Tải bản đầy đủ (.doc) (134 trang)

Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật bảo tồn ung thư buồng trứng giai đoạn sớm ở phụ nữ trẻ tại bệnh viện k

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.8 MB, 134 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Ung thư buồng trứng (UTBT) là bệnh phổ biến trong các ung thư phụ
khoa, nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trong các bệnh ung thư phụ khoa ở
Mỹ, đứng thứ 7 trong các bệnh ung thư của phụ nữ trên toàn thế giới. Bệnh
chủ yếu xuất hiện ở tuổi mãn kinh, có khoảng hơn một nửa xuất hiện sau tuổi
60 .
Trên thế giới, tỷ lệ mắc cao ở phụ nữ da trắng (13-15/100.000 phụ nữ),
tỷ lệ mắc thấp hơn ở Nhật Bản và các quốc gia đang phát triển (10/100.000
phụ nữ). Năm 2007, tại Mỹ ghi nhận 22.430 trường hợp mới mắc, 15.280 phụ
nữ tử vong vì căn bệnh này, số phụ nữ tử vong vì UTBT bằng tổng số phụ nữ
tử vong vì ung thư cổ tử cung và ung thư niêm mạc tử cung .
Tại Việt Nam, bệnh phổ biến đứng hàng thứ ba trong các bệnh ung thư
phụ khoa. Theo ghi nhận ung thư tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2004, tỷ lệ
mắc chuẩn theo tuổi là 4,4/100.000 dân, ở Hà Nội là 3,7/100.000 dân .
Về mô bệnh học, có tới 80 - 90% UTBT là loại biểu mô, 5- 10% là ung
thư tế bào mầm, và khoảng 5% ung thư có nguồn gốc mô đệm. Ung thư biểu
mô buồng trứng phổ biến gặp ở phụ nữ đã mãn kinh, tuy nhiên ung thư tế bào
mầm lại hay gặp ở phụ nữ trẻ và u mô đệm-sinh dục có thể gặp ở bất kỳ độ
tuổi nào , .
Hầu hết ung thư buồng trứng gặp ở phụ nữ đã mãn kinh và bệnh thường
được phát hiện ở giai đoạn muộn. Tuy nhiên có khoảng 17% các trường hợp
bệnh nhân được phát hiện ở phụ nữ độ tuổi 40 hoặc trẻ hơn, nhiều trường hợp
trong số bệnh nhân này phát hiện ở giai đoạn sớm của bệnh; đặc biệt u tế bào
mầm ác tính có khoảng 70% bệnh nhân phát hiện ở giai đoạn I, các bệnh nhân
này hầu hết có độ tuổi dưới 30. Phẫu thuật trong ung thư buồng trứng thường


2


bao gồm cắt tử cung hoàn toàn và phần phụ hai bên, đồng nghĩa với việc mất
khả năng sinh sản và thiếu hụt estrogen trong thời gian dài suốt quãng đời còn
lại của bệnh nhân, việc bảo tồn chức năng buồng trứng và tử cung được đặt ra
trong những trường hợp này . Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng
việc bảo tồn buồng trứng và giữ lại tử cung trong các trường hợp bệnh nhân
trẻ tuổi có nhu cầu sinh đẻ không làm thay đổi thời gian sống thêm của bệnh.
Các tác giả đã thống nhất và đưa ra khuyến cáo đối với các bệnh trẻ ở giai
đoạn sớm của bệnh (giai đoạn I) nên được cân nhắc phẫu thuật bảo tồn chức
năng buồng trứng và tử cung , , , , . Tại bệnh viện K hiện chưa có một nghiên
cứu cụ thể và đầy đủ về phẫu thuật bảo tồn trong ung thư buồng trứng giai
đoạn sớm, vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá kết quả
điều trị phẫu thuật bảo tồn ung thư buồng trứng giai đoạn sớm ở phụ nữ
trẻ tại bệnh viện K” với 2 mục tiêu:
1. Nhận xét một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của ung thư
buồng trứng giai đoạn sớm (giai đoạn IA và IC) được phẫu thuật
bảo tồn ở phụ nữ trẻ từ 1/2007-9/2016 tại bệnh K.
2. Đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật bảo tồn của nhóm bệnh nhân
nghiên cứu.


3

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. GIẢI PHẪU CỦA BUỒNG TRỨNG .
Buồng trứng là một tạng nằm trong ổ phúc mạc, hai buồng trứng nằm sát
hai thành bên của chậu hông bé, sau dây chằng rộng. Buồng trứng có hình
hạnh nhân hơi dẹt, màu hồng nhạt. Hình dáng kích thước của buồng trứng
thay đổi theo từng giai đoạn phát triển của cơ thể.
Mặt ngoài liên quan với động mạch chậu ngoài, động mạch chậu trong

và động mạch tử cung. Mặt trong liên quan với manh tràng, ruột thừa, ruột
non ở bên phải và đại tràng sigma ở bên trái.

Hình 1.1. Tử cung và các phần phụ
(Trích trong Atlas - Giải phẫu người của Frank H. Netter)


4
Buồng trứng được định vị bởi 4 dây chằng. Các dây chằng này treo giữ
buồng trứng một cách tương đối:
+ Dây chằng tử cung - buồng trứng.
+ Dây chằng thắt lưng - buồng trứng.
+ Mạc treo buồng trứng.
+ Dây chằng vòi trứng - buồng trứng.
Mạch máu và thần kinh buồng trứng:
* Động mạch: Buồng trứng được cấp máu từ hai nguồn.
- Động mạch buồng trứng: tách ra từ động mạch chủ bụng ở ngang mức
các động mạch thận. Sau khi bắt chéo động mạch chậu ngoài, động mạch
buồng trứng chia làm 3 nhánh ở đầu trên của buồng trứng gồm: nhánh vòi
ngoài, nhánh buồng trứng ngoài và nhánh nối.
- Động mạch tử cung: tách ra các nhánh tận tiếp nối với các nhánh của
động mạch buồng trứng tạo thành cung mạch máu nuôi dưỡng buồng trứng.
- Tại rốn buồng trứng: Động mạch buồng trứng chia ra 10 nhánh tiến sâu
vào vùng tủy.
- Tại vùng chuyển tiếp: Các động mạch và tiểu động mạch tạo thành một
đám rối, từ đó tạo ra các mạch thẳng nhỏ hơn tiến vào vùng vỏ buồng trứng, ở
lớp vỏ trong của nang noãn có một mạng lưới mao mạch dày đặc.
* Tĩnh mạch: Tĩnh mạch buồng trứng phải đổ về tĩnh mạch chủ dưới, tĩnh
mạch buồng trứng trái đổ về tĩnh mạch thận trái.
* Hệ thống bạch huyết: Dẫn lưu vào các thân bạch mạch lớn hơn để tạo thành

đám rối ở rốn buồng trứng, chúng đi qua mạc treo buồng trứng để dẫn lưu tới
các hạch quanh động mạch, các nhánh khác dẫn lưu vào các hạch chậu trong,
chậu ngoài, giữa động mạch chủ, động mạch chậu chung và hạch bẹn.
* Thần kinh: Tách ra từ đám rối liên mạc treo và đám rối thận.


5
1.2. DỊCH TỄ HỌC
1.2.1. Trên thế giới
UTBT là một trong những bệnh ung thư phụ khoa phổ biến nhất ở phụ
nữ da trắng, đặc biệt một số quốc gia ở Bắc Mỹ và Bắc Âu. Tỷ lệ mắc thấp ở
Nhật Bản và phụ nữ châu Phi. Tỷ lệ mắc bệnh rất khác nhau tuỳ theo từng
quốc gia, từng chủng tộc và từng thời kỳ. Đã có những thông báo về sự gia
tăng tần xuất mắc bệnh và tử vong do UTBT tại Singapore, Anh, Tây Ban
Nha, Nhật Bản .
Năm 2007, tại Mỹ ghi nhận 22.430 trường hợp mới mắc, 15.280 phụ nữ
tử vong vì căn bệnh này. Ở Singapore UTBT đứng hàng thứ 6 trong các bệnh
ung thư .
Ung thư biểu mô buồng trứng chiếm 85% trong tổng số UTBT, đa số
sau mãn kinh, có tỷ lệ mắc tăng dần theo tuổi, ít gặp ở độ tuổi dưới 40. Tỷ lệ
mắc bệnh tăng từ 1,4/100.000 phụ nữ ở độ tuổi dưới 40 lên đến 38/100.000 phụ
nữ trên 60 tuổi. UTBT tế bào mầm chiếm 5-10 % các khối u ác tính của buồng
trứng, hay gặp ở tuổi trẻ, thường được chẩn đoán ở độ tuổi dưới 30. Ở những
phụ nữ dưới 21 tuổi, 60% các khối u buồng trứng là u tế bào mầm và trên 1/3 là
ác tính. U mộ đệm-sinh dục có thể gặp ở bất cứ độ tuổi nào, chiếm khoảng 5%
trong tổng số các khối u ác tính của buồng trứng .
1.2.2. Tại Việt Nam
Năm 2004, theo ghi nhận ung thư tại thành phố Hồ Chí Minh UTBT
đứng hàng thứ 3 trong UT cơ quan sinh dục nữ với tần suất là 4,4/100.000
dân .

Theo Nguyễn Bá Đức, Đào Ngọc Phong, giai đoạn 2001 - 2004 tỷ lệ
mắc UTBT ở Hà Nội là 3,7/100.000 dân .
Theo ghi nhận ung thư năm 2006 tại Việt Nam, trong số 10 bệnh ung
thư thường gặp nhất ở phụ nữ, UTBT đứng hàng thứ 7. Căn bệnh khó này
đang thực sự là gánh nặng sức khỏe đối với phụ nữ bởi khả năng phát hiện và
chẩn đoán sớm là rất khó .


6
1.3. NGUYÊN NHÂN VÀ CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ
Hiện nay người ta vẫn chưa xác định rõ nguyên nhân dẫn đến UTBT,
tuy nhiên có một số yếu tố nguy cơ sau được xác định có liên quan đến bệnh.
1.3.1. Tiền sử bệnh tật
Phụ nữ có tiền sử mắc ung thư nội mạc tử cung, ung thư dạ dày, ung thư
đại tràng có nguy cơ mắc UTBMBT cao hơn những người bình thường.
1.3.2. Tiền sử sinh sản
Nguyên nhân của UTBT chưa thực sự rõ ràng, nhưng các tác giả đều cho
rằng tiền sử sinh sản là một yếu tố nguy cơ quan trọng đối với ung thư biểu mô
buồng trứng.
Những phụ nữ đã từng mang thai giảm được từ 30% - 60% nguy cơ
mắc ung thư biểu mô buồng trứng, càng sinh nhiều con càng giảm thiểu nguy
cơ mắc ung thư biểu mô buồng trứng.
Thời gian cho con bú càng dài, nguy cơ mắc ung thư biểu mô buồng
trứng càng giảm, do sự phóng noãn bị đình chỉ trong thời gian cho con bú ở
một số phụ nữ.
Có kinh sớm, mãn kinh muộn cũng là yếu tố nguy cơ tăng khả năng
mắc ung thư biểu mô buồng trứng. Về lý thuyết, bề mặt biểu mô của buồng
trứng liên tục quá trình bị tổn thương - rụng trứng và sửa chữa - làm sẹo. Quá
trình này làm tăng khả năng phát sinh đột biến gen dẫn đến việc xuất hiện ung
thư. Trong thời gian mang thai và cho con bú quá trình này bị ngưng lại, yếu

tố này được cho là giảm nguy cơ mắc bệnh.
1.3.3. Tiền sử nội tiết
* Hormon ngoại sinh:
- Sử dụng thuốc tránh thai với thời gian dài giảm nguy cơ mắc bệnh.
Người ta cho rằng nếu dùng thuốc tránh thai 5 năm làm giảm nguy cơ ở người


7
chưa chửa đẻ xuống còn như người đã đẻ, nếu dùng 10 năm làm giảm nguy
cơ ở người có tiền sử gia đình bị ung thư biểu mô buồng trứng xuống còn như
người không có tiền sử gia đình bị ung thư biểu mô buồng trứng.
- Ở những phụ nữ phải dùng thay thế hormon, nguy cơ ung thư biểu mô
buồng trứng cũng giảm đi. Dùng thuốc kích thích rụng trứng như clomiphen
citrat làm tăng nguy cơ 2-3 lần nếu dùng trên 12 chu kỳ.
* Hormon nội sinh:
- Nồng độ Androgen cao, FSH và LH thấp làm tăng nguy cơ UTBT.
1.3.4. Tuổi
Ung thư biểu mô buồng trứng thường gặp ở phụ nữ sau mãn kinh. Tuổi
mắc trung bình là 60. Nhóm phụ nữ 40 - 44 tuổi tỷ lệ mắc 15-16 /100.000 phụ
nữ, tỷ lệ này tăng dần theo tuổi và gặp nhiều nhất ở nhóm tuổi 70 - 74 với tỷ lệ
mắc là 57/100.000 phụ nữ.
1.3.5. Yếu tố gen
Có khoảng 5- 10% ung thư biểu mô buồng tứng có tính di truyền,
thường xảy ra sớm hơn 10 năm so với ung thư buồng trứng không có tính di
truyền, tuy nhiên tiên lượng có vẻ tốt hơn. Ung thư biểu mô buồng trứng di
truyền nằm trong 2 hội chứng chính bao gồm:
- Hội chứng ung thư vú-buồng trứng gia đình: chiếm khoảng 90% trong
UTBT di truyền, thường ảnh hưởng tới liên quan phả hệ bậc 1 và 2. Hội chứng
này thường gặp ở phụ nữ trẻ, thường ở cả hai bên vú và hoặc buồng trứng. Ở
những phụ nữ này, nguy cơ bị mắc ung thư vú trong suốt cuộc đời là 50-85%,

UTBT là 15-40 %. Về cấp độ phân tử hội chứng liên quan đến đột biến của 2
gen BRCA1 và hoặc BRCA2. Locus gen hiện diện trên chromosome 17 q12-21
của gen BRCA1, chromosome 13 q12-13 của gen BRCA2. Nguy cơ mắc
UTBMBT trong cuộc đời người phụ nữ mang những đột biến trên là 20-60%
những người mang đột biến gen BRCA1, 10-35 % những người mang đột
biến BRCA2. Đa số UTBT liên quan đến đột biến gen BRCA1 là ung thư


8
biểu mô tuyến thanh dịch, thời điểm chẩn đoán ở độ tuổi trung bình 40 tuổi,
ngược lại độ tuổi trung bình của UTBT liên quan đến đột biến gen BRCA2 là
60 tuổi. Một vài nghiên cứu đã chỉ ra rằng tiên lượng của ung thư biểu mô
buồng trứng di truyền tốt hơn so với không di truyền. Theo Rubin thời gian
sống thêm trung vị của UTBT di truyền giai đoạn tiến triển liên quan đến đột
biến gen BRCA1 là 77 tháng so với 29 tháng của nhóm chứng. Cass cũng ghi
nhận lợi ích sống thêm tương tự qua một nghiên cứu thuần tập và gợi ý rằng có
sự cải thiện đáp ứng với hóa chất có platium của các bệnh nhân mang đột biến
gen BRCA1 và hoặc BRCA2 so với các bệnh nhân không mang những đột
biến gen này. Cơ chế được giải thích là do tế bào u không có khả năng sửa chữa
những tổn thương ADN do platinum gây ra.
- Hội chứng Lynch II: chiếm khoảng 5-10% trong UTBT di truyền, biểu
hiện ở nhiều cơ quan, hiện diện đồng thời ung thư ở đại tràng, buồng trứng,
nội mạc tử cung, vú và những ung thư khác của đường sinh dục. Người ta đã
tìm thấy hội chứng này liên quan đến đột biến một trong năm gen: hMSH2,
hMLH1, hPMS1, hPMS2, hMSH6, nhưng chủ yếu là hai gen: hMSH2,
hMLH1. Nguy cơ mắc UTBT gấp 3,5 lần ở những phụ nữ thành viên trong
những gia đình này [25],[27],[36].
- Các phụ nữ liên quan đến ung thư biểu mô buồng trứng di truyền nên
được theo dõi một cách chặt chẽ thông qua tư vấn về gen học, khám sàng lọc
định kỳ hàng năm bởi các bác sỹ ung thư phụ khoa. Cắt phần phụ hai bên dự

phòng sau tuổi 35 hoặc sau kết thúc một lần sinh đẻ, được chứng minh làm
giảm đáng kể nguy cơ UTBT và ung thư vú ở những bệnh nhân này. Một
nghiên cứu trên 259 bệnh nhân mang gen đột biến ung thư vú-buồng trứng
trải qua phẫu thuật cắt phần phụ hai bên, kết quả cho thấy giảm 96 % UTBT
và 50 % ung thư vú so với nhóm chứng. Tuy nhiên vẫn có một nguy cơ thấp
cho ung thư thanh dịch của phúc mạc, được coi là cùng nguồn gốc với ung
thư biểu mô buồng trứng.


9
1.4. TIẾN TRIỂN TỰ NHIÊN CỦA UNG THƯ BUỒNG TRỨNG .
Các thể mô bệnh học trong UTBT được cho là có nguồn gốc từ các lá phôi
tạo nên lớp biểu mô bề mặt buồng trứng. Lan tràn tự nhiên của bệnh theo ba con
đường: theo ổ phúc mạc, theo đường bạch huyết và theo đường máu.
1.4.1. Theo ổ phúc mạc
Ở giai đoạn sớm, phần lớn tổ chức UT phát triển dưới dạng nang nằm
dưới bề mặt buồng trứng, theo thời gian, có xu hướng tiến về phía bề mặt giải
phóng các tế bào UT vào ổ phúc mạc. Trong ổ phúc mạc luôn tồn tại một
lượng dịch, dưới tác động của nhu động ruột và sự di chuyển của cơ hoành
lượng dịch này luôn dịch chuyển đưa các tế bào u theo rãnh đại tràng tới vòm
hoành và đi khắp ổ bụng. Tại đây các tế bào này cấy ghép và phát triển tạo
thành các nhân di căn. Mạc nối lớn là một vị trí sớm bị cấy ghép do mạc nối
lớn thường bao bọc tổn thương từ rất sớm theo cơ chế tự bảo vệ. Các vị trí bề
mặt của ổ phúc mạc đều có nguy cơ bị di căn sớm theo con đường này. Quá
trình giải phóng và cấy ghép tế bào ung thư là cách thức lan tràn cơ bản đầu
tiên đối với UTBT.
1.4.2. Theo đường bạch huyết
Đường dẫn lưu bạch huyết của bó mạch buồng trứng tới các hạch dọc
động mạch và tĩnh mạch chủ bụng. Theo dây chằng rộng tới các hạch vùng
vách chậu gồm hạch chậu ngoài, hạch chậu trong, hạch hố bịt. Theo dây

chằng tròn tới hạch bẹn hai bên.
Di căn hạch thường liên quan đến giai đoạn bệnh, các hạch di căn sau
phúc mạc được tìm thấy ở hầu hết các trường hợp giai đoạn muộn.
1.4.3. Theo đường máu
Trên lâm sàng có thể gặp di căn theo đường máu tới gan, não, phổi, tuy
nhiên đối với ung thư biểu mô buồng trứng rất hiếm gặp di căn theo đường
này. Trái lại u tế bào mầm ác tính có xu hướng di căn theo đường máu nhiều


10
hơn ung thư biểu mô, chủ yếu là di căn gan và phổi.
1.4.4. Xâm lấn tại chỗ, tại vùng
Đối với UTBT ngoài khả năng lan tràn và di căn theo các đường trên còn
kèm theo tốc độ phát triển và xâm lấn tại chỗ rất nhanh. Các tạng bị xâm lấn
sớm nhất thường là vòi trứng, dây chằng rộng và thân tử cung. Bên cạnh đó
phải kể đến các tạng lân cận khác như ruột thừa đối với UTBT bên phải và đại
tràng sigma, trực tràng đối với UTBT bên trái.
1.5. CHẨN ĐOÁN
1.5.1. Sàng lọc và phát hiện sớm
Nhiều nghiên cứu và thử nghiệm lâm sàng trên thế giới đã chỉ ra rằng
chưa có một phương pháp nào thực sự có hiệu quả trong việc sàng lọc UTBT
một cách rộng rãi như ung thư vú hoặc ung thư cổ tử cung. Sự tiến triển
nhanh của bệnh cùng với độ tin cậy của các test sàng lọc không cao là những
nguyên nhân chính ảnh hưởng tới hiệu quả sàng lọc của bệnh. Hầu hết các
nghiên cứu sự dụng nồng độ CA 12.5 huyết thanh hoặc siêu âm đầu dò âm
đạo hoặc kết hợp cả hai.
CA 12.5 huyết thanh không hữu ích khi sử dụng đơn độc bởi vì sự tăng
không đặc hiệu cho ung thư biểu mô buồng trứng, nó có thể tăng trong các
bệnh lành tính khác như: u xơ tử cung, lạc nội mạc tử cung, u nang buồng
trứng, các bệnh viêm nhiễm vùng chậu, tràn dịch màng phổi, màng bụng bất

cứ nguyên nhân gì; và các bệnh ác tính như: ung thư vú, phổi, đại-trực tràng,
tụy, dạ dày… Mặt khác CA 12.5 chỉ tăng trong khoảng 50% các trường hợp
ung thư biểu mô buồng trứng giai đoạn sớm .
Kết hợp CA 12.5 huyết thanh và siêu âm đầu dò âm đạo đặc biệt là siêu
âm Doppler màu là một nỗ lực trong việc cải thiện hiệu quả của sàng lọc. Việc
kết hợp khám khung chậu, xét nghiệm nồng độ CA 12.5 huyết thanh và siêu
âm đầu dò âm đạo hàng năm đối với các phụ nữ có nguy cao mắc ung thư


11
biểu mô buồng trứng (tiền sử gia đình có mẹ, hoặc chị, em mắc ung thư vú,
UTBT; mang gen UTBT di truyền …) làm tăng tỷ lệ phát hiện bệnh ở giai
đoạn sớm, mặc dù hiện tại chưa có một bằng chứng rõ ràng giảm được tỷ lệ tử
vong của UTBT qua các phương pháp này. Gần đây người ta đã phát hiện ra
một số chất chỉ điểm u khác hứa hẹn sẽ làm tăng độ chính xác của CA 12.5
huyết thanh như HE4 (human epididymal protein 4), osteopontin, mesothelin,
và osteoblast-stimulating factor-2 .
1.5.2. Triệu chứng lâm sàng , .
1.5.2.1. Triệu chứng cơ năng
Buồng trứng là cơ quan nằm sâu trong khung chậu. Ở giai đoạn sớm, các
triệu chứng của ung thư biểu mô buồng trứng thường tiến triển âm thầm và
không có dấu hiệu đặc trưng, thường chỉ là cảm giác đầy tức bụng mơ hồ, khó
giải thích hoặc các triệu trứng mượn của hệ tiêu hóa (táo bón) và tiết niệu
(tiểu nhiều lần, tiểu khó), đôi khi gặp dấu hiệu đau bụng với nhiều mức độ
khác nhau nhưng cũng không đặc hiệu, thường gặp trong hoàn cảnh khám
bệnh định kỳ hoặc tình cờ phát hiện khi khám một bệnh khác. Mặt khác lại có
khoảng 1/3 bệnh nhân UTBT không có triệu chứng gì và có đến 75% trường
hợp đã có các triệu chứng trên 6 tháng cho đến lúc được chẩn đoán. Chính vì
vậy, hơn 70% các trường hợp khi được phát hiện thì đã ở giai đoạn muộn, lúc
này các triệu chứng thường rầm rộ, tiến triển nhanh như thấy bụng chướng

nhanh, gầy sút, kém ăn, nhiều trường hợp bệnh nhân tự sờ thấy u. Kèm theo là
các triệu chứng do khối u chèn ép, xâm lấn các cơ quan lân cận như rối loạn kinh
nguyệt, ra máu âm đạo sau mãn kinh, các biến chứng tiêu hoá, tiết niệu, đau
bụng do u xoắn, vỡ hoặc khó thở do cổ trướng nhiều hay do tràn dịch màng phổi.
Trái lại các khối u tế bào mầm thường được phát hiện sớm hơn so với ung
thư biểu mô (70% phát hiện bệnh ở giai đoạn I) vì u phát triển nhanh, làm căng
bề mặt buồng trứng và dây chằng rộng gây đau mặc dù u vẫn khu trú ở buồng


12
trứng, u có kích thước to khiến bệnh nhân tự sờ thấy hoặc đau tức hạ vị là các
triệu trứng thường gặp nhất khiến bệnh nhân đến khám bệnh.
Đối với thể u giáp biên do đặc điểm u phát triển rất chậm nên bệnh nhân
đến khám khi u có kích thước lớn, chiếm hết hạ vị.
1.5.2.2. Triệu chứng thực thể
Ở giai đoạn sớm cần thăm khám kỹ phần tiểu khung, thăm âm đạo, trực
tràng để đánh giá vị trí, kích thước, mật độ cũng như mức độ di động và xâm
lấn của u. Khi u còn khu trú tại buồng trứng thường di động dễ và ranh giới rõ
nhưng khi vượt quá khỏi buồng trứng và xâm lấn các cơ quan lân cận thì u
thường hạn chế di động và ranh giới không rõ ràng với cơ quan xung quanh.
Dấu hiệu cổ trướng có thể gặp nhưng ít hơn nhiều so với giai đoạn muộn và
thường ở mức độ nhẹ hoặc vừa. Khám vùng bụng chậu kết hợp với khám phụ
khoa là động tác quan trọng đầu tiên khi nghi ngờ một khối u buồng trứng,
nhất là đối với giai đoạn sớm các dấu hiệu thực thể thường nghèo nàn và
không đặc hiệu.
Ở giai đoạn muộn các triệu chứng phong phú và rõ rệt hơn, thường có
dịch cổ trướng xuất hiện. Sự xuất hiện dịch cổ trướng là một biểu hiện xấu
của bệnh. Khám kỹ vùng bụng có thể phát hiện được biểu hiện u xâm lấn,
phát triển làm đóng bánh mạc nối lớn. Cần thăm khám toàn thân để đánh giá
thể trạng cũng như tìm kiếm các biểu hiện lan tràn của bệnh như tràn dịch

màng phổi, hạch bẹn, hạch thượng đòn.
1.5.3. Cận lâm sàng
1.5.3.1. Chẩn đoán hình ảnh
Siêu âm ổ bụng và đặc biệt là siêu âm đầu dò âm đạo kết hợp với
Doppler màu là một phương pháp chẩn đoán quan trọng đầu tiên trong đánh
giá một khối vùng tiểu khung, nó nhậy hơn so với các phương pháp chẩn
đoán hình ảnh khác như CT trong việc phát hiện những khối u buồng trứng.


13
Siêu âm cung cấp những thông tin có giá trị về những khối u buồng trứng gợi
ý ác tính. Các dấu hiệu sau đây trên siêu âm gợi ý hình ảnh một khối u ác
tính:, .
+ Thành phần hỗn hợp cả đặc và lỏng
+ Có nhiều vách, dày không đều, kích thước > 3 mm
+ Có nụ sùi trong nang
+ Có dịch ổ bụng
+ Kích thước ≥ 10 cm
+ Nhiều mạch máu tân sinh trên siêu âm Doppler màu.
Siêu âm ổ bụng còn có giá trị trong việc đánh giá kích thước u, vị trí u
ở một hay cả hai bên buồng trứng, tình trạng dịch ổ bụng cũng như tìm kiếm
bằng chứng về di căn xa tới các cơ quan khác trong ổ bụng đặc biệt là việc
đánh giá tình trạng di căn gan, di căn hạch ổ bụng.
Kết hợp siêu âm đầu dò âm đạo với định lượng nồng độ CA 12.5 huyết
thanh có ý nghĩa trong việc sàng lọc và phát hiện sớm ung thư biểu mô buồng
trứng đối với các phụ nữ có nguy cơ cao, tuy nhiên sự kết hợp này không
được khuyến cáo trong sàng lọc đối với những phụ nữ không có các yếu tố
nguy cơ rõ ràng .
CT (Computer Tomography), MRI (Magnetic Resonance Imaging) cho
phép đánh giá tổn thương tốt hơn các phương pháp thông thường đặc biệt là

những tổn thương vượt quá tiểu khung, những trường hợp có tổn thương nghi
ngờ mà không xác định được một cách chính xác bằng siêu âm, điều này rất
có ý nghĩa trong việc đánh giá giai đoạn và lập kế hoạch trước mổ .
1.5.3.2. Các chất chỉ điểm u trong huyết thanh.
 Xét nghiệm CA 12.5 huyết thanh .
CA 12.5 bản chất là một loại glycoprotein, một kháng thể đơn dòng
được dùng để xác định sự hiện diện của kháng nguyên CA 12.5.


14
Người ta đã chứng minh được rằng có gần 1% phụ nữ khỏe mạnh không
mang thai có nồng độ CA 12.5 huyết thanh > 35 U/ml. Trong khi đó, có khoảng
80% - 85% bệnh nhân ung thư biểu mô có nồng độ CA 12.5 huyết thanh tăng
cao. Tuy nhiên xấp xỉ 50% trường hợp ung thư biểu mô giai đoạn sớm nồng độ
CA 12.5 huyết thanh không tăng, điều này làm hạn chế giá trị của nó trong sàng
lọc ung thư biểu mô buồng trứng. Ung thư tế bào mầm và u mô đệm-sinh dục ít
liên quan đến sự tăng nồng độ CA 12.5 huyết thanh. U giáp biên tỷ lệ tăng
nồng độ CA 12.5 và mức tăng nồng độ CA 12.5 cũng thấp hơn so với ung thư
biểu mô buồng trứng.
Liên quan với thể giải phẫu bệnh, đối với ung thư biểu mô thanh dịch có
xu hướng tăng nồng độ CA 12.5 huyết thanh cao hơn (> 85%), trong khi ở thể
chế nhày, týp tế bào sáng tỷ lệ tăng nồng độ CA 12.5 huyết thanh thấp hơn.
Ở những phụ nữ đã mãn kinh, khi có khối u buồng trứng đi kèm với
tăng CA 12.5 huyết thanh (> 65 U/ml) có độ nhậy là 97% và độ đặc hiệu là
78% với UTBT. Tuy nhiên ở những phụ nữ tiền mãn kinh độ nhậy và độ đặc
hiệu của CA 12.5 huyết thanh giảm xuống do hiện tượng tăng nồng độ CA
12.5 huyết thanh có thể gặp ở những trường hợp đang mang thai, lạc nội mạc
tử cung, u cơ trơn tử cung và những tổn thương viêm nhiễm vùng tiểu khung.
Những phụ nữ đã mãn kinh, khi có khối u buồng trứng kèm theo tăng nồng độ
CA 12.5 huyết thanh thì có chỉ định phẫu thuật thuật thăm dò.

Mặc dù sự tăng nồng độ CA 12.5 huyết thanh là không đặc hiệu trong chẩn
đoán ung thư biểu mô buồng trứng được nhưng lại rất có ích trong đánh giá đáp
ứng với điều trị và theo dõi tái phát sau điều trị. Tuy nhiên hiện thời chưa có một
bằng chứng chứng tỏ việc phát hiện sớm tái phát thông qua mức CA 12.5 huyết
thanh có lợi ích sống thêm trong căn bệnh này , , .


15
 Kháng nguyên bào thai Anpha-Fetoprotein (αFP) .
Trong huyết thanh bào thai người, αFP xuất hiện từ tuần lễ thứ 10-20, sau đó
giảm dần xuống và biến mất vài ngày sau khi sinh. Ngày nay với sự phát triển
của y học, kỹ thuật miễn dịch phóng xạ (RIA) đã giúp phát hiện αFP với nồng độ
tăng cao trong máu ở những bệnh nhân u tế bào mầm ác tính buồng trứng, ung
thư biểu mô tế bào gan. Kanazawa thấy hầu hết bệnh nhân u túi noãn hoàng có
αFP cao, đặc biệt nếu nồng độ trên 1000ng/ml thì rất có giá trị. Đối với ung thư
tế bào mầm buồng trứng thì nồng độ αFP không tăng nhiều và không phải tất cả
các trường hợp đều tăng. Đối với u nghịch mầm buồng trứng, nồng độ αFP bình
thường hoặc chỉ tăng nhẹ ở giai đoạn muộn. Đối với u quái không thuần thục,
chỉ có khoảng 65% bệnh nhân có nồng độ αFP tăng cao trong máu.
 βHCG (Human Chorionic Gonadotropin) .
Là một glycoprotein có cấu trúc tương tự như các hormone glycoprotein
của tuyến yên. Không chỉ rau thai hay u tế bào lá nuôi có liên quan đến thai
nghén mới tiết ra HCG mà trong một số u tế bào mầm buồng trứng cũng sản
xuất ra HCG. Người ta thấy nồng độ HCG tăng cao trong máu ở những bệnh
nhân này.
Dark đã tìm thấy nồng độ HCG tăng cao trong huyết thanh cũng như trong
mô của những bệnh nhân ung thư biểu mô màng đệm, ung thư biểu mô bào thai,
u quái không thuần thục. Tuy nhiên nồng độ HCG không cao trong u nghịch
mầm, u túi noãn hoàng.
Xét nghiệm các chất chỉ điểm u cũng góp phần phân loại mô học u tế bào

mầm ác tính. Một khối u buồng trứng có nồng độ αFP cao,HCG cao (>100
U/ml) hướng chúng ta nghĩ đến khối u này không phải nghịch mầm.


16
1.5.3.3. Các phương pháp chẩn đoán hình ảnh khác .
- Chụp X - quang lồng ngực thẳng, nghiêng để phát hiện di căn phổi.
- Chụp khung đại tràng: đánh giá xâm lấn của các khối UTBT vào lòng
đại tràng.
- Nội soi dạ dày, đại-trực tràng được chỉ định cho BN có biểu hiện lâm
sàng của UTBT giúp phân biệt với các khối u di căn buồng trứng từ ống tiêu
hóa (u Krukenberg).
- Chụp bụng không chuẩn bị được chỉ định trong các trường hợp UTBT
nghi ngờ có biến chứng tắc ruột.
- Vai trò của PET (Positron Emission Tomography) đơn độc là chưa có
bằng chứng rõ ràng trong chẩn đoán và theo dõi sau điều trị UTBT nhưng phối
hợp PET với CT làm tăng hiệu quả trong việc đánh giá đáp ứng và theo dõi tái
phát sau điều trị; tuy nhiên giá thành còn đắt, chưa áp dụng rộng rãi ở Việt Nam ,
,.
1.5.3.4. Các xét nghiệm khác .
- Tế bào học dịch cổ trướng tìm tế bào ung thư.
- Xét nghiệm đánh giá chức năng thận (ure, creatinin) là có ý nghĩa
trong đánh giá mức độ xâm lấn của UTBT, cũng như giúp xây dựng phác đồ
điều trị và chỉ định điều trị hóa chất sau mổ.
- PAP test (Papanicolaou smear): có thể được sử dụng mặc dù UTBT rất ít
khi vượt qua thân tử cung.
- Soi ổ bụng khi còn nghi ngờ đối với khối u nhỏ. Thủ thuật cần được
thực hiện thận trọng, nếu không có thể làm vỡ khối u gây lan tràn tế bào ung
thư ra ổ bụng, có thể kết hợp sinh thiết hoặc làm tế bào học các vị trí nghi
ngờ để đánh giá chính xác giai đoạn.



17
- Phẫu thuật thăm dò: đối với UTBT việc chẩn đoán xác định trước mổ
thường khó vì thông tin về giải phẫu bệnh ít khi đặt ra trước mổ, thường khi
nghi ngờ UTBT tiến hành phẫu thuật thăm dò đánh giá tổn thương đại thể kết
hợp với sinh thiết tức thì trong mổ cho phép chẩn đoán xác định và xử trí tổn
thương ngay trong cùng một thì.
1.5.4. Chẩn đoán mô bệnh học , .
Buồng trứng là cơ quan rất đa dạng và phức tạp về mặt mô bệnh học.
Tuy nhiên UTBT tiên phát có ba loại chính, gồm:
- UTBMBT, có nguồn gốc từ biểu mô bề mặt của buồng trứng, những
thể vùi của biểu mô hoặc lạc nội mạc tử cung.
- UT của mô đệm - dây sinh dục, phát sinh từ mô đệm của buồng trứng,
từ nguồn gốc của dây sinh dục hoặc cả hai.
- UT tế bào mầm, có nguồn gốc từ những tế bào mầm.
Phân loại của WHO 2008:
• Ung thư biểu mô:
- Ung thư biểu mô tuyến thanh dịch
- Ung thư biểu mô tuyến thể nhày
- Ung thư biểu mô tuyến dạng nội mạc tử cung
- Ung thư biểu mô tế bào sáng
- Ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp
- Ung thư biểu mô tế bào vảy
- Ung thư biểu mô hỗn hợp
- Ung thư biểu mô không biệt hóa và ung thư biểu mô không xếp loại


18
• Ung thư tế bào mầm:

- U nghịch mầm
- U túi noãn hoàng
- U quái không thuần thục
- Ung thư biểu mô bào thai
- Ung thư biểu mô đệm nuôi
• U mô đệm-sinh dục:
- U tế bào vỏ ác tính
- U tế bào hạt ác tính
- U tế bào đệm sertoli-leydig ác tính
1.5.5. Chẩn đoán giai đoạn , , .
Theo hệ thống phân giai đoạn UTBT của FIGO năm 1986 dựa trên
nguyên tắc: quan sát, thăm dò trong mổ, đánh giá tổn thương nguyên phát, tổn
thương di căn ổ phúc mạc, còn gọi là giai đoạn phẫu thuật. Hiệp hội ung thư
Hoa Kỳ (AJCC) cũng đưa ra hệ thống phân giai đoạn tương tự. Hàng năm, hai
tổ chức này đều có sự điều chỉnh hệ thống phân giai đoạn cho các bệnh UT
trong đó có UTBT. Hệ thống phân giai đoạn của FIGO hiện nay được áp dụng
rộng rãi cho UTBT.
Năm 2008, cả hai tổ chức trên đều công bố bảng phân giai đoạn giống
nhau cho UTBT:


19
Bảng 1.1. Phân loại giai đoạn theo TNM (AJCC) và của FIGO năm 2008.
TNM FIGO
Tx
To
T1
I

T2


T3 và
hoặc
N1

M

T1A

IA

T1B

IB

T1C

IC

II
T2A

IIA

T2B

IIB

T2C


IIC

III
T3A

IIIA

T3B

IIIB

T3C

IIIC

IV

Không thể đánh giá được u nguyên phát.
Không có bằng chứng u nguyên phát.
U giới hạn ở buồng trứng.
U giới hạn ở một buồng trứng, vỏ còn nguyên vẹn,
không có u trên bề mặt buồng trứng.
U giới hạn ở hai bên buồng trứng, vỏ còn nguyên vẹn,
không có u trên bề mặt buồng trứng.
U giới hạn ở một hoặc hai bên buồng trứng với một
trong những yếu tố sau: Vỏ bị phá vỡ, u trên bề mặt
buồng trứng, thấy tế bào ác tính trong dịch cổ chướng
hoặc trong dịch rửa ổ bụng.
U xâm lấn một hoặc hai bên buồng trứng với sự xâm
lấn đến chậu hông.

Lan toả và/hoặc cấy vào tử cung và/hoặc vòi trứng,
không có tế bào ác tính trong dịch axit hoặc trong dịch
rửa ổ bụng.
Xâm lấn kéo dài đến tổ chức khác của chậu hông.
Xâm lấn chậu hông (như 2A hoặc 2B) với tế bào ác
tính trong dịch cổ chướng hoặc trong dịch rửa ổ bụng.
U xâm lấn một hoặc hai bên buồng trứng với xác nhận
di căn màng bụng ngoài chậu hông và/hoặc di căn
hạch vùng.
Vi thể di căn màng bụng ngoài chậu hông.
Đại thể di căn màng bụng ngoài chậu hông kích thước
lớn nhất dưới 2cm.
Di căn màng bụng ngoài chậu hông lớn hơn 2cm
và/hoặc di căn hạch vùng.
Di căn xa (trừ di căn màng bụng).

Chú ý: Di căn vỏ gan là T3/xếp giai đoạn III; di căn nhu mô gan là M1/giai
đoạn IV; tràn dịch màng phổi có tế bào (+) xếp M1/giai đoạn IV.


20
1.6. ĐIỀU TRỊ
1.6.1. Điều trị phẫu thuật.
1.6.1.1. Phẫu thuật dự phòng
Cắt phần phụ hai bên dự phòng sau tuổi 35 hoặc sau kết thúc một lần
sinh đẻ, được chứng minh làm giảm đáng kể nguy cơ ung thư biểu mô buồng
trứng (80-90%) và (50%) ung thư vú đối với những phụ nữ mang gen đột biến
BRCA1 và hoặc BRCA2. Tuy nhiên vẫn có một nguy cơ thấp cho ung thư
thanh dịch của phúc mạc, được coi là cùng nguồn gốc với ung thư biểu mô
buồng trứng , .

1.6.1.2. Phẫu thuật ban đầu , , ,
Trong điều trị ung thư buồng trứng, phẫu thuật có vai trò rất quan
trọng, được coi là phương pháp ưu tiên hàng đầu.
 Vai trò của phẫu thuật
- Xác định chẩn đoán mô bệnh học, đánh giá chính xác giai đoạn của bệnh
nhờ quan sát và lấy mẫu mô bệnh học tấc cả các vị trí nghi ngờ.
- Sinh thiết chẩn đoán tức thì (bằng phương pháp cắt lạnh).
- Điều trị triệt để các tổn thương khu trú, giảm nguy cơ reo rắc hoặc gây
di căn xa.
- Giảm thể tích, số lượng tế bào ung thư khi bệnh ở giai đoạn muộn, tạo điều
kiện thuận lợi cho việc điều trị tiếp bằng hóa chất hay xạ trị.
- Giải quyết các biến chứng của bệnh như tắc ruột, thủng tạng, vỡ u, chảy máu.
 Chỉ định phẫu thuật
- Giai đoạn IA, IC (u ở 1 bên buồng trứng) trên phụ nữ trẻ mong muốn
có con: có thể chỉ cắt u và phần phụ đơn thuần.
- Các trường hợp giai đoạn I còn lại: cắt tử cung toàn bộ, u + 2 phần
phụ + mạc nối lớn.
- Giai đoạn II, III, IV (trừ trường hợp di căn nhu mô gan, nhu mô phổi,


21
hạch thượng đòn, hạch trung thất, hạch sau đùi không nên phẫu thuật): công
phá u tối đa, cắt tử cung toàn bộ, u + 2 phần phụ + mạc nối lớn.
 Các điểm lưu ý trong quá trình phẫu thuật
- Phương pháp: nên chọn phẫu thuật mở bụng kinh điển vì không những
thuận lợi trong việc đánh giá giai đoạn mà còn dễ dàng xử trí tổn thương trong
mổ. Phẫu thuật nội soi chỉ nên áp dụng trong một số ít trường hợp (giai đoạn IA,
IB chưa có dịch ổ bụng hoặc các trường hợp u nhỏ nghi ngờ cần thăm dò chẩn
đoán) do có nguy cơ cao di căn thành bụng qua các lỗ troca (1-16%) và hạn chế
khả năng đánh giá giai đoạn và xử trí tổn thương so với phẫu thuật mở bụng

thông thường .
- Đường mổ: khi nghi ngờ ung thư buồng trứng nên mở bụng theo
đường trắng giữa dưới rốn, cho phép kéo dài lên trên rốn giúp đánh giá và xử
trí tổn thương đầy đủ và thuận lợi. Tránh chọn các đường mổ khác gây khó
khăn và hạn chế trong việc đánh giá và xử trí tổn thương .
- Cần thăm dò, kiểm tra toàn bộ bề mặt phúc mạc và bề mặt các tạng
trong ổ bụng: theo chiều kim đồng hồ để tránh bỏ sót tổn thương, bắt đầu từ
hồi manh tràng, theo đại tràng phải lên thận phải, gan, túi mật, vòm hoành
phải, tiến vào vùng cạnh động mạch chủ, ngang theo đại tràng ngang tới vòm
hoành trái, xuống rãnh đại tràng trái, theo đại tràng trái đến đại tràng sigma.
Toàn bộ ruột non và mạc treo ruột non từ góc Treitz đến góc hồi manh tràng
phải được xem xét kỹ.
- Sinh thiết có hệ thống các điểm nghi ngờ tổn thương: Mọi chỗ dính
hoặc nghi ngờ có tổn thương trên bề mặt phúc mạc cần phải được tiến hành
sinh thiết làm giải phẫu bệnh. Nếu không có tổn thương nghi ngờ cần sinh
thiết phúc mạc tại nhiều vị trí như vùng túi cùng, rãnh đại tràng hai bên, mạc
treo. Vòm hoành cũng cần phải được sinh thiết, lấy bệnh phẩm làm xét
nghiệm giải phẫu bệnh và tế bào học.


22
- Đánh giá tình trạng di căn hạch: là hết sức quan trọng, đặc biệt với
giai đoạn sớm, vì khi có di căn hạch bệnh sẽ ở giai đoạn III.
+ Kiểm tra khoang sau phúc mạc, đánh giá hạch chậu. Đường mở trên
phúc mạc cơ thắt lưng chậu, có thể chỉ thực hiện một bên nếu khối u chỉ có
một bên. Các hạch lớn phải được vét bỏ làm xét nghiệm giải phẫu bệnh tức
thì. Nếu không có di căn thì nên vét hạch chuẩn mực.
+ Kiểm tra vùng cạnh động mạch chủ bụng. Lấy bỏ các hạch lớn và các
hạch mạc treo.
- Đối với giai đoạn I, II: việc định giai đoạn phải được tiến hành một

cách tỉ mỉ theo các bước sau:
+ Nếu có dịch tự do trong ổ bụng, đặc biệt ở vùng tiểu khung thì phải
được lấy làm xét nghiệm tế bào học.
+ Không có dịch tự do trong ổ bụng thì tiến hành rửa ổ bụng nhiều vị
trí như vùng tiểu khung, rãnh đại tràng hai bên, hố gan, hố nách mỗi nơi 50 –
100 ml sau đó hút ra làm xét nghiệm tế bào học.
 Phẫu thuật công phá u
Phẫu thuật cắt tử cung toàn bộ, cắt phần phụ 2 bên, cắt mạc nối lớn,
công phá u tối đa, lấy bỏ các nhân di căn ổ bụng được càng nhiều càng tốt sao
cho tổn thương còn lại có kích thước nhỏ dưới 1 cm. Kết quả PT công phá u
là tối ưu hay không tối ưu dựa vào kích thước lớn nhất của tổn thương còn lại
sau PT. Phẫu thuật công phá u được cho là tối ưu khi tổn thương còn lại có
kích thước lớn nhất nhỏ hơn 1 cm, không tối ưu khi tổn thương còn lại có
kích thước lớn nhất hơn 1 cm nhưng phải nhỏ hơn 2 cm. Phẫu thuật công phá
u được áp dụng khi bệnh ở giai đoạn II, III, IV [].
1.5.2. Điều trị hóa chất
Ung thư buồng trứng là bệnh nhậy cảm với hóa chất và nhiều loại hóa
chất tỏ ra có hiệu quả. Điều trị hóa chất được lựa chọn ngay sau khi hậu phẫu
ổn định, nhằm giảm tối đa nguy cơ tiến triển của bệnh.


23
1.5.2.1. Chỉ định.
Tất cả các bệnh nhân ung thư buồng trứng đều có chỉ định hóa chất nếu
đủ các điều kiện cho phép ngoại trừ các trường hợp:
- Ung thư biểu mô: giai đoạn sớm, nguy cơ thấp IA, IB, độ mô học 1, 2.
- U tế bào mầm ác tính: u nghịch mầm giai đoạn IA; u quái không thuần
thục giai đoạn IA, độ 1.
- Ung thư buồng trứng thể giáp biên giai đoạn I,II.
1.6.2.2. Các phác đồ hóa chất sử dụng trong ung thư buồng trứng.

 Một số phác đồ hóa chất thường dùng điều trị ung thư biểu mô
buồng trứng:
* Phác đồ Carboplatin - Cyclophosphamid:
Carboplatin

300mg/m2, TM, ngày 1

Cyclophosphamid
Chu kỳ 21 ngày.

600mg/m2, TM, ngày 1

* Phác đồ Paclitaxel - Carboplatin:
Paclitaxel (Taxol)

175mg/m2, TM, ngày 1

Carboplatin
Chu kỳ 21 ngày.

300mg/m2, TM, ngày 1

* Phác đồ Cisplatin - Cyclophosphamid:
Cisplatin

75mg/m2, TM, ngày 1

Cyclophosphamid
Chu kỳ 21 ngày.


600mg/m2, TM, ngày 1

 Phác đồ hóa chất dùng trong ung thư tế bào mầm và u đệm-sinh dục:
* Phác đồ BEP
Cisplatin 20 mg/m2, TM, ngày 1-5.
Etoposid 100 mg/m2, TM, ngày 1-5.
Bleomycin 20 UI/m2, TM ngày 1,8,15.
Chu kỳ 21 ngày, 3-4 chu kỳ.
1.6.3. Các phương pháp điều trị khác


24
• Tia xạ
Vai trò của điều trị tia xạ trong UTBT rất hạn chế do có nhiều biến
chứng và hiện nay ít dùng.
• Điều điều trị đích
Trong những năm gần đây, người ta quan tâm đến điều trị đích, đặc
biệt là các thuốc chống tăng sinh mạch. Bevacizumab (Avastin) là kháng
thể đơn dòng kháng VEGF (Vascular Endothelial Growth Factor), có tác
dụng cải thiện thời gian sống thêm không bệnh không tiến triển và sống
thêm toàn bộ trong ung thư biểu mô buồng trứng tái phát, tuy nhiên giá trị
còn khiêm tốn. Ngoài ra sorafenib, một thuốc ức chế tyrosin kinase cũng
được nghiên cứu trong ung thư biểu mô buồng trứng tái phát , .
1.6.4. Điều trị phẫu thuật bảo tồn trong ung thư buồng trứng giai đoạn sớm.
Tỷ lệ chẩn đoán khối u buồng trứng ở phụ nữ độ tuổi sinh đẻ đã tăng
lên song song với những cải tiến trong phương pháp chẩn đoán và thăm khám
phụ khoa định kỳ. Vì vậy phẫu thuật tiết kiệm buồng trứng cho việc bảo tồn
chức năng sinh sản và nội tiết của buồng trứng đã được quan tâm nhiều hơn.
Phương pháp phẫu thuật bảo tồn cho các khối u ác tính của buồng trứng sau
khi phẫu thuật đánh giá giai đoạn bao gồm chỉ cắt u và phần phụ một bên tổn

thương, giữ lại buồng trứng bên đối diện. Các khối u buồng trứng được chẩn
đoán ở lứa tuổi trẻ có xu hướng ở giai đoạn sớm và độ ác tính thấp. Điều này
không chỉ cho phép mà còn đòi hỏi phải bảo tồn khả năng sinh sản của những
phụ nữ này. Trong ung thư buồng trứng xâm lấn, phẫu thuật bảo tồn sinh sản
được giới hạn ở giai đoạn đầu và bệnh ở mức độ thấp. Tuy nhiên, nó cũng đã
được báo cáo trong các giai đoạn tiến triển của một số thể u tế bào mầm ác
tính của buồng trứng (lên đến giai đoạn IIIC). Các chỉ định cho phẫu thuật
bảo tồn được lựa chọn theo các yếu tố: giai đoạn FIGO, độ mô học, phân


25
nhóm mô học và mong muốn của bệnh nhân. Hóa trị liệu bổ trợ là cần thiết
cho những bệnh nhân có nguy cơ cao. Tỷ lệ tái phát sau phẫu thuật bảo tồn và
phẫu thuật triệt căn trong giai đoạn sớm đối với các khối u có độ ác tính thấp
lần lượt là 9% và 11,6%; và tỷ lệ sống thêm không bệnh và tỷ lệ sống thêm
toàn bộ không khác biệt đáng kể. Tiên lượng của các khối u buồng trứng thể
giáp biên là tuyệt vời. Tỷ lệ sống sót sau 5 năm và 20 năm lần lượt là 95% và
80%. Quản lý các khối u giáp biên đã tiến triển đáng kể trong vài thập kỷ qua.
Ngược lại với bệnh ung thư buồng trứng xâm lấn, các khối u giáp biên có thể
được chỉ định phẫu thuật bảo tồn ở tất cả các giai đoạn. Hóa trị là rất hiếm
khi được chỉ định ngay cả trong giai đoạn tiến triển , .
80 % các khối u tế bào mầm ác tính được chẩn đoán là dưới 30 tuổi, và
70-75% bệnh nhân có bệnh giai đoạn I. Phẫu thuật bảo tồn thường được sử
dụng trong các khối u tế bào mầm ác tính ngay cả trong giai đoạn tiến triển,
nếu bệnh nhân khao khát sinh con. Mối quan hệ giữa sự rụng trứng và tái phát
u là không phù hợp trong y văn. Tỷ lệ có thai tự phát sau phẫu thuật bảo tồn
đã được báo cáo là 60-88%. Vì vậy việc điều trị quá mức của những bệnh
nhân đang ở độ tuổi sinh sản là không cần thiết, những bệnh nhân này nên
được phẫu thuật bảo tồn .
Tóm lại, phẫu thuật bảo tồn có thể được thực hiện một cách an toàn

trong tế bào mầm, ung thư biểu mô thể giáp biên và chọn lọc trong một số
trường hợp ung thư biểu mô giai đoạn sớm. Bất kỳ sự tăng tỷ lệ khối u tái
phát sau rụng trứng vẫn chưa được chứng minh, kinh nguyệt không đều gây ra
bởi hóa trị liệu là thoáng qua. Tỷ lệ dị tật bẩm sinh của bệnh nhân ung thư
buồng trứng cao hơn so với dân số bình thường một chút, nhưng không có sự
khác biệt đáng kể đã được quan sát thấy giữa những bệnh nhân nhận hoặc
không nhận được hóa trị .
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu đánh giá vai trò của phẫu thuật


×