Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Tiểu luận mác lê nin 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.6 KB, 12 trang )

ĐẠI HỌC DUY TÂN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
******
BÀI TIỂU LUẬN MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA
CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN 1

TÊN ĐỀ TÀI:
TÌM HIỂU MỘT SỐ BIỂU HỆN, HÀNH ĐỘNG TRÁI QUY LUẬT
KHÁCH QUAN VÀ HẬU QUẢ CỦA NÓ

Người hướng dẫn

: Trịnh Đình Thanh

Sinh viên thực hiện : Đặng Quang Đại
Mã sinh viên

: 2321725067

Lớp

: PHI 161BB

Đà Nẵng, tháng 02 năm 2019


MỤC LỤC


A/ MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài:



Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan. Bản chất của nhận thức
chính là sự phản ánh thế giới hiện thực khách quan vào óc người và được tái tạo trong
đó một cách tích cực, năng động và sáng tạo.
Nhận thức là một hoạt động đặc trưng của con người nhưng sự xuất hiện và bản
chất của nó chỉ có thể hiểu được một cách đúng đắn trong mối quan hệ của nó với hoạt
động thực tiễn. Nói cách khác, nhận thức nảy sinh, tác động và phát triển như là một
điều kiện cần thiết cho hoạt động thực tiễn của con người.
Đây là một trong những cách hướng đến triết học ứng dụng- triết học đặt ra và
định hướng giải quyết những nội dung không chỉ liên quan đến những vấn đề chung
nhất có tình toàn cầu mà còn liên quan đến cả những vấn đề do cuộc sống nghề
nghiệp, cuộc sống đời thường của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng đặt ra.
Theo thực trạng ở xã hội hiện đại ngày nay vẫn còn một số người bảo thủ vẫn
theo những tư tưởng quan điểm cực đoan từ bỏ những nguyên tắc cơ bản của chủ
nghĩa Mac- Lenin, phủ định sạch mọi giá trị của chủ nghĩa xã hội, làm cho con người
hiện đại đi theo hướng tiêu cực và đưa ra hậu quả đáng tiếc.
Căn cứ vào tình hình thực tế đó, tôi đã quyết định chọn đề tài tiểu luận tiết học
là :” Tìm hiểu một số hoạt động trái quy luật khách quan và hậu quả của nó” đề tài này
có nội dung tương đối tổng quát với chủ nghĩa Mác – Lenin, có tính lý luận triết học
cao, mang tính chất thực tiễn và khoa học đặc biệt là trong xã hội tư duy logic.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:

Vì đề tài mang tính chất theo môn nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lenin
nên tôi nghĩ cần đạt được các mục đích sau:

o
o

o


Đối với cá nhân :
Củng cố những kiến thức cơ bản của chủ nghĩa Mac- Lenin ở bậc Đại Học
Rèn luyện kĩ năng nghiên cứu khoa học
Đối với nội dung đề tài :
Tìm hiểu các hành vi trái quy luật khách quan và nêu rõ hậu quả của nó
Cơ sở lí luận của đề tài.

3


B/ NỘI DUNG:
CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI:
1. Quan điểm, phạm trù duy vật biện chứng giữa vật chất và ý thức:
1.1.
Vật chất:
a. Khái niệm vật chất :
Vật chất là phạm trù triết học phức tạp nhau về nó. Nhưng theo Lênin định nghĩ
triết học dùng để chỉ thực tại khách quan cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép
tại không lệ thuộc vào cảm giác".
b. Các phương thức và hình thức tồn tại của vật chất :
Vật chất tồn tại dưới các hình thức vô cùng đa dạng. Lênin đã từng viết: “ trong
thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận động và vận động của vật chất không thể
vận động ở đâu khác ngoài không gian và thời gian” . Vận động là phương thức tồn tại
của vật chất, sự phân chia các hình thức vận động chỉ mang tính tương đối, tuy nhiên
giữa chúng có sự thống nhất với nhau. Dựa vào trình độ tổ chức của các hệ thống vật
chất, có các hình thức vận động cơ bản: vận đông cơ học, vận động vật lí, vận động
hóa học, vận động sinh học và hình thức vận động cao nhất và phức tạp nhất là vận
động xã hôi. Vận động không do ai sáng tạo ra và không thể tiêu diệt được, do đó vận
động được bảo toàn cả về số lượng lẫn chất lượng. khoa học đã chứng minh được rằng
nếu một hình thức vận động nào đó của sự vật nhất định mất đi thì tất yếu nảy sinh

một hình thức vận động khác thay thế nó. Các hình thức vận động chuyển hóa lẫn
nhau, còn vận động của vật chất nói chung thì vĩnh viễn tồn tại cùng với sự tồn tại
vĩnh viễn của vật chất. Khi khẳng định thế giới vật chất tồn tại trong sự vận động vĩnh
cửu của nó thì điều đó không có nghĩa là phủ nghĩa hiện tượng đứng yên tương đối.
Không có hiện tượng này thì không có sự phân hóa thế giới vật chất thành các sự vật,
hiện tượng phong phú và đa dạng. Ăngghen đã khẳng định rằng khả năng đứng im
tương đối của các vật thể, khả năng cân bằng tạm thời là những điều kiện chủ yếu của
sự phân hóa vật chất. Nếu vận động là sự biến đổi của các sự vật hiện tượng thì đứng
im là sự ổn định, là sự bảo toàn tính quy định của các sự vật hiện tượng, đứng im chỉ
thể hiện một trạng thái vận động.

4


Ý thức:

1.2.

a. Định nghĩa của ý thức:
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan củabộ óc con
người dựa trên cơ sở thực tiển là hình ảnh khách quan của thếgiới khách quan.
b. Bản chất và kết cấu của ý thức:


Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào trong đầu óc con

người
• Là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
• Là sự phản ánh năng động, sáng tạo, không phải là sự sao chép đơn giản, máy móc.
• Tính sáng tạo của phản ánh ý thức thể hiện ở chỗ ý thức có khả năng phản ánh bản

chất, quy luật của sự vật, hiện tượng; ý thức con người có khả năng biến đổi hình ảnh
(cảm tính và lý tính) của sự vật trong đầu óc của mình, tạo ra mô hình mới để từ đó


biến đổi sự vật trong hoạt động thực tiễn
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: ý thức là hình ảnh của thế giới
khách quan, do thế giới khách quan quy định cả về nội dung và hình thức biểu hiện
nhưng nó không còn y nguyên như thế giới khách quan mà đã được cải biến thông qua
lăng kính chủ quan (tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, kinh nghiệm, tri thức, nhu cầu…)
của con người
Theo C.Mác: ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu
óc con người và được cải biến đi trong đó”



Ý thức là một hiện tượng xã hội, mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý thức
gắn liền với hoạt động thực tiễn, không những chịu tác động của các quy luật sinh học
mà còn chủ yếu là các quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện
sinh hoạt hiện thực của xã hội quy định. Với tính năng động, ý thức sáng tạo lại hiện

thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.
• Trong quá trình lao động, con người tác động vào các đối tượng hiện thực, làm chúng
bộc lộ những đặc tính và quy luật vận động của mình qua những hiện tượng nhất định.
Những hiện tượng đó tác động vào bộ óc con người gây nên những cảm giác, tri giác,
biểu tượng. Nhưng quá trình hình thành ý thức không phải là do tác động thuần túy tự
nhiên của thế giới khách quan vào bộ óc con người, mà chủ yếu là do hoạt động lao
động chủ động của con người cải tạo thế giới khách quan nên ý thức bao giờ cũng là ý
thức của con người hoạt động xã hội. Quá trình lao động của con người tác động vào
thế giới đã làm cho ý thức không ngừng phát triển, mở rộng hiểu biết của con người về
5



những thuộc tính mới của sự vật. Từ đó, năng lực tư duy trừu tượng của con người dần
dần hình thành và phát triển.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát
triển của ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội. Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách
quan vào trong bộ óc con người thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội.
Ý thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội.
2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:

Để giải quyết vấn đề cơ bản của triết học Lenin đã phân biệt chủ nghĩa Duy vật
biện chứng với chủ nghĩa Duy tâm đồng thời cũng nêu lên mối quan hệ biện chứng
giữa vật chất và ý thức. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức thể hiện qua
vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức và tính độc lập tương đối, sự tác động trở
lại của ý thức đối với vật chất.
VẬT CHẤT

Ý THỨC
Tác
động lại
Quyết

a. Vật chất luôn quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức :
- Vật chất là nguồn gốc của ý thức; vật chất quyết định ý thức; ý thức là sự phản
ánh đối với vật chất.
- Vật chất quyết định sự biến đổi, phát triển của ý thức; sự biến đổi của ý thức là
sự phản ánh đối với sự biến đổi của vật chất.
- Vật chất là nhân tố quyết định phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức
trong hoạt động thực tiễn.
- Ý thức là một sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con

người.
- Trong mối quan hệ giữa người và thế giới vật chất thì con người là kết quả của
quá trình tiến hóa lâu dài của thể giới vật chất, là sản phẩm của thế giới vật chất. Đó là
nguyên do vì sao vật chất có trước ý thức có sau.

b. Ý thức có sự tác động tích cực trở lại vật chất:

6


-

Trước hết ta đưa ra định nghĩa của ý thức: ý thức là sự phản ánh sáng tạo thế giới
khách quan vào trong bộ não con người thông qua lao động mà ngôn ngữ. Nó là toàn
bộ hoạt động tinh thần của con người như: Tình cảm yêu thương, tâm trạng, cảm súc, ý
trí, tập quán, truyền thống, thói quen quan điểm, tư tưởng, lý luận, đường lối, chính

-

sách, mục đích, kế hoạch, biện pháp, phương hướng.
Các yếu tố tinh thần trên đều tác động trở lại vật chất cách mạng mẽ.
VD. Nếu tâm trạng của người công nhân mà không tốt thì làm giảm năng suất
của một dây chuyền sản xuất trong nhà máy.
Nếu không có đường lối cách mạng đúng đắn của đảng ta thì dân tộc ta cũng
không thể giảng thắng lơị trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ cũng như Lê Nin đã nói “ Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách
mạng”.

-

Như vậy ý thức không hoàn toàn phụ thuộc vào vật chất mà ý thức có tính độc lập

tương đối vì nó có tính năng động cao nên ý thức có thể tác động trở lại. Vật chất góp

-

phần cải biến thế giới khách quan thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan có tác dụng thấy đẩy hoạt động thực tiễn
của con người trong quá trình cải tạo thế giới vật chất. Khi phản ánh đúng hiện thực
khách quan thì chúng ta hiểu bản chất quy luật vận động của các sự vật hiện tượng
trong thế giới quan.
VD1. Hiểu tính chất vật lý của thép là nóng chảy ở hơn 1000 0C thì con người tạo
ra các nhà máy gang thép để sản xuất cách loại thép với đủ các kích cỡ chủng loại, chứ
không phải bằng phương pháp thủ công xa xưa.
VD2. Từ nhận thức đúng về thực tại nền kinh tế của đất nước. Tư sản đại hội VI,
đảng ta chuyển nền kinh tế từ trị cung, tự cấp quan liêu sang nền kinh tế thị trường,
nhờ đó mà sau gần 20 năm đất mới bộ mặt đất nước ta đã thay đổi hẳn.

-

Ý thức phản ánh không đúng hiện thực khách quan có thể kìm hãm hoạt động thực tiễn
của con người trong quá trình cải tạo thế giới quan.
VD. Nhà máy sử lý rác thải của Đồng Tháp là một ví dụ điển hình, từ việc không
khảo sát thực tế khách quan hay đúng hơn nhận thức về việc sử lý rác vô cơ và rác hữu
cơ là chưa đầy đủ vì vậy khi vừa mới khai trương nhà máy này đã không sử lý nổi và
cho đến nay nó chỉ là một đống phế liệu cần được thanh lý.

7


3. Kết luận:
Từ mối quan hệ giữa biện chứng giữa vật chất và ý thức, quan điểm Duy vật biện

chứng đã chỉ ra nguyên tấc phương pháp luận cơ bản, chung nhất đối với mọi hoạt
động nhận thức và thực tiễn của con người là: “ phải xuất phát từ thực tế khách quan,
tôn trọng khách quan đồng thời phát huy tính năng động.
Tôn trọng khách quan là tôn trọng tính khách quan của vật chất, của các quy luật
tự nhiên và xã hội. Điều này đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn
con người phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho
mọi hoạt động của mình.
Vì vậy trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế
khách quan, biết tạo điều kiện và phương tiện vật chất tổ chức lực lượng thực hiện
biến khả năng thành hiện thực đồng thời phát huy tính năng động chủ quan của mình.
Đồng thời chống quan điểm duy ý chí, tuyệt đối hóa vai trò của ý thức mà hạ
thấp, đánh giá không đúng vai trò của các điều kiện vật chất. Đó là hành động lấy ý chí
áp đặt thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực. Bệnh chủ quan duy ý chí là do sự yếu
kém về trình độ nhận thức nói chung và sự hạn chế trong quá trình áp dụng lí luận vào
thực tiễn nói riêng. Đó là “ sự mù quáng chủ quan” là sai lầm tự phát dẫn đến rơi vào
chủ nghĩa Duy tâm một cách không tự giác. Chúng ta cũng không nên tuyệt đối hóa
vai trò của vật chất trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Nghĩa là chống lại “
Chủ nghĩa khách quan” thái độ thụ động trông chờ ỷ lại vào điều kiện vật chất.

8


CHƯƠNG 2: MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG TRÁI QUY LUẬT KHÁCH QUAN VÀ
HẬU QUẢ CỦA NÓ
1. Trong lĩnh vực kinh tế xã hội
Sau kháng chiến chống Pháp thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước xã
hội chủ nghĩa lúc đó (điển hình là mô hình kinh kế của liên xô cũ), nước ta bắt đầu xây
dựng một mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung dựa trên chế độ công hữu về tư liệu
sản xuất. Các hình thức tổ chức sản xuất và dịch vụ quốc doanh được phát triển cùng
với quốc doanh, hợp tác xã được tổ chức rộng rãi ở nông thôn và thành thị. Với hai

hình thức sở hữu toàn dân và tập thể giữ vai trò quyết định, sở hữu tư nhân bị thu hẹp
lại, không còn cơ sở cho phát triển. Với sự nỗ lực cao độ của nhân dân ta cùng sự giúp
đỡ tận tình của các nước xã hội chủ nghĩa lúc đó, mô hình kế hoạch hoá tập trung đã
phát huy được những tính ưu việt trong thời kỳ đầu xây dựng lại đất nước. Từ một nền
kinh tế nông nghiệp lạc hậu, phân tán và manh mún, bằng công cụ kế hoạch hóa, ta đã
tập trung được một lực lượng vật chất quan trọng về cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ
tầng thành thị và nông thôn, đất đai, máy móc, tiền vốn để ổn định và phát triển kinh
tế. Vào những năm sau của thập niên 60, ở Miền Bắc đã có những chuyền biến tích
cực về kinh tế, xã hội. Nền kinh tế tập trung bao cấp đã tỏ ra phù hợp với nền kinh tế
tự cung, tự cấp, phù hợp trong bối cảnh đất nước khi đó là vừa xây dựng XHCN ở
miền Bắc, vừa góp sức cùng Miền Nam chiến đấu. Năm 1975, sau ngày giải phóng
miền Nam, một bức tranh mới về hiện trạng kinh tế Việt Nam đã thay đổi. Đó là sự
duy trì một nền kinh tế tồn tại cả ba loại hình: Kinh tế cổ truyền (tự cung tự cấp); Kinh
tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp (ở miền Bắc); Kinh tế thị trường (đặc trưng ở miền
Nam). Mặc dù đây là một tồn tại khách quan sau năm 1975 nhưng chúng ta vẫn tiếp
tục xây dựng nền kinh tế tập trung theo cơ chế kế hoạch hoá trên phạm vi cả nước. Đó
là sự áp đặt rất bất lợi. Thực trạng kinh tế - xã hội, nhất là lực lượng sản xuất ở nước ta
còn ở trình độ thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội chưa đầy đủ, chưa
vững chắc, đời sống nhân dân chưa cao, trong khi tiềm năng còn rất lớn chưa khai thác
tốt về lao động, tài nguyên và điều kiện quốc tế thuận lợi. Trước tình hình nền kinh tế
miền Bắc còn bị phá hoại, nền kinh tế miền Nam bị đảo lộn và suy sụp, lạm phát trầm
trọng, Đại hội Đảng lần thứIV lại đề ra những chỉ tiêu kế hoạch năm 1976 - 1980 quá
cao và phát triển sản xuất quá khả năng của nền kinh tế, như: năm 1975 phấn đấu đạt
21 triệu tấn lương thực, 1 triệu tấn cá biển, 1 triệu hecta khai hoang, 1 triệu 200 hecta
9


rừng mới trồng… 10 triệu tấn than sạch, 2 triệu tấn xi măng… Đến hết năm 1980,
nhiều chỉ tiêu kinh tế chỉ đạt khoảng 50 60% mức đề ra, nền kinh tế tăng trưởng rất
chậm chạp, tổng sản phẩm xã hội tăng bình quân 1,5%, công nghiệp tăng 2,6%, nông

nghiệp giảm 0,15%. Đại hội Đảng lần thứ V cũng chưa tìm ra được đầy đủ những
nguyên nhân đích thực sự trì trệ trong nền kinh tế của nước ta và cũng chưa đề ra các
chủ trương, chính sách và toàn diện về đổi mới, nhất là về kinh tế. Tất nhiên ngoài
những yếu tố chủ quan còn có yếu tố khách quan dẫn đến sự trì trệ của nền kinh tế do
chiến tranh,bối cảnh quốc tế…song chúng ta vẫn mắc sai lầm chủ quan trong việc
quản lý cán bộ,phát triển lực lượng sản xuất. Nhắc lại thấy rõ tác động tiêu cực của ý
thức đối với vật chất,thấy rõ tác động qua lại giữa kinh tế và chính trị trước khi có
công cuộc đổi mới. Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng nếu ý thức là tiêu cực thì
sớm muộn sẽ bị đào thải.
2. Trong lĩnh vực tự nhiên:

Rừng có vai trò rất quan trọng đối với cuộc sống của con người cũng như môi
trường: cung cấp nguồn gỗ, củi, điều hòa, tạo ra oxy, điều hòa nước, là nơi cư trú động
thực vật và tàng trữ các nguồn gen quý hiếm, bảo vệ và ngăn chặn gió bão, chống xói
mòn đất, đảm bảo cho sự sống, bảo vệ sức khỏe của con người…
Thế nhưng hiện nay nạn chặt phá rừng đang hoành hành, không chỉ ở VN mà trên toàn
thế giới, tài nguyên rừng ngày càng bị thu hẹp về diện tích vì bị tàn phá nặng nề. Rừng
bị thu hẹp kéo theo những hiểm họa khổng lồ mang tính chất toàn cầu như làm biến
dạng hệ sinh thái, tăng nguy cơ khan hiếm nước, thay đổi khí hậu và gia tăng các tai
họa thiên nhiên...
Tính trung bình, cứ 2 giây lại có một khoảng rừng rộng bằng một sân bóng đá bị
tàn phá. Theo Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP). Hiện nay, 10 khu
rừng lớn trên thế giới đang bị đe dọa nghiêm trọng, trong đó có rừng rậm nhiệt đới
Amazon lớn nhất thế giới; rừng Congo trải dài suốt 6 nước Châu Phi, xếp thứ 2 về
diện tích sau Amazon; rừng ven biển Đông Phi; rừng nhiệt đới và cận nhiệt đới
Himalaya trải dài qua Nepal, Myanma, bắc Ấn Độ, Lào và những khu rừng savan Nam
Mỹ… Hậu quả của việc chặt phá rừng là gây ra mọi thiên tai, nhất là lũ lụt. Mỗi cây
đều thường xuyên giữ trong cơ thể nó một lượng nước, nếu gom tất cả cây trên hành
tinh lại, lượng nước ấy như một cái biển trên lục địa. Cây bị đốn đầu tiên nước bốc
hơi, tiếp sau gây ra mưa nhiều hơn bình thường. Khi mưa cây vừa thu hút nước vừa

10


làm xốp đất thẩm thấu một lượng nước lớn vào lòng đất tạo mạch ngầm đổ ra biển,
đốn cây vừa tăng lượng mưa vừa làm mặt đất chai lì không thẩm thấu nước được, sinh
ra lũ lụt ngày càng nặng. Khí quyển đang thiếu oxy để trung hòa nhiệt khí, một điển
hình là mùa hè năm 1998 có cái nóng đột biến (do núi lửa đại dương mà các nhà khoa
học gọi là elnino), các sa mạc Sahara và Libya ngày càng nóng hơn. Bão sa mạc hoạt
động mạnh làm khí nóng không những khống chế khắp bề mặt trái đất, mà còn lấn
mạnh lên tầng cao làm trung hòa hầu hết khí lạnh. Nó cũng đẩy số khí lạnh còn lại lên
tầng cao quá tầm có thể giao hòa với hơi nước ở độ thấp để tạo mưa. Cũng có một bộ
phận hơi nước bị đốt nóng giãn nở bay lên tận tầng cao gặp khí lạnh kết thành mưa,
nhưng các đám mưa này thường lẻ tẻ và nhỏ, có những đám mưa quá nhỏ trên đường
rơi đã bị khí nóng đốt làm nó bốc hơi bay trở lên không rơi xuống đến đất thành mưa
được (hiện tượng này dễ hiểu giống như mọi mùa hè thường không có mưa phùn),
những vùng ấy bị khô hạn ảnh hưởng nặng nề đến an ninh lương thực. Điều tai họa kế
đó là: Nếu so cơ thể người những gì thừa đều bị thải ra. Vũ trụ cũng vậy! Lượng nước
thừa nơi nầy sẽ chuyển đến nơi khác tạo mưa nhiều gây lũ lụt, nên thông thường trong
một quốc gia hay nước nầy bị hạn hán càng nặng thì nơi khác, nước khác lũ lụt cũng
càng nặng nề.
Như lượng nước trong khí quyển cuối mùa hè 1998 thừa rất lớn; qua thời kỳ
nóng bức bầu khí quyển dịu dần, khí lạnh hạ thấp trở lại bình thường là thời kỳ mưa
nhiều và tập trung, gây ngập lụt nặng nề nhiều vùng rộng lớn mà năm 1999, 2000,
2001…đã xảy ra tai họa nhiều nơi. Năm 2002 lập lại cái móng mà còn hơn cả năm
1998, đã có hàng ngàn người chết vì nóng, vì lũ lụt; năm 2013 bão lũ đã nặng, năm
2014 và những năm sau nữa thiên tai hiểm họa còn càng nặng nề hơn nếu con người
không có cách cứu giải được đúng. Thiếu oxy nhiệt độ khí quyển tăng cao vừa trực
tiếp đe dọa sự sống hiện tại. Mặt khác nhiệt độ khí quyển tăng làm tan băng hai đầu
địa cực, cùng với việc đốn cây làm tăng lượng mưa. Hai nguồn nước hợp lại làm nước
biển ngày càng dâng cao nhận chìm các hòn đảo và các vùng đất thấp trong đất liền.

Tình hình đó ngoài thảm họa không thể kể siết đối với các vùng bị ngập, nước mặn sẽ
còn thâm nhập ngày càng sâu vào các vùng còn lại, nền nông nghiệp sẽ tê liệt, nạn đói,
bệnh dịch sẽ lan tràn, cây cối chết tiếp gây phản ứng dây chuyền càng về sau càng
nặng.

11


C/ KẾT LUẬN:
Trên đây là mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong tiết học Mác lê nin nói
chung và trong xã hội nói riêng. Vật chất quyết định chi phối ý thức, song ý thức cũng
có thể tác động trở lại vật chất thông qua các hoạt động thực tiễn của con người.
Chúng ta nâng cao vai trò của ý thức với vật chất chính là nâng cao nhận thức các quy
luật khách quan và vận dụng các quy luật khách quan trong hoạt động thực tiễn của
con người. Trong thời kì đổi mới của nước ta khi chuyển từ nền kinh tế tập trung, quan
lieu bao cấp sang kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Đảng Cộng Sản Việt Nam luôn xuất phát từ thực tế khách quan, tôn tọng và
hành động theo quy luật khách quan, với chủ trường này chúng ta đã giành được một
số thắng lợi to lớn. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế, thiếu sót đặc biệt ở khâu nhận
thức và hành động. Đề ra chủ trương là vấn đề quan trọng nhưng thực hiện nó mới là
vấn đề thực sự khó khăn.
Từ đó ta có thể khẳng định rằng:
-

Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất, thế giới vật chất là cái có trước, tồn

-

tại khách quan, độc lập với ý thức của con người.
Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không bị sinh ra và không bị mất đi.

Mọi tồn tại của thế giớ vật chất để có mối liên hệ thống nhất với nhau, đều là nhưng
dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu của vật chất, có nguồn gốc vật chất và chịu
sự chi phối của những quy luật khách quan phổ biến của vật chất.

-

TÀI LIỆU THAM KHẢO :
những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa mác – lênin, ths. Trịnh Đình Thanh.
Luận văn Vận dụng nguyên tắc tôn trọng khách quan và phát huy tính năng động chủ
quan trong quá trình học tập của sinh viên, LuanVan.com

12



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×