÍCH HẠNH
KỊCH BẢN CHÈO ĐẦU THẾ KỶ XX - TRUYỀN THỐNG
VÀ BIẾN ĐỔI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
Hà Nội, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ BÍCH HẠNH
KỊCH BẢN CHÈO ĐẦU THẾ KỶ XX - TRUYỀN THỐNG
VÀ BIẾN ĐỔI
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 9.22.01.21
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. PHAN TRỌNG THƢỞNG
Hà Nội, năm 2019
LỜI CAM KẾT
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và
kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực và chƣa từng công bố ở bất kỳ một
công trình nào khác.
Luận án có kế thừa và sử dụng một số tài liệu đã công bố có liên quan đến đề
tài để tham khảo. Các nguồn tài liệu này đều đƣợc chú thích rõ ràng, chính xác.
Hà Nội, tháng 7/2019
Tác giả
Nguyễn Thị Bích Hạnh
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng cảm ơn tập thể các nhà khoa học: PGS.TS Phan Trọng
Thƣởng, PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp, PGS.TS Trịnh Bá Đĩnh, TS. Trần Đình
Ngôn, NNC Nguyễn Văn Thành, PGS.TS Lê Thị Dục Tú, TS. Phạm Thị Thu
Hƣơng, TS. Vũ Thị Trang và Thƣợng tƣớng Nguyễn Trọng Nghĩa đã tận tình
hƣớng dẫn, giúp đỡ, đóng góp những ý kiến quý báu, gợi ý tài liệu, tạo mọi điều
kiện giúp tôi hoàn thành luận án này.
Xin trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc, Phòng Đào tạo, Khoa Văn học Học
viện Khoa học xã hội đã tạo điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành luận án.
Hà Nội, tháng 7/2019
Tác giả
Nguyễn Thị Bích Hạnh
MỤC LỤC
LỜI CAM KẾT
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án ...................................................3
2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án ..................................................................3
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án .................................................................4
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án ....................................................4
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu của luận án ................................................................4
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án ....................................................................6
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án ...............................6
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án...............................................................7
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án .............................................................8
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận án ...........................................................................8
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án ........................................................................8
7. Cấu trúc của luận án ............................................................................................8
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ...................................9
1.1. Lịch sử chèo cổ và việc xác định kịch bản sân khấu với tƣ cách là một thể
loại văn học dân tộc .................................................................................................9
1.2. Tình hình nghiên cứu về chèo truyền thống ...................................................13
1.2.1. Những nghiên cứu về nguồn gốc của chèo truyền thống .........................13
1.2.2. Những nghiên cứu về đặc trƣng nghệ thuật của chèo truyền thống .........18
1.2.3. Những nghiên cứu về kịch bản chèo truyền thống ...................................22
1.3. Tổng quan tình hình nghiên cứu về Nguyễn Đình Nghị và chèo cải lƣơng ...33
1.3.1. Những quan điểm về sự cách tân trong chèo cải lƣơng của Nguyễn Đình
Nghị ....................................................................................................................34
1.3.2. Những đánh giá về thành công - hạn chế trong kịch bản chèo cải lƣơng
của Nguyễn Đình Nghị .......................................................................................37
Tiểu kết Chƣơng 1 ...................................................................................................40
CHƢƠNG 2. GIAO LƢU VĂN HÓA ĐÔNG - TÂY VÀ NHỮNG XU HƢỚNG
CÁCH TÂN KỊCH BẢN CHÈO ĐẦU THẾ KỶ XX...........................................41
2.1. Giao lƣu văn hóa Đông - Tây và quá trình hiện đại hoá nền văn học Việt Nam
...............................................................................................................................41
2.1.1. Sự xuất hiện của chủ thể văn hóa mới......................................................41
2.1.2. Sự ra đời, phát triển của báo chí và các loại hình văn học - nghệ thuật ...43
2.2. Đổi mới sân khấu truyền thống và sự ra đời của kịch hiện đại ......................46
2.2.1. Sự ra đời và phát triển của kịch nói, cải lƣơng.........................................46
2.2.2. Đổi mới sân khấu truyền thống ................................................................51
2.3. Các xu hƣớng cách tân trong kịch bản chèo đầu thế kỷ XX ..........................57
2.3.1. Xu hƣớng bác học hóa trong kịch bản chèo cải lƣơng .............................57
2.3.2. Xu hƣớng tiếp cận chủ nghĩa hiện thực trong kịch bản chèo cải lƣơng ...60
2.3.3. Xu hƣớng hài hóa trong kịch bản chèo cải lƣơng ....................................62
2.3.4. Xu hƣớng gia tăng xung đột kịch trong kịch bản chèo cải lƣơng ............68
Tiểu kết Chƣơng 2 ...................................................................................................69
CHƢƠNG 3. NHÂN VẬT, CỐT TRUYỆN TRONG KỊCH BẢN CHÈO ĐẦU
THẾ KỶ XX.............................................................................................................71
3.1. Nhân vật trong kịch bản chèo đầu thế kỷ XX.................................................71
3.1.1. Nhân vật ngƣời kể chuyện trong kịch bản chèo đầu thế kỷ XX ..............71
3.1.2. Nhân vật trung tâm trong kịch bản chèo đầu thế kỷ XX ..........................80
3.1.3. Vai hề trong kịch bản chèo đầu thế kỷ XX ..............................................90
3.2. Cốt truyện trong kịch bản chèo đầu thế kỷ XX ..............................................96
3.2.1. Cốt truyện trong kịch bản chèo truyền thống ...........................................96
3.2.2. Cốt truyện trong kịch bản chèo cải lƣơng ..............................................100
Tiểu kết Chƣơng 3 .................................................................................................104
CHƢƠNG 4. KẾT CẤU, NGÔN NGỮ, KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN
NGHỆ THUẬT TRONG KỊCH BẢN CHÈO ĐẦU THẾ KỶ XX ...................106
4.1. Kết cấu kịch bản chèo đầu thế kỷ XX ..........................................................106
4.1.1. Kết cấu kịch bản chèo truyền thống .......................................................106
4.1.2. Kết cấu kịch bản chèo cải lƣơng ............................................................110
4.2. Ngôn ngữ kịch bản chèo đầu thế kỷ XX.......................................................113
4.2.1. Ngôn ngữ kịch bản chèo cổ ....................................................................113
4.2.2. Ngôn ngữ kịch bản chèo cải lƣơng.........................................................121
4.3. Không gian, thời gian nghệ thuật trong kịch bản chèo đầu thế kỷ XX ........127
4.3.1. Không gian nghệ thuật trong kịch bản chèo đầu thế kỷ XX ..................127
4.3.2. Thời gian nghệ thuật trong kịch bản chèo đầu thế kỷ XX .....................131
Tiểu kết Chƣơng 4 .................................................................................................132
KẾT LUẬN ............................................................................................................134
TUYỂN TẬP CÁC BÀI BÁO, CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ ...........................................................................................................1
PHỤ LỤC ...................................................................................................................1
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chèo ra đời và phát triển từ nghệ thuật diễn xƣớng dân gian, bắt nguồn từ trò
nhại cách nay khoảng 1.000 năm, là sản phẩm của ngƣời nông dân, phục vụ nhu cầu
giải trí của ngƣời nông dân trong các dịp lễ tết, đình đám, khao vọng. Trong hành
trình phát triển của mình, chèo từ bình diện dân gian chuyển thành bình diện sân
khấu dân tộc, phát triển mạnh mẽ tại các địa phƣơng vùng đồng bằng Bắc Bộ đến
Nghệ An, Hà Tĩnh, hình thành các phƣờng chèo tứ chiếng nhƣ: chiếng chèo Nam
(Nam Định - Thái Bình), chiếng chèo Đoài (Hà Tây), chiếng chèo Bắc (Bắc Ninh Bắc Giang), chiếng chèo Đông (Hải Dƣơng - Hƣng Yên).
1.000 năm qua, nghệ thuật chèo đã trải qua nhiều bƣớc thăng trầm. Đến đầu
thế kỷ XX, do ảnh hƣởng của các chính sách khai thác thuộc địa của Pháp, điều
kiện kinh tế - chính trị - xã hội Việt Nam có sự thay đổi mạnh mẽ, nhiều giai tầng
xã hội mới xuất hiện. Bƣớc ngoặt này dẫn tới các chủ thể văn hóa mới, lớp công
chúng mới ra đời. Tiếp biến nền văn hóa Pháp, văn hóa phƣơng Tây, văn học Việt
Nam nhanh chóng chuyển từ nền văn học trung đại, song ngữ Hán - Nôm, cấu trúc
theo mô hình văn học Trung Quốc sang nền văn học hiện đại, đơn ngữ Quốc ngữ,
cấu trúc theo mô hình văn học phƣơng Tây, cụ thể là văn học Pháp, hình thành nên
văn học hiện đại ở Việt Nam.
Dƣới tác động của văn hóa phƣơng Tây, khi nền văn học dân tộc trong trạng
thái chuyển đổi hệ hình từ phạm trù “trung đại” sang phạm trù “hiện đại”, từ phạm
trù “dân tộc” sang phạm trù „thế giới”, tất cả các loại hình văn học - nghệ thuật đều
đồng loạt cách tân (đổi mới). Trong cơn lốc thế kỷ ấy, một bộ phận những nghệ
nhân chèo đã rời quê về các thành phố lớn nhƣ Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định…
thuê rạp, xây rạp diễn chèo. Chèo đi từ quê ra phố thị, đánh dấu sự trở lại và tìm chỗ
đứng trong lòng công chúng thành phố. Do nhu cầu thƣởng thức của tầng lớp thị
dân đƣơng thời, để bắt kịp xu hƣớng đổi mới của các loại hình văn học - nghệ thuật
khác, từ rất sớm, chèo cổ đã trải qua hai cuộc cách mạng, cách tân trở thành chèo
văn minh (1906) rồi chèo cải lƣơng (1924). Sự đổi mới về phƣơng pháp sáng tác
kịch bản chèo đã tạo nên một dấu mốc quan trọng, một bƣớc ngoặt lịch sử. Kịch
bản chèo cổ từ sáng tác dân gian với đặc điểm khuyết danh, tập thể, truyền miệng
chuyển sang phƣơng thức sáng tác cá thể hóa có tên tác giả, có bản quyền, làm tiền
đề cho sự thay đổi, sáng tác kịch bản chèo hiện đại sau này.
Trong bài Khái lược về sân khấu Việt Nam và kịch bản kịch hát thế kỷ XX in
trong cuốn Văn học Việt Nam thế kỷ XX (Kịch bản chèo 1900-1945) Quyển 6 tập 1,
1
nhà nghiên cứu Lê Thanh Hiền viết: “Văn học Việt Nam thế kỷ XX, nhiều thể loại
nhƣ: tiểu thuyết, truyện ngắn, thi ca, ký sự, kịch, lý luận phê bình…đã đi vào từ
điển tác gia - tác phẩm và công trình nghiên cứu, tuyển tập, toàn tập, tổng tập lƣu tại
hệ thống thƣ viện toàn quốc, phổ biến rộng rãi trong xã hội. Riêng kịch bản kịch hát
thế kỷ XX thì chƣa có công trình nào, chƣa có tuyển tập nào. Thậm chí các cơ quan
chức năng quản lý chuyên ngành nhƣ Bộ Văn hóa, Cục Nghệ thuật, Hội Nghệ sĩ sân
khấu, Hội Nhà văn cũng không nắm đƣợc số lƣợng tác gia sân khấu nói chung, tác
gia kịch hát nói riêng và có bao nhiêu kịch bản ra đời trong từng giai đoạn. Về
phƣơng diện tác gia và kịch bản kịch hát thế kỷ XX coi nhƣ còn bỏ trống. Đây là
khó khăn lớn nhất đối với những ngƣời đầu tiên đi vào lĩnh vực này, thật vô tiền
khoáng hậu.” [107, tr.7]
Khi nghiên cứu về chèo đầu thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu chủ yếu nghiên
cứu về chèo văn minh, chèo cải lƣơng và soạn giả Nguyễn Đình Nghị mà quên mất
rằng vào đầu thế kỷ XX, chèo cổ hay chèo sân đình vẫn tồn tại ở các vùng quê.
Chèo cổ cũng có sự biến đổi nhƣng không đáng kể, rõ rệt. Năm 1905, chèo cổ bắt
đầu rời quê về Hà Nội, sau đó là các thành phố, thành thị khác nhƣ Hải Phòng, Thái
Bình... Năm 1908, rạp hát chèo đƣợc xây dựng. Từ một thể loại chèo cổ, đến đầu
thế kỷ XX, chèo tách dòng thành hai loại chèo cùng song song tồn tại: Từ năm
1913-1924 là sự tồn tại của chèo cổ tại các vùng quê và chèo văn minh tại các thành
thị. Sau khi chèo văn minh chết yểu, từ năm 1924 đến trƣớc 1945 là sự tồn tại của
chèo cổ (ở quê) và chèo cải lƣơng (ở thành thị). Chèo văn minh là loại chèo lai tạp,
pha tuồng, không tạo đƣợc dấu ấn gì khi đó và sau này. Chèo cải lƣơng phát triển
mạnh, cũng lai tạp (lai kịch nói về nghệ thuật biểu diễn), trở thành một phong trào,
một cuộc cách mạng về nghệ thuật chèo. Cùng song song tồn tại trong một giai
đoạn lịch sử, mặc nhiên hai loại chèo quê - phố, cũ - mới, tức chèo cổ và chèo cải
lƣơng đã trở thành đối tƣợng của văn học so sánh. Vì vậy tính cấp thiết của đề tài
bao gồm:
- Về lý luận, dù “kịch bản là linh hồn của vở diễn”, là tiền đề để có những vở
diễn trên sân khấu nhƣng thời gian qua, các nhà nghiên cứu chèo thƣờng nghiêng về
hƣớng nghiên cứu chèo ở loại hình sân khấu, nghệ thuật biểu diễn, ít ngƣời nghiên
cứu về mặt văn học của kịch bản chèo. Việc nhìn nhận kịch bản chèo là sân khấu
hay văn học đang có khoảng trống về lý luận. Luận án đi sâu vào nghiên cứu kịch
bản chèo, xem xét tính văn học, giá trị văn học của kịch bản chèo.
- Về thực tiễn khảo tả văn bản chèo, chèo cải lƣơng là hiện tƣợng đặc biệt,
nhiều thành tựu trong đời sống văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX. Thực tiễn lịch sử
nghiên cứu sự vận động, phát triển của kịch bản chèo hiện chƣa có nhà nghiên cứu
2
nào lý giải sức sống của nó, tác động của nó đối với chèo hiện nay.
- Về tính thời sự của luận án, trƣớc thế kỷ XX, sân khấu kịch hát Việt Nam
chỉ có tuồng và chèo. Đầu thế kỷ XX, do ảnh hƣởng của giao lƣu văn hóa Đông Tây, với ảnh hƣởng của sân khấu cổ điển Pháp, sân khấu Việt xuất hiện một thể loại
kịch mới: kịch nói (ngƣời đƣơng thời gọi là kịch Thái Tây, ra đời vào năm 1921).
Sau thành công của kịch nói Việt, soạn giả chèo Nguyễn Đình Nghị đã có những
thử nghiệm táo bạo khi quyết định “làm chèo theo lối kịch Thái Tây”, “bẻ ghi” chèo
cổ theo hƣớng cách tân mới: chèo cải lƣơng. Kết quả của sự lai tạp giữa sân khấu
kịch hát đậm chất dân tộc với thể tài nhiều yếu tố ngoại lai đã tạo nên những nhận
xét trái chiều của hậu thế về “công” và “tội” của Nguyễn Đình Nghị. Vấn đề nghệ
thuật chèo nên bảo tồn hay cách tân đến nay vẫn là vấn đề thời sự. Cho đến nay,
chèo hiện đại nên bảo tồn những yếu tố “nội sinh” nào của chèo cổ hay cách tân
theo những yếu tố “ngoại sinh” nào của sân khấu kịch quốc tế - (nội sinh, ngoại sinh
là chữ dùng của PGS Hà Văn Cầu) - vẫn chƣa đƣợc các nhà nghiên cứu thống nhất,
giải quyết triệt để. Từ việc ít có những công trình lý luận, nghiên cứu tổng thể về
kịch bản chèo dẫn tới nhiều thập kỷ của thế kỷ XX, nhiều soạn giả chèo vẫn tiếp tục
đi theo vết xe đổ của Nguyễn Đình Nghị “gieo vừng ra ngô”, biến chèo thành “kịch
cắm chèo” hay “kịch cắm hát”, “kịch cắm ca”. Những thành công và thất bại của
Nguyễn Đình Nghị vẫn là bài học đối với các tác giả kịch bản chèo hiện đại.
Hiện nay, chèo với dấu ấn dân tộc thuần Việt cần phải đƣợc nghiên cứu và
bảo tồn là quốc bảo trong xu thế hội nhập bản sắc, văn hóa, từ đó rút ra bài học,
nguyên tắc bảo tồn để thấy lại giá trị của nó. Luận án giúp khẳng định vai trò của
văn học kịch trong đời sống sân khấu, hiện thực những giải pháp nâng cao hiệu quả
chất lƣợng sáng tác kịch bản, cung cấp những vấn đề lý luận trong giảng dạy, cung
cấp kiến thức cho ngƣời viết kịch bản chèo. Từ các lý do trên, ngƣời viết chọn
nghiên cứu đề tài “Kịch bản chèo đầu thế kỷ XX - truyền thống và biến đổi”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án
Do sự tác động mạnh mẽ của văn hóa, văn học phƣơng Tây, mọi thể loại,
loại hình văn học Việt Nam đều vận động, đổi thay trong đó có kịch bản chèo. Mục
đích khoa học của luận án là qua so sánh kịch bản chèo cải lƣơng với kịch bản chèo
cổ để phân tích mặt đƣợc (phát triển, làm giàu thêm) và mặt mất (không còn đặc
trƣng, đặc sắc của loại hình chèo) của Nguyễn Đình Nghị.
Luận án góp phần làm sáng tỏ quá trình vận động của kịch bản chèo. Những
cái đƣợc và mất khi cách tân ở nửa đầu thế kỷ XX. Từ đó, gợi ra suy nghĩ, các yêu
cầu cách tân các loại hình văn học nghệ thuật truyền thống.
3
Từ trƣờng hợp cách tân chèo của Nguyễn Đình Nghị với những mặt đƣợc,
mất nhƣ thế có thể rút ra kinh nghiệm, bài học gì cho việc cách tân các loại hình
nghệ thuật dân tộc truyền thống của chúng ta hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Tổng hợp các tƣ liệu để khái quát về sự biến đổi của các loại hình văn học nghệ thuật đầu thế kỷ XX dƣới tác động của văn hóa Pháp và văn minh phƣơng Tây
và những ảnh hƣởng của điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội, sự đổi mới của các
loại hình văn học - nghệ thuật khác dẫn đến việc đổi mới kịch bản chèo.
Lựa chọn kịch bản chèo để nghiên cứu, phân tích. Luận án nghiên cứu về cấu
trúc tự sự của kịch bản chèo đầu thế kỷ XX. So sánh, chỉ rõ những đặc điểm riêng
biệt, những yếu tố truyền thống và biến đổi của kịch bản chèo truyền thống, chèo
cải lƣơng về mặt cấu trúc tự sự nhƣ: cốt truyện, kết cấu, nhân vật, ngôn ngữ, không
gian, thời gian.
Phân tích, so sánh, chỉ ra những xu hƣớng đổi mới trong kịch bản chèo đầu
thế kỷ XX về các bình diện: xu hƣớng bác học hóa, xu hƣớng tiếp cận chủ nghĩa
hiện thực, xu hƣớng hài hóa và xu hƣớng gia tăng xung đột kịch.
Khái quát, đánh giá ý nghĩa của vấn đề đã nghiên cứu, tìm hiểu về các yếu tố
truyền thống và cách tân trong kịch bản chèo đầu thế kỷ XX.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Vào đầu thế kỷ XX, về kịch bản chèo, có các loại kịch bản sau: Kịch bản
chèo cổ, kịch bản chèo văn minh, kịch bản chèo cải lƣơng.
Khái niệm chèo cổ
Chèo cổ là chèo do các nghệ nhân chèo sáng tác theo phƣơng thức dân gian:
khuyết danh, truyền miệng, dị bản và biểu diễn ứng diễn theo chu trình mở. Chèo cổ
tồn tại trên sàn diễn (sân đình) từ năm 1945 trở về trƣớc.
Khái niệm chèo truyền thống
Chèo truyền thống là danh xƣng của GS Trần Bảng. Theo ông, hiện nay, di
sản để lại không có vở diễn chèo cổ. Ngƣời đƣơng thời không thể tiếp cận đƣợc với
các vở diễn chèo cổ vì các vở diễn chèo cổ đã hiện diện và chỉ hiện diện trong đời
sống sân khấu thời xƣa. Vì vậy, chèo truyền thống là cách gọi các vở chèo cổ đã
đƣợc các nhà nghiên cứu, các tác giả chèo chỉnh lý hoặc cải biên mà vẫn giữ đƣợc
những nguyên tắc cơ bản của chèo.
Trong cuốn Nguyên tắc cơ bản trong nghệ thuật chèo, TS Trần Đình Ngôn
định nghĩa: “Chèo truyền thống là chèo cổ đƣợc kế thừa và phát triển trên nguyên
4
tắc bảo tồn những nguyên tắc cơ bản trong phƣơng pháp nghệ thuật của chèo cổ.”
[218, tr.87]
Khái niệm chèo hiện đại
+ Hiểu theo nghĩa hẹp: Chèo hiện đại là chèo có đề tài hiện đại, phản
ánh cuộc sống đƣơng thời, nói về con ngƣời đƣơng thời và phục vụ khán
giả đƣơng thời. Phạm vi đề tài bị hạn chế phải phản ánh cuộc sống đƣơng thời.
+ Hiểu theo nghĩa rộng: Chèo hiện đại là chèo do các nhà văn, nghệ
sĩ ngày nay sáng tạo ra, nhằm phục vụ cho đời sống văn hóa của ngƣời
đƣơng thời. Vì vậy, đề tài đƣợc mở rộng, bao gồm cả đề tài khai thác từ kho tàng
truyện dân gian, dã sử, huyền thoại, lịch sử và kể cả những truyện dân gian mới
do các nhà soạn chèo tự sáng tác theo các mô típ của truyện dân gian và đề tài
hiện đại.
Kịch bản chèo cổ, kịch bản chèo văn minh, kịch bản chèo cải lƣơng là đối
tƣợng nghiên cứu của luận án. Tuy nhiên, kịch bản chèo văn minh không có sự biến
đổi rõ rệt so với chèo cổ. Kịch bản chèo cổ đã ra đời và tồn tại từ trƣớc đó, nên với
tên đề tài: “Kịch bản chèo đầu thế kỷ XX - Truyền thống và biến đổi”, chúng tôi xác
định kịch bản chèo đầu thế kỷ XX là kịch bản chèo cải lƣơng. Đối tƣợng nghiên cứu
của luận án là kịch bản chèo cải lƣơng, cụ thể là kịch bản chèo cải lƣơng của
Nguyễn Đình Nghị. Chèo cổ đƣợc đƣa ra đối sánh với chèo cải lƣơng để biết chèo
cải lƣơng đã biến đổi nhƣ thế nào?
Về phạm vi khảo sát, đối với kịch bản chèo cổ, chúng tôi chọn 7 kịch bản
chèo trong cuốn Tuyển tập Chèo cổ (Nxb Sân khấu xuất bản năm 1999) do PGS Hà
Văn Cầu sƣu tầm và chú thích gồm: Quan Âm Thị Kính, Trương Viên, Lưu Bình Dương Lễ, Kim Nham, Chu Mãi Thần, Tôn Mạnh - Tôn Trọng, Từ Thức (các kịch
bản chèo cổ này mới có sự biên tập, hiệu đính, chú thích, chƣa có việc chỉnh lý, cải
biên) làm văn bản chính thức để triển khai nghiên cứu.
Phong trào chèo cải lƣơng đã tạo nên tên tuổi nhiều soạn giả nhƣ Nguyễn
Quang Oánh, Đỗ Thân, Phan Chu Sĩ, Nguyễn Ngọc Châu, Văn Tâm, Nguyễn Thúc
Khiêm, Nguyễn Đình Nghị, Nguyễn Văn Tôn, Khắc Nhẫn, Hữu Kim, Trƣơng
Huyền…, trong đó Nguyễn Đình Nghị với tƣ cách là ngƣời mở đầu phong trào chèo
cải lƣơng, nổi bật lên nhƣ một tài năng lớn, một nhà cách tân, một ngƣời gắn bó với
sự phát triển nghệ thuật chèo Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ XX. Vì vậy, về
kịch bản chèo cải lƣơng, ngƣời viết chọn 60 kịch bản chèo của Nguyễn Đình Nghị
mà nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh Hiền đã thống kê, đặc biệt là 34 tác phẩm đã
đƣợc in thành sách trong hai cuốn: Tuyển tập Chèo cải lương Nguyễn Đình Nghị (3
5
tập) do Cục Nghệ thuật Sân khấu xuất bản năm 1994 và Văn học Việt Nam thế kỷ
XX (Kịch bản chèo 1900-1945) quyển 6 tập 1 do Nxb Văn học xuất bản năm 2006.
Cả 2 cuốn sách này đều do Lê Thanh Hiền dày công sƣu tầm và biên soạn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
- Về mốc thời gian: Chèo cổ tiếp tục tồn tại từ nhiều thế kỷ trƣớc đến năm
1945. Chèo văn minh tồn tại từ năm 1913 - 1924. Chèo cải lƣơng tồn tại từ năm
1924 đến trƣớc năm 1945. Mốc thời gian đầu thế kỷ XX đƣợc nhiều nhà nghiên cứu
lịch sử và văn học chọn là 1900 - 1945. Trong cuốn Văn học Việt Nam thế kỷ XX
(Kịch bản chèo 1900 - 1945), Lê Thanh Hiền cũng chọn mốc 1900 - 1945 khi giới
thiệu về các kịch bản chèo của Nguyễn Đình Nghị, Nguyễn Thúc Khiêm. Phân kỳ
này vừa phù hợp với phân kỳ lịch sử, vừa phù hợp với phân kỳ văn học, quá trình
hình thành, phát triển của kịch bản chèo đầu thế kỷ XX nên ngƣời viết chọn mốc
thời gian 1900 - 1945 này.
Về nội dung, phạm vi nghiên cứu là kịch bản chèo đầu thế kỷ XX nên chúng
tôi chỉ nghiên cứu về kịch bản chèo. Tuy nhiên, không chỉ là tác phẩm văn học, kịch
bản chèo còn đƣợc biểu diễn trên sân khấu. Các vở chèo cổ nội dung đƣợc diễn tả
chủ yếu là hát, trong kịch bản chèo cổ, chèo cải lƣơng cũng ghi rất rõ đoạn nào nói,
đoạn nào hát, hát điệu gì…, nên những đặc điểm liên quan đến nghệ thuật biểu diễn
nhƣ ƣớc lệ, múa, âm nhạc…, chúng tôi cũng nghiên cứu và nhấn vào để làm rõ một
số nội dung đi từ kịch bản đến sân khấu, mối quan hệ đặc biệt giữa kịch bản văn
học và sân khấu biểu diễn trong nghệ thuật chèo.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
Chèo là nghệ thuật sân khấu nên việc nghiên cứu chèo nếu tách rời khỏi sân
khấu biểu diễn sẽ gặp không ít khó khăn. Trên cơ sở thực tiễn của nghệ thuật chèo
truyền thống, một nghệ thuật từ xa xƣa, vốn là hình thức sân khấu đƣợc sáng tạo
theo chu trình mở: thế hệ này nối tiếp thế hệ kia bổ sung, hoàn chỉnh để rồi lại làm
cơ sở cho thế hệ tiếp theo sáng tạo... nên trong quá trình triển khai thực hiện, luận
án sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành văn hóa làm phƣơng pháp nghiên
cứu chủ yếu. Mục đích sử dụng phƣơng pháp này để làm rõ sự ảnh hƣởng của giao
lƣu văn hóa Đông - Tây đối với sự biến đổi, cách tân của kịch bản chèo đầu thế kỷ
XX. Xem dƣới góc độ thi pháp, kịch bản chèo đầu thế kỷ XX đƣợc xây dựng nhƣ
thế nào, có gì cũ, mới. Từ đó cho thấy mối quan hệ đặc biệt giữa văn học và nghệ
thuật, giữa văn học và sân khấu, giữa văn học và mỹ học, giữa văn học và xã hội
học…
Ngoài ra, luận án còn sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu xã hội học để nghiên
cứu thị hiếu khán giả đƣơng thời.
6
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Đi vào nghiên cứu chuyên sâu về kịch bản chèo đầu thế kỷ XX, luận án đã
khảo sát, phân tích, đánh giá những thành tựu và hạn chế của chèo cải lƣơng và vai
trò của Nguyễn Đình Nghị trong phát triển sân khấu chèo. Luận án đã góp phần làm
sáng tỏ một số nội dung sau:
Qua khảo sát, nghiên cứu, phân tích, chúng tôi thấy rằng, yếu tố truyền thống
và yếu tố biến đổi trong các kịch bản chèo cải lƣơng đƣợc xác định nhƣ sau:
Nguyễn Đình Nghị đã có những cải cách về nghệ thuật biểu diễn, với chủ trƣơng
làm cho chèo giống nhƣ kịch Thái Tây, khiến chèo cải lƣơng biến đổi, lai tạp. Tuy
nhiên, trong sự biến đổi, cách tân ấy, chèo cải lƣơng vẫn giữ đƣợc các yếu tố truyền
thống của chèo cổ, vẫn đậm chất chèo. Chèo cải lƣơng kế thừa truyền thống, vẫn
giữ đƣợc yếu tố truyền thống về mặt văn bản là cấu trúc tự sự. Chèo cải lƣơng biến
đổi với đặc điểm nổi bật là tiếp nhận kịch cổ điển Pháp đầu thế kỷ XX, gia tăng
xung đột kịch trên mạch bố cục của chèo truyền thống. Biến đổi lớn nhất của kịch
bản chèo cải lƣơng là tiếp nhận trào lƣu chủ nghĩa hiện thực của văn học Việt Nam
đầu thế kỷ XX. Luận án đã chỉ ra ở kịch bản chèo cải lƣơng, yếu tố bác học gia tăng
nhiều hơn kịch bản truyền thống. Chèo cải lƣơng đƣợc hài hóa triệt để. Nếu nhƣ
chèo truyền thống chỉ có các trò hài thì chèo cải lƣơng đã có những vở hài. Điểm
quan trọng nhất là chèo cải lƣơng có sự thay đổi về phƣơng thức sáng tạo - đó là
bƣớc ngoặt lịch sử.
Luận án đã nghiên cứu toàn diện kịch bản chèo đầu thế kỷ XX trong đối sánh
với chèo cổ. Chúng tôi đã phân tích, đánh giá, hệ thống đầy đủ, toàn bộ những yếu
tố quan trọng cấu thành nên cấu trúc tự sự trong kịch bản chèo cổ và kịch bản chèo
cải lƣơng nhƣ cốt truyện, kết cấu, nhân vật, ngôn ngữ, không gian, thời gian, mang
đến cái nhìn tổng hợp, khái quát về kịch bản chèo đầu thế kỷ XX, thực chất là kịch
bản chèo từ khi ra đời cho đến đầu thế kỷ XX - tức hơn 1.000 năm phát triển của
kịch bản chèo.
Luận án đã phân tích, xâu chuỗi, chỉ ra những điều kiện kinh tế - chính trị xã hội đầu thế kỷ XX ảnh hƣởng đến sự biến đổi của các loại hình văn học - nghệ
thuật nói chung và chèo nói riêng. Phân tích, đánh giá, nhận diện đầy đủ về kịch bản
chèo cổ, chèo cải lƣơng, chỉ ra điểm khác biệt giữa chèo cổ và chèo cải lƣơng về
phƣơng diện kịch bản. Qua đó, rút ra, yếu tố truyền thống trong chèo cải lƣơng là
gì? Chèo cải lƣơng đã biến đổi gì, đổi mới nhƣ thế nào so với chèo truyền thống. Từ
đó cho thấy khả năng tiếp biến của chèo cổ khi đón nhận yếu tố ngoại lai là sân
khấu phƣơng Tây.
Luận án góp phần làm sáng tỏ quá trình vận động của kịch bản chèo. Những
7
cái đƣợc và mất khi cách tân ở nửa đầu thế kỷ XX. Từ đó, gợi ra suy nghĩ, các yêu
cầu cách tân các loại hình văn học nghệ thuật truyền thống.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận án
Những vấn đề nghiên cứu về chèo cải lƣơng của Nguyễn Đình Nghị trong
bối cảnh hôm nay vẫn là những vấn đề nóng hổi vì trong sáng tác kịch bản, chèo
hiện đại vẫn chƣa thống nhất trong định hƣớng phát triển. Vì vậy, việc nghiên cứu
về Nguyễn Đình Nghị và chèo cải lƣơng, đặc biệt là kỹ thuật viết kịch bản chèo cần
đƣợc đầu tƣ nghiên cứu cụ thể, toàn diện và sâu sắc hơn nữa.
Luận án cho thấy sự biến đổi của nghệ thuật chèo cụ thể là kịch bản chèo
dƣới ảnh hƣởng của giao lƣu văn hóa Đông - Tây.
Luận án giúp khẳng định vai trò của văn học kịch trong đời sống sân khấu,
hiện thực những giải pháp nâng cao hiệu quả chất lƣợng sáng tác kịch bản, cung cấp
những vấn đề lý luận trong giảng dạy, cung cấp kiến thức cho ngƣời viết kịch bản
chèo.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
Luận án góp phần khẳng định giá trị và trả lại vị trí xứng đáng của kịch bản
chèo cải lƣơng trong nghệ thuật sân khấu chèo.
Nêu đƣợc khá đầy đủ, toàn diện về kịch bản chèo từ khi chèo cổ ra đời đến
năm 1945, luận án giúp thêm cho những nhà nghiên cứu, những ngƣời viết kịch bản
chèo hình dung và nhận diện rõ nét hơn diện mạo của kịch bản chèo cổ, kịch bản
chèo cải lƣơng, phân biệt và định hƣớng đƣợc các loại kịch bản chèo. Những ngƣời
muốn viết kịch bản chèo cần phải có những yếu tố, chất liệu gì. Luận án giúp thêm
cho ngƣời sáng tác kịch bản chèo nắm chắc đâu là yếu tố truyền thống, đâu là yếu tố
cách tân trong chèo, những yếu tố nội sinh, ngoại nhập để có những kỹ thuật, lý
luận đúng đắn khi sáng tác kịch bản chèo. Thực chất, những kịch bản chèo sáng tác
mới đều mang những yếu tố song hành là truyền thống và đổi mới.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và các phụ lục, luận án có
cấu trúc gồm 4 chƣơng:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Giao lưu văn hóa Đông - Tây và những xu hướng cách tân
kịch bản chèo đầu thế kỷ XX
Chương 3: Nhân vật và cốt truyện trong kịch bản chèo đầu thế kỷ XX
Chương 4: Kết cấu, ngôn ngữ, không gian và thời gian nghệ thuật trong
kịch bản chèo đầu thế kỷ XX
8
CHƢƠNG 1:
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Lịch sử chèo cổ và việc xác định kịch bản sân khấu với tƣ cách là một thể
loại văn học dân tộc
Nghệ thuật gồm 7 loại hình cơ bản là kiến trúc, điêu khắc, hội họa, văn học,
âm nhạc, sân khấu và điện ảnh. Trong hệ thống 7 loại hình nghệ thuật, văn học giữ
vị trí quan trọng bởi nó đƣợc sử dụng để thể hiện nhiều loại hình nghệ thuật khác
nhƣ sân khấu, âm nhạc, điện ảnh…
Sân khấu là nghệ thuật tổng hợp có lịch sử lâu đời. Với tƣ cách là những thể
loại thuộc loại hình nghệ thuật sân khấu, sân khấu truyền thống Việt Nam đƣợc cấu
thành bởi hai yếu tố quan hệ mật thiết với nhau là kịch bản văn học và nghệ thuật
diễn xƣớng. Tuy nhiên, nếu nghệ thuật diễn xƣớng thuộc về sân khấu, là con đẻ của
bộ môn nghệ thuật học (nhƣ âm nhạc, vũ đạo, trình thức v.v…) thì kịch bản sân
khấu với tƣ cách một tác phẩm văn học là một bộ phận của văn học sử.
Ở Việt Nam, loại hình sân khấu có mấy thể loại gồm chèo, tuồng, cải lƣơng,
kịch nói, kịch dân ca… Ngoài một số tiểu hình sân khấu nhƣ múa rối, các trò diễn
hí dân gian, sân khấu truyền thống ngƣời Việt có hai hình thức chủ đạo là tuồng
(hay hát bội) và chèo, đƣợc phân tách làm hai dòng dân gian (chèo) và bác học
(tuồng). Nhƣ vậy, sân khấu Việt Nam từ khi hình thành đã là một sân khấu kịch
hát sau phát triển thành tuồng và chèo. Cả hai hình thức này tồn tại cho tới ngày
nay. Về cơ bản, văn học sân khấu cổ truyền vẫn là một nền văn học khuyết danh.
Đƣợc kết hợp từ ngôn ngữ nhiều loại hình, thể loại nghệ thuật khác nhau nhƣ âm
nhạc, múa, văn học, sân khấu... nên sân khấu kịch hát là sân khấu tổng hợp.
Suốt chiều dài lịch sử gần một thiên niên kỷ (938 - 1884), Việt Nam vẫn tồn
tại bất biến mô hình nhà nƣớc phong kiến. Theo quan niệm của hệ tƣ tƣởng Nho
giáo, xã hội phong kiến chỉ có bốn nghề, theo thứ tự từ cao xuống thấp là “Sĩ, Nông,
Công, Thƣơng”. Hát xƣớng không nằm trong bốn nghề đó nên bị xếp vào “vô loài”
(hoặc vô loại)… Hai thể loại dân tộc: tuồng và chèo ra đời, tồn tại và phát triển
trong lòng xã hội phong kiến. Trƣớc đây, chèo đƣợc biểu diễn trong cung đình.
Chèo từng đƣợc trọng dụng khi vua quan nhà Lý đều mê hát chèo. Nhƣng đến thời
nhà Lê, khi các ông vua chọn Nho học làm quốc giáo, lấy tƣ tƣởng Nho giáo làm tƣ
tƣởng chính thống thì hát xƣớng bị coi rẻ. Các sáng tạo dân gian bị coi thƣờng.
Chèo từng bị nhà Lê kỳ thị, coi “nhà phƣờng chèo con hát” ngang với “kẻ phản
nghịch, ngụy quan”. Bộ luật Hồng Đức thời Lê cấm các nghệ sĩ hát chèo và con cái
9
họ đi thi. Vì vậy, nhiều thế kỷ kéo dài, chèo cổ phải rời bỏ chốn phồn hoa, đô thị trở
về diễn ở sân đình, ở các làng quê. Do thái độ kỳ thị nhiều thế kỷ trƣớc đó nên dù
có lịch sử lâu đời, dƣới thời phong kiến hầu nhƣ không có những trƣớc tác nghiên
cứu về sân khấu, đặc biệt là chèo.
Theo tài liệu của Nhà hát chèo Việt Nam, ngƣời sáng lập ra chèo là bà Phạm
Thị Trân - một vũ ca tài ba thời nhà Đinh vào thế kỷ 10 và kinh đô Hoa Lƣ - Ninh
Bình xƣa đƣợc coi là đất tổ của sân khấu chèo.
Sử sách cũ ghi rằng, từ thời Lý, hát chèo ở Thăng Long đã rất phát triển.
Chèo có mặt trong các lễ tết, những cuộc vui ở kinh thành. Đặc biệt các tầng lớp
vua, quan, quí tộc rất mê hát chèo. Theo sách Việt sử thông giám cương mục do
Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, tháng 6/1028, vua Lý Thánh Tông sai gọi
phƣờng chèo đến múa hát mừng sinh nhật nhà vua. Sau, lễ sinh nhật của các vua Lý
đƣợc tổ chức thành ngày hội lớn ở kinh thành Thăng Long, bao giờ cũng có phƣờng
chèo, phƣờng hát biểu diễn, kèn sáo, múa hát tƣng bừng. Bia Sùng Thiện diên linh
(năm 1121) chép tỉ mỉ về đội múa chèo của Thiên vƣơng nhƣ sau: “… Ở giữa bậc
dƣới, những cô gái tiến hƣơu vàng, nhạc quan đứng thành hàng dƣới sân nhảy hát
một lúc…”.
Cuối đời Lý (năm 1182), sử sách còn ghi chép lại một trò nhại trực tiếp châm
biếm tính hống hách của Đỗ An Thuận - viên thái sử thời đó. Sách An Nam chí lược
ghi chép về cảnh sinh hoạt văn hóa, văn nghệ nhộn nhịp trong cung vua Trần cho
thấy, vào ngày “tất niên” (hết năm), vua Trần ra ngự ở cửa Đoan Cung để bách quan
lạy mừng. Các phƣờng chèo, phƣờng hát tới diễn mừng vua ở đấy. Từ Đạo Hạnh ở
thời Lý, Trần Nhật Duật ở thời Trần đều là những ông quan đam mê hát chèo. Từ
Đạo Hạnh đƣợc coi là tác giả của bài “Giáo trò” quen thuộc mà các phƣờng chèo
Thăng Long - Hà Nội và nhiều nơi khác còn lƣu truyền:
Trình làng trình chạ
Thƣợng hạ Tây Đông
Tứ cảnh hòa trung
Nghe tôi giáo trống
Trƣờng không phong động
Cũng bởi trống tôi
Làng đã vào ngồi
Tôi xin diễn tích…
Sang thời Lê, do chính sách vọng ngoại, chèo bị nhà Lê kỳ thị. Sách Việt sử
thông giám cương mục ghi thời Hồng Đức (1470-1496), trong 24 điều dạy dân của
vua Lê Thánh Tông có hai điều răn:
10
Điều 1: Cha mẹ dạy con phải đúng khuôn phép, không đƣợc để buông tuồng
đắm đuối vào cờ bạc, rƣợu chè, tập nghề hát xƣớng, hại đến phong tục.
Điều 16: Khi chèo hát, lúc hội hè, trai gái đến chơi xem, không đƣợc đứng
ngồi lẫn lộn, để ngăn ngừa thói dâm ô”.
Bộ luật Hồng Đức ghi rõ cấm con trai các nhà xƣớng ca không đƣợc đi dự
thi, con gái không đƣợc lấy con những nhà quan chức quyền quý. Điều 322 Bộ luật
Hồng Đức viết, quan chức lấy con nhà xƣớng ca làm vợ hay thiếp bị phạt đánh 70
trƣợng và giáng chức; con cháu quan chức lấy con gái nhà xƣớng ca cũng bị phạt
đánh 60 trƣợng và nhất thiết bắt ly dị...
Sách Lịch sử Việt Nam tập 1, xuất bản năm 1971 ghi nhận: “Cuốn Hý
phường phả lục của Lƣơng Thế Vinh xuất bản năm 1501 có thể coi đó là tác phẩm
lý luận đầu tiên về nghệ thuật kịch hát cổ truyền. Tác giả đã tổng kết kinh nghiệm
và nêu lên những nguyên tắc có tính chất lý luận về nghệ thuật biểu diễn, diễn viên,
múa hát và đánh trống”.
Hí phường phả lục đƣợc xác định là công trình nghiên cứu chèo cổ của
Trạng nguyên Lƣơng Thế Vinh với bản in khắc gỗ năm 1501. Hí phường phả lục đã
ghi lại các khoán ƣớc của phƣờng chèo, kịch bản và diễn xuất, cách đánh trống
chèo, phƣơng pháp múa hát, với nhiều nguyên tắc nhƣ nguyên tắc “Tứ tƣơng” trong
múa chèo, luật “Hô ứng tƣơng sinh” trong giao lƣu nhân vật sân khấu và quy tắc
“Sáu chữ” về tiêu chuẩn diễn viên dùng cho các phƣờng chèo. Các nội dung này sau
đƣợc PGS Hà Văn Cầu trích dẫn trong các tác phẩm của ông nhƣ sau:
Hệ thống động tác trong nghệ thuật diễn xuất sân khấu kịch hát truyền thống
vốn tồn tại nhƣ một tổng thể các ký hiệu - động tác, một hệ thống ngôn ngữ biểu
đạt. Nguyên tắc tứ tƣơng là một trong những biểu hiện tính hệ thống của động tác
trong sân khấu kịch hát truyền thống. Hệ thống động tác bị chi phối bởi nguyên tắc:
Thƣợng hạ tƣơng phù: động tác phải có trên - dƣới, gốc - ngọn, đầu - đuôi, tiến - lui,
để tạo nên một chỉnh thể.
Tả hữu tƣơng ứng: động tác có phải - trái, trƣớc - sau kết hợp, tạo nên sự hài hòa.
Phì sấu tƣơng chế: Sự hài hòa tạo nên bởi sự tƣơng phản giữa động tác dày
và mỏng, rộng và hẹp.
Nội ngoại tƣơng quan: tƣơng quan giữa nội tâm - ngoại hình nhân vật, giữa
con ngƣời và thiên nhiên.
Những nguyên tắc tạo hình trong nghệ thuật diễn xuất mang đậm màu sắc
triết lý. Nguyên tắc tứ tƣơng này cũng có thể gặp ngay trong Hý khúc Trung Quốc.
Cái đẹp từ sự cân đối: trƣớc - sau, phải - trái, trên - dƣới, từ sự hài hòa bên trong bên ngoài, vật chất - tinh thần v.v… trong hệ thống động tác diễn xuất sân khấu, thể
11
hiện cách nhìn vũ trụ - con ngƣời trong tính tổng hợp hữu cơ các quan hệ của nó.
Tuy nhiên, cho đến nay, chƣa ai nhìn thấy văn bản này nên thời gian qua đã
dấy nên sự tồn nghi về sự có mặt của Hí phường phả lục. TS Trần Đình Ngôn xác
nhận sách Hí phường phả lục là thật với nhiều nhân chứng nhìn thấy nó gồm GS.
Trần Bảng, nhà nghiên cứu Hoàng Kiều và PGS. Hà Văn Cầu. Bản in khắc gỗ Hí
phường phả lục sƣu tầm đƣợc ở Thái Bình, trên đó ghi rõ năm xuất bản sách là năm
Cảnh Thống Tân Dậu 1501. Sau này, Nhà hát Chèo Việt Nam đã dịch Hí phường
phả lục, in roneo. GS. Trần Bảng là ngƣời duyệt sách nên ông đã đọc cả hai bản
bằng chữ Hán và chữ quốc ngữ. Do trƣớc đây chƣa có phƣơng tiện photocopy nên
chỉ có mình PGS. Hà Văn Cầu chép tay bản Hí phường phả lục. Cụ Cầu đã chép hai
bản, một bản cụ giữ, còn một bản đem tặng GS. Trần Quốc Vƣợng. Còn bản gốc và
bản dịch Hí phường phả lục Nhà hát chèo Việt Nam lƣu giữ sau bị mối mọt xông
hết.
Sau Hí phường phả lục, gần 300 năm sau, danh sĩ Phạm Đình Hổ (1768 1839) mới viết Vũ Trung tùy bút với đôi dòng rải rác nhắc đến hoạt động sân khấu.
Nhƣ vậy, hệ thống lý luận của chèo cổ thời phong kiến thực chất chỉ có Hí phường
phả lục. Sau này, Lê Dƣ dựa vào nguồn tƣ liệu ít ỏi này để viết Ca vũ và âm nhạc
nước nhà, Đào Duy Anh dựa vào để viết Việt Nam văn hóa sử cương và Dƣơng
Quảng Hàm dựa vào để viết Việt Nam văn học sử yếu. Dƣơng Quảng Hàm là ngƣời
viết bộ văn học sử hoàn chỉnh đầu tiên bao quát đƣợc tiến trình văn học Việt Nam
từ sơ khai cho đến đƣơng thời (năm 1943) của lịch sử văn học sử Việt Nam. Ông
cũng là một trong những ngƣời đầu tiên coi kịch bản sân khấu với tƣ cách là một thể
loại văn học dân tộc - văn học Nôm.
Trong Việt Nam văn học sử yếu, Dƣơng Quảng Hàm đã lần đầu tiên coi sân
khấu là một trong năm yếu tố cấu thành nên văn học sử Việt Nam gồm triết học,
lịch sử, thi văn, kịch bản và tiểu thuyết. Theo ông, “văn kịch của ta chia làm hai lối,
một là hát bội hoặc tuồng; hai là chèo”. [85, tr. 170]. Tuy vậy, Dƣơng Quảng Hàm
chỉ viết đôi dòng về chèo. Theo ông, hát chèo vốn là hình thức dùng để giễu các
việc vui cƣời, những thói hƣ tật xấu của ngƣời đời. Trong lời văn của hát chèo có
nhiều giọng khôi hài nhƣng lại có tính chất khuyên răn ngƣời đời, thiên về luân lý.
Dần dần, chèo mất đi tính tài tử để trở thành một tổ chức nhà nghề. Diễn viên là
những nghệ sĩ chuyên nghiệp, học nghề theo lối cha truyền con nối. Khi chèo phát
triển đến chỗ cực thịnh thì nhạc chèo cũng rất phong phú. Chèo có những điệu hát
riêng, khác với hát tuồng và phân làm nhiều loại đƣợc hát tùy theo từng đoạn của vở
chèo: vui tƣơi, buồn thảm, ý nhị, đanh đá hoặc bông lơn...
Sau đó Nghiêm Toản trong Việt Nam văn học sử trích yếu (2 tập, in năm
12
1949) cũng trùng quan điểm với Dƣơng Quảng Hàm khi cho ca kịch trong đó có
“tuồng và chèo là thể loại văn Nôm” (267, tập 2, tr.3).
Đối lập lại các khuynh hƣớng nêu trên là quan điểm của Phạm Thế Ngũ trong
quyển II bộ Việt Nam Văn học sử giản ước tân biên với tên gọi: Văn học lịch triều:
Việt văn. Khi bàn về các thể loại văn Nôm, Phạm Thế Ngũ đã coi hát nói nhƣ bƣớc
tiến triển cuối cùng của thể cách văn Nôm. Cũng trong phần này, tác giả đã chú
thích: “Trong những thể loại văn Nôm nghiên cứu trong sách này chúng tôi không
kể đến những loại sân khấu. Trong các loại sân khấu, duy chỉ có lối thoại kịch là
đáng coi làm tác phẩm văn học, còn những lối ca kịch (trong đó ca, nhạc, vũ cùng
kỹ thuật sân khấu là yếu tố căn bản để gây hứng thú, văn chƣơng lui xuống địa vị
phụ) không nên đặt vào văn học là lĩnh vực của tụng độc hoặc ngâm nga. Xét sân
khấu ta xƣa thì không hề có thoại kịch. Hai loại chính là tuồng và chèo đều là ca vũ
kịch. (Cứ xét lời bình dân thƣờng nói đi coi hát). Cho nên mặc dầu các bản tuồng
chèo ta có sử dụng đủ các thể cách văn Hán văn Nôm, mà không thể thành một loại
văn học, và việc nghiên cứu nên đặt ngoài địa hạt văn học sử - trừ vài trƣờng hợp
đặc biệt mà chúng tôi sẽ đề cập sau”. [183, tr.45]. Sau đó, ông đi đến nhận định,
trong những thể cách của quốc văn xƣa vắng bóng văn xuôi. Văn Nôm chỉ là văn
vần hoặc biền ngẫu.
Đầu thế kỷ XX, với sự phát triển rầm rộ của báo chí, các loại hình nghệ
thuật, cùng với phong trào chèo văn minh, chèo cải lƣơng đã xuất hiện một số bài
viết và công trình của các tác giả nhƣ: Nguyễn Học Đạo, Lê Kim Giang, Chu Ngọc
Phi, Paulus Của, Nguyễn Thúc Khiêm.... Những công trình này chủ yếu là sƣu tầm,
sáng tác và giới thiệu các tác phẩm chèo.
1.2. Tình hình nghiên cứu về chèo truyền thống
1.2.1. Những nghiên cứu về nguồn gốc của chèo truyền thống
Về nguồn gốc của chèo truyền thống, qua các ý kiến từ các bài viết và công
trình nghiên cứu, có thể chia ra làm 4 nhóm: Nhóm ý kiến thứ nhất cho rằng chèo
có nguồn gốc du nhập từ nƣớc ngoài vào. Nhóm ý kiến thứ hai cho rằng “chèo đọc
chệch từ chữ trào nghĩa là giễu cợt mà ra”. Nhóm ý kiến thứ ba cho rằng chèo có
nguồn gốc từ các hình thức tôn giáo, tế lễ, lao động. Nhóm thứ tƣ cho rằng chèo là
hình thức sân khấu thuần tuý dân tộc, bắt nguồn từ kho tàng văn hoá nghệ thuật dân
gian phong phú, lâu đời Việt Nam.
Nhóm ý kiến thứ nhất cho rằng chèo có nguồn gốc ngoại lai, du nhập từ nƣớc
ngoài vào bắt đầu từ sự kiện quân nhà Trần cầm giữ nghệ nhân Lý Nguyên Cát ở
trận Tây Kết. Trở thành tù binh, Lý Nguyên Cát đƣợc dùng vào việc dạy hát múa
cho một số đào kép Việt Nam trong quá trình dựng vở Tây Vương Mẫu hiến bàn
13
đào. Căn cứ để dẫn tới kết luận này là sách Đại Việt sử ký toàn thư tập 2 của Ngô Sĩ
Liên ghi: “Trƣớc đây khi đánh quân Toa Đô, bắt đƣợc ngƣời phƣờng hát là Lý
Nguyên Cát, hát giỏi, dậy những con cái tuổi trẻ ở nhà thế gia tập hát điệu phƣơng
Bắc. Nguyên Cát đóng tuồng truyện cổ có các tích “Tây Vƣơng mẫu hiến bàn đào”,
ngƣời ra trò có danh hiệu quan nhân, Chu tử, Tân Nƣơng, Sửu nô, cộng 12 ngƣời
đều mặc áo thêu, đánh trống, thổi sáo, gảy đàn, vỗ tay, đánh đàn thay đổi nhau ra
vào làm trò, có thể cảm động lòng ngƣời, muốn cho buồn đƣợc buồn, muốn cho vui
đƣợc vui. Nƣớc ta có tuồng truyện từ ngày đó”. [150, tr.148].
Các sách Vũ Trung tùy bút của Phạm Đình Hổ, Việt Nam văn hóa sử cương
của Đào Duy Anh, Việt Nam cổ văn học sử của Nguyễn Đổng Chi đều ghi chép các
sự kiện về Lý Nguyên Cát để khẳng định chèo ra đời từ việc các nghệ nhân Trung
Quốc sang ta truyền dạy vào đời Lý hoặc đời Trần. Trong cuốn Sơ thảo lịch sử văn
học Việt Nam tập 5, các tác giả Văn Tân, Nguyễn Hồng Phong, Vũ Ngọc Phan,
Nguyễn Đổng Chi cho rằng, tuồng của ta khởi đầu từ Lý Nguyên Cát. Khi giai
cấp phong kiến thống trị cho diễn tuồng lấy sự tích Trung Quốc trong các vƣơng
phủ, thì nhân dân bắt chƣớc lối diễn tuồng mà sáng tác các vở chèo lấy đề tài ngay
trong sinh hoạt của nhân dân… Nho sĩ nông thôn sáng tác những vở mà lời hát lấy
ngay một phần ở tục ngữ, ca dao, còn nội dung thì dùng hoàn toàn sự tích Việt
Nam. Sau cùng, các tác giả này đi đến kết luận rằng: “Hát chèo từ hát tuồng mà ra,
mà hát tuồng thì du nhập từ Trung Quốc vào”. Trƣớc Cách mạng tháng Tám năm
1945, ý kiến này đƣợc phần lớn học giả đƣơng thời chấp nhận.
Nhóm ý kiến thứ hai căn cứ vào nội dung và nghệ thuật gây cƣời chiếm phần
lớn thời gian diễn xuất chèo mà cho rằng: chèo từ chữ trào nghĩa là giễu cợt mà
ra. Ngƣời nêu ý kiến này đầu tiên là Nguyễn Thúc Khiêm. Trong công trình Khảo
cứu về hát tuồng và chèo đăng tải trên Tạp chí Nam Phong vào năm 1928, Nguyễn
Thúc Khiêm lý giải nguồn gốc của chèo: “Tiếng Chèo là bởi chữ trào nói trệch
(chệch-NV) ra. Trào nghĩa là cƣời. Ngoài Bắc kì ta gọi Chèo là giễu cợt cái sự tích
bật cƣời của ngƣời đời cố ra làm vui để xem cho thỏa thích, để dạy ngƣời ta răn
chừa”. [134, tr.31].
Công trình Khảo cứu về hát tuồng và chèo bƣớc đầu đã đƣa ra những tìm tòi
nghiên cứu, kiến giải về nguồn gốc sự hình thành của tuồng và chèo. Dù là nhà soạn
vở đầu thế kỷ XX, Nguyễn Thúc Khiêm mới lý giải về nguồn gốc của chèo một
cách đơn giản. Ông chƣa bàn đến kỹ thuật biểu diễn, thể loại sân khấu hoặc phƣơng
pháp xây dựng nhân vật. Mặt âm nhạc, ông nhấn vào giá trị văn học của những câu
hát chèo.
Tháng 8/1958, trong bài viết Tìm hiểu về chèo tạp chí Văn nghệ số 15 xuất
14
bản, Cao Kim Điển tán thành những ý kiến của Trần Huyền Trân và Trần Bảng và
kết hợp với các ý kiến của các lão nghệ nhân mà cho rằng “chèo là do tiếng trào mà
ra”. Trong bài Một số đặc điểm của Chèo cổ đăng trên Báo Tổ quốc số 48, tháng
12/1956. Trần Huyền Trân viết: “Chèo là do chữ “trào” đọc chệch ra, “tuy gọi là cổ
truyền nhƣng thực sự đang trên đà phát triển nghệ thuật, tuy đã trình thức hóa
nhƣng cũng rất linh hoạt, nhiều chất tự do”. Theo Trần Huyền Trân, chèo có từ đời
Trần, khoảng thế kỷ XIII, khi Nguyễn Sĩ Cố và Hàn Thuyên phát triển chữ Nôm,
lấy dân ca, dân vũ, dân nhạc làm nền tảng. Ông cũng đề cập đến quá trình phát triển
của chèo nhƣng nhấn mạnh về sự hình thành các làn điệu và phƣơng pháp vận dụng
chúng.
Nhóm ý kiến thứ ba cho rằng chèo có nguồn gốc đƣợc bắt nguồn từ các hình
thức tôn giáo, tế lễ, từ “động tác chèo thuyền” để nói nguồn gốc chèo xuất phát từ
trò tang lễ và lao động. Nhà nghiên cứu Vũ Khắc Khoan trong cuốn Tìm hiểu sân
khấu chèo cho rằng: “Nguồn gốc của chèo là một nền ca vũ cổ sơ của dân tộc
thƣờng biểu diễn trong dịp tang lễ thời trƣớc, lời ca than vãn là lời biệt ly và tiễn
đƣa ngƣời quá cố, điệu vũ hình dung những động tác chèo thuyền, chiếc thuyền
thần thoại chở linh hồn ngƣời chết sang thế giới bên kia. Chèo nhƣ một nghệ thuật
sân khấu đƣợc phát triển trên cơ sở của nền ca vũ đó, bằng cách tiếp thu thêm nhiều
điệu hát và điệu múa khác của những nguồn hát và múa khác của dân tộc. Do vậy,
chữ chèo không phải do chữ trào mà ra.” [175, tr.40]. Theo Vũ Khắc Khoan thì ở
thế kỷ X, bộ môn chèo đã dứt khoát tách ra khỏi gốc nghi lễ để hình thành nhƣ một
bộ môn sân khấu đích thực và biệt lập.
Vũ Khắc Khoan đã lựa chọn cách chia sự hình thành của sân khấu chèo
thành 3 thời kì khác nhau nhƣ: thời kì phôi thai, thời kì chuyển tiếp và thời kì hình
thành. Theo ông, thời kì phôi thai của chèo kéo dài khoảng 5 thế kỉ và đƣợc tính từ
thế kỉ IV trƣớc công nguyên đến thế kỉ I sau công nguyên. Thời kì chuyển tiếp kéo
dài khoảng 10 thế kỉ và đƣợc tính từ thế kỉ I cho đến thế kỉ X. Và cuối cùng là thời
kì hình thành từ thế kỉ X - đến thế kỉ XIX.
Nhà nghiên cứu Trần Việt Ngữ sau khi tìm hiểu, nghiên cứu dựa trên
những sử sách và cứ liệu lịch sử đã rút ra những nhận định, chèo bắt nguồn từ kho
tàng văn hóa nghệ thuật dân gian, dân tộc với sự đóng góp quan trọng của giới trí
thức bình dân, và quý tộc, từng tồn tại lâu đời trên đất nƣớc Việt Nam, đúng ra là
vùng trung châu và đồng bằng miền Bắc. Danh xƣng chèo xuất phát từ việc cách
điệu động tác “gạt mái chèo” đẩy thuyền di chuyển trên sông nƣớc” để vừa mô
phỏng lễ tiết chèo đò trong tổ chức cầu siêu cho vong hồn ngƣời chết của đạo
Thích, vừa lặp lại và cách điệu cung cách lao động của đông đảo cƣ dân trong phạm
15
trù văn hóa thuyền của nền văn minh lúa nƣớc vùng trung châu đồng bằng miền Bắc
Việt Nam. Chèo bắt nguồn từ kho tàng dân ca, dân vũ, dân nhạc và trò diễn dân
gian, bao gồm những trò nằm trong phạm trù tín ngƣỡng, những trò trình diện, trình
nghề luôn thấy trong các hội làng, mà nó cấu thành ngôn ngữ nghệ thuật, để thể
hiện một kịch bản với vở diễn mang sắc thái hứa hẹn tạo dựng đƣợc một số hình
ảnh có tính cách nói lên mức độ, với nghệ thuật thể hiện phức tạp, tinh tế hơn.
Hai tác giả Đặng Văn Lung và Nguyễn Hữu Thu trong bài Thêm một giả
thiết về nguồn gốc của chèo cũng cho rằng chèo là hình thức sân khấu cổ truyền,
gắn với nền văn minh lúa nƣớc, gắn với động tác lao động chèo thuyền trên sông
nƣớc. Chữ chèo là một động từ chỉ hoạt động gạt nƣớc bằng mái chèo làm cho
thuyền chuyển động. Theo quan niệm cổ, thế giới của ngƣời sống và ngƣời chết
ngăn cách nhau bởi một con sông. Khi tiễn ngƣời chết về thế giới bên kia, ngƣời
xƣa thƣờng làm động tác chèo thuyền có kèm theo lời hát để đƣa ngƣời chết qua
sông. Những diệu hát đó ngƣời ta gọi chung là chèo. Đây là cơ sở để chèo có tên
nhƣ ngày nay.
Nhóm ý kiến thứ tƣ cho rằng chèo là hình thức sân khấu thuần tuý dân tộc,
bắt nguồn từ kho tàng văn hoá nghệ thuật dân gian phong phú, lâu đời Việt Nam.
Hai tác giả Hoàng Ngọc Phách và Huỳnh Lý khi giới thiệu cuốn Chèo và Tuồng,
viết rằng: “Chỉ đối chiếu hình thái diễn Chèo cổ truyền và trình độ văn hóa của dân
tộc ta đời Lý Trần, cũng có thể thấy rằng, nghệ thuật diễn Chèo là thuần túy dân tộc,
có từ lâu đời và đƣợc xây dựng từ các hình thái diễn trò thấp nhất đời cổ sơ lên, chứ
không phải là môn nhập cảng”. [215, tr.42].
Các tác giả Trần Việt Ngữ và Hoàng Kiều trong cuốn Bước đầu tìm hiểu sân
khấu Chèo thì cho rằng: “Bắt nguồn từ những hình thức cổ sơ có trƣớc thời Đinh,
Lê, Lý, bao gồm những làn dân ca, điệu dân vũ đầy màu sắc, sức sống và những làn
hát nói kể chuyện phong phú, sinh động của những đội hát rong, chèo đƣợc hình
thành với hai tính chất chủ yếu là tính tích diễn và tính ứng diễn, để trở thành một
loại sân khấu độc đáo, tuy còn thô sơ, vào khoảng thế kỉ XIV cuối đời Trần [185,
tr.204].
PGS Hà Văn Cầu trong cuốn Quá trình hình thành và phát triển của nghệ
thuật chèo cũng đã nêu thời kì hình thành Chèo từ thế kỉ X đến thế kỉ XIV và khẳng
định: “Chèo ra đời từ thời Đinh. Chèo là nghệ thuật dân gian đƣợc xây dựng trên cơ
sở trò nhại, múa và hát dân gian”. Và sau đó khẳng định: “Nghệ thuật chèo là một
hình thức tự sự sân khấu dân gian lấy trò nhại và ca múa dân gian làm cơ sở. Nó là
nghệ thuật của ngƣời nông dân đồng bằng Bắc bộ Việt Nam”.
Các nhà nghiên cứu nhƣ Lộng Chƣơng, Lƣu Quang Thuận, Trần Bảng cũng
16
nhìn nhận địa bàn nảy sinh ra chèo là đồng bằng Bắc bộ, sau đó kết hợp với kết quả
khai thác văn nghệ dân gian để đƣa ra nhận định rằng: “Chèo vốn nảy sinh và
trƣởng thành trên vùng nôi của đồng bằng và trung châu miền Bắc, từng đƣợc đông
đảo nông dân ở đây rất ƣa chuộng, coi nhƣ loại hình nghệ thuật của mình”.
Giáo sƣ Trần Bảng trong cuốn Chèo - Một hiện tượng sân khấu dân tộc (khi
tái bản đổi tên là Khái luận về chèo) khẳng định: “Nghệ thuật chèo ra đời sau bằng
cách tiếp thu phƣơng pháp nghệ thuật của tuồng, phỏng theo cấu trúc của tuồng, lấy
kho tàng văn nghệ dân gian của lƣu vực sông Hồng làm chất liệu, làm bằng xƣơng
thịt mà tạo thành”.[13, tr.23]
Trong công trình: Chèo - một hiện tượng sân khấu dân tộc, GS Trần Bảng
tiếp tục khẳng định: “Có thể nói rằng, thuộc về một loại sân khấu tổng thể (theatre
total) nghệ thuật Chèo đã hội tụ ở nơi mình tinh hoa của cả nền văn hóa gốc gác lâu
đời của lƣu vực sông Hồng. Xuất phát từ một nghệ thuật dân gian, Chèo đã nhanh
chóng phát triển và phổ biến rộng rãi để trở thành một sân khấu dân tộc mang màu
sắc đa dạng của từng chiếng Chèo khác nhau: Chèo Đông, Chèo Đoài, Chèo Kinh
Bắc, Chèo Sơn Nam... [12, tr. 6].
Giáo trình Văn học dân gian do GS.TS Lê Chí Quế chủ biên cũng đƣa ra
định nghĩa về chèo: “Chèo là bộ môn nghệ thuật sân khấu dân tộc, vừa có tính chất
dân gian, vừa có tính chất chuyên nghiệp từ những hình thức nguyên sơ của nhân
dân ta”[233, tr.259].
Ngoài ra còn có các ý kiến về nguồn gốc chèo nhƣ: Chèo ra đời từ việc Trịnh
Trọng Tử cho quân hát khúc Long ngâm đang khi đƣa tang vua Trần Nhân Tông.
Danh xƣng chèo do phiên Nôm, dịch Hán đồng dạng những chữ chào (chào mừng),
chữ chầu (chầu thần thánh), chữ triều (triều đình, đọc thành trào đình).
Về thời điểm thành hình chèo, có những ý kiến cho rằng chèo có ở nƣớc ta từ
thời tiền sử, xuất hiện trong khoảng thế kỷ thứ IV trƣớc Công nguyên đến thế kỷ
thứ I sau Công nguyên; hoặc thế kỷ thứ X (thời nhà Ðinh); hoặc thế kỷ XIII, thế kỷ
XIV (cuối nhà Trần)...
Trong Vũ Trung tùy bút viết vào thời Lê mạt, Nguyễn sơ, phần bàn về âm
nhạc, danh sĩ Phạm Đình Hổ (1768 - 1839) cho rằng lối hát chèo xuất hiện từ đời
nhà Trần. Theo Phạm Đình Hổ, triều nhà Trần hễ có quốc tang, lúc sắp rƣớc tử cung
đến sơn lăng để an táng, dân sự phố phƣờng xúm quanh lại xem, vòng trong vòng
ngoài chật ních cả chốn điện đình, không thể rƣớc đi đƣợc. Ngƣời dẹp đám mới bắt
chƣớc lối vãn ca đời cổ, đặt ra khúc hát Long ngâm, hiệp vào âm luật, sai quân lính
đi hát diễu chung quanh đƣờng; nhân dân đổ xô, xúm xít theo đi xem, nhƣ thế mới
rƣớc tử cung xuống thuyền đƣợc. Đời sau bắt chƣớc làm lối hát vãn, mỗi năm cứ
17
đến rằm tháng bảy, những nhà tang gia cho gọi phƣờng hát đến hát, để giúp lễ
tế ngu. Tiếng hát bi ai, nghe rất cảm động. Phƣờng hát này tục gọi là trạo
phƣờng, còn có tên khác là phƣờng chèo bội. Tên chèo chính là xuất phát từ đây.
Có sức thuyết phục hơn cả là quan điểm chèo và tuồng có chung nguồn gốc
từ nền diễn xƣớng dân gian dân tộc với các trò diễn cổ. Trong cuốn Sơ khảo lịch sử
nghệ thuật tuồng, nhà nghiên cứu Hoàng Châu Ký cho rằng: “Hát chèo, tuồng đã
manh nha từ đời Tiền Lê, qua các đời Lý - Trần, đến đời Hậu Lê thì đã trở thành
những ngành nghệ thuật sân khấu quen thuộc với đông đảo công chúng” [115,
tr.180]
PGS. Hà Văn Cầu trong nhiều cuốn sách của mình đã giới thiệu, trích dẫn 3
tài liệu quý mà ông có trong tay gồm Hý phường phả lục của Lƣơng Thế Vinh, Đả
cổ lục (Ghi chép lối đánh trống chèo) - tác giả khuyết danh và Việt sử thông giám
cương mục có ghi về thời Hồng Đức (1470-1496). Từ đó, ông kết luận, thời kỳ hình
thành của chèo cổ là từ thế kỷ X, cụ thể là vào thời Đinh với hai hình thức chủ yếu
là hình thức “làm trò” của quân đội và hình thức “làm trò” của nhân dân, với những
trò diễn của các vai: Sinh, đào, lão, mụ, hề. Thực tế thì thời Đinh chƣa có các mô
hình vai diễn này. Mô hình này chỉ có khi tiếp nhận các tích trò của Lý Nguyên Cát.
Trong giáo trình giảng dạy về lịch sử chèo tại Trƣờng Đại học Sân khấu và
Điện ảnh, nhà nghiên cứu Hà Văn Cầu với các cứ liệu lịch sử đã chứng minh giả
thuyết của mình: Chèo bắt nguồn từ “trò nhại” và múa hát dân gian Việt Nam chứ
không phải do Lý Nguyên Cát - ngƣời con hát trong quân Nguyên, một tù binh thời
Trần dạy dân ta nhƣ một giả thuyết trƣớc đây. Trò nhại là một hình thức “bắt
chƣớc”, “mô phỏng” lại những sinh hoạt trong xã hội. Nó mang màu sắc Việt rất rõ,
không những là một trong những cội nguồn của chèo mà còn đi vào đặc trƣng ngôn
ngữ nghệ thuật nhƣ một nguyên tắc lớn, một thành tố quan trọng. Đến thời Lý Trần, những hình thức hát, múa, trò nhại đã phát triển khá cao và đƣợc ghi lại trên
văn bia, sử sách.
1.2.2. Những nghiên cứu về đặc trưng nghệ thuật của chèo truyền thống
Vào những năm 50, 60, 70 của thế kỷ XX, các bài viết, công trình nghiên
cứu của các tác giả thƣờng tập trung giới thiệu về các tính chất cơ bản, đặc trƣng
của chèo cổ gồm tự sự, ƣớc lệ, cách điệu, thuộc loại sân khấu hội hè đậm chất dân
gian...
Năm 1952, nhạc sĩ Tô Vũ viết Tài liệu về chèo cổ ở căn cứ địa Việt Bắc. Bài
viết đầu tiên về nghệ thuật chèo cổ trên nhiều phƣơng diện là bài Một số đặc điểm
của Chèo cổ của nhà nghiên cứu Trần Huyền Trân. Theo ông, ở chèo “nổi lên tiếng
cƣời trào phúng, mang tính chiến đấu, lạc quan rất cao, bình dị mà sâu sắc, thông
18