Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG của NGƯỜI BỆNH đái THÁO ĐƯỜNG TUÝP 2 điều TRỊ NGOẠI TRÚ tại TRUNG tâm y tế THÀNH PHỐ VĨNH yên năm 2018 và một số yếu tố LIÊN QUAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (376.43 KB, 64 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ BÍCH HẢI

CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA NGƯỜI BỆNH ĐÁI
THÁO ĐƯỜNG TUÝP 2 ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ TẠI
TRUNG TÂM Y TẾ THÀNH PHỐ VĨNH YÊN NĂM
2018 VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN
Chuyên ngành : Quản lý Bệnh viện
Mã số

: 60720701

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ BỆNH VIỆN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. NGUYỄN ĐĂNG VỮNG

HÀ NỘI - 2018


MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ...........................................................................................................1
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU.....................................................................4
1.1. Bệnh đái tháo đường......................................................................................4
1.1.1. Định nghĩa................................................................................................4
1.1.2. Chẩn đoán bệnh đái tháo đường:.............................................................4
1.1.3. Phân loại đái tháo đường..........................................................................4


1.1.4. Yếu tố nguy cơ của bệnh đái tháo đường..................................................5
1.1.5. Biến chứng của bệnh đái tháo đường........................................................6
1.1.6. Phòng chống biến chứng ở người bệnh đái tháo đường............................7
1.2. Tình hình mắc bệnh đái tháo đường trên thế giới và Việt Nam....................8
1.2.1. Tình hình mắc bệnh đái tháo đường trên thế giới.....................................8
1.2.2. Tình hình mắc bệnh đái tháo đường tại Việt Nam...................................10
1.3. Chất lượng cuộc sống...................................................................................11
1.3.1. Khái niệm chất lượng cuộc sống.............................................................11
1.3.2. Các phương pháp đo lường chất lượng cuộc sống..................................14
1.4. Một số nghiên cứu về chất lượng cuộc sống của người bệnh đái tháo đường
.....................................................................................................................16
1.4.1. Một số nghiên cứu trên thế giới..............................................................16
1.4.2. Các nghiên cứu về chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ĐTĐ tuýp 2 ở Việt Nam......19
1.5. Khung lý thuyết: Các yếu tố liên quan đến CLCS của người bệnh ĐTĐ tuýp 2
...................................................................................................................... 22
1.6. Giới thiệu về Phòng khám Nội tiết tại khoa Khám bệnh Trung tâm Y tế
thành phố Vĩnh Yên.....................................................................................23
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.......................24
2.1. Đối tượng nghiên cứu..................................................................................24
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu...............................................................24
2.3. Thiết kế nghiên cứu......................................................................................24
2.4. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu.............................................................24
2.4.1. Công cụ và phương pháp thu thập số liệu...............................................25
2.5. Phương pháp thu thập số liệu......................................................................25


2.6. Biến số cho nghiên cứu................................................................................26
2.7. Cách tính điểm đánh giá CLCS theo bộ công cụ AsianDQOL:..................31
2.8. Sai số và khống chế sai số............................................................................33
2.8.1. Sai số.......................................................................................................33

2.8.2.Cách khắc phục sai số..............................................................................33
2.9. Xử lý và Phân tích số liệu.............................................................................34
2.10. Vấn đề đạo đức của nghiên cứu.................................................................34
Chương 3: DỰ KIẾN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU...............................................35
3.1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu..................................................35
3.1.1. Đặc điểm nhân khẩu học của ĐTNC.......................................................35
3.1.2. Đặc điểm lâm sàng của ĐTNC................................................................36
3.2. Mô tả điểm CLCS của người bệnh ĐTĐ tuýp 2...........................................38
3.3. Một số yếu tố liên quan với CLCS của người bệnh ĐTĐ tuýp 2.................47
Chương 4: DỰ KIẾN BÀN LUẬN.......................................................................49
4.1. Mô tả chất lượng cuộc sống người bệnh đái tháo đường tuýp 2 điều trị
ngoại trú tại Trung tâm Y tế thành phố Vĩnh Yên, năm 2018....................49
4.2. Một số yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống của người bệnh đái
tháo đường tuýp 2 ngoại trú tại Trung tâm Y tế thành phố Vĩnh Yên năm
2018..............................................................................................................49
4.3. Ưu điểm và hạn chế của nghiên cứu..........................................................49
DỰ KIẾN KẾT LUẬN..........................................................................................50
DỰ KIẾN KHUYẾN NGHỊ..................................................................................51
KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU
DỰ KIẾN KINH PHÍ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1:

Số người bệnh ĐTĐ tại 10 nước .........................................................9

Bảng 2.1.


Danh mục biến số chỉ số nghiên cứu..................................................26

Bảng 2.2.

Cấu trúc bảng câu hỏi AsianDQOL....................................................31

Bảng 3.1.

Một số thông tin chung về đối tượng nghiên cứu...............................35

Bảng 3.2.

Một số đặc điểm lâm sàng của ĐTNC...............................................36

Bảng 3.3.

Tuân thủ điều trị của bệnh nhân đái tháo đường tuyp 2.....................37

Bảng 3.4.

Tuân thủ chế độ ăn uống....................................................................38

Bảng 3.5.

Điểm chất lượng cuộc sống của đối tượng nghiên cứu......................38

Bảng 3.6.

Phân bố điểm trung bình CLCS về lĩnh vực sức khỏe thể chất với một

số đặc điểm cá nhân của ĐTNC.........................................................39

Bảng 3.7.

Phân bố điểm CLCS về lĩnh vực sức khỏe thể chất giữa một số đặc
điểm lâm sàng của ĐTNC..................................................................40

Bảng 3.8.

Mô hình hồi quy tuyến tính đa phân tích yếu tố liên quan đến điểm
CLCS về lĩnh vực sức khỏe thể chất của ĐTNC................................41

Bảng 3.9.

Phân bố điểm trung bình CLCS lĩnh vực sức khỏe tinh thần giữa một
số đặc điểm cá nhân của ĐTNC.........................................................42

Bảng 3.10.

Phân bố điểm trung bình CLCS lĩnh vực sức khỏe tinh thần giữa một
số đặc điểm lâm sàng của ĐTNC.......................................................43

Bảng 3.11.

Mô hình hồi quy tuyến tính đa biến phân tích yếu tố liên quan đến
điểm CLCS về lĩnh vực sức khỏe tinh thần của ĐTNC......................44

Bảng 3.12.

Phân bố điểm CLCS chung giữa một số đặc điểm cá nhân của ĐTNC.. .45


Bảng 3.13.

Phân bố điểm trung bình CLCS chung giữa một số đặc điểm lâm sàng
của ĐTNC..........................................................................................46

Bảng 3.14.

Mô hình hồi quy tuyến tính đa biến phân tích yếu tố liên quan đến
điểm CLCS của ĐTNC......................................................................47

Bảng 3.15.

Mô hình hồi quy logistic đa biến phân tích yếu tố liên quan đến CLCS
của ĐTNC..........................................................................................48


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CLCS

Chất lượng cuộc sống

ĐTĐ

Đái tháo đường

ĐTNC

Đối tượng nghiên cứu


ĐTV

Điều tra viên

GSV

Giám sát viên

NB

Người bệnh

SD

Độ lệch chuẩn

TCYTTG

Tổ chức Y tế thế giới


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Đái tháo đường (ĐTĐ) là một trong các bệnh mãn tính phổ biến nhất mà có
thể dẫn đến các biến chứng trầm trọng ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống (CLCS)
của người bệnh. Đái tháo đường là một trong những nguyên nhân chính của nhiều
bệnh hiểm nghèo như bệnh tim mạch, tai biến mạch máu não, mù mắt, suy thận, liệt
dương, hoại thư...[1]. Các biến chứng liên quan đến bệnh ĐTĐ gây tử vong và tăng
gánh nặng chi phí cho người bệnh, gia đình và xã hội. Tất cả các biến chứng dù nhẹ

nhất đều ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng CLCS của người bệnh [2].
ĐTĐ tuýp 2 là bệnh về rối loạn chuyển hóa chất đường (glucose) mạn tính.
Khoảng thời gian từ khi rối loạn dung nạp glucose.
ĐTĐ type 2 chiếm tới khoảng 90% các trường hợp mắc bệnh và liên quan
đến tình trạng đề kháng insulin (ISL). Nguyên nhân chủ yếu là do lối sống thiếu
lành mạnh: ăn uống không điều độ, ít vận động, cộng với áp lực của công việc, căng
thẳng (stress) thường xuyên…
Bệnh nhân ĐTĐ phải đối mặt với nhiều vấn đề trong cuộc sống như lựa chọn
thức ăn, hoạt động thể chất, động lực, tương lai của gia đình, đời sống tình dục, tình
bạn và những vấn đề khác.
Theo thống kê của Tổ chức Y tế thế giới (TCYTTG), năm 2008 cả thế giới
có 135 triệu người mắc bệnh ĐTĐ chiếm 4% dân số thế giới, chỉ sau 2 năm (2010)
số người mắc ĐTĐ lên tới 221 triệu người (chiếm 5,4%). Tính đến tháng 11/2013,
trên thế giới đã có khoảng 382 triệu người mắc đái tháo đường, kèm theo dạng biến
chứng mới gây tàn tật, đe dọa tính mạng [3]. Chỉ tính riêng Châu Âu, hơn 50 triệu
người bị ảnh hưởng bởi bệnh ĐTĐ, 90% trong đó là bệnh ĐTĐ tuýp 2 [4]. Tại Châu
Á (1999), bệnh ĐTĐ tăng nhanh ở các quốc gia có nền kinh tế đang phát triển, ở
Thái Lan, có khoảng 6,7% dân số ĐTĐ, Hàn Quốc có 4,0% tỉ lệ dân số ĐTĐ…[3].
Cũng như các nước đang phát triển khác, Việt Nam hiện nay đang đối mặt
với sự gia tăng ngày càng nhanh của bệnh ĐTĐ. Năm 2001, tỉ lệ mắc bệnh ĐTĐ
của người dân Việt Nam chỉ chiếm 4% [5], thì đến năm 2012 đã tăng lên 5,3% và


2
lên đến 5,8% trong năm 2013 [6]. Theo xu hướng phát triển chung của thế giới và
Việt Nam, tỷ lệ người bệnh vào điều trị ĐTĐ tại phòng khám Nội tiết Khoa Khám
bệnh Trung tâm Y tế thành phố Vĩnh Yên ngày càng tăng, đặc biệt là tỉ lệ bệnh ĐTĐ
tuýp 2. Năm 2015 có 3.254 người bệnh, năm 2016 có 4.621 người bệnh, trong năm
2017 có 6.272 người bệnh. Sự gia tăng tỷ lệ bệnh ĐTĐ cũng đồng thời với việc gia
tăng hơn nữa tỷ lệ những biến chứng của bệnh, nhất là biến chứng tim mạch. Các

biến chứng này cùng với các stress về tâm lý không chỉ làm giảm tuổi thọ mà còn
ảnh hưởng trầm trọng tới CLCS của người bệnh.
Đo lường CLCS không những đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá
tác động của bệnh tật tới tình trạng sức khỏe thể chất, khả năng hoạt động, đời sống
tâm lý hoặc tinh thần của người bệnh, mà còn cung cấp những thông tin có giá trị
giúp cho các cán bộ y tế và người bệnh cùng hợp tác đưa ra quyết định lựa chọn tốt
nhất có thể về những chỉ định can thiệp phù hợp trong quá trình chăm sóc và điều trị
người bệnh, đồng thời cũng giúp đánh giá sự thay đổi CLCS trong suốt quá trình
điều trị, giúp có cái nhìn toàn diện hơn về tác động của điều trị và bệnh tật tới người
bệnh[7]. Trên thế giới đã có rất nhiều nghiên cứu đo lường tác động của bệnh tật lên
CLCS của người bệnh như ung thư, tăng huyết áp, suy thận mãn, thay khớp háng,
ĐTĐ…Adam Ljoyd (2011) thực hiện nghiên cứu tại Anh đánh giá CLCS của 1233
người bệnh ĐTĐ tuýp 2 không sử dụng insulin bằng bộ câu hỏi SF-36, kết quả người
bệnh ĐTĐ tuýp 2 có biến chứng thậm chí là nhẹ cũng tác động đáng kể lên CLCS
của họ[2]. Tuy nhiên ở Việt Nam các nghiên cứu về CLCS lại chưa được quan tâm
nhiều. đặc biệt là nghiên cứu về CLCS của người bệnh mắc các bệnh mãn tính [8].
Ở Việt Nam, CLCS của người bệnh ĐTĐ đã được nghiên cứu tại một số nơi
như bệnh viện Chợ Rẫy, bệnh viện Nhân dân 115, bệnh viện Lê Lợi (Vũng Tàu),…
cho kết quả điểm CLCS giao động ở mức 28 đến 65 điểm, và chất lượng cuộc sống
bị ảnh hưởng bởi yếu tố như có biến chứng đoạn chi hay biến chứng nói chung,
giới tính, nhóm tuổi, trình độ học vấn, thời gian mắc bệnh,… [8], [46], [7].
Vậy CLCS của người bệnh ĐTĐ tuýp 2 đang điều trị tại Phòng khám nội tiết
Khoa Khám bệnh trung tâm Y tế thành phố Vĩnh Yên hiện tại ra sao? Những yếu tố


3
nào liên quan đến CLCS của họ? Làm thế nào để cải thiện CLCS của người bệnh
ĐTĐ tuýp 2? Đó là những câu hỏi cần được giải đáp. Xuất phát từ thực tế này,
chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Chất lượng cuộc sống của người bệnh Đái tháo
đường tuýp 2 điều trị ngoại trú tại Trung tâm Y tế thành phố Vĩnh Yên năm 2018

và một số yếu tố liên quan” với mong muốn đóng góp những dữ liệu ban đầu làm
cơ sở đề xuất những kiến nghị có giá trị trong công tác điều trị, chăm sóc, quản lý
người bệnh ĐTĐ tuýp 2 nhằm nâng cao CLCS cho người bệnh ĐTĐ tuýp 2 tại
Trung tâm Y tế thành phố Vĩnh Yên nói riêng và của các cơ sở y tế khác nói chung.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:
1. Mô tả chất lượng cuộc sống của người bệnh đái tháo đường tuýp 2 điều trị
ngoại trú tại Phòng khám Nội tiết, Khoa Khám bệnh của Trung tâm Y tế thành phố
Vĩnh Yên năm 2018.
2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống của người
bệnh đái tháo đường tuýp 2 điều trị ngoại trú tại Phòng khám Nội tiết, Khoa Khám
bệnh Trung tâm Y tế thành phố Vĩnh Yên năm 2018.


4

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Bệnh đái tháo đường
1.1.1. Định nghĩa
Theo Hội Đái tháo đường Hoa Kỳ năm 2008: “ĐTĐ là một nhóm các bệnh
chuyển hóa được đặc trưng bởi tăng đường máu mạn tính do hậu quả của sự thiếu
hụt hoặc giảm hoạt động của insulin hoặc kết hợp cả hai. Tăng đường máu mạn tính
trong đái tháo đường làm tổn thương, rối loạn và suy chức năng của nhiều cơ quan
khác nhau đặc biệt là các tổn thương ở mắt, thận, thần kinh, tim mạch” [3].
ĐTĐ tuýp 2 là bệnh về rối loạn chuyển hóa chất đường (glucose) mạn tính.
Khoảng thời gian từ khi rối loạn dung nạp glucose.
1.1.2. Chẩn đoán bệnh đái tháo đường:
Tiêu chuẩn chẩn đoán ĐTĐ theo hiệp hội ĐTĐ Mỹ (2010) thì tiêu chuẩn
chẩn đoán xác định ĐTĐ nếu có 1 trong 4 tiêu chuẩn dưới đây [9].
+ Gulucose máu lúc đói (nhịn ăn 8-14 giờ)


1,26g/l (≈7mmol/l), trong 2

buổi sáng khác nhau.
+ Gulucose máu ở thời điểm bất kỳ ≥ 2g/l (≈11,1 mmol/l) có kèm theo triệu
chứng lâm sàng ăn nhiều, uống nhiều, đái nhiều, sụt cân không.
+ Gulucose máu sau 2 giờ làm nghiệm pháp tăng đường huyết ≥11,1 mmol/l
(sau khi uống 75g glucose).
+ HbAlc ≥6,5% (xét nghiệm được thực hiện tại phòng xét nghiệm sử dụng
phương pháp chuẩn).
1.1.3. Phân loại đái tháo đường
1.1.3.1. Đái tháo đường tuýp 1 (ĐTĐ phụ thuộc insulin)
ĐTĐ tuýp 1 là do sự phá hủy tế bào Bê-ta của tuyến tụy nên tụy không sản
xuất ra đủ lượng insulin cần thiết cho cơ thể. Phần lớn xảy ra ở trẻ em, người trẻ
tuổi và thường có yếu tố tự miễn. Ở Việt Nam chưa có số liệu điều tra quốc gia,
nhưng theo thống kê từ các bệnh thì tỷ lệ mắc ĐTĐ tuýp 1 vào khoảng 7-8% tổng
số người bệnh ĐTĐ [3].


5
1.1.3.2. Đái tháo đường tuýp 2 (ĐTĐ không phụ thuộc insulin)
Đái tháo đường tuýp 2 là thể thường gặp nhất chiếm tỷ lệ khoảng 90% các
thể ĐTĐ, thường gặp ở những người trưởng thành trên 40 tuổi. Tuy nhiên, trong
một vài thập kỉ gần đây thì ĐTĐ tuýp 2 không còn xa lạ ở nhóm tuổi dậy thì và tiền
dậy thì, kể cả ở trẻ nhỏ. Tỷ lệ ĐTĐ tăng nhanh ở những lứa tuổi này liên quan đến
tỷ lệ tăng béo phì ở trẻ nhỏ trên thế giới. Có 30-50% trẻ em thừa cân béo phì có
nguy cơ mắc bệnh ĐTĐ [3]. Đặc trưng của ĐTĐ tuýp 2 là kháng insulin làm giảm
tác dụng của insulin. ĐTĐ tuýp 2 thường được chẩn đoán rất muộn vì giai đoạn đầu
tăng gulucose máu tiến triển âm thầm không có triệu chứng. khi bệnh có biểu hiện
lâm sàng thường kèm theo các biến chứng thận, mắt, thần kinh, tim mạch…nhiều

khi các biến chứng này đã ở mức độ rất nặng [3].
Điểm quan trọng trong cơ chế bệnh sinh của ĐTĐ tuýp 2 là có sự tương tác
giữa yếu tố gen và yếu tố môi trường, trong đó yếu tố gen có vai trò rất quan trọng
Người mắc bệnh ĐTĐ tuýp 2 có thể điều trị bằng cách thay đổi thói quen,
luyện tập, kết hợp dùng thuốc hạ đường huyết để kiểm soát glucose máu. Ở giai
đoạn đầu, những bệnh nhân ĐTĐ tuýp 2 không cần insulin cho điều trị nhưng sau
nhiều năm mắc bệnh, nhìn chung insulin để cân bằng đường máu [3].
1.1.3.3. Đái tháo đường khác:
ĐTĐ thai kỳ thường gặp ở phụ nữ có thai (chiếm khoảng 1-2% người mang
thai), do đường huyết tăng hoặc giảm dung nạp glucose, thường gặp khi có thai lần
đầu và mất đi sau đẻ. Người mẹ bị ĐTĐ thai kỳ có nguy cơ cao mắc bệnh ĐTĐ
thực sự sau này (ĐTĐ tuýp 2). Một số thể khác nhau như khiếm khuyết chức năng
tế bào do gen, giảm hoạt tính của insulin do khiếm khuyết gen, bệnh lý của tụy
ngoại tiết, do các bệnh nội tiết khác nhau…[3].
1.1.4. Yếu tố nguy cơ của bệnh đái tháo đường
Qua tổng quan tài liệu, chúng tôi nhận thấy có nhiều yếu tố nguy cơ của
người bệnh ĐTĐ và người ta thường chia ra thành các nhóm chính như sau:
Trước tiên là yếu tố di truyền đóng vai trò quan trọng trong bệnh ĐTĐ tuýp
2. Có tới 60% đến 100% các cặp sinh đôi cùng trứng mắc bệnh ĐTĐ tuýp 2. Bố mẹ


6
bị ĐTĐ thì con (hoặc ngược lại tức là thế hệ cận kề) có khả năng mắc ĐTĐ lên tới
40%, nếu mẹ bị mắc ĐTĐ, khả năng con bị mắc cao hơn so với bố. Nếu cả bố và
mẹ cùng mắc bệnh ĐTĐ thì con có khả năng mắc bệnh tới 70% [3].
Tiếp theo, các nguyên nhân về nhân chủng học cũng là yếu tố nguy cơ của
bệnh ĐTĐ như tỷ lệ mắc và tuổi mắc bệnh ĐTĐ thay đổi theo sắc tộc, có những
nhóm sắc tộc nhạy bén với ĐTĐ như ở Tây Ban Nha, người da đen, người Nam Á.
Đặc biệt, các yếu tố liên quan đến hành vi, lối sống, béo phì, ít hoạt động thể
lực, chế độ ăn uống không hợp lý, hút thuốc lá, uống rượu bia nhiều…cũng là yếu

tố nguy cơ gây bệnh ĐTĐ. Tình trạng thiếu hụt các yếu tố vi lượng hoặc vitamin
góp phần làm thúc đẩy sự tiến triển bệnh ở người trẻ tuổi cũng như người cao tuổi.
các yếu tố khác có thể là yếu tố nguy cơ của ĐTĐ bao gồm cuộc sống có nhiều áp
lực không được giải tỏa, lối sống phương Tây hóa, thành thị hóa [3].
1.1.5. Biến chứng của bệnh đái tháo đường
Bệnh ĐTĐ nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời, bệnh sẽ tiến
triển nhanh chóng và sẽ xuất hiện các biến chứng cấp tính và mạn tính. Các biến
chứng của ĐTĐ thường xuất hiện sau khoảng 10 ngày bị tăng glucose huyết. Thời
gian tăng glucose huyết càng dài thì nguy cơ của các biến chứng mạn tính ngày
càng tăng [10].
1.1.5.1. Biến chứng cấp tính
Biến chứng cấp tính của bệnh ĐTĐ thường là hậu quả của chẩn đoán muộn,
điều trị không thích hợp, hoặc nhiễm khuẩn cấp tính. Biến chứng cấp tính có thể đe
dọa tính mạng người bệnh, thường hay gặp ở các quốc gia đang phát triển. Nhiễm
toan ceton và hôn mê do nhiễm toan ceton là một biến chứng gây nguy hiểm đến
tính mạng người bệnh, nguyên nhân là thiếu insulin đã gây ra rối loạn nặng nề trong
chuyển hóa protein, lipid và carbohydrate. Mặc dù y học hiện đại đã có nhiều tiến
bộ về trang thiết bị, điều trị và chăm sóc nhưng tỷ lệ tử vong rất cao 5-10% so với
người bệnh không bị biến chứng này [11]. Hôn mê tăng áp lực thẩm thấu là tình
trạng rối loạn glucose nặng, đường huyết cao. Hôn mê tăng áp lực thẩm thấu chiếm
5-10% người bệnh ĐTĐ. Người bệnh ĐTĐ tuýp 2 nhiều tuổi (>60 tuổi) tỷ lệ tử


7
vong cao 10-30% so với người bệnh ít tuổi hơn [11]. Hạ đường huyết là biến chứng
cấp tính, thường do quá liều thuốc insulin gây nên. Có thể do người bệnh nhịn đói
hoặc kiêng khem quá mức hay do uống nhiều rượu, nếu không điều trị kịp thời có
thể hôn mê, thậm chí tử vong. Một số biến chứng cấp tính liên quan đến các bệnh
nhiễm trùng cấp khác như nhiễm trùng ngoài da, viêm âm đạo, âm hộ, nhiễm khuẩn
đường tiết niệu, viêm tai.

1.1.5.2. Biến chứng mãn tính
Người bị bệnh ĐTĐ thường hay gặp các biến chứng lâu dài, thậm chí các
biến chứng này xuất hiện ngay tại thời điểm bệnh được phát hiện, nhất là ở những
người bệnh ĐTĐ tuýp 2. Đây là nguyên nhân không chỉ làm tăng gánh nặng kinh tế
của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, mà còn là lý do chủ yếu làm suy giảm chất lượng
cuộc sống của người mắc bệnh ĐTĐ [3]. Người ta có thể chia các biến chứng mạn
tính của bệnh ĐTĐ theo nhiều cách khác nhau. Thường người ta phân loại biến
chứng mạn tính theo mạch máu và thần kinh. Biến chứng mạch máu bao gồm các
biến chứng mạch máu lớn (xơ vữa mạch vành, xơ vữa mạch não, bệnh mạch máu
ngoại vi) và biến chứng mạch nhỏ (bệnh võng mạc, bệnh lý cầu thận). Biến chứng
thần kinh bao gồm bệnh lý thần kinh giác quan- vận động (đoạn xa -chi dưới, đoạn
xa- chi trên, bệnh lý một dây thần kinh, loét thần kinh, teo cơ ĐTĐ, chứng suy mòn
thần kinh), bệnh lý thần kinh tự động (liệt dạ dày, ỉa chảy do ĐTĐ, bệnh bàng
quang do thần kinh, liệt dương, thần kinh tự động tim), bệnh lý phối hợp giữa thần
kinh và mạch máu (loét ổ gà, loét chân) [3].
1.1.6. Phòng chống biến chứng ở người bệnh đái tháo đường
Biến chứng của bệnh ĐTĐ là điều không thể tránh khỏi nhưng có thể can
thiệp để giảm mức độ các biến chứng và làm chậm quá trình xảy ra các biến chứng
ở người bệnh ĐTĐ.
1.1.6.1. Phòng ngừa biến chứng cấp tính
Các biến chứng cấp tính được phòng ngừa bằng cách người bệnh phải được
hướng dẫn cách tự theo dõi lượng glucose máu và ceton niệu, tuân thủ chế độ điều
trị, chế độ ăn uống, liên hệ ngay với thầy thuốc khi mắc các bệnh khác, khi xuất


8
hiện các triệu chứng bất thường như buồn nôn, sốt, tiêu chảy, hoặc nồng độ glucose
trong máu cao, có ceton niệu dai dẳng…Đối với thầy thuốc phải thông báo cho
người bệnh tình hình bệnh tật, cách phát hiện các triệu chứng hoặc dấu hiệu nguy
hiểm khi cần đi khám; khi thăm khám định kỳ phải khám tỉ mỉ để phát hiện những

diễn biến bất thường của bệnh [12].
1.1.6.2. Phòng ngừa biến chứng mạn tính
Người bệnh ĐTĐ được cung cấp những kiến thức để lựa chọn một chế độ
sinh hoạt, luyện tập phù hợp với tình trạng bệnh lý của mình, kiểm soát tốt glucose
máu. Điều trị tích cực kết hợp điều chỉnh các rối loạn chuyển hóa lipid, các rối loạn
đông máu, hạn chế tình trạng dễ viêm nhiễm, tăng hoạt động thể lực, giảm cân, loại
bỏ thói quen không có lợi cho bệnh như hút thuốc lá, uống rượu…Đặc biệt, người
bệnh ĐTĐ cần sàng lọc, khám định kỳ để phát hiện sớm bệnh lý mắt, cầu thận, thần
kinh do biến chứng ĐTĐ [12].
1.2. Tình hình mắc bệnh đái tháo đường trên thế giới và Việt Nam
1.2.1. Tình hình mắc bệnh đái tháo đường trên thế giới
ĐTĐ là bệnh chuyển hóa thường gặp nhất và đã có từ lâu, nhưng đặc biệt
phát triển trong những năm gần đây. Bệnh tăng nhanh theo tốc độ phát triển của nền
kinh tế xã hội. Các công trình nghiên cứu về tính chất dịch tễ bệnh ĐTĐ cho thấy:
tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ tăng lên hàng năm, cứ 15 năm thì tỷ lệ này tăng lên gấp đôi,
tuổi càng tăng thì tỷ lệ mắc càng cao, từ 65 tuổi trở lên thì tỷ lệ này lên tới 16% [5].
ĐTĐ được xếp vào một trong ba bệnh thường gây tàn phế và tử vong cao nhất đó là
xơ vữa động mạch, ung thư. TCYTTG đã lên tiếng “báo động” về mối lo ngại này
trên toàn thế giới:
+ Năm 1985: cả thế giới có 30 triệu người mắc bệnh ĐTĐ
+ Năm 1994: cả thế giới có khoảng 110 triệu người mắc ĐTĐ, trong đó 98,9
triệu người mắc ĐTĐ tuýp 2.
+ Năm 2000: có 151 triệu người mắc bệnh ĐTĐ
+ Năm 2010: có ≈221 triệu người mắc ĐTĐ, trong đó có khoảng 215,6 triệu
người ĐTĐ tuýp 2.


9
+ Dự đoán năm 2025 có khoảng 300- 350 triệu người bị bệnh ĐTĐ [1]
Tỷ lệ mắc bệnh theo từng nước có nền công nghiệp phát triển hay đang phát

triển, thay đổi theo từng dân tộc, từng vùng địa lý khác nhau. Hội nghị ĐTĐ (2007)
tại Singapore công bố, số người bệnh ở 10 nước điển hình như sau [11]:
Bảng 1.1: Số người bệnh ĐTĐ tại 10 nước [11]

Ấn Độ

Số người bệnh ĐTĐ
năm 1995
(triệu người)
19,4

Trung Quốc

16,0

37,6

Mỹ

13,9

21,9

Nga

8,9

12,2

Nhật Bản


6,3

8,5

Indonesia

4,5

12,4

Brazil

4,9

11,6

Mexico

3,8

11,7

Pakistan

4,3

14,5

Ukraina


3,6

8,8

Tên nước

Số người bệnh ĐTĐ dự báo đến năm 2025
(triệu người)
57,2

Năm 2013, ước tính trên toàn thế giới có khoảng 382 triệu người bị ĐTĐ
chiếm 8,3% dân số. Bắc Mỹ và vùng Caribbcan là vùng có tỷ lệ ĐTĐ cao hơn
chiếm 11%, tiếp theo là Trung Đông và Bắc Phi 9,2%, khu vực Tây Thái Bình
Dương là 8,6% dân số, Châu Âu có khoảng 8,5% dân số, Châu Phi là khu vực có tỷ
lệ thấp nhất 4,9% [13].
Một nghiên cứu chung của các trường đại học Trung Quốc và Hoa Kỳ (2013)
thì khoảng 11,6% những người trưởng thành Trung Quốc bị bệnh ĐTĐ, tức là
khoảng 114 triệu người. Phân nửa những người trưởng thành đang ở trong thời kỳ
tiền ĐTĐ đã rối loạn chuyển hóa lượng đường nhưng chưa được phát hiện ra [1].
1.2.2. Tình hình mắc bệnh đái tháo đường tại Việt Nam
Việt Nam là một trong những nước đang phát triển và bệnh ĐTĐ cũng đang
gia tăng nhanh chóng. Thập kỷ 90, tỷ lệ ĐTĐ tăng dần ở các thành phố lớn. Tại


10
Huế, năm 1996 là 0,96% (nội thành 1,05%, ngoại thành là 0,6%), tỷ lệ nữ nhiều hơn
nam, năm 2006 tỷ lệ này cho kết quả là 1%, nhưng đến năm 2003 tỷ lệ này lên tới
xấp xỉ 5% dân số[14]. Tại Hà Nội, năm 1990 tỷ lệ này là 1,2% (nội thành 1,44%,
ngoại thành 0,63%), sau hơn 10 năm (2002), một nghiên cứu được tiến hành trên

cùng một địa điểm, cùng nhóm tuổi và phương pháp nghiên cứu giống năm 1990
cho thấy tỷ lệ ĐTĐ đã tăng lên gấp đôi (2,16%) [3] (số liệu cũ quá cần cập nhật số
liệu mới hơn!). Tại thành phố Hồ Chí Minh (1993) tỷ lệ ĐTĐ tuýp 2 là 2,52%, năm
2001 tỷ lệ ĐTĐ ở nội thành là 2,5% và tỷ lệ này tăng gấp 2,5 lần sau 8 năm (6,9%
so với 2,5%) [15]. Năm 2001, một cuộc điều tra dịch tễ về bệnh ĐTĐ theo quy
chuẩn quốc tế tại 4 thành phố lớn (Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí
minh) cho kết quả tỷ lệ mắc ĐTĐ là 4,0%, riêng quận Hoàn Kiếm (Hà Nội) tỷ lệ
này lên tới 7%. Theo điều tra quốc gia về ĐTĐ năm 2002 cho thấy tỷ lệ người bệnh
ĐTĐ tăng lên so với nghiên cứu ở thập niên 90. Năm 2002, tỷ lệ ĐTĐ trên toàn
quốc chiếm 2,7% (khu vực thành phố 4,4%, miền núi và trung du 2,1%, đồng bằng
2,7%) [5]. Kết quả điều tra dịch tễ học bệnh ĐTĐ toàn quốc năm 2012 do Bệnh
viện Nội tiết trung ương tiến hành, tỷ lệ hiện mắc ĐTĐ toàn quốc ở người trưởng
thành là 5,42%. Tỷ lệ hiện mắc ĐTĐ tăng dần theo nhóm tuổi, cụ thể là 1,7% ở
nhóm tuổi từ 30-39; 3,7% ở nhóm tuổi từ 40-49; 7,5% ở nhóm tuổi từ 50-59 và
9,9% ở nhóm tuổi từ 60 đến 69 tuổi [16].
Bệnh ĐTĐ tuýp 2 còn được gọi là “kẻ giết người thầm lặng” do bệnh âm
thầm tiến triển trong cơ thể con người. Vì vậy, một số lượng không nhỏ người bệnh
chỉ có thể phát hiện ra mình bị bệnh ĐTĐ khi bệnh đã có những biến chứng như
giảm thị lực do đục thủy tinh thể, bệnh lý võng mạc, biến chứng thận, biến chứng
tim mạch…Việc phát hiện muộn ĐTĐ sẽ gây thêm những tốn kém cho công tác
điều trị bệnh cũng như ảnh hưởng không nhỏ tới CLCS của người bệnh. Kết quả
điều tra năm 2012 cho thấy tỷ lệ rất lớn người bệnh ĐTĐ chưa được chẩn đoán tại
cộng đồng (năm 2002 là 64,6%, năm 2002 là 63,3%). Trước đây người bệnh ĐTĐ
tuýp 2 thường xuất hiện ở những người trên 40 tuổi. Điều đáng lo ngại hiện nay là
bệnh xuất hiện ở lứa tuổi trẻ càng nhiều. Trên thực tế, nhiều người bệnh ĐTĐ tuýp


11
2 mắc bệnh ở lứa tuổi còn rất trẻ từ 11 đến 15 tuổi. Nguyên nhân chủ yếu là hiện
tượng thừa cân, béo phì đang tăng nhanh ở lứa tuổi thiếu niên, đây là yếu tố nguy cơ

cao của bệnh ĐTĐ tuýp 2 [17].
1.3. Chất lượng cuộc sống
1.3.1. Khái niệm chất lượng cuộc sống
Chúng ta ngày nay đang chứng kiến sự biến chuyển của mô hình bệnh tật
trong dân số. Trước năm 1950 là thời kỳ của các bệnh nhiễm trùng, tiếp đến là giai
đoạn của các bệnh mạn tính kéo dài khoảng 30 năm đến năm 1980. Tuy nhiên cùng
với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, chúng ta cứu sống được nhiều người bệnh
hơn và do đó số lượng người bệnh sống chung với bệnh mạn tính và các khiếm
khuyết chức năng không ngừng tăng lên. Kết quả từ năm 1980 đến nay được gọi là
thời kỳ của gánh nặng bệnh tật [18].
Các gánh nặng này ảnh hưởng trực tiếp lên cộng đồng và đặc biệt là cá nhân
những người bị bệnh (sống mà không làm việc được, sống không như người bình
thường do đau đớn, tàn tật) và thậm chí tử vong cũng như gây ảnh hưởng lớn về
mặt xã hội (nguồn lực nhân lực, việc hoạch định chính sách y tế và dịch vụ chăm
sóc sức khỏe). Như vậy, chúng ta thấy rằng các chỉ số đo lường bệnh tật như tỷ lệ tử
vong, các thông số lâm sàng và cận lâm sàng không thể phản ánh đầy đủ các khía
cạnh tác động của bệnh tật và các dịch vụ chăm sóc sức khỏe từ đó khái niệm chất
lượng cuộc sống ra đời. CLCS được coi là một chỉ số quan trọng để đánh giá sức
khỏe và cho đến nay có rất nhiều định nghĩa về CLCS.
Trước công nguyên, Aristotle đã định nghĩa CLCS là “một cuộc sống tốt” hoặc
“một công việc trôi chảy” [19]. Sau công nguyên, khái niệm CLCS được đề cập lần
đầu tiên vào năm 1920 [20] và được biết đến rộng rãi kể từ những năm 1960. Kể từ khi
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) định nghĩa lại sức khỏe ngoài việc không có ốm đau
bệnh tật mà còn cảm thấy hạnh phúc cả về thể chất, lẫn tinh thần và xã hội [21], các
khía cạnh của CLCS ngày càng trở nên phổ biến trong chăm sóc và nghiên cứu về sức
khỏe. Mặc dù CLCS được coi là một vấn đề quan trọng của sức khỏe, nhưng cho đến
nay trên thế giới vẫn chưa có một định nghĩa chung nhất về CLCS.


12

Trong những năm 1960 và những năm 1970, CLCS thường được xác định
trên toàn cầu với sự kết hợp về ý tưởng của sự hài lòng/ không hài lòng và hạnh
phúc/ không hạnh phúc [22]. Theo Abrams (1973), CLCS là mức độ hài lòng hoặc
không hài lòng được cảm nhận bởi con người với các khía cạnh khác nhau trong
cuộc sống của họ[23] và Andrew (1974), CLCS như là mức độ niềm vui và sự hài
lòng đặc trưng cho sự tồn tại của con người [24].
Trong những năm 1980 và những năm 1990, định nghĩa về CLCS thường
được chia thành một loạt các khía cạnh và xu hướng này vẫn còn tiếp tục cho đến
ngày nay. George và Bearon (1980) định nghĩa CLCS theo 4 khía cạnh cơ bản là:
sức khỏe chung, tình trạng chức năng và tình trạng xã hội, sự hài lòng với cuộc sống
và các yếu tố liên quan, sự tự tin và các yếu tố liên quan [25]. Clark và Bowling
(1989) định nghĩa CLCS không chỉ có năng lực chức năng, mức độ hoạt động, trạng
thái tinh thần, tuổi thọ mà còn bao gồm các khái niệm về sự riêng tư, tự do, tôn
trọng cá nhân, tự do lựa chọn, cảm xúc hạnh phúc và duy trì phẩm giá [26]. Ferrans
và Power (1985), định nghĩa CLCS như là nhận thức hay cảm giác hạnh phúc của
con người bắt nguồn từ sự hài lòng hoặc không hài lòng với các lĩnh vực của cuộc
sống quan trọng đối với họ. Mô hình này bao gồm lĩnh vực: sức khỏe và chức năng,
tâm lý và tâm linh, kinh tế xã hội và gia đình [27]. Mặc dù có rất nhiều định nghĩa
về CLCS của các tác giả, tuy nhiên định nghĩa của TCYTTG được sử dụng khá phổ
biến và toàn diện hơn so với các tác giả khác. Theo đó, CLCS là sự hiểu biết của cá
nhân về vị trí xã hội của họ trong bối cảnh văn hóa và hệ thống các giá trị mà họ
thuộc về; và trong mối quan hệ với các mục tiêu, kỳ vọng, chuẩn mực và mối quan
tâm của họ [28].
Từ định nghĩa trên cho ta thấy, các khía cạnh của sức khỏe thường phụ thuộc
vào quan điểm hay nhận thức mà người bệnh, cán bộ y tế hay các nhà nghiên cứu
muốn đánh giá về sức khỏe. Tuy nhiên một số khía cạnh của CLCS như mức thu
nhập hay môi trường sống không được coi là sức khỏe dù chúng có thể có những
tác động bất lợi lên sức khỏe.



13
Vì vậy, để phản ánh khía cạnh chuyên biệt hơn về các vấn đề liên quan trực
tiếp hơn đến sức khỏe, chúng ta cần định nghĩa hẹp hơn đó là về CLCS liên quan
đến sức khỏe (health-related quality of life), do đó khái niệm CLCS liên quan đến
sức khỏe đã ra đời.
Theo TCYTTG, CLCS liên quan đến sức khỏe là sự đo lường các mối quan
hệ kết hợp về thể chất, tinh thần; sự tự hài lòng và mức độ hoạt động độc lập của cá
nhân cũng như sự tác động của các mối quan hệ này với đặc tính nổi bật của hoàn
cảnh sống của người đó [29].
Các thuật ngữ CLCS và CLCS liên quan đến sức khỏe thường được sử dụng
thay thế cho nhau trong nghiên cứu y tế, mặc dù CLCS là một khái niệm rộng lớn
hơn nhiều, bao gồm các lĩnh vực toàn diện hơn của cuộc sống. Khi nói đến CLCS
liên quan đến sức khỏe là nói đến tác động của bệnh tật và công tác điều trị bệnh
trong cuộc sống của người bệnh, là đánh giá chủ quan về tác động của bệnh và chữa
bệnh trên các lĩnh vực chức năng thể chất, tinh thần, xã hội của bản thân và niềm tin
hạnh phúc [30].
Có một số khác biệt giữa CLCS và CLCS liên quan đến sức khỏe, CLCS đại
diện cho hàng loạt các trải nghiệm của con người bao gồm nhiều lĩnh vực, chẳng
hạn như cộng đồng, giáo dục, cuộc sống gia đình, tình bạn, sức khỏe, nhà ở, hôn
nhân, quốc gia, khu vực, bản thân, mức sống và việc làm. CLCS thường được sử
dụng trong lĩnh vực xã hội học, kinh tế, khoa học chính trị, và tâm lý học. CLCS liên
quan đến sức khỏe tập trung vào sức khỏe và thường được sử dụng trong lĩnh vực
chăm sóc sức khỏe. Trong nghiên cứu y tế, CLCS liên quan đến sức khỏe mô tả những
gì người bệnh đã trải nghiệm như là kết quả của việc chăm sóc y tế, giúp đánh giá sự
khác biệt giữa những gì dự kiến và thực tế điều trị một cách toàn diện chứ không chỉ là
các yếu tố thể hiện trên lâm sàng. Trong phạm vi nghiên cứu của mình, chúng tôi sẽ
nghiên cứu về CLCS liên quan đến sức khỏe và viết ngắn gọn là CLCS.
1.3.2. Các phương pháp đo lường chất lượng cuộc sống



14
CLCS liên quan đến sức khỏe cùng với tình trạng ốm đau và tử vong là các
chỉ số được sử dụng để đo lường sức khỏe của các cá nhân và quần thể. Có hai cách
tiếp cận thường được sử dụng để đo lường CLCS đó là: trực tiếp và gián tiếp [31].
1.3.2.1. Phương pháp trực tiếp
Theo phương pháp này CLCS được đo trực tiếp và tổng thể thông qua hệ số
chất lượng sống liên quan đến một điều kiện sức khỏe nhất định. Hiện nay có ba
phương pháp được sử dụng khá phổ biến là phương pháp trao đổi thời gian, phương
pháp thang điểm trực giác và phương pháp đặt cược. Các phương pháp đo lường
chất lượng cuộc sống trực tiếp có ưu điểm là ngắn gọn, cho kết quả nhanh chóng và
không làm mất nhiều công sức và thời gian của người được phỏng vấn. Phương
pháp trực tiếp thường được áp dụng trong các trường hợp đánh giá kinh tế y tế[29].
1.3.2.2 Phương pháp gián tiếp
Phương pháp gián tiếp đánh giá CLCS qua các chỉ số đo lường các khía cạnh
khác nhau của cuộc sống như khía cạnh thể chất, tinh thần, xã hội, môi trường…Cho
đến nay, các thang đo CLCS vẫn tiếp tục được phát triển và hoàn thiện [30]. Có hằng
trăm công cụ được triển khai và sử dụng để đánh giá CLCS, nhưng hiện nay chỉ có
khoảng 50 công cụ được sử dụng thường xuyên. Có điểm giống nhau và cũng có
những khác biệt ở từng bộ công cụ[29]. Tuy nhiên, các bộ công cụ dùng để đo
lường CLCS gián tiếp được chia làm hai loại: bộ công cụ đo lường CLCS tổng quát
và bộ công cụ đo lường CLCS chuyên biệt [31].
Bộ công cụ đo lường CLCS tổng quát thường được áp dụng cho các đối
tượng trong dân số nói chung để đánh giá phổ thay đổi rộng của các lĩnh vực sức
khỏe. Ưu điểm của bộ công cụ này là rất hữu ích trong các nghiên cứu thăm dò sức
khỏe tổng quát và so sánh giữa các nhóm đối tượng dân số có tình trạng bệnh lý
khác nhau. Nhược điểm của công cụ này là chưa đủ khả năng để đánh giá được các
vấn đề chuyên sâu của đối tượng đang mắc các bệnh lý cụ thể do đó có thể không
phát hiện được sự thay đổi về CLCS đặc thù cho một số bệnh lý chuyên biệt [31].
Nhìn chung có khá nhiều các bộ công cụ đo lường CLCS tổng quát với độ dài ngắn



15
là khác nhau, mức độ áp dụng trong các nghiên cứu cũng khác nhau đó là thể chất,
tinh thần và xã hội.
Từ năm 1985, Ed Diener đã xây dựng thang đo lường sự hài lòng với cuộc
sống là một thang đo được sử dụng trên toàn cầu để đo lường sự hài lòng với cuộc
sống của mọi người. Mỗi câu hỏi được đánh giá trên thang điểm 7 từ rất không
đồng ý đến hoàn toàn đồng ý.
Bộ thang đo Subjective Happiness Scale (SHS) được Lyubomirsky đưa ra
năm 1999 là thang đo hạnh phúc của mỗi cá nhân, được sử dụng trên toàn cầu. Bộ
công cụ SHS gồm 4 câu hỏi, mỗi câu cũng được đánh giá trên thang điểm 7 như Ed
Diener. Thang đo đã được kiểm định về độ tin cậy và được xác nhận tính giá trị khi
sử dụng để đo lường hạnh phúc chủ quan. SF -36 là bộ công cụ được các nhà
nghiên cứu chiến lược và chính sách Mỹ (1993) xây dựng để khắc phục một số
khiếm khuyết mà bộ công cụ khác trước đó, đó là chưa bao gồm các lĩnh vực của
CLCS một cách toàn diện. Đây là bộ công cụ nghiên cứu CLCS đa mục đích, gồm
36 câu hỏi ngắn điều tra về tình trạng sức khỏe, với 8 lĩnh vực chức năng bao gồm:
các chức năng về hoạt động thể chất, các hạn chế hoạt động do thể chất, các hạn chế
do hoạt động tinh thần, sức sống, sự thoải mái về tinh thần, cơn đau và sự khó chịu,
các vấn đề xã hội, tình trạng sức khỏe chung [32]. Mặc dù vậy, SF-36 có đặc điểm
là dài nên để áp dụng cho những nghiên cứu cần đánh giá nhanh, người ta rút gọn
để có bộ công cụ SF-12, SF-12 là bộ câu hỏi đánh giá CLCS liên quan đến sức khỏe
với 12 câu hỏi và có ưu điểm ngắn gọn, dễ trả lời, được sử dụng để đánh giá CLCS
của người bệnh, bao gồm hai lĩnh vực sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần. SF12 thường được sử dụng với những nghiên cứu có cỡ mẫu lớn và khi nghiên cứu
cần tìm hiểu nhiều thông tin khác nữa [30]. Tuy nhiên, SF-12 chưa đi vào chi tiết
các khía cạnh thể chất và tâm thần nên có hạn chế trong việc đo lường các khía cạnh
của CLCS một cách toàn diện và chi tiết.
Để đánh giá CLCS toàn diện hơn, TCYTTG nghiên cứu và cho ra đời bộ
công cụ WHOQOL-100. Đây là bộ công cụ cập nhật nhiều nhất các khía cạnh của
CLCS, bao gồm 6 khía cạnh: thể chất, tâm lý, tâm linh, kinh tế và môi trường được



16
xem là bộ công cụ đo lường CLCS toàn diện, chi tiết. Ở bộ công cụ này, CLCS là
cảm nhận có tính chủ quan của cá nhân đặt trong cũng có hạn chế trong phạm vi sử
dụng và TCYTTG đã rút gọn để có bộ công cụ WHOQOL-26 [37].
Ngoài các bộ công cụ tổng quát còn có bộ công cụ đo lường CLCS chuyên
biệt. Những bộ công cụ này chú trọng vào các khía cạnh sức khỏe phù hợp nhất với
tình trạng bệnh tật đang được nghiên cứu và những đặc trưng của nhóm bệnh nào
đó, do vậy thang đo này thường được sử dụng trong các nghiên cứu lâm sàng để
đánh giá các can thiệp điều trị chuyên biệt. Nhà nghiên cứu muốn tăng khả năng
phát hiện sự thay đổi về CLCS do tác động của các can thiệp lâm sàng do đó thường
chỉ đưa vào nghiên cứu một số lĩnh vực quan trọng của CLCS liên quan trực tiếp
đến những bệnh cụ thể[38].
Bên cạnh đó, để nghiên cứu chất lượng cuộc sống đối với người bệnh đái
tháo đường, có bộ công cụ “Chất lượng cuộc sống của người bệnh đái tháo đường
châu Á”-AsianDQOL [39]. Bộ công cụ này đã được xây dựng và thử nghiệm tại
Malaysia.

Do vậy, chúng tôi đã lựa chọn bộ công cụ này để dịch sang tiếng Việt,

thử nghiệm tính giá trị và độ tin cậy của bộ công cụ trước khi tiến hành nghiên cứu
chính thức.
1.4. Một số nghiên cứu về chất lượng cuộc sống của người
bệnh đái tháo đường
1.4.1. Một số nghiên cứu trên thế giới
Trên thế giới có rất nhiều nghiên cứu về CLCS của người bệnh ĐTĐ tuýp 2.
Các tác giả đã sử dụng các bộ công cụ khác nhau và phương pháp tiến hành khác
nhau. Kết quả của một số nghiên cứu đã cho thấy có sự khác biệt về điểm CLCS
giữa các nhóm yếu tố nhân khẩu-xã hội/ nghề nghiệp: giới tính, nghề nghiệp, trình

độ học vấn…và các nhóm yếu tố lâm sàng như thời gian phát hiện bệnh, bệnh kèm
theo…Một số nghiên cứu đã chỉ ra được các yếu tố liên quan đến CLCS của người
bệnh ĐTĐ tuýp 2 như: CLCS có xu hướng giảm khi tuổi tăng; nam giới có CLCS
cao hơn nữ giới; trình độ học vấn càng cao thì CLCS có xu hướng tăng lên; những
người bệnh có biến chứng thì CLCS kém hơn những người bệnh không có biến
chứng; thời gian mắc bệnh ĐTĐ nhiều hơn, biến chứng về tim mạch, thận, võng
mạc ảnh hưởng đáng kể đến CLCS của người bệnh.


17
Tác giả Glasgow và cộng sự (1997) sử dụng bộ SF-20 nghiên cứu với 2056
người bệnh ĐTĐ với mẫu đại diện trên toàn quốc tại Mỹ để đánh giá CLCS của
người bệnh ĐTĐ và các yếu tố liên quan đến CLCS. Kết quả của nghiên cứu cho
thấy trung bình CLCS về sức khỏe thể chất là 70,3 điểm; hoạt động xã hội là 77,5
điểm; lĩnh vực sức khỏe tinh thần là 59,7 điểm. Ngoài ra, nghiên cứu cũng chỉ ra
một số yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê đến CLCS của người bệnh ĐTĐ tuýp 2
là tuổi cao thì CLCS giảm, trình độ học vấn càng thấp thì CLCS càng giảm, nữ giới
có CLCS thấp hơn nam giới, người bệnh có biến chứng với số lượng biến chứng
càng lớn thì CLCS càng thấp (p<0,05) [40].
Tác giả Lau và cộng sự (2000) sử dụng bộ câu hỏi SF-36 nghiên cứu với 380
người bệnh ĐTĐ của 4 trung tâm y tế tại California để so sánh sự thay đổi CLCS
qua can thiệp sức khỏe cho người bệnh ĐTĐ sau một năm. Kết quả nghiên cứu này
cho thấy, điểm trung bình CLCS của người bệnh ĐTĐ tuýp 2 của 4 trung tâm y tế ở
mức trung bình. Nghiên cứu đã chỉ ra điểm trung bình CLCS về khía cạnh thể chất
không có sự khác biệt có ý nghĩa trước (45,13±0,65) và sau một năm can thiệp
(44,12±0,73). Tuy nhiên điểm CLCS về khía cạnh tinh thần có sự tăng lên có ý
nghĩa lần lượt là 44,45±0,63 và 48,21±0,68 (p<0,05) [41].
Các tác giả Herman và cộng sự (2011) cũng sử dụng bộ công cụ SF-36 để
nghiên cứu tác động của biến chứng viêm đa dây thần kinh của bệnh nhân ĐTĐ
tuýp 2 đến sự đi lại và CLCS của 155 người bệnh (trong đó 98 người bệnh ĐTĐ

tuýp 2 bị viêm đa dây thần kinh, 39 người bệnh ĐTĐ tuýp 2 không bị viêm đa dây
thần kinh, 19 người khỏe mạnh) tại một trường đại học và 4 huyện phía nam của Hà
Lan. Kết quả từ nghiên cứu cho thấy nhóm người bệnh ĐTĐ tuýp 2 có biến chứng
viêm đa dây thần kinh có điểm trung bình CLCS không có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê so với nhóm không có biến chứng (50±20 và 50±19) và thấp hơn hẳn so
với nhóm người khỏe mạnh (77±15) [42].
Nhóm tác giả Adam Lloyd và cộng sự (2001) sử dụng bộ câu hỏi SF-36 thực
hiện nghiên cứu với 1233 người bệnh ĐTĐ tuýp 2 không sử dụng insulin nhằm mục
đích đánh giá tác động của các biến chứng lên CLCS của người bệnh ĐTĐ tuýp 2
tại 12 nước châu Âu. Kết quả cho thấy các biến chứng như tăng huyết áp, tim mạch,


18
võng mạc, thần kinh ngoại vi…dù nhẹ nhất cũng ảnh hưởng đến CLCS của người
bệnh ĐTĐ tuýp 2 (p<0,05). Ngoài ra, nhóm tác giả đã tìm ra một số yếu tố liên
quan, ảnh hưởng tới CLCS của người bệnh ĐTĐ tuýp 2: tuổi cao CLCS thấp, chỉ số
cơ thể ở mức béo phì thì CLCS của người bệnh giảm, những người bệnh không tuân
thủ việc kiểm soát đường huyết CLCS thấp hơn nhóm tuân thủ, thời gian mắc bệnh
càng dài thì CLCS của người bệnh càng giảm (p<0,05) [2].
Còn Iran Abolhasani và cộng sự (2012), sử dụng bộ công cụ EQ-5D thực
hiện nghiên cứu chọn mẫu trên toàn quốc với 3472 người bệnh ĐTĐ tuýp 2 nhằm
mục đích đo lường CLCS và một số yếu tố về đặc điểm lâm sàng, nhân khẩu học có
liên quan đến CLCS hay không. Nghiên cứu cho thấy ở nữ giới, người trên 70 tuổi
bị thất nghiệp, ly dị, phải nhập viện trong vòng một năm qua, thời gian bị tiểu
đường dài, có mắc các bệnh kèm theo thì điểm CLCS của họ thấp hơn nhóm còn lại
(có ý nghĩa thống kê với p<0,05). Phân tích hồi quy logistic đã tìm ra mối liên hệ
giữa trình độ học vấn, nghề nghiệp, thời gian mắc bệnh, bị nhập viện trong thời gian
qua, biến chứng thận đến điểm CLCS của người bệnh (p<0,05). Tuy nhiên, nghiên
cứu chưa tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về điểm CLCS giữa các phương
pháp điều trị, điều kiện kinh tế hộ gia đình [43].

Turk và cộng sự (2013) sử dụng bộ công cụ ADDQOL (Audit of Dipendent
Qualty of life) nhằm đánh giá CLCS và một số yếu tố liên quan của 285 người bệnh
ĐTĐ tuýp 2 điều trị ngoại trú từ 60 tuổi trở lên tại 12 trung tâm ngoại trú thuộc
Nam Tư. Kết quả chỉ rõ: điểm trung bình CLCS thấp nhất ở khía cạnh về sự thoải
mái trong chế độ ăn uống là 1,2±1,0, điểm CLCS cao nhất ở khía cạnh sự phụ thuộc
vào người khác trong các hoạt động hàng ngày là 2,5±0,7. Ngoài việc tìm hiểu
CLCS của người bệnh ĐTĐ, các tác giả đã tìm thấy một số yếu tố liên quan đến
CLCS. Cụ thể, người bệnh có biến chứng, có mắc các bệnh kèm theo, số lượng các
biến chứng càng lớn, không tuân thủ chế độ ăn, trình độ học vấn thấp, kinh tế gia
đình có thu nhập thấp, thời gian mắc bệnh dài có điểm CLCS thấp hơn các nhóm
còn lại có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Đặc biệt, những người bệnh tuân thủ điều trị,
tự quản lý bệnh ĐTĐ tốt và kiểm soát đường huyết thường xuyên cho thấy CLCS
tốt hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Tuy nhiên, nghiên cứu chưa tìm thấy sự khác


19
biệt có ý nghĩa thống kê về CLCS của người bệnh ĐTĐ tuýp 2 ở thành thị, nông
thôn và sự tiếp cận dịch vụ của người bệnh ở hai địa bàn này. Nghiên cứu có hạn
chế là do phải sử dụng mẫu thuận tiện và cỡ mẫu nhỏ nên hạn chế trong việc phân
tích và khái quát hóa kết quả, số lượng mẫu lớn hơn có thể cung cấp thêm các yếu
tố liên quan có ý nghĩa thống kê giữa các biến nghiên cứu và sự khác biệt giữa các
nhóm nghiên cứu [4].
1.4.2. Các nghiên cứu về chất lượng cuộc sống của bệnh nhân
ĐTĐ tuýp 2 ở Việt Nam
Tại Việt Nam, đã có các nghiên cứu về CLCS sử dụng bộ câu hỏi SF-36 với
các nhóm người bệnh mắc các bệnh khác nhau. Trần Kim Trang và cộng sự nghiên
cứu CLCS của người bệnh tăng huyết áp bằng bộ câu hỏi SF-36 [44]. Cũng với bộ
câu hỏi SF-36, Lâm Nguyễn Nhã Trúc và cộng sự nghiên cứu CLCS của người
bệnh suy thận giai đoạn cuối trước và sau chạy thận nhân tạo [45]. Tuy nhiên,
nghiên cứu về CLCS của người bệnh ĐTĐ chưa có nhiều, hiện tại chúng tôi tìm

được một số nghiên cứu tại Việt Nam.
Tác giả Võ Tuấn Khoa (2008) sử dụng bộ công cụ SF-36 để so sánh CLCS
của ba nhóm đối tượng gồm 36 người bệnh ĐTĐ có biến chứng đoạn chi, 36 người
bệnh không có biến chứng đoạn chi và 36 thân nhân người bệnh ĐTĐ vào chăm sóc
tại bệnh viện Chợ Rẫy. Kết quả nghiên cứu cho thấy: ở nhóm ĐTĐ có biến chứng
đoạn chi điểm CLCS cao nhất ở lĩnh vực hoạt động chức năng (56,6±34,7), điểm
CLCS thấp nhất ở lĩnh vực đánh giá sức khỏe chung (28,3±22,9). Với nhóm người
bệnh ĐTĐ không có biến chứng đoạn chi, lĩnh vực hoạt động chức năng, đánh giá
sức khỏe chung điểm cao hơn nhóm có biến chứng (63,3±25,1 và 37,4±24). Nghiên
cứu cũng cho thấy điểm CLCS của nhóm ĐTĐ có biến chứng đoạn chi so với nhóm
thân nhân người bệnh là rất thấp ở tất cả các lĩnh vực sức khỏe (p<0,05). Ngoài ra,
nghiên cứu đã tìm thấy một số yếu tố liên quan đến điểm CLCS của người bệnh
ĐTĐ như thời gian bị bệnh trên 36 tháng, điểm CLCS ở tất cả các lĩnh vực thấp hơn
nhóm dưới 36 tháng, người bệnh có tiêm insulin có điểm CLCS lĩnh vực chức năng
thể lực thấp hơn nhóm không tiêm insulin có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Tuy nhiên


20
nghiên cứu có hạn chế là cỡ mẫu quá nhỏ nên không tìm được yếu tố giữa nhóm
tuổi, thời gian bị bệnh, chỉ số đường huyết, HbAlc với CLCS [8].
Tác giả Trần Ngọc Hoàng (2011) sử dụng bộ câu hỏi SF-36 thực hiện nghiên
cứu với 200 người bệnh nhằm mục đích đánh giá ảnh hưởng của các biến chứng đối
với CLCS của người bệnh ĐTĐ tuýp 2 điều trị tại bệnh viện Nhân Dân 115. Kết quả
nghiên cứu cho thấy điểm CLCS trung bình của 8 lĩnh vực sức khỏe giao động từ
41,1 đến 62,6. Điểm CLCS thấp nhất ở lĩnh vực đánh giá sức khỏe chung
(41,1±23,3) và cao nhất ở lĩnh vực hoạt động xã hội (62,6±25,4). Nghiên cứu đã chỉ
ra các biến chứng có liên quan đến CLCS của người bệnh, trong đó biến chứng
bệnh mạch vành, tai biến mạch máu não, bệnh mạch máu ngoại biên ảnh hưởng
nhiều nhất tới các lĩnh vực sức khỏe (p<0,05). Tuy nhiên nghiên cứu chưa tìm thấy
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về điểm CLCS của nhóm có các biến chứng khác

như: tiểu đạm, chức năng thận, bệnh thần kinh ngoại biên, bệnh mạch máu ngoại
biên, tình trạng tăng hay hạ đường huyết phải nhập viện và nhóm không có biến
chứng. Nghiên cứu có một số hạn chế là không đánh giá sự ảnh hưởng của trầm cảm
và các yếu tố tâm lý như sự hài lòng và tin tưởng của người bệnh vào bác sĩ điều trị
cũng như sự hài lòng về phòng ốc, trang thiết bị, thời gian chờ để được khám bệnh…
đối với CLCS của người bệnh. Nghiên cứu cũng chưa đánh giá điểm CLCS chung và
điểm CLCS thuộc hai lĩnh vực sức khỏe thể chất và tinh thần. Và cuối cùng, nghiên
cứu với cỡ mẫu nhỏ nên chỉ mang tính chất đại diện cho số người bệnh bị ĐTĐ tại
bệnh viện Nhân Dân 115 chứ không đại diện cho các địa bàn khác [46].
Tác giả Nguyễn Đình Tuấn (2013) sử dụng bộ công cụ SF-36 thực hiện
nghiên cứu với 385 người bệnh ĐTĐ tuýp 2 điều trị ngoại trú tại bệnh viện Lê Lợi
thành phố Vũng Tàu nhằm mục đích xác định tỷ lệ biến chứng do người bệnh ĐTĐ,
điểm số trung bình CLCS và các yếu tố ảnh hưởng đến CLCS ở người bệnh ĐTĐ
tuýp 2. Kết quả cho thấy lĩnh vực hoạt động thể chất có điểm CLCS cao nhất là
64,86 ± 22,30, lĩnh vực sức khỏe tổng quát có điểm CLCS thấp nhất là 43,07 ±
19,14. Hai khía cạnh sức khỏe thể chất và sức khỏe tâm thần có điểm CLCS lần lượt
là 54,14 ± 20,79 và 53,13 ± 17,98. Nghiên cứu cũng chỉ ra các yếu tố liên quan đến


×