Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Tác động của chênh lệch phát triển tới an ninh kinh tế ở khu vực ASEAN giai đoạn 1985 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (532.22 KB, 71 trang )

Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
Chênh lệch phát triển và an ninh kinh tế cũng như mối quan hệ giữa chênh
lệch phát triển và an ninh kinh tế là những vấn đề tương đối mới và đang thu hút
được khá nhiều sự quan tâm không chỉ của các nhà nghiên cứu mà còn của các
nhà hoạch định chính sách. Mối quan hệ này càng được đặc biệt chú ý hơn trong
bối cảnh quá trình toàn cầu hoá và liên kết kinh tế tăng nhanh và có những thay
đổi lớn trong nửa cuối thập kỉ XX và đầu thập kỉ XXI. Sự thay đổi của bối cảnh
quốc tế và khu vực đã kéo theo những thay đổi về quan niệm và chiến lược trong
gìn giữ và đảm bảo an ninh của quốc gia và khu vực. Nghiên cứu các vấn đề về
chênh lệch phát triển và an ninh kinh tế trong điều kiện mới, trong đó có an ninh
kinh tế vì thế là rất cần thiết và hữu ích cho việc đưa ra các chính sách phát triển
và đảm bảo an ninh quốc gia, khu vực và toàn cầu.
Trong bối cảnh quốc tế và môi trường an ninh mới, đặc biệt là thời kì hậu
chiến tranh lạnh, cách tiếp cận an ninh truyền thống thiên về sức mạnh quân sự và
chủ quyền quốc gia đã không đủ cơ sở khoa học để phản ánh hết hàm ý an ninh từ
những thay đổi kinh tế - xã hội nhanh chóng do làn sóng toàn cầu hoá tạo ra,
cũng như không đủ khung khổ phân tích các thách thức mới nổi lên đối với những
tác nhân ở cấp độ thấp hơn nhà nước - dân tộc như các nhóm cộng đồng sắc tộc –
tôn giáo hay người dân thường nói chung. Cách tiếp cận an ninh truyền thống
không đủ khung khổ giải pháp để đối phó với các hình thái đe doạ mới, xuất hiện
từ trong lòng mỗi quốc gia, mỗi cộng đồng song lại có quy mô, mạng lưới toàn
cầu như là “hiệu ứng”của sự lan truyền xuyên quốc gia như: khủng hoảng kinh tế,
tội phạm xuyên quốc gia và chủ nghĩa khủng bố toàn cầu…
Khu vực Đông Á nói chung và khu vực ASEAN nói riêng là tập hợp của sự đa
dạng (nhiều khác biệt) về bản sắc văn hoá, hệ thống chính trị và cấp độ phát triển. Do
đó cách tiếp cận về vấn đề an ninh phi truyền thống của các quốc gia trong khu vực
này cũng hết sức đa dạng. Tiếp cận an ninh phi truyền thống của Inđônêxia và Thái
Lan thường đặt trong môi trường bất bình đẳng và đói nghèo cao ở hai nước này,
trong khi tính dễ tổn thương về địa – chính trị hay địa - chiến lược lại luôn được đề


cập trong tiếp cận an ninh kinh tế của Singgapo hay Đài Loan. Còn đối với Trung
Quốc hay Việt Nam, an ninh phi truyền thống gắn chặt với sự sinh tồn của hệ thống
chính trị do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Do vậy, có thể thấy rằng mục đích cuối cùng
Líp: CLC - K55 - Khoa Địa lý Trường ĐHSP Hà Nội
1
Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
của đảm bảo an ninh phi truyền thống đối với từng quốc gia trong khu vực là khác
nhau. Cũng tương tự như vậy, mức độ ưu tiên và đối sách của mỗi quốc gia sẽ khác
nhau đối với từng vấn đề an ninh phi truyền thống.
Các vấn đề của phát triển như phân phối phúc lợi, quản lí xã hội, sức khoẻ
và giáo dục sẽ trở thành vấn đề an ninh phi truyền thống khi chúng đạt tới những
“ngưỡng khủng hoảng”. Ngưỡng này xuất hiện khi sự an sinh của mỗi người dân,
sự ổn định và gắn kết của xã hội hay nhóm cộng đồng bị giảm sút hay phá vỡ. Và
tình trạng kém phát triển của mỗi quốc gia hay nhóm cộng đồng không chỉ là
nguy cơ trực tiếp đối với an sinh của mỗi người dân mà rất có thể trở thành những
mối đe doạ mang tính xuyên quốc gia, đe doạ nền hoà bình và sự ổn định quốc tế.
Với những lí do trên, và được sự giúp đỡ của Th.s Nguyễn Đăng Chúng,
tôi đã mạnh dạn đi nghiên cứu đề tài: “Tác động của chênh lệch phát triển tới
an ninh kinh tế ở khu vực ASEAN giai đoạn 1985 - 2005”, với mong muốn
đóng góp sức mình cho quá trình phát triển kinh tế của quốc gia cũng như việc
thu hẹp khoảng cách phát triển của các quốc gia trong khu vực ASEAN.
II. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn của đề tài
1. Mục đích
Vì đề tài nghiên cứu về tác động của chênh lệch phát triển con người tới
an ninh kinh tế ở khu vực ASEAN giai đoạn 1985 – 2005 là một vấn đề tương
đối khó khăn và mới mẻ, nhất là đối với một sinh viên còn thiếu kiến thức và
hiểu biết như tôi. Do vậy, mục đích của đề tài là làm rõ những khái niệm an kinh
tế trong hệ thống khái niệm về an ninh phi truyền thống, phân tích thực trạng của
các nước trong khu vực ASEAN, xem xét sự tác động của chênh lệch phát triển
đến an ninh kinh tế qua các kênh khác nhau, và đưa ra các đề xuất về phương

thức thu hẹp khoảng cách phát triển và đảm bảo an ninh kinh tế trong phạm vi
quốc gia và khu vực.
Vì là một trong những nghiên cứu đầu tiên trong một lĩnh vực mới mẻ,
nên đề tài này không tham vọng giải quyết tất cả các vấn đề liên quan đến tác
động và ảnh hưởng của chênh lệch phát triển đến an ninh kinh tế. Để giải quyết
triệt để các vấn đề quan trọng như trên đòi hỏi phải có một quá trình nghiên cứu,
theo dõi dài hơn, liên tục và luôn cập nhật những thay đổi, những xu hướng mới
và hiện tượng mới trên thực thế. Trên tinh thần đó, đề tài này chỉ tập trung làm rõ
một cách có hệ thống các khái niệm về an ninh phi truyền thống, đặc biệt chú
trọng đến an ninh kinh tế, xem xét các khoảng cách chênh lệch phát triển trong
Líp: CLC - K55 - Khoa Địa lý Trường ĐHSP Hà Nội
2
Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
khu vực ASEAN, tìm hiểu các tác động chính của chênh lệch phát triển trong khu
vực ASEAN đến đảm bảo an ninh kinh tế mà chưa đánh giá một cách toàn diện
tác động của an ninh kinh tế tới chênh lệch phát triển.
2. Nhiệm vụ của để tài
- Tập trung làm rõ một cách có hệ thống các khái niệm về an ninh phi
truyền thống, đặc biệt chú trọng đến an ninh kinh tế
- Xem xét khoảng cách chênh lệch phát triển trong khu vực ASEAN.
- Tìm hiểu các tác động chính của chênh lệch phát triển đến đảm bảo an
ninh kinh tế.
III. Giới hạn của đề tài
- Nghiên cứu an ninh kinh tế và biểu hiện của an ninh kinh tế
- Khái niệm chênh lệch phát triển và tình hình chênh lệch phát triển ở
Đông Nam Á.
- Ảnh hưởng của chênh lệch phát triển đến an ninh kinh tế (xét trên các
khía cạnh an ninh tài chính, an ninh thương mại và đầu tư, an ninh việc làm và an
sinh xã hội, an ninh môi trường) ở Đông Nam Á giai đoạn 1985-2005.
- Trình bày một số phương thức và định hướng thu hẹp khoảng cách phát

triển và đảm bảo an ninh kinh tế đã thực hiện trong ASEAN.
- Nhận định những cơ hội cũng như thách thức đối với việc thu hẹp khoảng
cách phát triển và đảm bảo an ninh kinh tế trong khu vực ASEAN.
IV. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu
1. Quan điểm nghiên cứu
a. Quan điểm tổng hợp
Xuất phát từ chỗ các đối tượng địa lí là các địa tổng thể nên đòi hỏi được
nghiên cứu một cách tổng hợp. Trong khoá luận, dựa vào những bài viết, sách
báo, văn bản, số liệu khác nhau liên quan đến chênh lệch phát triển và an ninh
kinh tế cũng như mối quan hệ giữa chúng, tôi đã phân tích, tổng hợp để rút ra
những chênh lệch đang tồn tại trong nội khối ASEAN và tác động của những
chênh lệch đó tới an ninh kinh tế của khu vực.
Nhưng để phân tích và đánh giá được tác động của chênh lệch phát triển
tới an ninh kinh tế, đề tài đã đề cập đến các cặp tương quan trong mối quan hệ
giữa “phát triển” và “an ninh”. Các cặp tương quan này có mối quan hệ mật thết
với nhau, cũng như các chênh lệch dường như tồn tại độc lập với nhau nhưng
thực chất giữa chúng có mối quan hệ khăng khít. Do vậy, các nhân tố tác động tới
Líp: CLC - K55 - Khoa Địa lý Trường ĐHSP Hà Nội
3
Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
an ninh kinh tế của khu vực cần được liên kết với nhau thành một thể tổng hợp,
gắn bó chặt chẽ với nhau, trên cả cơ sở lí luận lẫm cơ sở thực tiễn, bởi khi có bất
kì một nhân tố nào biến động, sẽ kéo theo sự biến động của các nhân tố còn lài,
và có nguy cơ dẫn đến mất ổn định an ninh kinh tế .
b. Quan điểm lãnh thổ
Do mỗi quốc gia, mỗi khu vực có những đặc điểm riêng, do đó trong quá
trình nghiên cứu phải tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa các quốc
gia trong khu vực.
Các quốc gia trong khu vực ASEAN bên cạnh một số điểm tương đồng về
vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên và xã hội thì còn tồn tại những điểm riêng biệt về

kinh tế, thể chế chính trị, xã hội. và chính do những sự khác biệt này đã làm gia
tăng khoảng cách phát triển giữa các nước thành viên, nhất là giữa 2 nhóm:
ASEAN - 4 và ASEAN - 6.
c. Quan điểm viễn cảnh - lịch sử
Khi phân tích các đối tượng địa lí, phải đặt nó trong từng hoàn cảnh lịch sử
nhất định, phải đặt các sự kiện trong quá trình vận động, tương tác không ngừng
cả về mặt thời gian và không gian.
Trước khi phân tích tác động của chênh lệch phát triển tới an ninh kinh tế
của khu vực ASEAN, trước hết phải tìm hiểu đặc điểm của nền kinh tế các nước
thành viên ASEAN, qua đó thấy được mức độ chênh lệch về các chỉ số cơ bản,
chênh lệch về công nghệ và năng lực, chênh lệch về xã hội. Và tác động của
những chênh lệch này tới an ninh kinh tế của ASEAN cũng khác nhau trong từng
giai đoạn lịch sử khác nhau. Tôi chỉ tập trung phân tích tác động của chênh lệch
phát triển tới an ninh kinh tế của khu vực trong giai đoạn 1985 – 2005.
Từ những đánh giá tổng quát về tác động của chênh lệch phát triển tới an
ninh kinh tế của khu vực, đề tài đã bước đầu đề xuất những phương hướng và giải
pháp cho vấn đề thu hẹp khoảng cách phát triển nhằm đảm bảo an ninh kinh tế
không chỉ ở cấp độ khu vực mà còn ở cấp độ quốc gia.
2. Phương pháp nghiên cứu
a. Phương pháp thu thập và xử lí số liệu
Quá trình thực hiện đề tài, hệ thống số liệu được lầy chủ yếu từ Tổng cục
thống kê, từ Viện nghiên cứu Đông Nam Á và từ Niên giám thống kê về các số
liệu kinh tế - xã hội của các nước ASEAN.
Líp: CLC - K55 - Khoa Địa lý Trường ĐHSP Hà Nội
4
Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
Các số liệu được thu thập và xử lí để đưa ra những kết luận cơ bản về mức
độ chênh lệch trong khu vực, nhất là mức độ chênh lệch về các chỉ tiêu kinh tế vĩ
mô, chênh lệch về công nghệ và năng lực quản lí cũng như chênh lệch về xã hội.
Khâu xử lí số liệu là một khâu hết sức quan trọng, bởi nó đánh giá chất

lượng của đề tài. Qua việc xử lí, phân tích số liệu, tôi đưa ra đánh giá tổng quát về
mức độ chênh lệch phát triển trong khu vực ASEAN.
b. Phương pháp bản đồ - biểu đồ, sơ đồ
Đây là phương pháp đặc trưng khi nghiên cứu các vấn đề địa lí. Khi nghiên
cứu đề tài này, phải nghiên cứu vị trí của ASEAN trên thế giới, để từ đó thấy
được mối quan hệ không chỉ về yếu tố địa lí và cả yếu tố kinh tế, chính trị của các
nước thành viên ASEAN với nhau và mối quan hệ giữa khu vực ASEAN với các
quốc gia và khu vực khác trên thế giới.
Trong đề tài, tôi cũng đã sử dụng Sơ đồ: Cái bẫy cân bằng mức độ thấp và
sơ đồ Cái bẫy Malthus mới để thấy được nguy cơ ngày càng tụt hậu của các nền
kinh tế con rùa trong khu vực.
c. Phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh tài liệu
Khi nghiên cứu một vấn đề, không chỉ dựa vào một nguồn tài liệu, mà
phải dựa vào nhiều nguồn tài liệu khác nhau, song các nguồn tài liệu này đều
phải cung cấp được những thông tin chính xác, khoa học. Do vậy cấn tổng hợp
đầy đủ các nguồn tài liệu, phân tích và so sánh chúng để sử dụng những kiến
thức chính xác và phù hợp với đề tài.
Líp: CLC - K55 - Khoa Địa lý Trường ĐHSP Hà Nội
5
Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CHÊNH LỆCH PHÁT TRIỂN
1.1 Khái niệm về chênh lệch phát triển
Khái niệm phát triển có nội hàm rất rộng, liên quan đến mọi mặt của đời sống
xã hội, song với cách tiếp cận con người là trung tâm, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực phát triển thì phát triển con người là “quá trình nâng cao chất lượng cuộc sống
cả vật chất, tinh thần và năng lực của con người”. Phát triển bao hàm nhiều khía
cạnh từ kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục, sức khoẻ cộng đồng đến môi trường. Các
thước đo quá trình phát triển do vậy cũng toàn diện và đa chiều hơn.Chỉ số bao quát
nhất về mặt lượng là tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và thu nhập bình quân đầu

người. Từ đầu thập kỉ 90, Liên hợp quốc bắt đầu sử dụng Chỉ số phát triển con
người (HDI) nhằm phản ánh xác thực hơn mặt chất của quá trình phát triển.
“Chênh lệch phát triển hàm ý chỉ sự chênh lệch về mặt chất lượng cuộc
sống giữa người với người ở những quốc gia khác nhau, giữa các vùng miền
trong một quốc gia”. Có thể dùng các chiều cạnh chủ yếu của quá trình phát triển
để làm thước đo chênh lệch phát triển, đó là: thu nhập, thương mại, phát triển con
người, sự khác biệt về thể chế và năng lực cạnh tranh.
Chênh lệch phát triển luôn tồn tại. Và vấn đề “khoảng cách phát triển”
hàm chứa nhiều khía cạnh, cả “an ninh quốc gia” cũng như “an ninh con người”.
1.2. Chênh lệch phát triển trong khu v ực ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) ra đời năm 1967 trong thời
kỳ chiến tranh lạnh và đối đầu giữa hai hệ thống. Do vị trí địa lý và ý đồ chiến
lược của Mỹ, ASEAN đã trở thành chiến tuyến đối đầu trực tiếp giữa hai hệ thống
do hai siêu cường là Liên Xô và Mỹ đứng đầu. Trong bối cảnh đó, ASEAN lấy an
ninh truyền thống với hàm ý là độc lập, chủ quyền và đảm bảo toàn vẹn lãnh thổ
làm động lực trong hợp tác, lấy quan hệ chính trị và tương quan sức mạnh quân
sự quốc gia là trụ cột đảm bảo an ninh cho mỗi nước thành viên cũng như toàn bộ
ASEAN. Kể từ những năm 1990, chiến tranh lạnh kết thúc, sự đối đầu giữa hai hệ
thống đã chấm dứt, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế tăng lên nhanh
chóng khiến sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày càng chặt chẽ hơn, an
ninh của một quốc gia không chỉ bó hẹp trong phạm vi truyền thống là các nhân
tố chính trị và quân sự nữa, mà còn chịu sức ép của nhiều yếu tố kinh tế, xã hội,
sắc tộc, tôn giáo, bệnh dịch, buôn lậu xuyên quốc gia Do đó, khái niệm an ninh
mới hay an ninh phi truyền thống trở nên phổ biến với nội hàm rất rộng, bao gồm
Líp: CLC - K55 - Khoa Địa lý Trường ĐHSP Hà Nội
6
Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
tất cả các nhân tố làm tăng mức lo ngại về an ninh, và an ninh kinh tế trở thành
một bộ phận của an ninh quốc gia nhằm đảm bảo cho hệ thống kinh tế vận hành
thông suốt và bảo tồn bản sắc dân tộc.

Ngày nay an ninh quốc gia của nhiều nước bị đe doạ vì kinh tế yếu kém.
Đứng trên góc độ đó, có thể thấy chênh lệch phát triển ngày càng trở thành nhân
tố đe dọa an ninh kinh tế, ổn định và phát triển trong khu vực.
1.2.1 Chênh lệch về một số chỉ số cơ bản
1.2.1.1. Chênh lệch về thu nhập bình quân đầu người
Ở mức độ lớn, chênh lệch trong thu nhập bình quân theo đầu người phản
ánh chênh lệch về mức sống. Chúng cũng phản ánh chênh lệch trong khả năng
sản xuất của mỗi quốc gia.
Bảng 1.1: GNP tính theo đầu người danh nghĩa và điều chỉnh theo
tương quan về sức mua (PPP), 1999
Mức thu
nhập
Quốc gia
Tỷ giá hối đoái chính thức sử
dụng được quy đổi (USD)
Điều chỉnh theo
PPP (USD)
Cao
Singapo
30.060 28.620
Trung bình
Malaixia 3.600 6.990
Thái Lan 2.200 5.840
Philippin
1.050 3.540
Inđônêxia 680 2.790
Thấp
Việt Nam 330 1.590
Lào
330 1.300

Campuchia 280 1.240
Đông Nam Á (trung bình)
1.202 3.431
Mỹ 2.340 29.340
Thế giới
4.890 6.200
Nguồn: Ngân hàng thế giới, Báo cáo phát triển thế giới 1999 - 2000, 1999
Qua bảng 1.1 cho thấy chênh lệch về mức thu nhập tính theo đầu người giữa
các quốc gia Đông Nam Á. Năm 1998, GNP tính theo đầu người danh nghĩa của
Singapo (30.060 USD) cao hơn Campuchia (280 USD) 107 lần. Thậm chí nếu giảm đi
20 đến 30% đối với một nền kinh tế đô thị như Singapo thì mức chênh lệch về kinh tế
này vẫn rất lớn. Theo phân loại của Ngân hàng Thế giới thì Inđônêxia đang ở ngưỡng
giữa các nước có thu nhập thấp và thu nhập trung bình thấp hơn, trong khi Malaixia,
Philippin và Thái Lan thuộc các nước có thu nhập trung bình thấp hơn. Singapo và
Brunây là hai nước có thu nhập cao duy nhất ở Đông Nam Á.
Líp: CLC - K55 - Khoa Địa lý Trường ĐHSP Hà Nội
7
Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
Hiện nay chênh lệch phát triển giữa các nước ASEAN khá rõ ràng, đặc biệt
là giữa ASEAN-6 và ASEAN-4 (CLMV). Các nước ASEAN-6 đã phát triển kinh
tế thị trường trong hơn 3 thập kỷ, với thu nhập bình quân đầu người khoảng 1000
USD/người, trong khi đó các nước ASEAN-4 đều là các nền kinh tế chuyển đổi
với mức thu nhập chưa đến 400 USD/người; trong số bốn nước này, chỉ có Việt
Nam được xếp vào nhóm các nước đang phát triển, ba nước còn lại đều thuộc
nhóm nước kém phát triển. Tính theo mức thu nhập bình quân đầu người, nước
cao nhất trong ASEAN là Singapo và nước cao nhất trong nhóm CLMV là Việt
Nam thì chênh lệch là 50 lần; giữa Singapo với nước nước nghèo nhất trong
ASEAN mới là Mianma thì chênh lệch lên tới 136 lần; nước nghèo nhất trong
ASEAN cũ là Indônêxia và Philipin cũng có mức thu nhập bình quân đầu người
cao gấp 2 - 3 lần nước có mức thu nhập cao nhất trong ASEAN mới

Theo thu nhập bình quân đầu người, các nước trong ASEAN được phân thành
3 nhóm với trình độ phát triển khá cách biệt nhau: nhóm nước thu nhập cao bao gồm
Singgapo và Brunây; nhóm nước có thu nhập khá cao gồm Malaixia, Thái lan,
Philippin, Inđônêxia; những nước có thu nhập thấp gồm Campuchia, Lào, Mianma,
Việt Nam (các nước CLMV). Chênh lệch giữa các nhóm nước rất lớn: Các nước
CLMV có thu nhập chỉ bằng từ 1/3 – 1/5 mức thu nhập bình quân đầu người toàn
ASEAN. Là nước có thu nhập bình quân đầu người cao nhất trong nhóm 3 nhưng
thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam cũng chỉ bằng 2/3 mức thu nhập của
nước có thu nhập thấp nhất trong nhóm 2 là Inđônêxia và chỉ bằng 1/11 mức thu
nhập của Singgapo - nước có thu nhập cao nhất trong ASEAN.
Hơn nữa, các nước ASEAN cũ đạt được thành tựu tăng trưởng kinh tế khá
cao và liên tục trong khoảng 3 thập kỷ, trong khi đó các nước CLMV vẫn đang
trong quá trong chuyển đổi sang kinh tế thị trường và thúc đẩy hội nhập quốc tế,
tăng trưởng kinh tế đạt khá cao, song không đều và chưa có tính liên tục.
Bảng 1.2: Tốc độ tăng trưởng GDP và GDP/người trong ASEAN
Nước
Tốc độ tăng trưởng GDP GDP/người
1985 -
1989
1990 -
1994
1995 -
1999
2000 -
2004
1996 2001
PPP
2001
PPP
2003

Brunây - 0,4 1,6 2,9 - 17096 12245 - 19210
Inđônêxia 6,0 8,0 1,6 4,55 1155 691 2940 3361
Malaysia 4,9 9,3 5,1 5,14 4766 3696 8750 9512
Philipin 2,7 1,9 3,6 4,26 393 914 3840 4321
Líp: CLC - K55 - Khoa Địa lý Trường ĐHSP Hà Nội
8
Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
Singapo 6,3 9,4 5,9 4,18 24784 20659 22680 24481
Thái Lan 9,0 9,0 1,4 5,06 3035 1831 6400 7595
Việt Nam 4,3 7,3 7,5 6,58 337 416 2070 2490
Lào - - 6,4 5,98 393 330 1620 1759
Campuchia - - 4,14 4,86 312 270 1860 2078
Mianma - - 6,2 12,68 109 151 - -
Bình quân 1490 1154
Nguồn: World Bank 2001; IMF May 2000, Human Developmen Reprot (2005), ADB (2005)
Mặc dù 10 quốc gia khi hợp thành một nền kinh tế, thì vẫn còn sự chênh
lệch lớn về thu nhập tính theo đầu người do những khác biệt về các nguồn lực
nhân tố sẵn có. Thu nhập tính theo đầu người quy đổi thành USD theo tỷ giá hối
đoái chính thức có xu hướng làm giảm vị trí thu nhập tương đối của các nước
chậm phát triển trên thế giới trong mối quan hệ với các nước tương đối phát triển
hơn. Điều này xảy ra vì nhiều hàng hoá và dịch vụ ở những quốc gia này không
được buôn bán rộng rãi trên thị trường thế giới và vì thế chúng không ảnh hưởng
trực tiếp đến cán cân thanh toán và tỷ giá hối đoái.
Bảng 1.2 cũng cho thấy chênh lệch trong GNP tính theo đầu người khi sử
dụng tỷ giá hối đoái chính thức và tương quan về sức mua. Trong năm 1998,
GNP tính theo đầu người của Malaixia chiếm khoảng 12% GNP của Mỹ nhưng
khi sử dụng tỷ giá hối đoái chính thức. Tuy nhiên, nó lại chiếm khoảng 24%GNP
của Mỹ khi sử dụng PPP. Khi sử dụng tỷ giá hối đoái chính thức, GNP tính theo
đầu người của Singgapo lại cao hơn Mỹ nhưng khi sử dụng PPP điều chỉnh thì
GNP tính theo đầu người của Singapo lại thấp hơn của Mỹ. Thậm chí giữa các

quốc gia ASEAN, GNP tính theo đầu người cũng khác nhau tuỳ thuộc vào việc sử
dụng tỷ giá hối đoái chính thức hay PPP.
1.2.1.2 Chênh lệch trong tốc độ tăng trưởng
Bảng 1.3: Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm (%), 1980 – 1998
Quốc gia 1980 - 1990 1990 - 1998 1960 - 1998
Inđônêxia
6,1
5,8 5,8
Malaixia
5,3
7,7 6,8
Mianma
0,6
6,3 3,5
Singapo
6,6
8,0 8,0
Líp: CLC - K55 - Khoa Địa lý Trường ĐHSP Hà Nội
9
Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
Thái Lan
7,6
7,4 7,7
Philippin
1,0
3,3 3,9
Nguồn: Ngân hàng thế giới, Báo cáo phát triển thế giới các số khác nhau
Qua bảng trên có thể thấy, trong giai đoạn 1960 - 1998, Singapo luôn dẫn
đầu danh sách với mức tăng trưởng bình quân 8,0%/năm, theo sát sau đó là Thái
Lan với mức tăng trưởng 7,7%/năm, Malaixia với mức tăng trưởng 6,8%/năm và

Inđônêxia là 5,8%/năm.
Về phát triển kinh tế toàn diện, có thể nói các nước ASEAN - 4 đi sau Thái
Lan và Malaixia khoảng 4 thập kỷ. Các nước ASEAN - 4 có lẽ không thiếu tiềm
năng để phát triển nhưng các nước này cần có nền chính trị ổn định và các chính
sách xã hội ổn định và nền kinh tế đi theo định hướng tăng trưởng trong một thời
gian dài để có thể tăng thu nhập tính theo đầu người lên mức độ đáng kể.
1.2.1.3 Chênh lệch về cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế cũng cho thấy sự chênh lệch rất rõ giữa các nước ASEAN
cũ và CLMV. Sáu nước ASEAN cũ có cơ cấu kinh tế dịch vụ và công nghiệp
chiếm tỷ trọng lớn, nông nghiệp chỉ chiếm khoảng dưới 16% còn ở 3 nước
Campuchia, Lào và Mianma nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn hơn 50%, công
nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ trọng nhỏ. Chỉ tính chênh lệch cơ cấu trong bản thân
các nước CLMV, Lào mất khoảng 10 năm để giảm tỷ trọng nông nghiệp trong
GDP xuống bằng mức 33% của Việt Nam, và phải mất gấp đôi thời gian để giảm
xuống bằng mức của Indônêxia nếu so sánh với các nước ASEAN cũ. Cơ cấu
kinh tế là thước đo trình độ phát triển kinh tế của một nước, với cơ cấu kinh tế
như vậy, các CLMV cần từ 15 - 20 năm mới đuổi kịp mức phát triển bình quân
của các nước ASEAN cũ hiện nay.
Bảng 1.4: Cơ cấu kinh tế ASEAN năm 2004, % trong GDP
Nước Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ
Brunây 2,5 46,5 51,0
Inđônêxia 15,4 45 39,6
Malaysia 8,1 42,1 49,8
Philipin 19,9 33,5 46,6
Singapo 0 35 65
Thái Lan 10,2 45,8 44
Việt Nam 21,1 38,7 40,2
Lào 48,6 25,9 25,5
Líp: CLC - K55 - Khoa Địa lý Trường ĐHSP Hà Nội
10

Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
Campuchia 36,6 28,1 35,3
Mianma 51,9 13,6 34,5
Nguồn: ADB (2005)
1.2.1.4 Chênh lệch về mức độ mở của của nền kinh tế
Chênh lệch giữa các nước ASEAN về mức độ mở cửa của nền kinh tế
được biểu hiện thông qua chênh lệch về khả năng thu hút FDI và đầu tư ra nước
ngoài cũng như chênh lệch về tỷ lệ của xuất khẩu và ngoại thương trên GDP.
Xét trên khía cạnh khả năng thu hút FDI và FDI ra nước ngoài, chênh
lệch giữa các nước ASEAN - 6 và ASEAN - 4 khá lớn: Tỷ trọng FDI vào các
nước CMLV khá thấp trong tổng FDI vào ASEAN, chiếm 23% năm 1999 và
giảm xuống 19,06% năm 2000; trong bản thân các nước CLMV, Việt Nam thu
hút phần lớn FDI, chiếm 40,7% năm1999 và tăng lên 84,6% năm 2000. Cạnh
tranh thu hút FDI diễn ra rất gay gắt giữa các nước thành viên ASEAN cả cũ
và mới với nhau và với các nền kinh tế trong khu vực như Ấn Độ, Trung
Quốc… Sáu nước thành viên ASEAN cũ, đặc biệt là các nước phát triển là
những nhà đầu tư chủ yếu vào các nước CLMV, với tỷ trọng chiếm hơn 50%.
Các nước thành viên cũ đều đầu tư ra nước ngoài trong khi các nước thành
viên mới chỉ tiếp nhận đầu tư.
Bảng 1.5: Các chỉ số chênh lệch Ngoại Thương, 1999
Nước
Xuất khẩu/GDP
(%)
Ngoại thương/GDP
(%)
Xuất khẩu/người
(USD)
Brunây - - 7883
Inđônêxia 29,4 58,6 231
Malaysia 94,3 187,3 3720

Philipin 49 110 479
Singapo 162,2 311,9 28672
Thái Lan 47 94 945
Việt Nam 46,2 95 151
Lào 23,8 64,6 74
Campuchia 29,4 70,6 61,7
Mianma 11,9 32 22
Nguồn: FEER, Yearbook 2000
Xét trên khía cạnh ngoại thương, các nước CLMV cũng chủ yếu buôn bán
với các nước ASEAN-6 với tỷ trọng chiếm hơn 50%. Mức xuất khẩu bình quân
Líp: CLC - K55 - Khoa Địa lý Trường ĐHSP Hà Nội
11
Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
đầu người của Việt Nam - nước có mức độ cao nhất trong số các nước CLMV,
là 151 USD, thấp xa so với mức bình quân của 6 nước ASEAN cũ là 693 USD.
Trừ Singapo, các nước ASEAN đều có cơ cấu xuất khẩu tương đối giống nhau,
chủ yếu xuất khẩu các sản phẩm sử dụng nhiều lao động, nguyên liệu thô, nông
sản và hải sản… Đây là các sản phẩm lệ thuộc nhiều vào thời tiết, mùa vụ và sự
biến động của giá cả trên thị trường xuất khẩu.
Cơ cấu xuất khẩu khá giống nhau khiến các nước ASEAN buộc phải cạnh
tranh xuất khẩu với nhau trên thị trường thế giới và không hỗ trợ lẫn nhau nhiều.
Trong số các nước CLMV, ngoại trừ Việt Nam có tỷ lện ngoại thương trên GDP
ngang hàng với Thái Lan và cao hơn Inđônêxia, chỉ số này ở các nước còn lại đều
nằm ở mức thấp, đặc biệt chỉ số này ở Mianma thấp hơn của Singapo đến 10 lần.
Ngoài ra, các nước ASEAN cũ đều là thành viên của WTO và có quan hệ
hợp tác nhiều mặt với Mỹ nên thị trường xuất khẩu của họ khác rộng chứ không
chỉ bó hẹp trong khu vực và ít phụ thuộc vào các nước ASEAN mới. Các nước
CLMV còn gặp khó khăn trong phát triển kinh tế khi mà xuất khẩu và thu hút
FDI là động lực phát triển sẽ luôn chịu tác động của nhiều rủi ro và thách thức.
Bảng 1.6: Xếp hạng quan hệ giữa GDP bình quân đầu người (ASEAN), Hàng

xuất khẩu bình quân đầu người (B) và Tỷ số hàng xuất khẩu/GDP (C), 1997
Nước Xếp hạng A Xếp hạng B Xếp hạng vê C
Singapo
Malaixia
Thái Lan
Philippin
Inđônêxia
1
2
3
4
5
1
2
3
4
5
1
2
3
4
5
Nguồn: Lim Chong Yah. Đông Nam Á chặng đường dài phía trước. NXB Thế giới. H.2002
Như trên, ở các nước ASEAN trên có mối quan hệ xếp hạng hoàn hảo giữa một
bên là thu nhập bình quân đầu người và bên kia là định hướng xuất khẩu được đo bằng
hàng hoá xuất khẩu bình quân đầu người và tỷ số hàng xuất khẩu/GDP.
1.2.1.5 Chênh lệch về mức độ phát triển của thị trường tài chính
Chênh lệch phát triển kinh tế còn thể hiện qua mức độ phát triển của thị
trường tài chính – kênh cực kì quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư cho phát
triển kinh tế. Xét trên khía cạnh này, ASEAN - 10 lại được phân thành 3 nhóm

nước có mức độ phát triển thị trường tài chính khác nhau. Singgapo và Malaixia
có thị trường tài chính, đặc biệt là thị trường chứng khoán phát triển nhất tương
Líp: CLC - K55 - Khoa Địa lý Trường ĐHSP Hà Nội
12
Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
đương với các nước phát triển. Nhóm thứ 2 gồm Thái Lan, Inđônêxia và Philippin
có thị trường tài chính khá phát triển. Trong số các nước CLMV, Việt Nam là
nước duy nhất thiết lập thị trường chứng khoán sơ cấp với tổng lượng vốn huy
động chiếm 2%GDP. Nguồn vốn đầu tư phát triển chính của các nước CLMV là
tín dụng ngân hàng. Thị trường tài chính kém phát triển là một trong những trở
ngại chính cản trở huy động vốn đầu tư phát triển và cản trở các nước này hội
nhập sâu hơn trong phạm vi ASEAN cũng như khu vực.
1.2.1.6 Chênh lệch về tỷ lệ giữa tiết kiệm và đầu tư
Ở một mức độ nào đó, chênh lệch phát triển còn thể hiện ở tỷ lệ tiết kiệm
và đầu tư nội địa cũng như chênh lệch giữa chúng. Ở khía cạnh này, các nước
ASEAN lại được chia thành 3 nhóm có mức độ phát triển cao thấp khác nhau.
Nhóm các nước Singgapo, Maliaxia, Thái Lan có tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư khá
cao, trên 30% và chênh lệch tiết kiệm đầu tư (S - I) thường khoảng trên 10%, cho
thấy tiết kiệm nội địa đủ để đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển. Các nước thuộc
nhóm thứ 2 gồm Philippin, Inđônêxia và Việt Nam cũng có tỷ lệ tiết kiệm và đầu
tư nội địa khá cao, song chênh lệch tiết kiệm đầu tư khá thấp, thậm chí là số âm,
cho thấy tiết kiệm nội địa không đủ đáp ứng nhu cầu đầu tư trong nước và phải bù
đắp thông qua các nguồn tài chính khác. Nhóm cuối trong ASEAN là các nước
Lào, Campuchia và Mianma có tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư nội địa khá thấp và tiết
kiệm cũng thường thiết hụt lớn so với đầu tư.
Bảng 1.7: Mức độ phát triển thị trường vốn ở các nước ASEAN, 1996 - 2000, %
Nước Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 2000
Singgapo Tín dụng ngân hàng 99,1 102,2 110,3 103,6 96,9
Trái phiếu/GDP 20,2 22,1 23,3 30,3 31,1
Giá trị cổ phiếu/GDP 201,5 229,9 173,5 298,1 252,9

Malaixia Tín dụng ngân hàng 90 102,8 109,5 108 101,4
Trái phiếu/GDP 46,9 47,3 49 57,3 62,1
Giá trị cổ phiếu/GDP 317,1 133,4 132,2 184 130,4
Thái Lan Tín dụng ngân hàng 105 127 113,2 111,2 94,2
Trái phiếu/GDP 11,2 11,5 20,3 30,1 33,4
Giá trị cổ phiếu/GDP 53,1 23,1 26,8 43,7 26,2
Philippin Tín dụng ngân hàng 51,6 58,4 50,3 45,5 44
Trái phiếu/GDP 0,3 0,2 0,6 0,9 1,1
Giá trị cổ phiếu/GDP 97,7 51,6 51,3 65,1 78,1
Líp: CLC - K55 - Khoa Địa lý Trường ĐHSP Hà Nội
13
Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
Inđônêxia Tín dụng ngân hàng 55 60,2 51 20,3 20,8
Trái phiếu/GDP 1,8 2,5 1,5 1,4 1,7
Giá trị cổ phiếu/GDP 40,6 25,6 18,4 40,7 20,1
Nguồn: Trích lại từ V.T.Thành (2004)
Bảng 1.8: Chênh lệch giữa tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư trong GDP của các
nước ASEAN, %, giai đoạn 1996 - 2003
Nước 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2003
Singapo 12,2 11,9 17,5 16,9 17,7 21,5 32,2
Maliaxia 1,2 0,9 22 25,2 20 17,5 22,7
Thái Lan - 4,2 4,1 16 10 7,5 5,5 4
Philippin - 5,6 - 6,1 - 2,6 0,9 4,1 5,5 8
Inđônêxia - 0,6 - 0,3 9,7 8 7,8 8,5 6,2
Việt Nam - 10,5 - 6,5 - 4,7 4,1 1,6 1,5 - 3,1
Nguồn: Asian Development Outloock, 2002, 2003.
1.2.1.7 Chênh lệch về khả năng cạnh tranh
Bảng 1.9: Xếp hạng năng lực cạnh tranh (tăng trưởng) quốc gia của
một số thành viên ASEAN giai đoạn 1999 - 2004
Nước 1999 2000 2001 2002 2003 2004

Singapo
1/53 2/59 4/75 4/80 6/102 7/104
Malaixia
16/53 24/59 30/75 27/80 29/102 31/104
Thái Lan
30/53 30/59 33/75 31/80 32/102 34/104
Philippin
33/53 36/59 48/75 63/80 66/102 76/104
Inđônêxia
37/53 43/59 64/75 69/80 72/102 69/104
Việt Nam
48/53 52/59 60/78 62/80 60/102 77/104
Nguồn: WEF, The Global Competitiveness Report các năm khác nhau
Chênh lệch phát triển giữa ASEAN-6 và các nước CLMV còn thể hiện ở
bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế quốc dân do WEF thực hiện,
thứ hạng cạnh tranh của các nước thay đổi hàng năm. Theo bảng xếp hạng này thì
Singapo có thứ hạng cao nhất trong ASEAN và nằm trong số những nước có thứ
hạng cạnh tranh cao nhất thế giới, các nước ASEAN cũ khác được xếp hạng từ 30
cho đến 64 vào năm 2001, so với năm 1999, năng lực cạnh tranh của các nước
ASEAN nhìn chung đều giảm. Các nước CLMV được đánh giá có năng lực cạnh
tranh rất thấp, điều này cho thấy mức độ chênh lệch về khả năng cạnh tranh của
các nước CLMV thấp trên cả thị trường trong nước và ngoài nước. Hơn nữa, các
nước ASEAN cũ đều là thành viên của WTO và có quan hệ hợp tác nhiều mặt với
Líp: CLC - K55 - Khoa Địa lý Trường ĐHSP Hà Nội
14
Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
Mỹ, nên thị trường xuất khẩu của các nước ASEAN cũ khá rộng chứ không bó
hẹp trong khu vực và ít phụ thuộc vào các nước ASEAN mới. Các nước CLMV
sẽ gặp nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế khi mà xuất khẩu là động lực và
chịu tác động của nhiều thách thức.

Trong thời kì 1999 - 2004, Singapo luôn nằm trong tốp những nền kinh tế có
sức cạnh tranh lớn nhất trong khi Việt Nam, Philippin và Inđônêxia lại thuộc nhóm
gần cuối bảng. Đáng lưu ý hơn, trừ trường hợp của Singgapo, sức cạnh tranh của đa
số các nước thành viên ASEAN đều được cải thiện một chút trong giai đoạn 1999 -
2004. Tuy vậy, xét trên góc độ sức cạnh tranh, bản thân nội khối ASEAN đã tồn tại
những khoảng cách rất lớn về sức cạnh tranh quốc gia, nhìn ra bên ngoài có thể thấy
ASEAN đang mất dần sức cạnh tranh của mình so với các nền kinh tế khác.
1.2.1.8 Chênh lệch về năng suất nhân tố tổng hợp
Năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) là chỉ tiêu tổng hợp đánh giá năng suất và
hiệu quả của nền kinh tế. Ở một mức độ nhất định, chỉ tiêu này cho thấy chênh lệch về
năng suất giữa các nước thành viên ASEAN và giữa 2 nhóm nước thành viên cũ và
mới. Bảng 1.10 cho thấy chênh lệch về năng suất giữa các nước thành viên ASEAN
và giữa hai nhóm nước thành viên ASEAN mới và cũ. Tốc độ tăng năng suất nhân tố
tổng hợp (TFP) của các nước ASEAN của các nước ASEAN cũ đạt khá so với tiêu
chuẩn quốc tế và cao hơn so mới các nước CLMV, cho thấy năng suất, chất lượng và
hiệu quả trong sản xuất của ASEAN cũ cao hơn so với ASEAN mới. Năng suất tính
theo lao động thực tế đóng góp vào GDP cũng khá chênh lệch trong bản thân các nước
ASEAN cũ, năng suất của Singapo gấp hơn 5 lần của Philipin, khoảng 4 lần của Thái
Lan và Inđônêxia. Còn so với các nước ASEAN mới, con số bình quân tương ứng của
các nước ASEAN cũ cao gấp 3 - 5 lần của các nước CLMV.
Bảng 1.10: Tốc độ tăng TFP
Nước
Young
(1994 và 1995)
Collins và
Bosworth, 1996
Sarel, 1997
Điều chỉnh của
Young
Brunây - - - -

Inđônêxia 1,2 0,8 1,2 -
Malaysia 1,1 0,9 2,0 -
Philipin - - 0,4 - 0,8 -
Singapo 0,2 1,5 2,2 1,0
Thái Lan 1,5 1,8 2,0 1,9
Việt Nam - - - -
Lào - - - -
Líp: CLC - K55 - Khoa Địa lý Trường ĐHSP Hà Nội
15
Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
Campuchia - - - -
Mianma - - - -
Nguồn: Tạp chí Những vấn đề Kinh tế Thế giới 2/2005.

Như vậy, xét trên khía cạnh các chỉ số kinh tế cơ bản như thu nhập bình
quân đầu người, cơ cấu kinh tế, độ mở của của nền kinh tế, mức độ phát triển của
thị trường vốn, tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư, khả năng cạnh tranh, giữa các nước
ASEAN có mức độ chênh lệch phát triển khá lớn. Các nước thành viên của
ASEAN nằm ở 3 mức độ phát triển khác nhau: nhóm 1 gồm Singapo và Brunây
đạt trình độ của các nước phát triển; nhóm thứ 2 là các nước tương đối phát triển
(với các chỉ số phát triển ít nhiều cao hơn Trung Quốc); nhóm 3 là các nước kém
phát triển nhất (CLMV). Hơn nữa, bên cạnh sự chênh lệch phát triển lớn, không
có dấu hiệu cho thấy các nước ASEAN tốp sau đuổi kịp các nước tốp trên. Chênh
lệch phát triển giữa các nước ASEAN xét trên khía cạnh các chỉ số cơ bản được
quyết định bởi chênh lệch về năng suất lao động tổng thể, đến lượt nó, chênh lệch
này lại được quyết định bởi một loạt các nhân tố như chênh lệch phát triển cơ sở
hạ tầng và công nghệ, về phát triển xã hội và về năng lực thể chế, Ngoài ra các
nước kém phát triển thuộc nhóm 3 có trình độ phát triển còn thấp do nhiều
nguyên nhân khác như chiến tranh kéo dài, cơ chế kinh tế méo mó…
1.2.2 Chênh lệch phát triển cơ sở hạ tầng và công nghệ

Chênh lệch về phát triển cơ sở hạ tầng giữa các nước ASEAN có thể thấy
thông qua hàng loạt các chỉ số như điện và giao thông vận tải.
Bảng 1.11: So sánh cơ sở hạ tầng trong ASEAN, cách tính điểm
từ 1 (thấp nhất) đến 5 (cao nhất), 1999
Nước Sân bay Cảng biển Giao thông Điện lực Viễn thông Bình quân
Brunây
3,3 3,0 3,3 3,6 3,5 3,3
Inđônêxia
3,0 2,4 2,3 2,6 2,7 2,6
Malaysia
3,1 3,1 2,7 2,6 3,2 2,9
Philipin
2,3 2,5 1,9 2,2 2,7 2,3
Singapo
4,9 4,9 4,6 4,4 4,7 4,7
Thái Lan
3,1 3,1 1,6 2,7 3,0 2,6
Việt Nam 1,9 2,4 1,9 1,9 2,2 2,0
Lào 1,5 1,5 1,5 1,7 1,5 1,5
Campuchia 1,6 1,5 1,8 1,4 1,4 1,5
Mianma
1,6 2,0 1,6 1,4 1,4 1,5
Nguồn: Daily Economic News, Taiwan, 14/8/1997. Trích lại từ: Tạp chí Những vấn đề Kinh
Líp: CLC - K55 - Khoa Địa lý Trường ĐHSP Hà Nội
16
Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
tế Thế giới 2/2005.
Bảng 1.11 cho thấy chênh lệch về phát triển cơ sở hạ tầng trong các nước
ASEAN, nếu tính theo thang điểm 5 là cao nhất, thì bình quân cơ sở hạ tầng của
các nước ASEAN cũ tốt hơn gấp 2 lần so với các nước CLMV; Singapo là nước

có hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển nhất ASEAN so với Việt Nam nước có hệ
thống cơ sở hạ tầng tốt nhất trong số các nước CLMV thì khoảng cách là gần 3
lần. Cơ sở hạ tầng lạc hậu cùng với hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ và dễ thay
đổi đã hạn chế dòng đầu tư nước ngoài vào ASEAN mới. Điều này làm tăng thêm
khoảng cách chênh lệch phát triển kinh tế giữa 2 nhóm nước trong ASEAN.
Đến 2005, tuy hạ tầng cơ sở và công nghệ ở CLMV đã đạt đực những thành tựu
đáng kể song mức độ chênh lệch với ASEAN - 6 vẫn còn chưa cải thiện được nhiều.
1.2.2.1. Điện
Mặc dù các nước ASEAN đã có thể đáp ứng được nhu cầu trong nước về
điện, nhưng khả năng sản xuất của các nước rất khác nhau và đang còn ở mức thấp
so với các nước có thu nhập cao và các nước thuộc khu vực Đông Á và Thái Bình
Dương… Sản lượng điện bình quân đầu người của Mianma thấp hơn Việt Nam tới 4
lần. Trong khi đó, sản lượng điện bình quân đầu người của Việt Nam lại thấp hơn
của Inđônêxia (nước có chỉ số này thấp nhất trong nhóm 4 nước Singgapo, Malaixia,
Thái Lan) tới 1,3 lần và thấp hơn Singapo - nước có mức cung cấp điện năng theo
đầu người cao nhất trong 4 nước trên - đến hơn 24 lần (1999). Mức cung cấp điện
năng tính theo đầu người của Singapo cũng thấp hơn so với mức trung bình của các
nước có thu nhập cao tới hơn 1,3 lần (1999). Ngoài ra, mặc dù nguồn cung cấp điện
năng của các nước ASEAN rất đa dạng và có xu hướng giảm phụ thuộc vào dầu mỏ,
tăng sử dụng khí đốt tự nhiên, nhưng các nước như Việt Nam, Mianma và Philippin
còn phụ thuộc nhiều vào thuỷ điện và than đá.
Bảng 1.12: Điện - Sản lượng và các nguồn cung cấp
Tên nước Sản lượng điện Các nguồn cung cấp (% trên tổng số)
1980 1990 2002 Thuỷ điện Than đá Dầu mỏ Khí đốt Nguyên tử
1980 1999 1980 1999 1980 1999 1980 1999 1980 1999
Inđônêxia
8,4 84,3 111,8 16,0 11,1 … 30,1 84,0 19,0 … 36,5 … …
Malaixia
10,0 65,2 75,3 13,9 11,5 … 2,5 84,9 8,3 1,2 77,6 … …
Mianma

1,5 4,8 … 53,5 15,9 2,0 … 31,3 16,1 13,2 68,0 …
Philippin
18,0 41,3 48,7 19,6 19,0 1,0 27,1 67,9 28,3 … 0,0 … …
Líp: CLC - K55 - Khoa Địa lý Trường ĐHSP Hà Nội
17
Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
Singapo
7,0 29,4 34,6 … … … 100,0 77,8 … 19,7 … …
Thái Lan
14,4 90,1 108,4 8,8 3,6 9,8 18,3 81,4 17,8 9,9 59,2 … …
Việt Nam
3,6 23,6 41,1 41,8 58,5 39,9 12,4 18,3 13,9 0,4 15,3 … …
Đông Á –
TBD
428,8
1946,1 … 21,6 14,7 42,5 61,9 34,4 6,5 0,2 9,6 0,8 6,4
Nam Á
138,5
614,6 … 41,6 17,9 44,1 64,6 6,3 5,3 5,9 9,9 2,2 2,2
Nguồn: WB (2002). ADB (5/2004)
1.2.2.2 Giao thông vận tải
Cơ sở hạ tầng giao thông vận tải gồm mạng lưới đường bộ, đường sắt, các
bến cảng, các tuyến đường sông và biển, các sân bay và hệ thống kiểm soát các
chuyến bay và tất cả các dịch vụ liên quan.
Bảng 1.13: Tổng trọng tải đội tàu biển theo đăng kí dưới quốc hiệu của
các nước ASEAN, giai đoạn 1980 - 2000 (Đơn vị: GRT)
Nước 1980 1990 1995 2000
% thay đổi trung bình năm
1980 -
1990

1990 -
1995
1995 -
2000
ASEAN 2427 22069 31800 42407 6,1 71 5,9
Brunây - 3582771 366 362 - 0,4 - 0,2
Campuchia - - 60 1447 - - 189,0
Inđônêxia
1412 2179 2771 3384 4,4 4,9 4,1
Malaixia
702 1718 3283 5325 9,4 13,8 10,2
Mianma 88 827 523 446 25,1 - 8,8 0,9
Philippin 1928 8515 8744 7002 16,0 0,5 - 3,1
Singapo 7884 7928 13661 21491 0,3 11,4 9,6
Thái Lan
392 615 1743 1945 4,6 23,2 2,2
Việt Nam
241 470 700 1002 6,9 8,3 7,4
Thế giới 419911 423627 490662 558054 0,1 3,0 3,3
Nguồn: Tạp chí Những vấn đề Kinh tế Thế giới 2/2005. Nguyễn Duy Lợi – Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới.
Sự chênh lệch về phát triển giao thông đường bộ giữa các nước ASEAN thể
hiện khá rõ nét. Những nước có tiềm lực kinh tế lớn hơn như Singapo, Malaixia và
Thái Lan có mạng lưới giao thông không những dày đặc hơn mà tỷ lệ đường được
trải nhựa cũng cao hơn và hệ thống đường cao tốc cũng dài hơn. Tỷ lệ đường được
trải nhựa và đường cao tốc ở Singapo, Malaixia, Inđônêxia là 100% và 1.500km;
76% và 9000km; 40% và 660km (theo thứ tự) thì ở Việt Nam - nước có hệ thống
đường bộ tốt nhất trong CLMV - các con số này là 25% và rất ít đường cao tốc.
Loại phương tiện sử dụng chủ yếu trong tham gia giao thông ở các nước ASEAN là
xe môtô, tiếp đến là xe chở khách và cuối cùng là xe chở hàng hoá.
Líp: CLC - K55 - Khoa Địa lý Trường ĐHSP Hà Nội

18
Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
Mạng lưới giao thông đường sắt ở các nước ASEAN được phát triển
chậm hơn so với giao thông đường bộ, một số nước còn không có hệ thống
đường sắt như Lào, Brunây. Tuy nhiên, do sự phát triển mạng lưới giao thông
đường sắt trong mỗi nước không chỉ phụ thuộc vào năng lực tài chính mà còn
phụ thuộc vào yếu tố địa hình của các quốc gia. Do đó việc đánh giá sự chênh
lệch về mạng lưới giao thông đường sắt không chỉ dựa vào số km đường sắt
mà cần phải xem xét một số chỉ tiêu khác như số hành khách, hàng hoá luân
chuyển được, số đầu máy đang được vận hành.
Chênh lệch phát triển trong giao thông đường biển giữa các nước ASEAN là
rõ nét nhất. Ngoại trừ Lào không có đường biển, tổng trọng tải đăng kí của các đội
tàu biển mang quốc hiệu của tất cả các nước ASEAN đều gia tăng, chiếm 7,6% tổng
trọng tải đăng kí của toàn thế giới. Tuy nhiên, tốc độ gia tăng giữa các nước không
đồng đều. Campuchia có tốc độ gia tăng cao nhất vào giai đoạn 1995 - 2000, do
nước này thực hiện chính sách mở của, đón nhận sự tham gia của các tàu biển nước
ngoài. Đội tàu biển của Singapo có trọng tải trung bình lớn nhất – 15000 GRT, đồng
thời là đội tàu trẻ nhất – trên 10 năm tuổi. Các nước còn lại có trọng tải trung bình
đăng kí khoảng 4000 GRT, tức thấp hơn mức trung bình của toàn ASEAN (khoảng
5000 GRT) và tuổi thọ trung bình trên 20 năm. Riêng đội tàu của Việt Nam có tuổi
thọ trung bình là 15 năm song trọng tải trung bình thấp, chỉ bằng 1/10 của Singapo.
Đường hàng không của các nước ASEAN có sự khác nhau về năng lực vận
chuyển hành khách và hàng hoá cũng như mức độ hiện đại của hệ thống sân bay.
Xét theo các chỉ tiêu như số chuyến bay đăng kí cất cánh, số lượng hành khách và
hàng hoá vận chuyển, Singapo là nước đứng đầu, sau đó đến Malaixia, Thái Lan,
Inđônêxia, Philippin và đứng cuối cùng là nhóm các nước CLMV.
1.2.2.3. Thông tin viễn thông và năng lực công nghệ
Bảng 1.14: Mức độ tiếp cận thông tin và tin học ở ASEAN
Nước Số tivi/1000 dân Số máy tính/1000 dân
Số người sử dụng Internet/

1000dân (1997)
Brunây - - -
Inđônêxia 134 8 420
Malaysia 166 46,1 46,1
Philipin 109 13,6 1000
Singapo 354 400 141200
Thái Lan 234 19,8 1950
Việt Nam 180 4,6 -
Líp: CLC - K55 - Khoa Địa lý Trường ĐHSP Hà Nội
19
Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
Lào 4 1,1 -
Campuchia 124 0,9 -
Mianma 7 - -
Nguồn: Tạp chí Những vấn đề Kinh tế Thế giới 2/2005. ThS. Nguyễn Duy Lợi – Viện Kinh
tế và Chính trị Thế giới.
Theo WB, các chỉ số thông tin, khoa học và công nghệ, năng lượng và viễn
thông giữa các nước ASEAN vẫn đang tồn tại khoảng cách khá lớn. Xét theo tiêu
chí này, Có thể chia ASEAN thành 3 cấp độ phát triển khác nhau: Dẫn đầu là
Singapo, Malaixia, tiếp đến là Thái Lan, Philippin, Inđônêxia và sau cùng là các
nước CLMV. Trong các nước CLMV, tỷ lệ tivi trên 1000 dân vẫn chưa vượt qua
mức 5% và tỷ lệ này thấp hơn 10 lần so với các nước ASEAN - 6.
Mức chênh lệch về tỷ lệ máy tính và số người sử dụng internet trên 1000
dân giữa 2 nhóm nước còn cao hơn nhiều. Khoảng cách về số giữa các nước
thành viên cũ và mới của ASEAN làm tăng hố ngăn cách về phát triển giữa các
nước này. Do đó, cùng với việc phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân
lực, thúc đẩy hội nhập kinh tế khu vực, khuyến khích phát triển công nghệ thông
tin, viễn thông là một trong những ưu tiên phát triển giữa các nước CLMV và sáu
nước thành viên cũ.
Như vậy xét trên khía cạnh cơ sở hạ tầng và công nghệ, giữa các nước

ASEAN đang có chênh lệch đáng kể, đặc biệt giữa 2 nhóm nước ASEAN cũ và
mới. Chênh lệch này được quyết định bởi sự khác biệt trong xuất phát điểm của
từng nước, khả năng kinh tế và định hướng phát triển của các chính phủ trong
lĩnh vực này. Trong đó, đáng lưu ý nhất là vai trò của chính phủ và khu vực tư
nhân trong việc phát triển cơ sở hạ tầng và năng lực công nghệ. Ở những nước
CLMV, ngoại trừ Việt Nam, độc quyền nhà nước trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng,
cụ thể là trong ngành năng lượng và viễn thông đã khiến cho sự cạnh tranh bị hạn
chế và các dòng vốn tư nhân chảy vào khu vực chủ yếu dưới hình thức phân chia
lại lợi nhận và hợp đồng liên doanh với các doanh nghiệp nhà nước.
1.2.3 Chênh lệch phát triển xã hội
Chênh lệch về phát triển xã hội trong ASEAN được thể hiện thông qua chênh
lệch về phát triển con người, đói nghèo, phân phối thu nhập; sự khác biệt trong môi
trường địa – văn hoá dân tộc; sự khác biệt về thể chế. Chênh lệch phát triển không
chỉ thể hiện qua sự cách biệt giữa 2 nhóm nước mà còn thể hiện khá rõ nét trong mỗi
nước thành viên ASEAN. Trong bối cảnh toàn cầu hoá và sự phụ thuộc lẫn nhau
ngày càng tăng, nghèo đói và bất bình đẳng cao trong một nước thành viên ASEAN
Líp: CLC - K55 - Khoa Địa lý Trường ĐHSP Hà Nội
20
Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
có thể trở thành nhân tố tiềm ẩn đe doạ an ninh kinh tế không chỉ của bản thân nước
đó mà còn có thể lan truyền sang các nước thành viên khác.
1.2.3.1 Chênh lệch về phát triển con người
a. Chỉ số phát triển con người
Bảng 1.15: Xếp hạng chỉ số phát triển con người (HDI) và chỉ số phát
triển liên quan đến giới (GRDI), 1997
Nước HDI GDRI
Brunây 38 -
Inđônêxia 99 86
Malaysia 60 45
Philipin 98 81

Singapo 26 27
Thái Lan 59 39
Việt Nam 121 101
Lào 136 114
Campuchia - -
Mianma 131 110
Nguồn: Nguyễn Duy Lợi – Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới. Tạp chí Những vấn đề Kinh
tế Thế giới 2/2005.
Chỉ số phát triển con người (HDI) là chỉ số tổng hợp bao gồm cả tuổi thọ
bình quân, mức sống và mức độ giáo dục, Chương trình Phát triển của Liên hợp
quốc (UNDP) tính toán và xếp hạng cho thấy sự chênh lệch phát triển khá rõ giữa
các nước thành viên ASEAN cũng như giữa 2 nhóm nước. Trong số các nước
ASEAN cũ, Singapo xếp thứ 26, cao nhất và thấp nhất là Inđônêxia xếp thứ 99.
Còn các nước CLMV xếp trong khoảng 121 đến 136. Việt Nam được đánh giá là
có chỉ số HDI cao so với trình độ phát triển kinh tế. Tuy vậy, nhìn chung chênh
lệch về chỉ số HDI bình quân giữa các nước ASEAN cũ và các nước CLMV là
khoảng hơn 50 bậc, và là hơn 100 bậc so với Singapo. Chênh lệch về giới trong
phát triển thể hiện qua chỉ số GRDI cũng khá rõ nét giữa các nước ASEAN với
nhau, đặc biệt là giữa 2 nhóm nước.
Các yếu tố cấu thành chỉ số HDI như tuổi thọ trung bình, trình độ học vấn
và thu nhập bình quân đầu người đều cho thấy mức độ chênh lệch về phát triển
lớn giữa các nước ASEAN cũ và mới.
Líp: CLC - K55 - Khoa Địa lý Trường ĐHSP Hà Nội
21
Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
Về tuổi thọ trung bình, trong năm 2002, Singapo và Brunây là 2 nước có
tuổi thọ trung bình cao nhất khu vực; Lào, Mianma là 2 nước có tuổi thọ trung
bình thấp nhất khu vực.
Bảng 1.16: Tuổi thọ trung bình của các nước ASEAN, 2002
Tên nước Tuổi thọ trung bình (tuổi)

Singapo 78
Brunây 76,2
Malaixia 73
Phippin 69,8
Thái Lan 69,1
Việt Nam 69
Inđônêxia 66,6
Campuchia 57,4
Mianma 57,2
Lào 54,3
Nguồn: Humam Development Indicatos, 2003.
Bảng 1.17: Tỷ lệ tham gia giáo dục các cấp, 1990
Nước
Tỷ lệ tham gia các cấp học
Tiểu học Trung học Đại học
Brunây
- - -
Inđônêxia
97 42 10
Malaysia
91 58 7
Philipin
110 71 28
Singapo
111 69 12
Thái Lan
98 38 19
Việt Nam
98 69 19
Lào

- - -
Campuchia
- - -
Mianma
- - -
Líp: CLC - K55 - Khoa Địa lý Trường ĐHSP Hà Nội
22
Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
Nguồn: Tạp chí Những vấn đề Kinh tế Thế giới 2/2005
So với năm 1990 thì đến năm 2002, tỷ lệ biết chữ ở các nước ASEAN đã
tăng lên đáng kể, đều trên 80% (trừ 2 nước là Lào và Campuchia).
Bảng 1.18: Tỷ lệ biết chữ trên 15 tuổi ở các nước ASEAN, 2002.
Tên nước Tỷ lệ biết chữ trên 15 tuổi (%)
Lào
66,4
Campuchia
69,4
Mianma
85,3
Inđônêxia
87,9
Việt Nam
88,7
Singapo
90,3
Philippin
92,5
Thái Lan
92,6
Brunây

93,9
Nguồn: Tạp chí Những vấn đề Kinh tế Thế giới 2/2005
Về phổ cập giáo dục cấp 1 và cấp 2 thì ngoài Singapo và Brunây thì Việt
Nam và Malaixia là 2 nước có tỷ lệ trẻ em học hết cấp 1 và cấp 2 cao nhất (95%
đối với cấp 1 và 65% đối với cấp 2). Tuy nhiên, tại tất cả các nước, tỷ lệ biết chữ
chỉ tập trung cao tại khu vực thành thị, còn ở những nơi vùng sâu vùng xa, do
điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, cơ sở vật chất thiếu thốn nên số người
không biết chữ vẫn còn nhiều.
Bảng 1.19: Tỷ lệ lực lượng lao động có trình độ trung học và thất nghiệp.1998
Nước
Tỷ lệ lực lượng lao động
có trình độ trung học
Tỷ lệ thất nghiệp
Brunây - -
Inđônêxia 52,7 4,68
Malaysia 58,4 4,1
Philipin 56,5 8,7
Singapo 71,3 1,7
Thái Lan 83 2,2
Việt Nam 71 15
Lào - 12
Campuchia - 19
Mianma - -
Nguồn: WEF, The Global Competitiveness Report, 1998, trang 294
Tỷ lệ người đã qua giáo dục tiểu học ở các nước ASEAN cũ cao hơn so với
Líp: CLC - K55 - Khoa Địa lý Trường ĐHSP Hà Nội
23
Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
các nước ASEAN mới, trừ Việt Nam - gần tương đương mức các nước ASEAN
cũ. Tuy nhiên, chất lượng giáo dục còn nhiều hạn chế do chưa chuẩn hoá theo

khu vực và quốc tế và chưa phát huy sự sáng tạo của học sinh. Tỷ lệ thất nghiệp
của các nước CLMV cao hơn các nước ASEAN cũ. Thất nghiệp cao đi liền với
việc thiếu các chính sách trợ cấp thất nghiệp ở các nước CLMV là một nguy cơ
tiềm ẩn đe doạ bất ổn định kinh tế - xã hội, và vì vậy đe doạ an ninh kinh tế.
Vẫn còn tồn tại một sự chênh lệch về nguồn nhân lực xét về nghề nghiệp và
thu nhập trong khu vực Đông Nam Á. Sự chênh lệch về nguồn nhân lực ở ASEAN
là một phần thể hiện sự chênh lệch về trình độ học vấn của người dân. Nếu tỷ lệ
tuyển sinh tiểu học, trung học và đại học của một quốc gia được thể hiện qua một
tháp tài năng thì tháp tài năng của hầu hết các quốc gia ASEAN sẽ giống như hình
tam giác, trong đó đỉnh tháp này rất nhọn. Một quốc gia có trình độ phát triển nguồn
nhân lực cao sẽ có phần đỉnh rộng hơn giống như hình thang.
Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến những chênh lệch lớn về
tuổi thọ trung binh và trình độ học vấn ở các nước ASEAN là mức chi tiêu khác
nhau của chính phủ đối với hệ thống y tế, giáo dục.
b. Chỉ số phát triển liên quan đến giới (GDI)
Bảng 1.20: Chỉ số GDI, tuổi thọ trung bình, tỷ lệ biết chữ trên 15 tuổi
(%), thu nhập bình quân trên người và thứ hạng HDI - thứ hạng GDI, 2004
Nước
GDI
Tuổi thọ
trung bình
Tỷ lệ biết chữ
trên 15 tuổi
(%)
Thu nhập PPP
USD/người
Thứ hạng
HDI - thứ
hạng GDI
Thứ

hạng
Giá
trị
Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam
Singapo
28 0,884 80,2 75,8 88,6 96,6 15822 31927 - 3
Brunây
78,8 74,1 91,4 96,3 -
Malaixia
52 0,786 75,6 70,7 85,4 94,9 5219 13157 - 1
Thái Lan
61 0,766 73,4 65,2 90,5 94,9 5284 8664 1
Philippin
66 0,751 71,9 67,9 92,7 92,7 3144 5326 3
Inđônêxia
90 0,685 68,6 64,6 83,4 92,5 2138 4161 - 1
Việt Nam
87 0,689 71,4 66,7 86,9 93,9 1888 2723 3
Mianma
- - 60,1 54,5 81,4 89,2 - - -
Lào
107 0,528 55,6 53,1 55,5 77,4 1358 2082 0
Campuchia
105 0,557 59,5 55,2 59,3 80,8 1622 2117 - 1
Nguồn: UNDP, 2004
Líp: CLC - K55 - Khoa Địa lý Trường ĐHSP Hà Nội
24
Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
Đây là chỉ số đánh giá những thành tựu đạt được trong cùng một thước đo
với cùng một chỉ số như HDI nhưng có tính đến sự khác biệt về giới. Mức độ bất

bình đẳng càng lớn thì chỉ số GDI càng thấp so với chỉ số HDI. Mặc dù trong
những năm gần đây, mức độ bất bình đẳng về giới ở các nước ASEAN đang được
thu hẹp nhưng chênh lệch giữa các nước vẫn rất lớn. Năm 2002, Singapo là
Brunây có mức bất bình đẳng thấp nhất, tương ứng là 0,884 và 0,867. Tiếp sau đó
là các nước Mailaixia, Thái Lan và Philippin với các chỉ số từ 0,786 đến 0,751.
Việt Nam và Inđônêxia đạt mức 0,689 và thấp nhất là 2 nước Lào và Campuchia
với các chỉ số là 0,557 và 0,528. Đặc biệt, các nước Thái Lan, Việt Nam và
Philippin có thứ hạng GDI lớn hơn thứ hạng HDI, Lào là nước có 2 chỉ số bằng
nhau, các nước còn lại có thứ hạng GDI nhỏ hơn thứ hạng HDI.
d. Chỉ số nâng cao năng lực của giới (GEM)
Bảng 1.21: Chỉ số GEM của các nước ASEAN, 2002.
Nước
GEM
Tỷ lệ phụ nữ
trong quốc
hội (% trong
tổng số ghế)
Tỷ lệ phụ nữ
trong ngành
luật, công chức
và quản lí
Tỷ lệ phụ
nữ làm
giáo viên,
cán bộ kỹ
thuật
Tỷ số
giữa thu
nhập của
nữ/nam

Thứ
hạng
Giá
trị
Singapo
20 0,648 16 26 43 0,5
Brunây
- - - - - -
Mailaixia
44 0,519 16,3 20 45 0,4
Thái Lan
57 0,461 9,6 27 55 0,61
Philippin
37 0,542 17,2 58 62 0,59
Inđônêxia
- - 8,0 - - 0,51
Việt Nam
- - 27,3 - - 0,69
Campuchia
69 0,364 10,9 14 33 0,77
Mianma
- - - - - -
Lào
- - 22,9 - - 0,65
Nguồn: UNDP, 2004
Cũng giống như chỉ số HDI nhưng có tính đến sự tham gia của phụ nữ vào
các hoạt động kinh tế, xã hội và chính trị. Nhìn vào bảng số liệu trên, Singapo vẫn
Líp: CLC - K55 - Khoa Địa lý Trường ĐHSP Hà Nội
25

×