Tải bản đầy đủ (.doc) (189 trang)

Tác động của đầu tư nước ngoài đến an ninh kinh tế ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 189 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tác giả. Các số liệu và trích
dẫn đã sử dụng trong Luận án là hoàn toàn trung
thực, chính xác. Các kết quả nghiên cứu của Luận
án đã được tác giả công bố trên tạp chí khoa học,
không trùng lặp với bất kì công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

NCS Nguyễn Văn Dũng


2

MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
MỞ ĐẦU
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Các công trình nghiên cứu nước ngoài liên quan đến đề tài
1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước liên quan đến đề tài
1.3. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã được
công bố và những vấn đề đặt ra luận án cần tiếp tục giải quyết
Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI ĐẾN AN NINH KINH TẾ Ở VIỆT NAM
2.1. Những vấn đề chung về đầu tư nước ngoài và an ninh kinh tế


2.2. Quan niệm, nội dung tác động của đầu tư nước ngoài đến an
ninh kinh tế ở Việt Nam
Chương 3 THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
ĐẾN AN NINH KINH TẾ Ở VIỆT NAM
3.1. Khái quát về đầu tư nước ngoài ở Việt Nam thời gian qua
3.2. Thực trạng tác động tích cực, tiêu cực của đầu tư nước ngoài đến
an ninh kinh tế ở Việt Nam
3.3. Nguyên nhân của thực trạng và những vấn đề đặt ra cần giải quyết
trong tác động của đầu tư nước ngoài đến an ninh kinh tế ở Việt Nam
Chương 4 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY TÁC ĐỘNG
TÍCH CỰC, HẠN CHẾ TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA
ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI ĐẾN AN NINH KINH TẾ Ở
VIỆT NAM THỜI GIAN TỚI
4.1. Quan điểm phát huy tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của
đầu tư nước ngoài đến an ninh kinh tế ở Việt Nam thời gian tới
4.2. Giải pháp phát huy tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của
đầu tư nước ngoài đến an ninh kinh tế ở Việt Nam thời gian tới
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

5
10
10
16
26
32
32

57
79
79
83
105

122
122
138
165
167
168
180


3

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

1

An ninh kinh tế

ANKT

2


An ninh lương thực

ANLT

3

An ninh năng lượng

ANNL

4
5

An ninh tài chính
An ninh quốc gia

ANTC
ANQG

6

Bí mật nhà nước

BMNN

7

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNH, HĐH


8

Đầu tư nước ngoai

ĐTNN

9

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

FDI

10

Đầu tư gián tiếp nước ngoài

FII

11

Kinh tế - xã hội

KT - XH

12

Ngân sách nhà nước

NSNN


13

Quản lý nhà nước

QLNN

14

Quốc phòng - an ninh

QP - AN

15

Xã hội chủ nghĩa

XHCN

MDANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ


4

STT
1
2
3
4


Tên hình, biểu đồ
Trang
Hình 3.1. FDI vào Việt Nam sau 30 năm, số liệu Tổng cục
81
thống kê tháng 10 năm 2018
Hình 3.2 Tốc độ tăng sản phẩm trong nước (GDP) 2008 2017, số liệu Tổng Cục thống kê năm 2017
Hình 3.3. Vốn FDI đăng ký vào Việt Nam từ 2009-2017.
Đơn vị: tỷ USD, số liệu Tổng Cục thống kê năm 2017
Biểu đồ 3.1. Lượng vốn FDI vào lĩnh vực năng lượng xanh
của Việt Nam. Số liệu Tổng Cục thống kê năm 2016

84
85
99


5

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận án
Năm 1987, Quốc hội đã ban hành Luật Ðầu tư nước ngoài tại Việt
Nam, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-1988. Hơn 30 năm qua, thu hút, sử
dung ĐTNN ở Việt Nam, một mặt, ĐTNN đã có những đóng góp quan trọng
đối với phát triển kinh tế - xã hội, góp phần tích cực hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, phát triển quan hệ đối
ngoại, hợp tác, hội nhập quốc tế, bảo đảm an ninh quốc gia và nâng cao uy
tín, vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Thực tiễn 30 năm qua cũng cho
thấy ÐTNN luôn đóng vai trò là một trong những bộ phận cấu thành quan
trọng, động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Với 184 tỷ USD trong trong tổng số 334 tỷ USD đầu tư được

giải ngân trong 30 năm, ÐTNN đã bổ sung nguồn vốn quan trọng vào tổng
vốn đầu tư toàn xã hội góp phần hình thành một số ngành công nghiệp chủ
lực của nền kinh tế, như: dầu khí, viễn thông, điện, điện tử...; ÐTNN góp
phần phát triển nhiều ngành dịch vụ chất lượng cao như tài chính - ngân hàng,
bảo hiểm, kiểm toán, tư vấn luật, vận tải biển, logistics, giáo dục - đào tạo, y
tế, du lịch...; chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nâng cao giá trị hàng hóa nông
sản xuất khẩu, mở rộng thị trường xuất khẩu, thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu mặt
hàng xuất khẩu và từng bước đưa Việt Nam tham gia vào mạng sản xuất và
chuỗi giá trị toàn cầu. Mặt khác, ĐTNN ở Việt Nam cũng đã gây nên những
tác động bất lợi nhất định về KT - XH nói chung và ANKT nói riêng. Trước
hết, liên kết của khu vực ÐTNN với khu vực trong nước hiệu ứng lan tỏa còn
hạn chế, năng suất chưa cao có dấu hiệu chèn lấn. Chuyển giao công nghệ
chưa đạt được kết quả như kỳ vọng. Tỷ trọng đầu tư của các tập đoàn xuyên
quốc gia (TNCs) còn thấp; đầu tư từ Hoa Kỳ, EU vào Việt Nam còn chưa
tương xứng với tiềm năng. Một số dự án ÐTNN chưa tuân thủ nghiêm túc
quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường. Vẫn có tình trạng doanh nghiệp
có vốn ÐTNN sử dụng máy móc, thiết bị thế hệ cũ, không phù hợp, gây ô


6

nhiễm môi trường. Ðặc biệt đã có một số dự án gây sự cố ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng. Một số doanh nghiệp ÐTNN vi phạm pháp luật kê khai lỗ giả,
lãi thật, tìm cách chuyển giá thường xuyên và rất tinh vi để tìm cách trốn thuế,
gây thất thu lớn cho ngân sách nhà nước. Thực tế đã có nhiều doanh nghiệp
Việt Nam phải rút khỏi liên doanh, doanh nghiệp trở thành 100% vốn nước
ngoài. Việc tranh chấp hợp đồng lao động, lợi ích dẫn đến đình công trong các
doanh nghiệp ĐTNN có xu hướng gia tăng gây bất ổn về mặt xã hội... Trong
một số trường hợp, việc thu hút ÐTNN chưa tính toán đầy đủ, toàn diện các
yếu tố liên quan đến quốc phòng, an ninh.

Trong xu thế mở của hội nhập, thu hút ĐTNN sự quan tâm đặc biệt của
các quốc gia đối với lợi ích kinh tế và ANKT quốc gia khiến cho vấn đề
ANKT ngày càng trở thành một nhân tố quan trọng, có tác động ảnh hưởng
lớn không chỉ đối với ANQG mà với cả an ninh khu vực và quốc tế. Trong khi
đó, nhận thức về các mối đe doạ ANKT quốc gia do tác động của ĐTNN ở
Việt Nam còn chưa đầy đủ và chưa theo kịp những diễn biến nhanh chóng của
tình hình, đặc biệt là vấn đề ANTC, ANLT, ANNL. Chúng ta vẫn còn có
những lỗ hổng trong chiến lược thu hút và sử dụng ĐTNN về quản lý nhà nước
và bảo đảm an ninh quốc gia nói chung và an ninh kinh tế nói riêng.
Lý luận và thực tiễn tác động của ĐTNN đối với những nước nhận đầu
tư trên nhiều lĩnh vực, nhất là ANKT đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của
nhiều nhà khoa học dưới nhiều góc độ, phạm vi khác nhau và đạt được những
kết quả nhất định. Tuy nhiên, đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu
một cách đầy đủ, có hệ thống về tác động của ĐTNN đến ANKT ở Việt Nam
dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị, yêu cầu đặt ra là cần tiếp tục làm sáng
tỏ về lý luận và thực tiễn vấn đề trên, từ đó đề xuất các quan điểm và các giải
pháp phát huy tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của ĐTNN đến
ANKT ở Việt Nam. Với ý nghĩa đó, tác giả chọn đề tài “Tác động của đầu tư
nước ngoài đến an ninh kinh tế ở Việt Nam” làm luận án tiến sĩ kinh tế,
chuyên ngành kinh tế chính trị của mình.


7

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích:
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về tác động của ĐTNN đến ANKT ở
Việt Nam, trên cơ sở đánh giá thực trạng, đề xuất quan điểm và giải pháp phát
huy tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của ĐTNN đến ANKT ở Việt
Nam thời gian tới.

* Nhiệm vụ:
Tổng quan tinh hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài của luận án.
Xây dựng cơ sở lý luận về tác động của ĐTNN đến ANKT; đưa ra quan
niệm, nội dung tác động của ĐTNN đến ANKT ở Việt Nam.
Khảo sát, đánh giá thực trạng tác động tích cực, tiêu cực của ĐTNN
đến ANKT, chỉ ra nguyên nhân và những mâu thuẫn đặt ra cần giải quyết từ
thực trạng tác động của ĐTNN đến ANKT ở Việt Nam.
Đề xuất quan điểm và giải pháp phát huy tác động tích cực, hạn chế tác
động tiêu cực của ĐTNN đến ANKT ở Việt Nam trong thời gian tới.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Tác động của ĐTNN đến ANKT.
* Phạm vi nghiên cứu:
Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu tác động của ĐTNN đến
ANKT bao gồm: an ninh tài chính, an ninh lương thực và an ninh năng lượng.
Không gian nghiên cứu: Trên lãnh thổ Việt Nam
Về thời gian nghiên cứu: Các số liệu khảo sát từ năm 2011 đến 2018.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận án dựa vào lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về xuất khẩu tư bản, về phát triển kinh tế đối ngoại và ANKT trong nền
kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước.


8

* Cơ sở thực tiễn:
Luận án dựa trên cơ sở khảo sát, phân tích, đánh giá và tổng hợp tình
hình thực tiễn các tỉnh thành trong nước về xử lý tác động của ĐTNN đến
ANKT những năm qua; dựa vào những số liệu, tư liệu trong các công trình
nghiên cứu, các cuộc hội thảo trong và ngoài nước được công bố trên các tạp

chí; các văn bản báo cáo của Chính phủ, văn bản hướng dẫn thực hiện các
chính sách của các Bộ ngành và các báo cáo của UBND các tỉnh thành trong cả
nước về các vấn đề liên quan đến đề tài nghiên cứu.
* Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác - Lênin, luận án sử dụng các phương pháp: Trừu tượng
hóa khoa học; lôgic - lịch sử; phân tích - tổng hợp; thống kê - so sánh, phương
pháp chuyên gia để xây dựng và hoàn thiện luận án.
Chương 1, sử dụng phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp
lôgic - lịch sử để tổng quan các công trình trong và ngoài nước có liên quan
đến đề tài luận án.
Chương 2, sử dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học để làm rõ
những vấn đề lý luận về ĐTNN và ANKT. Từ đó làm rõ những quy luật, bản
chất tác động của ĐTNN đến ANKT ở Việt Nam.
Chương 3, sử dụng các phương pháp khảo sát thực tiễn, phương pháp
kết hợp lôgic - lịch sử, phương pháp phân tích - tổng hợp, thống kê - so sánh
số liệu để khảo sát, đánh giá thực trạng tác động tích cực, tiêu cực, xác định
nguyên nhân và những vấn đề đặt ra của tác động ĐTNN đến ANKT.
Chương 4, sử dụng các phương pháp như: phương pháp trừu tượng
hóa khoa học, phương pháp tổng hợp - phân tích, phương pháp lôgic - lịch sử,
phương pháp thống kê - so sánh để làm rõ các quan điểm và giải pháp phát
huy tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của ĐTNN đến ANKT ở Việt
Nam trong thời gian tới.
5. Những đóng góp mới của luận án
Đưa ra quan niệm và luận giải làm rõ các ba nội dung, các tiêu chí tác động
của ĐTNN đến ANKT ở Việt Nam.


9


Phân tích, đánh giá đúng thực trạng, xác định nguyên nhân và chỉ ra
năm vấn đề bức thiết đặt ra cần tập trung giải quyết trong tác động của ĐTNN
đến ANKT ở Việt Nam.
Từ cơ sở lý luận, thực tiễn, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra, luận án
đề xuất bốn quan điểm và năm giải pháp nhằm phát huy tác động tích cực,
hạn chế tác động tiêu cực của ĐTNN đến ANKT ở Việt Nam thời gian tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
* Ý nghĩa lý luận:
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm sâu sắc thêm lý luận và thực
tiễn tác động của ĐTNN đến ANKT trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Xây dựng và cung cấp cơ sở lý luận về tác động của đầu tư nước
ngoài đến an ninh kinh tế cho chiến lược thu hút đầu tư nước ngoài với bảo
đảm an ninh kinh tế của Đảng và Nhà nước ta trong thời gian tới.
Quan điểm, giải pháp được đề xuất và xây dựng trong luận án là kết
quả có giá trị lý luận góp phần khẳng định sự đúng đắn, khoa học của đường
lối, chủ trương lãnh đạo của Đảng và pháp luật của Nhà nước trong mở rộng
hội nhập và hợp tác quốc tế.
* Ý nghĩa thực tiễn:
Luận án là gợi ý khoa học để các địa phương, cơ quan quản lý có thể
tham khảo để xây dựng chủ trương, chính sách trong thu hút đầu tư nước ngoài
và bảo đảm an ninh kinh tế ở Việt Nam.
Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong học tập, giảng dạy và
nghiên cứu khoa học ở một số môn học, khối ngành kinh tế chính trị, lĩnh vực đầu
tư và những vấn đề có liên quan đến sự tác động của ĐTNN đến ANKT.
7. Kết cấu của luận án
Luận án bao gồm: Mở đầu, 4 chương (9 tiết); danh mục các công
trình của tác giả đã công bố có nội dung liên quan đến luận án; danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục.



10

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Các công trình nghiên cứu nước ngoài liên quan đến đề tài
1.1.1. Công trình nghiên cứu về an ninh và an ninh kinh tế
Katarzyna Zukrowska (1999), “The link between economics, stability and
security in a transporming economy” [107]/ (Sự liên kết giữa kinh tế, ổn định và
an ninh trong nền kinh tế chuyển đổ). Tác giả đề cập đến mối liên kết giữa kinh
tế, ổn định và an ninh đã được xác định khác nhau trước, trong và sau thời kỳ
chiến tranh lạnh khi điều chỉnh các giai đoạn khác nhau của quan hệ quốc tế. Sự
khác biệt này dẫn đến các nước có tình hình an ninh khác nhau cũng như các mô
hình kinh tế khác nhau sẽ phải dựa trên những mối liên hệ trong quá khứ, hiện
tại và sự phụ thuộc, hợp tác trong thế giới đa cực, toàn cầu hóa.
Report of a workshop organized by the Institute of Defence and
Strategic Studies (IDSS) (2003), “Globalization and Economic Security in
East Asia - Governance and Institutions [109]/ (Toàn cầu hóa kinh tế và an
ninh ở khu vực Đông Á - Quản trị và thể chế). Báo cáo đưa ra các vấn đề
chính về an ninh kinh tế ở các nước Đông Á trên phương diện đã trở thành
vấn đề chính trong các vấn đề của khu vực, qua đó đưa ra các giải pháp và
định hướng cho những nhà hoạch định chính sách tham gia vào toàn cầu hóa
và bảo đảm an ninh của các quốc gia.
Miles Kahler (2004), “Economic security in an era of globalization:
defintion and provision” [112]/ (An ninh kinh tế trong thời đại toàn cầu hóa:
định nghĩa và luận chứng). Công trình đưa ra định nghĩa về an ninh kinh tế trong
quá trình toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa đã tạo ra một định nghĩa mới về an ninh kinh
tế trước sự phức tạp và rủi ro của việc giao thoa giữa các nền kinh tế, các nền văn
hóa, sự xung đột của thể chế chính trị và vũ trang, cách mạng xuyên biên giới của
các tổ chức phi chính phủ và của các biến động kinh tế trong môi trường toàn cầu



11

mới. Mối quan hệ giữa toàn cầu hóa kinh tế và hiệu quả kinh tế, chính trị cần được
xác định một cách chính xác và cẩn thận, trong đó các phán xét về an ninh kinh tế
phải được cân nhắc trước những ảnh hưởng biến động của toàn cầu hóa đối với
các lợi ích trong việc cải thiện hiệu quả kinh tế trong dài hạn.
Valeriu Ioan - Franc (2010), “Some Opinions on the Relation between
Security Economy and Economic Security” [108]/ (Một số ý kiến về quan hệ
giữa kinh tế an ninh và an ninh Kinh tế). Đề cập hai khái niệm quan trọng: an
ninh nền kinh tế và an ninh kinh tế. Đây là một thuật ngữ tương đối mới ngụ ý
con đường xây dựng một hệ thống toàn bộ bảo vệ bằng các biện pháp và các
hoạt động để ngăn chặn những hành động có chủ ý làm ảnh hưởng đến chất
lượng cuộc sống và hàng hóa mà không phải là một thuật ngữ chỉ đề cập đến
các nhân tố ảnh hưởng, khi các mối đe dọa đến an ninh kinh tế của một quốc
gia đã hiện hữu. Vì vậy, một nền kinh tế vĩ mô muốn một trạng thái cân bằng
ở cấp độ thế giới phải được tương quan với nội dung chính trị, trạng thái cân
bằng kinh tế và xã hội để đảm bảo ổn định lâu dài phát triển của nền kinh tế.
Stephen M.Carmel (2013), “Globalization, security, and economic wellbeing” [111]/ (Toàn cầu hóa, an ninh, và sự thịnh vượng của nền kinh tế). Công
trình nghiên cứu chỉ ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế do những tiến
bộ về khoa học kỹ thuật, giao thông, công nghệ truyền thông, thương mại... trong
quá trình toàn cầu hóa. Sự xung đột giữa các quốc gia về chính trị, vũ trang, kinh
tế hay thương mại không chỉ gây thiệt hại cho một phía, nghĩa là gây thiệt hại
cho cả “kẻ đi xâm lược” và “bên bị xâm lược”.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về thương mại quốc tế, đầu tư nước
ngoài và tác động của an ninh đến đầu tư nước ngoài
Salvador Barrios, Holger Gorg, Eric Albert Strobl (2004), “Analyzing
the


impact

of

Foreign

direct

investment

on

the

development of domestic firms” [120]/ (Phân tích các tác động của
đầu tư trực tiếp nước ngoài đến sự phát triển của doanh nghiệp trong nước).


12

Nghiên cứu đã tập trung phân tích tác động của FDI: hiệu ứng cạnh tranh hạn
chế sự thâm nhập của các doanh nghiệp trong nước; làm rõ các yếu tố thị
trường tác động tích cực, tiêu cực đến sự tăng trưởng, phát triển kinh tế và
doanh nghiệp của nước nhận đầu tư.
Asiedu (2006), “Foreign direct investment in Africa: The role of natural
resources, maket size, government policy, institions and politcal íntability”
[121]/ (Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Châu Phi: Vai trò của nguồn tài nguyên
thiên nhiên, quy mô thị trường, chính sách, các tổ chức cùng sự bất ổn chính trị).
Nghiên cứu đã phân tích dữ liệu đã khảo sát được từ các nhà đầu tư nước ngoài
chỉ ra rằng: sự bất ổn về chính trị, bất ổn của nền kinh tế, tham nhũng, tiêu cực,

chính sách thu hút đầu tư hạn chế... có tác động tiêu cực đến thu hút đầu tư trực
tiếp tại Châu Phi. Đánh gia dữ liệu 22 quốc gia trong giai đoạn 1984 - 2000.
Nghiên cứu kết luận một số vấn đề như: Các nguồn tài nguyên thiên nhiên bị ảnh
hưởng; quy mô thị trường chuyển đổi lớn; chính sách, các tổ chức, cái nhân của
nước nhận đầu tư có tác động mạnh mẽ đến ngồn vốn FDI.
Carmen Raluca Stoian & Roger Vickerman (2005), “The Interplay
between Foreign Direct Investment, Security and European Integration: The
Case of the Central and Eastern European Countries” [115]/ (Tương tác giữa
Đầu tư trực tiếp nước ngoài, An ninh và hội nhập Châu Âu: Trường hợp các
nước Trung và Đông Âu). Nghiên cứu đưa ra mối quan hệ hai chiều giữa FDI
và cải cách kinh tế trong khu vực các nước Trung Âu cùng với vai trò của
Liên minh Châu âu (EU) trong việc phá vỡ vòng luẩn quẩn của khả năng mất
an ninh, ít đầu tư, cải cách chậm, triển vọng thấp trở thành thành viên EU.
Các công ty đa quốc gia với các cơ hội kinh doanh mới ở Trung và Đông Âu
nhờ chi phí lao động thấp và thị trường không bão hòa làm cho các nước dân
chủ mới hấp dẫn các địa điểm để FDI. Hơn nữa, từ quan điểm của các nước
Trung và Đông Âu về thu hút FDI đã đóng góp cho thị trường hóa thành công
và hội nhập EU. Những hạn chế và lỗi thời vốn trong nước so với nhu cầu của


13

khu vực tư nhân, sự cần thiết cạnh tranh trong thị trường nước ngoài thông qua
việc cải tiến công nghệ, bí quyết, nghiên cứu và phát triển (research & development
- viết tắt là R & D) dẫn đến áp lực cho các chính phủ ngày càng phải thúc đẩy thu
hút FDI. Khi gia nhập EU là phụ thuộc nhiều vào cải cách kinh tế, bao gồm tư nhân
hóa và hiện đại hóa nền kinh tế, FDI dường như là một phương tiện rõ ràng của việc
đạt được các mục tiêu của thị trường hóa. Nghiên cứu này đã minh họa cho tiềm
năng này đối với việc cải cách, phát triển bằng cách thu hút FDI để có những cải
cách kinh tế và sau đó nhờ những tác động từ cải cách kinh tế để hội nhập EU. Cải

cách kinh tế đại diện cho một thành phần của vấn đề an ninh, trong đó an ninh và
cải cách kinh tế trở thành yếu tố quyết định đến kết quả của FDI.
Robert E.Lipsey and Fredrik Sjoholm (2006), “The Impact of Inward
FDI on Host Countries: Why Such Different Answers” [117]/ (Tác động của
FDI lên nước chủ nhà: Tại sao có những tác động khác biệt). Công trình đề
cập tới nhiều tác động của FDI tới nước chủ nhà. Các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài có thể được tiếp cận với công nghệ cao hơn, từ đó nâng
cao được chất lượng sản phẩm và dịch vụ mà có giá thành thấp hơn, với năng
suất cao hơn và kết quả là phúc lợi tiêu dùng cao hơn. Ngoài ra, nhà đầu tư
nước ngoài có thể góp phần làm tăng vốn cổ phần của nước chủ nhà, đồng
thời thúc đẩy mức sản lượng đầu ra.
Faramarz AKARAM (2008), “Foreign Direct Investment in Developing
Countries: Impact on Distribution and Employment” [118]/ (Đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại các nước đang phát triển: Tác động vào phân phối và việc
làm). Luận án đã chứng minh rằng: lý thuyết tân cổ điển truyền thống không
cho phép hiểu được những tác động của đầu tư nước ngoài tới nước chủ nhà
trong bối cảnh toàn cầu hiện đại đã và đang định hình kể từ khi hệ thống
XHCN sụp đổ. Nguyên nhân chính là thị trường, dù là thị trường cạnh tranh,
cũng không thể tự điều chỉnh. Do đó, lý thuyết tân cổ điển cho thấy sự thiếu sót
để giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội cơ bản. Kinh tế học hiện đại về cơ bản là


14

lý luận về kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước.
Mohammad Sharif Karimi and Zulkornain Yusop (March 2009), “FDI
and Economic Growth in Malaysia” [116]/ (Đầu tư trực tiếp nước ngoài và
tăng trưởng kinh tế ở Malaysia). Nghiên cứu đề cập đến mối quan hệ giữa
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và tăng trưởng kinh tế có là một vấn đề thời
sự trong nhiều thập kỷ? Hoạch định chính sách trong một số lượng lớn của

các nước đang tham gia vào việc tạo ra tất cả các loại động cơ (ví dụ khu chế
xuất và các ưu đãi thuế) để thu hút FDI, FDI được giả định tích cực ảnh
hưởng đến kinh tế địa phương phát triển. Sự bùng nổ của tăng trưởng FDI
trong năm 1990, đặc biệt là ở các nước đang phát triển, tăng trưởng đo bằng
GDP ở nước tiếp nhận. Mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và
tăng trưởng kinh tế có thúc đẩy nền công nghiệp và phát triển của đất nước?
Mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng đã được nghiên cứu bằng cách giải
thích bốn kênh chính: (i) yếu tố quyết định tăng trưởng, (ii) yếu tố quyết định
của FDI, (iii) vai trò của các công ty đa quốc gia tại nước sở tại, và (iv) hướng
quan hệ nhân - quả giữa các bên. Từ đó đưa ra các giải pháp để đảm bảo thu
hút FDI và duy trì phát triển bền vững cho quốc gia này.
World Inve stment Report (2011), “Non-equity Modes Of International
Production And Development” [119]/ (Các chế độ không công bằng của sản
phẩm quốc tế và trong phát triển). Báo cáo dự đoán việc hồi phục dòng chảy
FDI trước khủng hoảng trong hơn hai năm tới bất chấp cú sốc nào về kinh tế.
Thách thức này dành cho những nỗ lực để đạt được mục tiêu phát triển thiên
niên kỷ. Dòng chảy FDI toàn cầu đã tăng lên tới 1,24 nghìn tỷ USD trong năm
2010, nhưng vẫn thấp hơn 15% so với mức trung bình trước khủng hoảng.
Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên Hiệp quốc đánh giá rằng FDI toàn
cầu sẽ phục hồi lại mức trước khủng hoảng trong năm 2011, tăng từ 1,4 lên 1,6
nghìn tỷ đô la Mỹ, và đạt tới mức trong năm 2007 vào 2013. Tín hiệu tích cực
này ngăn chặn những cú sốc không kỳ vọng vào nền kinh tế toàn cầu, có


15

thể tăng lượng con số các nhân tố rủi ro đang tồn tại. Các chính sách FDI tương
tác liên tục với các chính sách ngành, quốc gia và xuyên quốc gia. Thách thức
đặt ra là quản lý tương tác này để hai chính sách có thể cùng hoạt động cho sự
phát triển chung. Xóa bỏ cân bằng giữa việc xây dựng khả năng tăng năng suất

lao động nội địa và việc tránh chủ nghĩa bảo vệ thương mại và đầu tư, là chìa
khóa cho tăng cường hợp tác quốc tế.
Avinash Dixit (2011), “International Trade, Foreign Direct Investment,
and Security” [110]/ (Thương mại quốc tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài và an
ninh). Đề cập đến những ảnh hưởng của anh ninh kinh tế nước sở tại đến
thương mại quốc tế và đầu tư trực tiếp của quốc gia đó. Qua đó nêu lên vai trò
quyết định của chính phủ trong việc duy trì an ninh kinh tế, những chính sách
phù hợp để thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế đạt hiệu quả cho cả nước nhận
đầu tư cũng như nhà đầu tư.
Dickson Oriakhi Presley Osemwengie (2012),“The Impact of National
Security on Foreign Direct Investment in Nigeria: An Empirical Analysis”
[113]/ (Các tác động của an ninh quốc gia đến đầu tư trực tiếp nước ngoài ở
Nigeria: Một phân tích thực nghiệm). Tài liệu này đã phản ánh thực trạng
và những tác động của an ninh nội địa ở Nigeria đến hoạt động đầu tư trực
tiếp nước ngoài ở nước sở tại. Sự bất ổn của nền chính trị, an ninh quốc
gia, an ninh kinh tế... đã ảnh hưởng tiêu cực đến việc thu hút vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài đến quốc gia này.
Viviane Bath (March 2012),“Foreign Investment, the National Interest
and National Security - Foreign Direct Investment in Australia and China”
[114]/ (Đầu tư nước ngoài, lợi ích quốc gia và an ninh quốc gia - Đầu tư nước
ngoài ở Úc và Trung Quốc). Tác giả đưa ra các phương pháp tiếp cận của
chính phủ Úc và Trung Quốc trong việc tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI), cung cấp một số các so sánh về lợi ích trong các quyết định tiếp nhận đầu
tư ở hai quốc gia này. Cả hai quốc gia đều là những nước nhận đầu tư lớn và


16

cũng là các nhà đầu tư lớn trên thế giới. Cả hai quốc gia đều đưa ra những quyết
định trong việc nhận đầu tư dựa trên lợi ích và an ninh quốc gia. Úc đánh giá

xem xét việc nhận đầu tư dựa theo lợi ích quốc gia theo từng trường hợp, trong
khi Trung quốc có quy định chi tiết, đánh giá cơ cấu đầu tư và quy trình đánh giá
đó dựa trên các khái niệm của “An ninh quốc gia” và “ an ninh kinh tế quốc
gia”, gần đây đã bổ sung thêm quy định xem xét mua lại các thị phần của nước
ngoài theo như yêu cầu an ninh quốc gia. Chuyên đề đã đưa ra các khái niệm về
lợi ích quốc gia và an ninh quốc gia, cũng như xem xét vai trò của chúng trong
việc tiếp nhận FDI tại Úc và Trung Quốc.
John Dunning (2014), “Why Do Companies Invest Overseas?” [122]/
(Vì sao các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài).
Nghiên cứu đã luận giải lý do vì sao lại đầu tư vào các thị trường ngoài
nước. Tác giả cho rằng cùng với việc mở rộng các hoạt động của mình ra
nước ngoài, còn có các lý do chủ yêu để nhà đầu tư rót vốn ra nước ngoài: tìm
kiếm thị trường; chi phí thấp; tìm kiếm sản phẩm chiến lược; nâng cao hiệu
quả tìm kiếm lợi nhuận.
1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước liên quan đến đề tài
1.2.1. Các công trình nghiên cứu về đầu tư nước ngoài
Đinh Văn Hồng (2002), “Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
khu kinh tế trọng điểm phía Nam - Những vấn đề đặt ra cho công tác an
ninh” [33]. Trong đó, tác giả đã nghiên cứu và chỉ ra những vấn đề phức tạp
về an ninh trật tự từ hoạt động đầu tư nước ngoài ở các vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam, đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác an
ninh trong lĩnh vực này tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Nguyễn Trọng Xuân (2002), “Đầu tư trực tiếp nước ngoài với công
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam” [105]. Thông qua việc làm
rõ bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài, tác giả đưa ra một số quan điểm
và giải pháp về thu hút FDI nhằm phục vụ cho công cuộc CNH, HĐH trong


17


thời gian tới ở nước ta.
Trần Xuân Tùng (2005), “Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt NamThực trạng và giải pháp” [100]. Công trình này đã phân tích được bản chất,
xu thế vận động của đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng như vai trò của nó đối với
quá trình phát triển kinh tế nước ta trong quá trình đổi mới, nêu được những
thành tựu và hạn chế của việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam;
đồng thời đưa ra giải pháp cơ bản nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả
nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Đỗ Đức Bình và Nguyễn Thường Lạng (2006), “Những vấn đề kinh tế
xã hội nảy sinh trong đầu tư trực tiếp nước ngoài: kinh nghiệm Trung Quốc
và thực tiễn Việt Nam” [5]. Trong đó, tác giả đã đặt vấn đề phân tích một số
hiện tượng kinh tế xã hội nảy sinh trong FDI tại Việt Nam. Tuy nhiên,
nghiên cứu này mới chỉ đề cập đến (mang tính gợi mở) một số vấn đề kinh
tế - xã hội nảy sinh trong quá trình thu hút FDI tại Việt Nam giai đoạn trước
khi Việt Nam gia nhập WTO.
Nguyễn Thị Tuệ Anh (2006), “Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài
tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam” [2]. Dự an này nằm trong dự án Dự án SIDA
do Thụy Điển tài trợ. Dự án đã đưa ra những thành tựu tổng quát về phát triển
kinh tế xã hội trong gần 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới. Những thành tựu
này là dấu hiệu tốt của quá trình chuyển đổi kinh tế và là kết quả của các chính
sách mà Việt Nam đã và đang thực hiện trước những thay đổi nhanh chóng của
nền kinh tế thế giới, đặc biệt là xu thế toàn cầu hóa. Bên cạnh việc mở cửa cho
thương mại cũng như nhiều quốc gia đang phát triển khác Việt Nam đã và đang
tích cực cải thiện môi trường đầu tư, trước hết là khuôn khổ pháp luật nhằm thu
hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nghiên cứu đã chỉ ra được những
thành tựu cũng như những mặt trái trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam, chỉ ra được nguyên nhân và giải pháp cho vấn đề đó.
Nguyễn Mạnh Thắng (2008), “Đình công trong các doanh nghiệp có vốn đầu


18


tư nước ngoài - Những vấn đề đặt ra đối với công tác an ninh, trật tự” [73]. Tác giả
đã phân tích thực trạng đình công, công tác giải quyết đình công ở các doanh nghiệp
nước ngoài. Đồng thời tác giả cũng đưa ra những nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về
đình công, nâng cao hiệu quả các mặt công tác nghiệp vụ của lực lượng Công an
trong giải quyết đình công và đưa ra những giải pháp cơ bản bảo đảm an ninh trật tự
trong giải quyết đình công ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Trần Tuyết Lan (2014), “Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng phát
triển bền vững ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ” [43]. Tác giả đã nghiên cứu
những ảnh hưởng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến phát triển bền vững của
vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ trên cả ba trụ cột: kinh tế, xã hội và môi
trường; chỉ ra những nguyên nhân và đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy
FDI theo hướng phát triển bền vững ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.
Nguyễn Trung Thông (2016), “Tác động của đầu tư trực tiếp và đầu
tư gián tiếp nước ngoài lên các nền kinh tế ASEAN” [80]. Đề tài đã đánh
giá đặc điểm nền kinh tế ASEAN và thực trạng tác động tích cực lẫn tác
động tiêu cực đến nên kinh tế ASEAN nói chung và nền kinh tế của từng
nước ASEAN nói riêng, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hạn chế những
tác động tiêu cực, tận dụng lợi thế thu hút đầu tư để đưa nền kinh tế
ASEAN phát triển vũng mạnh.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2018), “30 năm thu hút đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam, tầm nhìn và cơ hội mới trong kỷ nguyên mới” [8]. Tập hợp hơp các
đánh giá và báo cáo hiệu quả thu hút đầu nước ngoài tại các tỉnh thành trong cả
nước. Tài liệu đã đánh giá toàn cảnh 30 năm thu hút FDI tại Việt Nam, những
thành tựu đạt được và những hạn chế, bất cập và vấn đề đặt ra cho việc thu hút
và sử dụng hiệu quả vốn FDI trong thời gian tới.
1.2.2. Các ông trình nghiên cứu về an ninh kinh tế, bảo vệ an ninh quốc
gia



19

Trần Đại Quang (1996), “Tăng cường quản lý nhà nước về an ninh
quốc gia ở nước ta hiện nay” [58]. Luận án đã đưa ra những luận điểm khoa học
góp phần bổ sung lý luận về khoa học quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà
nước về ANQG nói riêng. Từ việc tiếp cận và phân tích những vấn đề lý luận
chung về quản lý nhà nước, luận án đã làm rõ nội hàm khái niệm ANQG bao
gồm: an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh văn hóa - tư tưởng và an ninh xã
hội, trong đó an ninh chính trị là cốt lõi xuyên suốt, an ninh kinh tế là nền tảng.
Lần đầu tiên luận án đã làm rõ khái niệm Bảo vệ ANQG và Quản lý nhà nước về
ANQG trong điều kiện mới, đưa ra những dự báo về xu hướng phát triển của quản
lý nhà nước về ANQG, đồng thời nêu rõ phương hướng và các giải pháp cơ bản
nhằm tăng cường quản lý nhà nước về ANQG trong tình hình mới.
Bùi Mậu Quân (2001 - 2002),“Thực trạng và giải pháp về công tác bảo
vệ an ninh kinh tế trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh
Hải Dương” [59]. Đề tài đã đánh giá thực trạng hoạt động, phát triển của lĩnh
vực đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh, thực trạng công tác an ninh và
hoạt động của các thế lực thù địch thông qua FDI tại tỉnh Hải Dương. Dự báo và
đưa ra giải pháp cơ bản về công tác bảo vệ ANKT trong lĩnh vực FDI tại tỉnh
Hải Dương. Đề tài đã giúp cho Công an tỉnh và công an các huyện, thành phố
tham mưu với Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh về công tác lãnh đạo, quản lý về
đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh, giúp cho lực lượng công an theo
dõi, nắm tình hình giúp các giám đốc doanh nghiệp tổ chức quản lý, phòng ngừa
đấu tranh chống các loại tội phạm gây ảnh hưởng đến sự nghiệp phát triển kinh
tế, chống các biểu hiện tiêu cực ở các cơ quan, xí nghiệp.
Bùi Trung Thành (2001), “Hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia trong
lĩnh vực đầu tư nước ngoài - thực trạng và các giải pháp phòng ngừa, đấu
tranh của các cơ quan an ninh” [70]. Luận án đã khái quát và xây dựng có hệ
thống về lý luận bảo vệ an ninh quốc gia trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Bổ
sung hoàn thiện một số quy định pháp luật có liên quan đến hoàn thiện hệ



20

thống lý luận nghiệp vụ an ninh phù hợp với tình hình mới của cuộc đấu tranh
phòng chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia. Từ những lý luận và thực trạng
tác giả đưa ra những giải pháp phòng ngừa, đấu tranh của các lực lượng an ninh
với hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia trong điều kiện thực hiện chính sách
“mở cửa” toàn diện bên ngoài.
Bùi Trung Thành (2002), “Bảo vệ an ninh kinh tế trong giai đoạn
hiện nay ở nước ta - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” [71]. Trên cơ sở
nghiên cứu, phân tích hệ thống lý luận nghiệp vụ, đề tài đã đưa ra được lý
luận cơ bản của công tác nghiệp vụ bảo vệ an ninh kinh tế trong thời điểm
hiện tại, đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện
công tác an ninh kinh tế của ngành công an tại thời điểm đó, đồng thời góp
phần xác định nội dung lý luận nghiệp vụ bảo vệ an ninh kinh tế trong hệ
thống lý luận bảo vệ an ninh quốc gia của ngành công an trong điều kiện
kinh tế thị trường và nhu cầu đưa nó vào công tác đào tạo, nghiên cứu phát
triển hệ thống lý luận trong các trường công an nhân dân.
Trần Kim Ngọc (2003),“An ninh trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại
thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh phía Nam” [53]. Đề tài đã làm rõ thực
trạng an ninh trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài tại Thành phố Hồ Chí Minh và một
số tỉnh phía Nam trong thời điểm hiện tại, dự báo và đề xuất các giải pháp nâng
cao hiệu quả công tác này tại Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh phía Nam.
Nguyễn Xuân Thắng (2006), “Chênh lệch phát triển và an ninh kinh tế
ở ASEAN” [74]. Nội dung cuốn sách đề cập đến cách tiếp cận về an ninh trong
xu thế toàn cầu hóa, an ninh của nhiều quốc gia bị đe dọa bởi nền kinh tế kém
phát triển. Chênh lệch về kinh tế đang trở thành nguy cơ đe dọa sự ổn định,
phát triển bền vững trong khu vực. An ninh của một quốc gia không còn bó
hẹp trong phạm vi truyền thống như yếu tố chính trị và sức mạnh quân sự, mà

còn các yếu tố an ninh phi truyền thống về kinh tế, xã hội dựa trên nền tảng
của an ninh kinh tế. Công trình đã nghiên cứu và chỉ ra sự chênh lệch phát


21

triển có ảnh hưởng đến an ninh kinh tế ở từng nhóm các nước ASEAN về
kinh tế, xã hội, cơ sở hạ tầng và thể chế.
Nguyễn Văn Dũng (2007),“Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở các tỉnh biên
giới phía Bắc - Những vấn đề đặt ra cho công tác bảo đảm an ninh trật tự” [13].
Đề tài đã phân tích thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài ở các tỉnh miền núi biên
giới phía Bắc, làm rõ các âm mưu, phương thức lợi dụng FDI của các đối tượng,
bổ sung các biện pháp nghiệp vụ thực tiễn và lý luận đấu tranh của lực lượng công
an trên lĩnh vực bảo vệ an ninh, trật tự nói chung, bảo vệ ANKT trong lĩnh vực
FDI nói riêng; góp phần phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội, giữ vững an
ninh, trật tự ở các tỉnh biên giới phía Bắc nước ta.
Nguyễn Thường Lạng (2008),“An ninh trong đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” [44]. Tác giả chỉ ra
những ảnh hưởng của đầu tư nước ngoài đối với ANKT và tài chính của
Việt Nam, phúc lợi quốc gia và an ninh dân cư, từ đó đưa ra những kiến
nghị giải pháp cho vấn đề này.
Nguyễn Xuân Yêm (2008), “An ninh kinh tế thời kỳ hội nhập và gia
nhập WTO” [106]. Công trình đã đưa ra những vấn đề cơ bản, cập nhật được
những thực trạng tình hình và những kinh nghiệm về bảo vệ ANKT thời kỳ hội
nhập quốc tế của các nước trên thế giới và khu vực và Việt Nam, cụ thể tác giả
đã phân tích làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về: xu thế tất yếu khách
quan về hội nhập kinh tế quốc tế; ANKT trong thời kỳ hội nhập; an ninh tài
chính trong điều kiện Việt Nam tham gia tổ chức thương mại thế giới (WTO);
dầu lửa và ANKT; môi trường và an ninh quốc gia; toàn cầu hóa, hội nhập và
khủng bố quốc tế; hội nhập, mở của và phòng chống tội phạm rửa tiền; an ninh

mạng và phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ trong thời kỳ hội nhập; bảo
vệ lợi ích quốc gia, dân tộc trọng quán trình tham gia tổ chức thương mại thế
giới; bảo vệ ANKT trong điều kiện Việt Nam tham gia tổ chức thương mại thế
giới; các chế định hợp tác quốc tế giải quyết các vấn đề an ninh trong điều kiện


22

hội nhập quốc tế. Đây là cuốc sách chuyên khảo khá đồ sộ về nội dung và thông
tin về ANKT trong thời kỳ hội nhập và tham gia WTO của Việt Nam.
Nguyễn Hồng Hải (2010) “Công tác bảo vệ an ninh kinh tế đối với
hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam với Mỹ” [23]. Công trình này đã tập
trung khảo sát, nghiên cứu những khía cạnh lý luận và thực tiễn về bảo vệ an
ninh kinh tế đối với hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam với Mỹ; phát
hiện những vấn đề an ninh nảy sinh trong hoạt động xuất nhập khẩu giữa Việt
Nam với Mỹ, từ đó đưa ra các giải pháp để giải quyết những sai phạm trong
hoạt động xuất nhập khẩu dưới góc độ công tác ANKT.
Đỗ Ngọc Quang (2011), “Một số thách thức về an ninh quốc gia trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế” [57]. Tác giả chỉ ra những khó khăn, thách thức
trong hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta, và những yêu cầu về đảm bảo ANQG,
giữ vững sự lãnh đạo của Đảng và chế độ XHCN, trách nhiệm bảo vệ ANQG gắn
liền với bảo vệ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế để từng bước loại bỏ những
nguy cơ, thách thức đến an ninh quốc gia.
Nguyễn Thị Kim Hồng & Nguyễn Thị Bé Ba (2011),“An ninh lương thực
vùng đồng bằng sông Cửu Long” [36]. Tác giả đã đề cập đến vấn đề mang tính
toàn cầu của anh ninh lương thực, an ninh lương thực tại Việt Nam và trường
hợp cụ thể của đồng bằng sông Cửu Long - từ phân tích lý luận và thực tiễn của
an ninh lương thực nhóm tác giả đã đưa ra những vấn đề cần được giải quyết để
bảo đảm an ninh lương thực vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện nay.
Phạm Ngọc Hiền, Nguyễn Văn Lan, Nguyễn Văn Việt, Lê Thị Quỳnh

(2011), “Hội nhập kinh tế quốc tế - những vấn đề đặt ra đối với công tác
Công an” [25]. Công trình đã đánh giá, tiếp cận những thông tin cơ bản về
hội nhập kinh tế quốc tế và những vấn đề đặt ra đối với công tác Công an
nhân dân đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới như: Bảo đảm
ANQG, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, xây dựng lực lượng Công an nhân dân
trong tình hình mới và công tác bảo đảm hậu cần kỹ thuật cho Công an nhân
dân đáp ứng yêu cầu hội nhập mở cửa.


23

Trần Minh Tơn (2014),“Bảo đảm an ninh môi trường, phục vụ nhiệm
vụ phát triển bền vững đất nước trong tình hình mới” [97]. Bài viết đã đề cập
đến suy thoái môi trường đã trở thành vấn đề toàn cầu, không chỉ đe dọa an
toàn, an ninh cá nhân mỗi con người, mà còn là một trong những nguy cơ lớn
đe dọa ANQG và sự sống còn của xã hội loài người, từ thực trạng và những
vấn đề đăt ra, tác giả đã đưa ra những giải pháp nhằm khắc phục những tác
động đến bảo đảm an ninh môi trường quốc gia.
Lê Minh Thảo (2014), “Bảo đảm an ninh các khu công nghiệp trên địa
bàn Thành phố Hà Nội” [72]. Luận án đã trình bày một cách toàn diện, có hệ
thống thực tiễn công tác đảm bảo an ninh các khu công nghiệp trên địa bàn
Hà Nội theo chức năng của lực lượng Công an thành phố Hà Nội. Bổ sung
hoàn thiện lý luận nghiệp vụ an ninh về bảo vệ ANKT, bảo vệ an ninh các khu
vực, địa bàn kinh tế đặc thù trong điều kiện hội phập quốc tế của nền kinh tế
nước ta hiện nay và những năm tới.
Nguyễn Ngọc Thế (2014), “Công tác bảo đảm an ninh kinh tế nông
nghiệp, những vấn đề lý luận và thực tiễn” [77]. Đề tài làm sáng tỏ những nhận
thức về công tác bảo vệ ANKT và ANKT nông nghiệp, khảo sát đánh giá thực
trạng an ninh kinh tế nông nghiệp, công tác bảo vệ ANKT nông nghiệp, trên cơ
sở đó chỉ ra những tồn tại, hạn chế, bất cập, các yếu tố tác động, gây ảnh hưởng

xấu đến ANKT nông nghiệp và công tác bảo vệ an ninh kinh tế nông nghiệp
trong điều kiện Việt Nam gia nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.
Từ đó dự báo tình hình, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ an
ninh kinh tế nông nghiệp trong thời gian tới.
Nguyễn Thị Mùi (2015), “An ninh tài chính tiền tệ ở Việt Nam trước
các biến động của thị trường tài chính thế giới” [50]. Tác giả chỉ ra những
những bất ổn của thị trường tài chính thế giới đều ảnh hưởng trực tiếp đến
việc điều hành tỷ giá, lãi suất, nợ quốc gia, đến dòng vốn vào ra cũng như
những rủi ro của các định chế tài chính Việt Nam trên thị trường tài chính,
đưa ra một số khuyến nghị chính sách.


24

Tô Lâm, Nguyễn Xuân Yêm (2017), “An ninh phi truyền thống trong
thời kỳ hội nhập quốc tế” [45]. Các tác giả đưa ra những tư duy mới về an
ninh quốc gia và nhận diện an ninh phi truyền thống, mối đe dọa và các nguy cơ,
thách thức mang tính toàn cầu như: tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia; khủng
bố; an ninh mạng và tội phạm sử dụng công nghệ cao; biến đổi khí hậu và thảm
họa thiên tai; an ninh môi trường; an ninh tài chính; an ninh lượng thực; an ninh
năng lượng. Từ những nhận định phân tích đó, tập thể tác giả đưa ra những vấn
đề an ninh phi truyền thống ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế; đưa ra
quan điểm, phương hướng chỉ đạo của Đảng, Nhà nước Việt Nam về giải quyết,
ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống ở Việt Nam.
Tạ Ngọc Tấn, Phạm Thành Dung, Đoàn Minh Huấn (2018), “An ninh
phi truyền thống - những vấn đề lý luận và thực tiễn” [66]. Tập thể tác giả đã
đưa ra các mối đe dọa đế an ninh phi truyền thống đã và đang thách thức trực
tiếp đến sinh tồn, phát triển của mỗi cá nhân con người, cộng đồng xã hội,
quốc gia dân tộc và toàn nhân loại. Tình trạng biến đổi khí hậu, nước biển
dâng cao; ô nhiểm môi trường; cạn kiệt và tranh chấp nguồn nước, nguồn

năng lượng hóa thạch; khan hiếm lương thực thực phẩm; gia tăng các loại tội
phạm phi truyền thống... đều mang dấu hiệu đặc trưng của mối đe dọa an ninh
phi truyền thống và đực các nước quan tâm. Các tác giả đã đữa ra những quan
niệm và cách tiếp cận an ninh phi truyền thống: an ninh con người; an ninh
năng lượng; an ninh lương thực; an ninh tài chính; an ninh nguồn nước; an
ninh môi trường và các vấn đề tội phạm công nghệ cao và an ninh mạng... từ
đó tập thể tác giả dự báo diễn biến tình hình các mối đe dọa an ninh phi
truyền thống tác động đến Việt Nam trong thời gian tới. Đưa ra quan điểm,
định hướng và giải pháp phòng ngừa, ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi
truyền thống ở Việt Nam hiện nay.
1.2.3. Các công trình nghiên cứu về sự tác động của đầu tư nước ngoài
Trần Xuân Dung (2006), “Hoạt động tài trợ, đầu tư nước ngoài tại Tây
Nguyên và những vấn đề đặt ra đối với công tác an ninh” [12]. Tác giả phân tích


25

các mặt hoạt động tài trợ, đầu tư nước ngoài tại Tây Nguyên có liên quan đến an
ninh quốc gia và đánh giá các mặt công tác của cơ quan an ninh, dự báo về tình
hình tài trợ, đầu tư nước ngoài tại Tây Nguyên có liên quan đến ANQG. Trên cơ sở
đó đề xuất kiến nghị, giải pháp có tính phương pháp luận, thực tiễn nhằm nâng cao
hiệu quả công tác của cơ quan an ninh trong đấu tranh phòng, chống các hoạt động
lợi dụng mở cửa hội nhập, thu hút đầu tư nước ngoài để tài trợ, móc nối, lôi kéo,
mua chuộc, gây rối an ninh, trật tự trên địa bàn Tây Nguyên.
Trần Quang Thắng (2012), “Những vấn đề kinh tế xã hội nảy sinh trong
đầu tư trực tiếp nước ngoài của một số nước Châu Á và giải pháp cho Việt
Nam” [75]. Luận án đã nghiên cứu quá trình thu hút và sử dụng vốn FDI vào
Việt Nam và chỉ ra những vấn đề kinh tế xã hội nảy sinh trong hoạt động FDI ở
một số nước châu Á, qua đó đưa ra các giải pháp để phát huy các tác động tích
cực và hạn chế các vấn đề phát sinh đối với kinh tế - xã hội tại Việt Nam.

Vũ Đình Ánh (2012), “Chống chuyển giá và một số vấn đề tài chính
liên quan đến FDI” [3]. Tác giả đã đề cập đến hành vi chuyển giá trong các
doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp FDI nói riêng là do xuất phát từ
động cơ tối đa hóa lợi nhuận của doanh nghiệp; quyền tự do quyết định giá
trong các giao dịch của các doanh nghiệp; sự khác biệt về môi trường đầu tư,
kinh doanh; sự khác biệt về chính sách pháp luật giữa các quốc gia. Các
doanh nghiệp FDI đã chuyển giá nhờ bóp méo đầu vào bằng các chi phí đầu
vào như: tiền lương, chi phí quản lý, khấu hao tài sản cố định, giá nguyên vật
liệu, chi phí bán hàng....gây ra tình trạng lỗ giả, lãi thật, trốn thuế. Hành vi
chuyển giá gây thất thu lớn cho ngân sách, méo mó môi trường kinh doanh,
gây bất lợi cho các doanh nghiệp khác. Kiểm soát hành vi chuyển giá, hạn chế
đến mức thấp nhất chuyển giá và trốn thuế của các doanh nghiệp FDI là vấn
đề thách thức lớn trong công tác ANKT.
Phạm Văn Thừa (2013), “Những tác động tiêu cực về kinh tế của đầu
tư trực tiếp nước ngoài và một số vấn đề đặt ra đối với công tác an ninh kinh
tế ở nước ta hiện nay” [81]. Tác giả đã nghiên cứu những tác động tiêu cực về


×