Tải bản đầy đủ (.docx) (155 trang)

NGHIÊN cứu điều CHỉNH LOạN THị TRONG PHẫU THUậT PHACO BằNG KÍNH nội NHÃN TORIC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (16.57 MB, 155 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Phẫu thuật phaco ra đời nhờ phát minh vĩ đại của Kelman năm 1967 đã
tạo ra một bước tiến nhảy vọt trong phẫu thuật thể thủy tinh (TTT). Nhờ có
phẫu thuật phaco mà phẫu thuật TTT ngày nay đã trở nên ngày càng hoàn
hảo, hạn chế biến chứng, giảm thiểu độ loạn thị gây ra do phẫu thuật, mang
lại chất lượng thị giác ngày càng tốt cho bệnh nhân. Ngày nay, những tiến bộ
vượt bậc trong phẫu thuật phaco với nhiều kỹ thuật tổng hợp có thể điều chỉnh
được các tật khúc xạ có sẵn trước mổ, giúp đạt được kết quả khúc xạ như mắt
chính thị. Phẫu thuật phaco đã được coi như là một loại phẫu thuật khúc xạ
với kết quả thị lực và khúc xạ sau mổ chính xác và tinh tế.
Nghiên cứu của nhiều tác giả trên thế giới như Blasco T Chang F, Hill
W…, cho thấy ở những bệnh nhân phẫu thuật TTT, tỷ lệ loạn thị giác mạc
(GM) ≥ 1 chiếm từ 25% - 30%. Nếu không được chẩn đoán và điều chỉnh
loạn thị mà chỉ phẫu thuật đặt kính nội nhãn thông thường thì sẽ có một số lớn
bệnh nhân còn tồn dư loạn thị, sau phẫu thuật bệnh nhân vẫn thấy nhìn mờ
nhòe, lóa mắt nhức mỏi mắt…[1], [2], [3].
Để đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao về chất lượng thị giác và giảm
phụ thuộc vào kính đeo sau phẫu thuật TTT, ngoài việc phẫu thuật thay TTT
bị đục, cần phải có những phương pháp điều trị tật loạn thị đi kèm. Các
phương pháp sử dụng đường rạch như phẫu thuật trên kinh tuyến cong, sử
dụng cặp vết phẫu thuật xuyên đối xứng, phẫu thuật rạch giảm căng vùng rìa
GM … có thể điều trị được loạn thị ở mức độ nhẹ hoặc trung bình nhưng có
những nhược điểm là điều chỉnh kém chính xác, hiệu quả không cao hoặc có
nhiều tác dụng phụ do tác động xâm lấn nhiều đến cấu trúc bề mặt giác [4],
[5], [6]. Phương pháp sử dụng các loại kính nội nhãn toric là một phương
pháp có nhiều ưu điểm: chính xác, có thể điều trị được độ loạn thị cao, tiên


2



đoán được kết quả phẫu thuật và ít gây ra các tác dụng phụ cũng như biến
chứng trong và sau phẫu thuật. Các nghiên cứu trên thế giới đều cho thấy điều
chỉnh loạn thị bằng kính nội nhãn toric cho kết quả thị lực (TL) cao sau phẫu
thuật, độ loạn thị tồn dư thấp, chất lượng thị giác tốt và giảm khả năng phụ
thuộc vào kính đeo. Nghiên cứu của các tác giả Bauer, Holland, Alio JL…
cho thấy có từ 90 – 95% đạt TL ≥ 20/40, loạn thị tồn dư sau phẫu thuật ≤ 0,5
D chiếm tới 71% đến 81% [7], [8], [9].
Ở Việt Nam, số lượng bệnh nhân phẫu thuật phaco điều trị đục TTT là
rất nhiều, tuy nhiên các nghiên cứu điều chỉnh loạn thị phối hợp trong phẫu
thuật phaco còn hạn chế và chưa có một nghiên cứu đầy đủ nào về phương
pháp điều chỉnh loạn thị GM bằng kính nội nhãn toric. Vì vậy chúng tôi tiến
hành đề tài “Nghiên cứu điều chỉnh loạn thị trong phẫu thuật phaco bằng
kính nội nhãn toric” nhằm mục tiêu:
1. Đánh giá kết quả điều chỉnh loạn thị của phẫu thuật phaco đặt
kính nội nhãn toric điều trị đục TTT có kèm theo loạn thị GM.
2. So sánh kết quả phẫu thuật phaco đặt kính nội
nhãn toric và kính nội nhãn thông thường trong
điều trị đục TTT có kèm theo loạn thị GM.


3

Chương 1
TỔNG QUAN
1. Loạn thị giác mạc.
2. Khái niệm loạn thị [10], [11].
Loạn thị là một tật khúc xạ xảy ra khi các tia từ một nguồn điểm ở xa
không được hội tụ vào một điểm đơn bởi quang hệ của mắt.
Hệ quang học của loạn thị được xem là một hệ thống gồm 2 kính trụ có

công suất khác nhau, được ghép chồng lên nhau. Ảnh của một điểm qua hệ
thống thấu kính này sẽ không còn là một điểm mà trở thành hai tiêu tuyến
vuông góc với nhau và cách nhau một khoảng đã định trong không gian ba
chiều. Mỗi tiêu tuyến sẽ vuông góc với kinh tuyến loạn thị tạo ra nó. Tiêu
tuyến trước tạo bởi kinh tuyến có công suất hội tụ cao nhất, tiêu tuyến sau tạo
bởi kinh tuyến có công suất hội tụ thấp nhất. Chóp ánh sáng dựa trên hai
đường tiêu này còn được gọi là chóp Sturm, trong đó ở khoảng giữa hai tiêu
tuyến là một mặt cắt hẹp nhất gọi là vòng ít mờ nhất. Khoảng cách giữa hai
tiêu tuyến biểu hiện mức độ loạn thị. Khoảng cách càng lớn thì độ loạn thị
càng cao.

Hình 1.1. Chóp sturm (Nguồn: Kohnen T (2008)) [12]
F1: đường tiêu trước; F2: đường tiêu sau; S: vòng mờ ít nhất.
Loạn thị toàn phần nhãn cầu là tổng hợp của tất cả các loạn thị gây ra


4

bởi các bộ phận cấu thành của quang hệ mắt. Nhìn chung có hai nguồn gây
loạn thị chính là GM và TTT, trong đó GM đóng vai trò quan trọng nhất. Sự
điều tiết của TTT hoặc những biến đổi trong cấu trúc của TTT như đục TTT
sẽ gây ra ảnh hưởng nhất định đến loạn thị tổng thể của mắt [13]. Một số tác
giả cho rằng sự xơ hóa trong buồng dịch kính hoặc giãn lồi của cực sau không
đều cũng đóng góp một phần vào cơ chế gây nên loạn thị tuy không nhiều
[14]. Mỗi yếu tố gây nên một phần loạn thị, có thể là loạn thị đều hoặc không
đều. Tác động của bề mặt khúc xạ này làm tăng hoặc giảm tác động của bề
mặt khác, và tổng hợp của toàn bộ các yếu tố như thế tạo nên loạn thị tổng
hợp của nhãn cầu.
Trên những mắt đã phẫu thuật thay TTT, yếu tố gây ra loạn thị của TTT
không còn, thay vào đó là những ảnh hưởng của kính nội nhãn đối với loạn thị

tổng thể của mắt. Mặc dù sự nghiêng lệch của kính nội nhãn có thể gây ra
loạn thị nhưng rất nhỏ. Tác giả Baumeister M và cộng sự đo độ nghiêng và độ
lệch tâm của những mắt đặt kính nội nhãn sau đó phân tích tương quan giữa
mức độ lệch tâm và độ nghiêng của kính nội nhãn tới các giá trị của quang sai
thấy rằng sự nghiêng lệch này không ảnh hưởng một cách có ý nghĩa đến các
giá trị phân tích của quang sai nhãn cầu [15]. Do vậy trên những mắt đã mổ
thay TTT, yếu tố loạn thị GM có thể coi như là yếu tố duy nhất ảnh gây nên
loạn thị của mắt. Việc tiên lượng sau phẫu thuật mắt có bị loạn thị hay không
tùy thuộc gần như hoàn toàn vào tình trạng GM có bị loạn thị hay không.
3. Loạn thị giác mạc.
Giác mạc giữ một vị trí quan trọng trong quang hệ của mắt và quy định
phần lớn công suất khúc xạ của mắt. Mặt trước GM có công suất khúc xạ
khoảng 49 D. Mặt sau làm giảm bớt đi khoảng 6 D, làm công suất tổng thể
của GM trung bình còn khoảng 43 D, chiếm khoảng 3/4 công suất khúc xạ


5

của toàn bộ hệ thống. Một sự thay đổi nhỏ trong bán kính cong bề mặt GM
cũng gây nên thay đổi lớn đối với lực khúc xạ của GM.
Bán kính cong của GM theo chiều ngang khoảng 7,8 mm và theo chiều
dọc 7,7 mm nên tạo ra một độ loạn thị thuận sinh lý khoảng 0,5 D. Loạn thị
thực sự xảy ra khi bán kính cong của GM ở các kinh tuyến chênh nhau đủ lớn
và GM có hai hướng kinh tuyến chính vuông góc với nhau: Một kinh tuyến có
công suất tối đa (bán kính cong nhỏ nhất) và một kinh tuyến có công suất tối
thiểu (bán kính cong lớn nhất). Loạn thị GM là nguyên nhân chính gây nên
loạn thị của mắt.
4. Tỷ lệ loạn thị giác mạc.
Từ năm 1922, Cavara đã có một thống kê trên số lượng lớn dân chúng,
tỷ lệ mắt có loạn thị GM > 1 D là 34,63%, trong đó có tới 9,23% mắt loạn thị

GM > 2 D. Theo nghiên cứu của Hoffmann PC trên 15448 bệnh nhân mổ đục
TTT, có 8% mắt có loạn thị > 2 D và 2,6% mắt có loạn thị > 3 D [16].
Blasco T tổng hợp trên 4540 mắt mổ phaco vào năm 2009, có 22,2%
có loạn thị > 1,25 D [1].
Theo báo cáo của Hill W có tới 28% loạn thị > 1 D; 14% loạn thị > 1,5
D; từ 2 - < 3 D chiếm 5,44%; 3 - < 4 D chiếm 1,66%, từ 4 - < 5 D chiếm
0,56%, từ 5 - < 6 D chiếm 0,25%, loạn thị ≥ 6 D chỉ chiếm 0,18% [17].
Như vậy theo nhiều nghiên cứu của các tác giả trên thế giới, tỷ lệ
loạn thị GM nói chung và loạn thị GM ở các bệnh nhân đến phẫu thuật thay
TTT nhân tạo khá cao, chiếm từ 25 – 35%.
5. Phân loại loạn thị giác mạc [10], [11], [18], [19].
Loạn thị GM được phân ra hai hình thái loạn thị chính là loạn thị đều
và loạn thị không đều.


6

5.1.1.1. Loạn thị đều.
GM bị loạn thị đều được ví như mặt cong của quả bóng bầu dục. Về
mặt lý thuyết, gọi là loạn thị đều khi công suất khúc xạ thay đổi lần lượt từ
kinh tuyến này cho tới kinh tuyến khác và tại mỗi điểm trên kinh tuyến đối
xứng qua đồng tử thì đều có độ cong tương tự nhau, hay là có mức độ loạn thị
bằng nhau. Hai kinh tuyến có công suất khúc xạ cao nhất và thấp nhất vuông
góc với nhau.
Khi chụp bản đồ GM, loạn thị đều biểu hiện với hình nơ cân xứng với
hai cánh nơ tương xứng nhau về kích thước, nằm trên cùng một trục. Công
suất tại vùng 5mm có thể chênh lệch nhau, thường là cánh nơ phía dưới có
công suất cao hơn nhưng không vượt quá 1,5D. Trong một số trường hợp nơ
bên trên có công suất cao hơn nhưng không vượt quá 2,5D.


Loạn thị thuận
Loạn thị ngược
Loạn thị chéo
Hình 1.2. Bản đồ GM của các loại loạn thị đều.
Nguồn: />Chỉ có các loại loạn thị đều mới có thể điều chỉnh bằng các loại kính
nội nhãn toric.
 Phân loại loạn thị đều:
Dựa theo vị trí của các kinh tuyến chính của GM, chia ra các loại:


7

o Loạn thị thuận: kinh tuyến dọc có độ cong hơn kinh tuyến ngang, độ
cong lớn nhất nằm trong khoảng 75o– 105o.
o Loạn thị ngược: kinh tuyến ngang có độ cong lớn hơn kinh tuyến
dọc, độ cong lớn nằm trong khoảng 345o – 15o.
o Loạn thị chéo: kinh tuyến có độ công lớn nằm trong khoảng 15o-75o

Hình 1.3. Các loại loạn thị đều
Nguồn: Koshy J (2010)[20]
 Vai trò của mặt trước và mặt sau GM.
Mặt trước GM đóng vai trò quan trọng nhất trong việc tạo ra lực khúc
xạ của mắt, tạo ra công suất khúc xạ khoảng 49 D. Sự chênh lệch nhau về bán
kính cong giữa các kinh tuyến ở mặt trước GM là nguyên nhân chính gây ra
loạn thị. Tuy nhiên công suất khúc xạ mặt sau GM cũng có ảnh hưởng một
phần đến công suất loạn thị toàn bộ của GM.
Loạn thị mặt sau thường là trục đứng có công suất cao hơn, nhưng do
mặt sau GM là mặt cầu âm, nó có tác động ngược lại với mặt trước GM là
mặt cầu dương dẫn đến làm tăng công suất ở trục ngang. Sự tác động này làm
giảm công suất loạn thị đối với các trường hợp loạn thị thuận và làm tăng các



8

trường hợp loạn thị ngược ở mặt trước. Điều này dẫn đến khả năng dễ bị điều
chỉnh quá mức với loạn thị thuận còn loạn thị ngược thì điều chỉnh bị non.
Tác giả Ho và cộng sự năm 2009 thấy rằng loạn thị mặt sau GM hầu
hết là loạn thị ngược [21]. Trong một nghiên cứu vào năm 2015 với thiết bị
đo bản đồ GM Schiempflug, tác giả Zhang L cũng đưa ra số liệu loạn thị
mặt sau khá nhỏ 0.33  0.16 D trong đó 74.3% là loạn thị ngược [22]. Tác
giả Savini G nghiên cứu độ loạn thị mặt trước và mặt sau GM cũng cho
thấy có 55,4% số mắt có loạn thị mặt sau < 0,5 D và chỉ có 5,7% số mắt có
loạn thị mặt sau đạt tới 1D. Toàn bộ nhóm nghiên cứu có 93% loạn thị mặt
sau là loạn thị ngược và giá trị trung bình của loạn thị mặt sau là 0,54 D ở
trục trung bình 91 0 [23].
Theo khảo sát trên 715 mắt của tác giả Koch DD với thiết bị chụp ảnh
Scheimpflug, tác giả thu được kết quả loạn thị mặt sau GM trung bình là - 0,3
D nhưng có độ dao động rất lớn từ - 0,11 cho tới - 1,1 D, điều này lý giải về
kết quả đôi khi không đồng nhất của các kỹ thuật điều chỉnh loạn thị. Nếu
không tính đến độ loạn thị mặt sau GM, việc đo công suất khúc xạ mặt trước
sẽ có sai số trung bình so với loạn thị toàn bộ GM là 0,22 D và có 5% số mắt
sai số này vượt quá 0,5 D. Tác giả cũng nhận thấy với những trường hợp loạn
thị GM thuận, công suất loạn thị mặt trước càng cao thì độ lớn loạn thị mặt
sau cũng có xu hướng tăng lên, còn nếu loạn thị mặt trước là loạn thị ngược
thì không có sự liên hệ tương quan rõ ràng. Hiện nay, do hạn chế về các thiết
bị cũng như vai trò không lớn của loạn thị mặt sau GM, nên hầu hết các tác
giả đều chỉ sử dụng các phương pháp đo công suất khúc xạ của mặt trước GM
trong các phẫu thuật liên quan đến điều chỉnh khúc xạ. [24].
5.1.1.2. Loạn thị không đều [11],[25].
Trong hình thái loạn thị không đều, bề mặt GM là một dạng bóng bầu

dục không đồng đều hoặc có bề mặt nhấp nhô. Về mặt lý thuyết, nếu hướng


9

của các kinh tuyến chính của loạn thị thay đổi giữa các điểm qua đồng tử,
hoặc khi các kinh tuyến chính của GM không vuông góc với nhau hoặc công
suất khúc xạ không bằng nhau giữa các điểm khảo sát trên cùng kinh tuyến
gọi là loạn thị không đều. Loạn thị không đều cơ bản là được sử dụng để gọi
chung nhiều tình trạng quang sai bậc cao không cân xứng như coma, trefoil,
quadrafoil. Mỗi mắt đều có một mức độ loạn thị không đều nhẹ nhất định, tuy
nhiên thuật ngữ này dùng trong lâm sàng chỉ để nói đến những bất thường lớn
về độ cong GM, các thoái hóa GM, sẹo GM sau viêm hoặc sau chấn thương
hoặc phẫu thuật, GM hình chóp…
6. Chức năng mắt loạn thị.
Loạn thị gây biến đổi cả độ phóng đại hình ảnh và định hướng nên khó
điều chỉnh hơn các tật khúc xạ hình cầu khác. Về mặt lý thuyết thì đa số các mắt
đều có loạn thị ở các mức độ khác nhau, nhưng thực tế ít có mắt nào là chính thị
hoàn toàn, chỉ gọi là loạn thị khi có gây rối loạn thị giác như nhìn mờ nhòe, lóa
mắt. Nhìn mờ nhòe là cảm giác chủ quan thường gặp trên mắt loạn thị. Nếu loạn
thị nhẹ thì thường chỉ gây giảm TL nhẹ và không gây nên các rối loạn thị giác
khác. Loạn thị cao thường gây giảm TL nhiều hơn và có thể gây các triệu chứng
thị giác khác nhau như hình ảnh bị biến dạng, lóa mắt, nhức đầu, nhức mắt khi
xem tivi, khó đọc chữ nhỏ, đỏ mắt, chảy nước mắt hoặc gây song thị một mắt
trong trường hợp loạn thị nghịch quá lớn [10], [25].
7. Các phương pháp chẩn đoán loạn thị giác mạc.
7.1.1.1. Chẩn đoán hình thái loạn thị giác mạc.
Phương pháp được dùng để đánh giá hình thái của GM là chụp bản đồ
GM. Thiết bị dùng để chụp bản đồ GM được tích hợp các kỹ thuật quang học
và kỹ thuật số cho phép khảo sát công suất GM, độ dày và hình thái của GM,

cho phép phân loại các hình thái loạn thị một cách chính xác. Các thiết bị này
có thể là những thiết bị chỉ khảo sát hình thái mặt trước GM theo nguyên lý


10

Placido, hoặc khảo sát được cả mặt sau GM theo các nguyên lý chụp cắt khe
hoặc chụp ảnh Scheimpflug [19], [25]
Hai dạng bản đồ GM cơ bản.
- Bản đồ trục (Axial map, sagittal map): Đây là dạng bản đồ cơ bản và
thường dùng nhất, đánh giá độ cong GM dựa trên việc đo công suất của một
mặt cầu phù hợp nhất với GM (best fit sphere). Bản đồ này cho phép liên hệ
hình dạng của mặt trước GM với khúc xạ của mắt, đồng thời có xu hướng
trung bình hóa các điểm lồi lõm, và có hình ảnh khá đều đặn. Dạng bản đồ
này cung cấp các số đo như GM kế, giúp cho việc đánh giác các đặc tính tổng
thể của GM và phân loại bản đồ GM thành hai loại bình thường hoặc không
bình thường, hoặc giúp tính toán công suất kính nội nhãn.
- Bản đồ tiếp tuyến (Tangential map): đo bán kính độ cong GM tại mỗi
điểm khảo sát, do vậy chính xác hơn khi khảo sát được từng điểm riêng
biệt. Dạng bản đồ này nhạy hơn, tạo ra các vùng tương phản khá rõ ràng,
đánh giá rất tốt tính chất đều đặn của bề mặt GM.

Hình 1.4. Bản đồ công suất trục và bản đồ tiếp tuyến.
Nguồn: Agawal A (2015) [19].
7.1.1.2. Chẩn đoán mức độ loạn thị giác mạc.
Việc chẩn đoán mức độ loạn thị và trục của loạn thị có thể được thực
hiện bằng nhiều thiết bị khác nhau [27], [28].


11


Chụp bản đồ GM: Máy vi tính sẽ tính toán được độ cong tại từng điểm
khảo sát, tìm ra kinh tuyến có độ cong lớn nhất gọi là Sim K1 và kinh tuyến
có độ cong nhỏ là Sim K2. Do vậy các thông số thu được khá chính xác. Các
thiết bị chụp bản đồ mặt sau còn cho phép đánh giá được độ loạn thị mặt sau
của GM, giúp chẩn đoán loạn thị của toàn bộ GM một cách chính xác.
 Đo bằng GM kế: sử dụng GM kế Javal – Schiotz hoặc GM kế
Helmholtz. Phương pháp này vẫn tiềm ẩn nhiều sai số đo, đặc biệt là sai số đo
kỹ thuật viên.
Đo sinh học nhãn cầu: hay được dùng là IOL Master có thể đo công
suất kính nội nhãn và đo công suất khúc xạ GM. Máy phân tích số liệu trong
vùng quang học khá hẹp 2,5 mm, kết quả loạn thị đo được phần nào không
đại diện hoàn toàn cho độ loạn thị của toàn bộ GM. Tuy nhiên với các phẫu
thuật khúc xạ điều trị dựa theo công suất khúc xạ GM trung tâm như phẫu
thuật đặt kính nội nhãn toric thì IOL Master có lợi điểm là tính chính xác cao,
đặc biệt là những trường hợp loạn thị GM đều.
Việc đánh giá tính chính xác của các phương pháp đo đã được rất nhiều
tác giả đề cập đến cả về công suất loạn thị và trục loạn thị. Độ dung sai của
phép đo càng nhỏ thì giá trị phép đo càng chính xác, càng gần với trị số thực
của mắt.
- Lee H, so sánh 6 loại thiết bị là GM kế đo tay, GM kế tự động, IOL
master, và 3 thiết bị chụp bản đồ GM khác là iTrace (dựa trên nguyên lý
placido), Obscan (dựa trên nguyên lý quét của đèn khe) và máy Pentacam
(dựa trên nguyên lý chụp ảnh Scheimpflug). Kết quả cho thấy sự phù hợp có
ý nghĩa của tất cả các thiết bị đo với thiết bị tiêu chuẩn là GM kế đo tay. Tác
giả đưa ra kết luận những thiết bị này đều có tính chính xác cao trong việc
ứng dụng đo đạc độ loạn thị GM [28].
- Visser so sánh tính chính xác của một số thiết bị GM kế đo tay, IOL
master, bản đồ GM cũng nhận thấy có sự tương đồng trong kết quả phân tích,
mặc dù về nguyên lý, các thiết bị này đo công suất GM trong những vùng

quang học khá khác nhau từ 1,9 mm đến 3,4 mm [29].
- Khi nghiên cứu tính chính xác của hai thiết bị đo công suất GM trong


12

phẫu thuật đặt kính nội nhãn toric, Zhang không thấy có sự khác biệt trong
tính chính xác giữa thiết bị IOL Master và thiết bị chụp ảnh theo nguyên lý
Scheimpflug–Placido. Tuy nhiên với phương pháp đo IOL Master chỉ đo loạn
thị mặt trước, tác giả cũng nhận thấy có xu hướng điều điều chỉnh quá mức ở
những mắt loạn thị thuận và điều chỉnh non ở những mắt loạn thị nghịch. Với
phương pháp đo cả mặt trước và mặt sau, tác giả không thấy có quy luật rõ
ràng như vậy [22].
- Savini G (2009) so sánh trên thực tế tính chính xác của ba loại thiết bị đo
công suất GM là IOL Master (Carl Zeiss Meditec), thiết bị chụp bản đồ GM
TMS - 2 (Tomey) và thiết bị Pentacam (Oculus) cho thấy có sự khác nhau về
tính chính xác của các thiết bị này. Sai số tuyệt đối của Pentacam là 0,44 ±
0,3D cao hơn có ý nghĩa so với hai thiết bị IOL Master và TMS - 2 tương ứng
là 0,33 ± 0,23D và 0,33 ± 0,29D. Số mắt có khúc xạ cầu tương đương ≥ 0,75D
ở nhóm sử dụng Pentacam (17%) cũng cao hơn hai nhóm còn lại (7,3% và
4,8%). Tác giả cho rằng thiết bị Pentacam với nguyên lý chụp ảnh Scheimpflug
mặc dù đo được loạn thị mặt sau GM nhưng cũng cần thận trọng khi áp dụng
trong các công thức tính toán độ cầu của kính nội nhãn [23].
Nhìn chung các tác giả cho rằng không nên sử dụng đơn thuần một
phương pháp nào để đánh giá tình trạng loạn thị GM mà cần phối hợp các
phương pháp để có góc nhìn tổng thể về tình trạng loạn thị của bệnh nhân.
Hầu hết các nghiên cứu của các tác giả trên thế giới đều sử dụng phương
pháp chụp bản đồ GM để chẩn đoán hình thái loạn thị GM, giúp xác định
chính xác có phải là loạn thị GM đều hay không vì chỉ có hình thái loạn thị
đều mới có chỉ định dùng kính nội nhãn toric. Còn việc chẩn đoán mức độ

loạn thị GM thì có thể dùng chính các thông số của bản đồ GM hoặc các
phương pháp đo bằng GM kế, GM kế tự động hoặc sinh trắc quang học
nhãn cầu (IOL Master hoặc Lenstar).


13

8. Các phương pháp điều chỉnh loạn thị giác mạc trong phẫu thuật phaco
[12], [18], [30], [31].
9. Các phương pháp sử dụng đường rạch giác mạc.
Trong quá trình hoàn thiện của phẫu thuật phaco, các nghiên cứu ảnh
hưởng của vết mổ đến loạn thị đã được công bố rất nhiều. Từ những nghiên
cứu chuyển vị trí vết mổ từ GM ra củng mạc hoặc những nghiên cứu chuyển
đường mổ phía trên ra phía thái dương nhằm làm giảm tác động của vết mổ
đến vùng trung tâm giác mạc đến những phương pháp ứng dụng tác động gây
loạn thị của vết mổ để để làm giảm hoặc triệt tiêu loạn thị có sẵn của GM.
Loạn thị gây ra do vết mổ hoặc các đường rạch GM phụ thuộc vào rất nhiều
yếu tố khác nhau như độ lớn và cấu trúc vết mổ, vị trí của vết mổ trên GM
vùng rìa hay GM trong, vị trí vết mổ trên kinh tuyến của GM, thời gian ổn
định của vết mổ, tính chất liền sẹo và thoái triển, kỹ thuật của phẫu thuật viên.
Sử dụng các tác động gây loạn thị của vết mổ để điều chỉnh loạn thị có sẵn
được các phẫu thuật viên ứng dụng rất rộng rãi và ngày càng hoàn thiện và
phong phú.
9.1.1.1. Phẫu thuật vết mổ nhỏ [32], [33], [34].
Mặc dù theo nhiều nghiên cứu phẫu thuật phaco thông thường với vết
mổ từ 2,8 - 3,0 mm gây ra loạn thị rất ít (≤ 0,5 D), tuy nhiên mục tiêu không
gây ra loạn thị GM vẫn là mục tiêu lớn của phẫu thuật khúc xạ. Các tiến bộ
trong kỹ thuật phaco với các vết mổ càng nhỏ dần từ 2,2 mm cho đến 1,8 mm
gần như không gây ra loạn thị do phẫu thuật.
Với những mắt trước phẫu thuật không có loạn thị thì lý tưởng nhất là

phẫu thuật phaco không gây ra tác động loạn thị nào trên GM, do đó sẽ không
gây nên loạn thị tổng thể của mắt và mắt sẽ đạt được chính thị nếu các công
thức tính độ cầu của kính nội nhãn đạt được độ chính xác cao.


14

9.1.1.2. Đặt vị trí vết mổ trên kinh tuyến cong nhất của giác mạc (On Axis
Incision - OAI) [4], [35], [36], [37].
Phương pháp này lợi dụng tính chất làm dẹt GM của vết mổ để làm giảm
độ cong của kinh tuyến cong nhất, qua đó làm giảm loạn thị. Vết mổ ở kinh
tuyến nào thì làm giảm công suất khúc xạ GM trên kinh tuyến đó, đồng thời làm
tăng công suất khúc xạ của kinh tuyến vuông góc với nó, bất kể kinh tuyến này
nằm ở ngang, dọc hay chéo. Tác động của phương pháp này tùy thuộc vào độ
lớn và vị trí của vết mổ, thường là khoảng 0,5 D nên thường chỉ cho phép điều
trị loạn thị thấp.
Tejedor J (2005) đã tiến hành nghiên cứu trên 578 mắt phẫu thuật
phaco với độ loạn thị GM trước mổ từ 0 D đến 2,58 D với các đường rạch ở
vị trí khác nhau, tác giả thấy rằng với những mắt sử dụng đường mổ phía thái
dương thì độ loạn thị gây ra do phẫu thuật thấp hơn những mắt sử dụng đường
mổ phía trán. Tác giả đề xuất sử dụng đường mổ thái dương cho những mắt
có loạn thị ≤ 0,5 D. Với những mắt có loạn thị GM ngược từ 0,75 D cho đến
1,25 D, tác giả đề xuất dùng đường mổ thái dương, nếu loạn thị ngược ≥ 1,5D
thì dùng đường mổ phái mũi và loạn thị thuận ≥ 1,5 D thì dùng đường mổ
phía trán [4].
Khokhar S (2006) nghiên cứu phương pháp điều chỉnh loạn thị bằng
vết mổ trên kinh tuyến cong thu được kết quả giảm độ loạn thị 0,59D.
Rho CR (2012) tiến hành nghiên cứu phẫu thuật phaco trên 95 mắt có
loạn thị GM ≥ 0,5 D với các vị trí đường mổ nằm trên kinh tuyến có độ khúc
xạ cao nhất ở phía thái dương, thái dương trên và phía trên. Tác giả thấy rằng,

bất kể ở nhóm nào, việc đặt vết mổ trên kinh tuyến cong hơn sẽ làm dẹt kinh
tuyến đó và làm giảm loạn thị có sẵn trước mổ.[37].
Một số phẫu thuật viên đề xuất thay đổi một số tính chất của vết mổ
như nới rộng thêm vết mổ, giảm khoảng cách so với trung tâm quang học GM
để đạt được tác dụng tối đa. Tuy nhiên việc rạch rộng thêm vết mổ cũng


15

không được khuyến khích và cũng ít tác giả thực hiện do gây ra những khó
đoán biết về kết quả phẫu thuật và làm tăng nguy cơ nhiễm trùng sau mổ [38].
9.1.1.3. Cặp vết mổ xuyên đối xứng ở vùng giác mạc trong (Opposite Clear
Corneal Incisions – OCCI )[5],[39], [40], [41].
Dựa trên các phân tích về bản đồ độ cong GM sau phẫu thuật phaco,
các tác giả nhận thấy tác dụng của một đường rạch đơn độc chỉ ảnh hưởng
đến nửa bán cầu nơi thực hiện đường rạch mà ít gây ảnh hưởng đến nửa bán
cầu đối diện. Lever J và Dahan E là hai tác giả đầu tiên nảy sinh ý tưởng thực
hiện thêm một đường rạch phía đối xứng để tăng cường tác dụng điều chỉnh
loạn thị của đường rạch [5].

Hình 1.5. Sơ đồ kỹ thuật của phương pháp OCCI.
Nguồn: Khokha S (2006) [39].
Đây là một phương pháp dễ thực hiện, có tác dụng điều trị các trường
hợp loạn thị nhẹ hoặc trung bình. Trở ngại của kỹ thuật này là phẫu thuật viên
sẽ phải thay đổi vị trí vết mổ quen thuộc hoặc phẫu thuật trên những trường
phẫu thuật hẹp do vết mổ ở các vị trí khó thao tác hơn dẫn đến khó khăn cho
việc áp dụng kỹ thuật.


16


9.1.1.4. Rạch giảm căng trên giác mạc (Corneal Relaxing Incision - CRI)
[12], [42].
Nghiên cứu sử dụng các đường rạch hình cung (Arcuate Keratotomy –
AK) hoặc đường rạch ngang (Transverse Keratotomy – TK) trên GM trong
được sử dụng từ những giai đoạn đầu tiên của phẫu thuật khúc xạ. Kỹ thuật
được thực hiện bằng tạo một đường hoặc một cặp đường rạch cung hoặc
ngang nằm trên kinh tuyến cong nhất của GM. Cặp đường rạch có độ sâu từ
80 – 90% chiều dày GM, độ lớn tùy vào mức độ loạn thị cần điều chỉnh.

Hình 1.6. Tác động của đường rạch lên GM.
: Làm giảm công suất trên kinh tuyến đường rạch.
: Làm tăng công suất trên kinh tuyến vuông góc.
Cặp đường rạch giảm căng trên GM có tác dụng làm giảm độ cong trên
kinh tuyến đó và làm tăng công suất GM trên kinh tuyến vuông góc với nó.
Các đường rạch này tuy có tác dụng điều chỉnh loạn thị khá tốt nhưng có
nhiều nguy cơ gây ra điều chỉnh quá mức nhất là những bệnh nhân có độ loạn
thị thấp, khó tiên đoán và có khả năng thoái triển do phản ứng lành sẹo của
nhu mô GM, có thể gây ra chứng chói lóa sau phẫu thuật. Nếu điều chỉnh
không chính xác có thể gây xoay trục loạn thị quá mức làm bệnh nhân khó
dung nạp.


17

9.1.1.5. Rạch giảm căng giác mạc vùng rìa (Limbal RelaxingIncisions - RLIs)
[6], [43], [44], [45].
Những năm gần đây, các tác giả đã cải tiến kỹ thuật CRI bằng cách đưa
vị trí các đường rạch ra vùng rìa GM, tạo nên một kỹ thuật mới là kỹ thuật
rạch giảm căng vùng rìa GM. Kỹ thuật cũng được thực hiện phối hợp với

phẫu thuật TTT bằng việc dùng dao kim cương tạo ra một cặp đường rạch
không xuyên thủng đối xứng nhau được đặt trên GM vùng rìa và trên kinh
tuyến phồng của GM. Độ sâu của đường rạch thường chiếm 80 – 90% chiều
dày GM vùng rìa. Kỹ thuật được chỉ định cho những mắt có loạn thị GM nhẹ
và trung bình, loạn thị tối thiểu là 0,75D. Bệnh nhân dễ dung nạp và có chất
lượng thị giác tốt hơn CRI, ít gây nhìn chói lóa sau phẫu thuật.
Ở Việt Nam, điều chỉnh loạn thị GM bằng đường rạch được một số
tác giả báo cáo.
- Nguyễn Thị Tịnh Anh (2005) báo cáo kết quả của kỹ thuật rạch GM
đối xứng với vết mổ 3,2 mm. Ở thời điểm 6 tháng tác giả thu được kết quả loạ
giảm thị là 1,60 ± 0,18 D. Nghiên cứu chỉ ra rằng, kỹ thuật rạch GM đối xứng
có hiệu quả điều trị những trường hợp loạn thị GM từ 1 đến 1,5 D [46].
- Hà Trung Kiên (2006) báo cáo sự thay đổi khúc xạ GM sau phẫu thuật
phaco theo các đường rạch khác nhau: GM trong phía thái dương, GM trong
phía mũi trên hoặc thái dương trên và GM vùng rìa phía trên. Tác giả thấy cả
3 vị trí vết mổ đều gây ra loạn thị tương đương nhau 0,51 ± 0,18;
0,52 ± 0,39; 0,51 ± 0,25 [47].
- Nguyễn Mạnh Quỳnh (2008) báo cáo kết quả của kỹ thuật RLIs phối
hợp với phẫu thuật phaco. Độ loạn thị tồn dư sau phẫu thuật dao động từ 0 đến
2,5 D, với kết quả loạn thị trung bình ở các nhóm loạn thị thuận, ngược và chéo
tương ứng là 0,57 D; 0,59 D; 0,56 D. Tuy nhiên độ loạn thị mà kỹ thuật tạo ra
được là không lớn với nhóm loạn thị thuận, ngược và chéo tương ứng là 0,63
D; 0,39 D và 0,27D [48].


18

10. Điều chỉnh loạn thị giác mạc bằng kính nội nhãn toric.
Ý tưởng sử dụng các loại kính nội nhãn để điều chỉnh loạn thị trên GM
được thực hiện đầu tiên vào đầu thập niên 1990 bởi các tác giả Sanders, Gills,

Grabow, Martin, Shepherd, Shimizu … và một số tác giả khác [49].
10.1.1.1. Nguyên lý của kỹ thuật.
Kính nội nhãn cầu đơn thuần đặt trên mắt loạn thị sẽ đưa hình ảnh là vòng
tròn ít khuếch tán nằm trên võng mạc tức là đưa hình ảnh của mắt trở thành cầu
tương đương. Công thức khúc xạ của mắt sau mổ là một dạng loạn thị hỗn hợp
với cầu tương đương gần bằng 0 [50]. Kính nội nhãn điều chỉnh loạn thị còn gọi
là kính nội nhãn toric được thiết kế dựa trên nguyên lý tích hợp hai phần kính
cầu và kính trụ với nhau tạo nên một optic cầu trụ. Phần công suất trụ điều chỉnh
loạn thị được đánh dấu trục để khi đặt vào trong túi bao TTT sẽ trùng với trục
loạn thị của GM, do vậy sẽ khử được loạn thị GM có trước phẫu thuật [18], [30].

Công suất cầu: 20 D

Công suất trụ: 2 D

Công suất cầu tương đương:
20 + 2/2 = 21 D

Bán kính cong r1 tương ứng với
đường tiêu F1.
Bán kính cong r2 tương ứng với
Độ lớn
loạn thị

đường tiêu F2.

Hình 1.7. Nguyên lý cấu tạo kính nội nhãn toric. Nguồn:[12].


19


Các loại kính nội nhãn toric có một dải công suất cầu tương đương với
công suất cầu của các loại kính nội nhãn thông thường. Phần công suất trụ
thêm vào thường có một số mức nhất định, được tăng theo các bậc từ 0,25 đến
0,5D loạn thị.
Khi kính nội nhãn toric lệch đi 1 o sẽ làm giảm mất 3,3% công suất điều
chỉnh loạn thị. Lệch 15o sẽ mất đi khoảng 50% tác dụng và khi lệch tới 30 o,
tác dụng điều chỉnh loạn thị sẽ mất hoàn toàn hoặc làm tăng thêm loạn thị.

Hình 1.8. Nguyên tắc điều chỉnh loạn thị của kính nội nhãn toric.
Nguồn [30].
Công suất loạn thị GM được xác định để tính công suất của kính
nội nhãn toric. Trục loạn thị của GM được đánh dấu trên vùng rìa GM.
Trong quá trình phẫu thuật, kính nội nhãn toric được đặt vào trong túi bao
TTT và trục của kính được đặt trùng với trục loạn thị GM đã được đánh
dấu.
Mức độ thành công của kỹ thuật phụ thuộc vào mức độ trùng nhau
của trục kính toric với trục của loạn thị GM. Điều này phụ thuộc vào
nhiều yếu tố khác nhau trong quá trình đo loạn thị, đánh dấu và phẫu
thuật. Nếu tất cả các quy trình trên diễn ra một cách chính xác sẽ khử
được hết hoặc gần hết độ loạn thị của GM. Nếu có sai sót ở bất cứ một


20

bước nào sẽ làm giảm kết quả thu được sau phẫu thuật. Tính ổn định
không xoay trục của IOL toric trong túi bao là vô cùng quan trọng, bởi
tính chính xác của kỹ thuật phụ thuộc phần lớn vào điều này. Trục kính
nội nhãn càng lệch so với trục loạn thị của GM thì càng làm giảm kết quả
điều chỉnh loạn thị.

10.1.1.2. Chỉ định và chống chỉ định [12].
Chỉ định:
Loạn thị GM đều là một lựa chọn phù hợp nhất cho việc sử dụng kính nội
nhãn toric.
Mỗi loại kính nội nhãn toric có mức điều trị tối thiểu khác nhau. Kính
nội nhãn Acri.Comfort và Rayner là 1,00D còn Acrysoft toric là 1,5 D ở mặt
phẳng kính, tương đương với 0,75 D và 1,03 D ở mặt phẳng GM. Tính toán
cả việc loạn thị gây ra do phẫu thuật thì các mắt có loạn thị GM ít nhất là từ
1,00D đến 1,25 D mới có chỉ định đặt kính nội nhãn toric.

Hình 1.9. Loạn thị GM đều với hình nơ cân xứng. Nguồn:[19].
Chống chỉ định:
 Loạn thị GM không đều do các nguyên nhân khác nhau. Những trường
hợp này sẽ dẫn đến kết quả đo sai lầm về trục và độ lớn gây ra những
ảnh hưởng khó đoán biết được nếu sử dụng các loại kính nội nhãn toric.
 Một số bệnh lý của mắt: loạn dưỡng Fuchs hoặc các loạn dưỡng nội
mô khác mà tiên lượng sẽ phải tiến hành ghép GM điều trị trong


21

tương lai. Bệnh lý glôcôm phối hợp với đục TTT cũng là một trường
hợp cần cân nhắc kỹ càng khi chỉ định đặt kính nội nhãn toric do
nguy cơ phải tiến hành các phẫu thuật lỗ dò làm ảnh hưởng đến tình
trạng khúc xạ của mắt.
 Dây treo TTT bị yếu như hội chứng giả bong bao, chấn thương đứt một
phần dây treo TTT. Những trường hợp này sẽ làm kính nội nhãn không
cố định một cách chắc chắn hoặc xoay lệch trong túi bao TTT.
 Kỹ thuật xé bao không hoàn hảo với vành bao trước bị rách, hoặc bao
xé không cân đối cũng là một cân nhắc rút lại quyết định đặt kính nội

nhãn toric. Sự nguyên vẹn của túi bao và sự phủ trùm đều đặn của bao
trước lên bề mặt của optic giúp cho kính nội nhãn ổn định giảm hiện
tượng xoay trong giai đoạn sớm. Trong giai đoạn muộn khi có sự xơ co
của bao TTT, thì sự xơ co đều đặn cũng không gây nên những thay đổi
quá mức của trục kính nội nhãn.
10.1.1.3. Các đặc điểm kỹ thuật [12], [51].
 Lựa chọn phương pháp đo công suất và trục loạn thị của giác mạc.
Các quá trình đo đạc phải đồng nhất hạn chế tối đa các sai số. Các tác
giả đều cho rằng cần đo loạn thị cũng như đánh dấu trục loạn thị trên GM khi
bệnh nhân ở tư thế ngồi. Nếu đo ở tư thế ngồi trong khi đó lại đánh dấu trục ở
tư thế nằm thì sẽ xuất hiện những sai lệch. Do khi bệnh nhân ở tư thế nằm,
nhãn cầu sẽ bị xoay đi một trục nhất định làm sai lệch vị trí của trục loạn thị
so với khi ngồi thẳng.
Đo công suất của khúc xạ GM thật chính xác là một yếu tố quan trọng
của kỹ thuật. Các tác giả khuyến cáo nên phối hợp ít nhất hai thiết bị để
đánh giá tình trạng loạn thị trước phẫu thuật.


22

 Tính toán công suất kính nội nhãn toric.
Để chọn được công suất và trục của kính chính xác, cần phải tính đến sự
ảnh hưởng của loạn thị gây ra do phẫu thuật. Với phẫu thuật phaco hiện đại,
vết mổ dưới 3 mm được coi là trung tính do gây ra loạn thị nhỏ, tuy nhiên trên
thực tế nó gây ra những thay đổi đáng kể đến độ lớn và trục của loạn thị
nguyên phát, đặc biệt là những đường mổ phía trên. Do vậy nếu không xét
đến những ảnh hưởng của vết mổ thì sẽ làm giảm tính chính xác của phương
pháp [17].
Việc quyết định vị trí vết mổ ở đâu trong khi tính toán cũng là những
lựa chọn mà phẫu thuật viên cần cân nhắc để lựa chọn được loại kính nội

nhãn phù hợp và thu được kết quả tốt nhất.
 Chọn công suất của kính nội nhãn toric.
Những nghiên cứu về loạn thị mặt sau GM đã chỉ ra rằng loạn thị mặt
sau thường là trục đứng, là mặt cầu âm, nó có tác động ngược lại với mặt
trước GM là mặt cầu dương dẫn đến làm tăng công suất ở trục ngang. Sự tác
động này làm giảm công suất loạn thị đối với các trường hợp loạn thị thuận và
làm tăng công suất loạn thị đối với các trường hợp loạn thị nghịch. Điều này
dẫn đến khả năng dễ bị điều chỉnh quá mức với loạn thị thuận còn loạn thị
nghịch thì điều chỉnh bị non. Theo các tác giả, mặc dù loạn thị mặt sau GM là
khá nhỏ nhưng cũng phần nào ảnh hưởng đến kết quả khúc xạ của toàn bộ con
mắt. Do vậy nếu muốn tối ưu hóa kết quả điều chỉnh loạn thị thì cần xem xét
đến yếu tố loạn thị mặt sau GM. Trong những trường hợp không có thông số
loạn thị mặt sau GM, phần lớn các tác giả đều cho rằng không chọn công suất
kính toric lớn hơn mức độ loạn thị, đặc biệt trong những trường hợp loạn thị
thuận nên chọn phương án để tồn dư độ loạn < 0,5 D để bù trừ vào loạn thị
mặt sau GM.


23

 Kỹ thuật đặt kính nội nhãn toric: gồm 3 bước:
 Bước đầu tiên là đánh dấu trục ngang của GM khi bệnh nhân ở tư thế
ngồi với đầu được giữ thẳng ngay ngắn để tránh hiện tượng xoay nhãn cầu. Có
thể dùng thước đánh dấu có bóng khí hoặc sử dụng sinh hiển vi khám bệnh làm
phương tiện đánh dấu. Các khe sáng được xoay đến các vị trí cần đánh dấu như
trục điều chỉnh loạn thị hoặc vị trí vết mổ. Chiếu khe sáng vuông góc lên GM
và đánh dấu lên GM tại vùng rìa bằng bút đánh dấu hoặc kim.

Hình 1.10. Dụng cụ đánh dấu trục ngang GM. Nguồn [12].
 Bước 2: Trong khi phẫu thuật, phẫu thuật viên dùng một thước đo

360o đặt các điểm đã đánh dấu trùng với vị trí 0 o và 180o trên thước, rồi tiếp
tục đánh dấu các vị trí vết mổ, vị trí đặt kính nội nhãn toric đã được tính
toán trước.

Hình 1.11. Đánh dấu trục loạn thị trên GM. Nguồn [12]


24

 Bước 3: Kính nội nhãn toric sau khi được đặt vào trong túi bao sẽ
được xoay đúng vào điểm đánh dấu này.

Hình 1.12. Trục IOL được đặt trùng với trục loạn thị. Nguồn[12].
 Ưu nhược điểm của kỹ thuật:
o Ưu điểm:
Dải điều trị của các loại kính nội nhãn toric khá rộng tùy loại, cao nhất
tới 12 D ở bình diện kính như kính Acri. Comfort, cho phép điều trị được
những trường hợp loạn thị rất cao ở GM.
Kính nội nhãn toric có ưu điểm hơn các phương pháp điều chỉnh bằng
đường rạch bởi tính chính xác. Kính có nhiều mức công suất điều chỉnh loạn
thị khác nhau, mỗi bước nhảy của công suất loạn thị thường từ 0,25 D đến 1
D loạn thị giác mạc cho phép để lại độ tồn dư không quá lớn trong khi tính
toán công suất trụ của kính toric. Các công thức tính toán trước phẫu thuật
giúp tiên đoán được độ loạn thị tồn dư sau phẫu thuật. Đồng thời kỹ thuật này
không phụ thuộc vào các phản ứng lành sẹo hay thoái triển của GM nên kết
quả có tính ổn định cao, đặc biệt là khi các kính nội nhãn toric được thiết kế
phù hợp về chất liệu và kiểu dáng.
Khác với phương pháp RLIs có thể xảy ra hiện tượng điều chỉnh quá
mức khó can thiệp lại lần thứ hai, kính nội nhãn toric có thể được xoay lại
một cách dễ dàng sau phẫu thuật trong những trường hợp kính lệch trục quá



25

mức làm giảm kết quả của phẫu thuật. Đây là những đặc tính mà các phương
pháp điều chỉnh bằng đường rạch không có được. Mặc dù tỷ lệ phải xoay lại
trục kính không cao nhưng các báo cáo cũng đều cho thấy đã gặp những
trường hợp này và sau khi xoay lại kính vào cuối tuần thứ hai sau phẫu thuật
thì trục của kính toric đều ổn định rất tốt.
o Nhược điểm:
Kỹ thuật đòi hỏi phẫu thuật phaco phải được thực hiện một cách khá
hoàn hảo. Khi quá trình xé bao diễn ra không hoàn hảo, hoặc khi có biến
chứng rách bao sau trong quá trình phẫu thuật thì phải chuyển sang loại kính
nội nhãn đơn tiêu thông thường và thực hiện bổ xung các kỹ thuật điều chỉnh
loạn thị khác phù hợp. Nếu đặt kính nội nhãn toric trong các trường hợp rách
bao trước hoặc rách bao sau, kính sẽ khó định tâm định trục và dễ bị xoay
trong giai đoạn sớm và bị các phản ứng xơ co không đều của túi bao TTT
trong giai đoạn muộn làm lệch trục kính.
10.1.1.4. Các đặc điểm của kính nội nhãn toric ảnh hưởng đến kết quả phẫu thuật
Không giống như những kính nội nhãn đơn tiêu thông thường, tính ổn
định không xoay trục của kính nội nhãn toric là một đặc tính vô cùng quan trọng
ảnh hưởng đến cả kết quả trước mắt và lâu dài. Điều này phụ thuộc vào rất nhiều
đặc điểm cấu tạo của kính nội nhãn về chất liệu, kích thước và kiểu dáng.

 Chất liệu sinh học kính nội nhãn toric:
Chất liệu sinh học là một trong những yếu tố vô cùng quan trọng ảnh
hưởng đến hiện tượng xoay trục của kính nội nhãn và các biến chứng muộn
khác mà phổ biến nhất là đục bao sau thứ phát. Sau phẫu thuật phaco, cần
khoảng thời gian từ 1 - 2 tuần để túi bao TTT ổn định về thể tích và độ căng
để giữ kính nội nhãn không bị xoay chuyển. Ngay giai đoạn sớm này, sự ma

sát giữa túi bao và càng của IOL đóng vai trò rất quan trọng làm hạn chế hiện
tượng xoay trục của kính nội nhãn. Sự ma sát càng lớn thì tính ổn định càng


×