Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 làm tốt các bài tập về từ loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 22 trang )

MỤC LỤC
Mục
1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1
2.1.1
2.1.2
2.2
2.2.1
2.2.2
2.3
2.3.1
2.3.2
2.3.2.1
2.3.2.2
2.3.2.3
2.3.3
2.3.3.1
2.3.3.2
2.3.3.3
2.3.4
2.3.4.1
2.3.4.2
2.4
3
3.1
3.2



Nội dung
MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG
Cơ sở lí luận
Căn cứ để phân biệt danh từ, động từ, tính từ
Các cách phân chia từ loại danh từ, động từ, tính từ
Thực trạng
Nội dung dạy danh từ, động từ, tính từ ở Tiểu học
Thực trạng học từ loại danh từ, động từ, tính từ của học sinh lớp 4
Các giải pháp thực hiện
Giúp học sinh phân chia ranh giới từ chính xác
Nắm vững khái niệm từng từ loại
Danh từ
Động từ
Tính từ
Giúp học sinh làm tốt bài tập từ loại dựa vào khả năng kết hợp của từ
Khả năng kết hợp của danh từ
Khả năng kết hợp của động từ
Khả năng kết hợp của tính từ
Khả năng đảm nhiệm chức vụ ngữ pháp của từng từ loại
Khả năng đảm nhiệm chức vụ ngữ pháp của danh từ
Khả năng đảm nhiệm chức vụ ngữ pháp của động từ và tính từ
Hiệu quả của những kinh nghiệm giúp học sinh làm tốt các bài tập về từ loại
KẾT LUẬN
Kết luận

Kiến nghị

Trang
1
1
1
1
1
3
3
3
3
4
4
5
6
6
7
7
9
10
10
11
11
12
13
13
14
14
18

18
18

1


1. MỞ ĐẦU
1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
“ Hiền tài là nguyên khí quốc gia”, câu nói của Thân Nhân Trung dưới thời
nhà Lê cho đến bây giờ vẫn còn nguyên giá trị. Để có được những bậc hiền tài làm
cho đất nước ta giàu mạnh phải có một nền giáo dục vững chắc. Giáo dục là một
lĩnh vực quan trọng trong đời sống xã hội đối với mỗi quốc gia, mỗi dân tộc và ở
mọi thời đại. Giáo dục góp phần nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân
tài cho đất nước đồng thời góp phần bảo vệ chế độ chính trị, cung cấp nguồn nhân
lực có trình độ góp phần phát triển kinh tế đất nước, trong đó phát triển khoa học
công nghệ là yếu tố quyết định nền kinh tế tri thức. Trong xu thế phát triển kinh tế
đất nước và hội nhập hiện nay, giáo dục đào tạo được Đảng, Nhà nước ta xem là
“ quốc sách hàng đầu” và được chọn là xương sống cho sự phát triển bền vững đất
nước. Với những vai trò quan trọng ấy, giáo dục cần đổi mới căn bản và toàn diện,
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước như nghị quyết số 29 Ban
chấp hành trung ương Đảng đã khẳng định.
Là một giáo viên hàng ngày đứng trên bục giảng, bản thân tôi nhận thức rõ
vai trò, trách nhiệm của người giáo viên trước những yêu cầu đổi mới của ngành và
luôn đặt ra yêu cầu nâng cao hơn nữa chất lượng dạy học. Việc đổi mới, nâng cao
chất lượng dạy học phải xuất phát từ những việc làm cụ thể, từ những bài học, môn
học. Ở bậc Tiểu học, Tiếng Việt là một môn học có vai trò rất quan trọng nhằm mục
tiêu hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng tiếng Việt ( đọc, nghe, nói,
viết), góp phần rèn luyện các thao tác tư duy, cung cấp những kiến thức sơ giản về
Tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên, văn hóa, văn học, bồi
dưỡng tình yêu Tiếng Việt, thói quen giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt, hình

thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Từ loại Tiếng Việt là một nội dung kiến thức được sắp xếp trong chương
trình phân môn luyện từ và câu lớp 4. Những năm trực tiếp dạy lớp 4, tôi nhận ra
một thực tế, học sinh lớp 4 vẫn còn nhầm lẫn danh từ, động từ, tính từ, chưa làm tốt
các bài tập liên quan đến từ loại. Để giúp học sinh khắc phục sự những tồn tại đó,
tôi đã tích lũy một số kinh nghiệm và vận dụng trong thực tế giảng dạy ở các năm
học. Đó chính là “ Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 làm tốt các bài tập về từ
loại.”
1.2 . MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đề xuất, đưa ra một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 làm tốt các bài tập về
danh từ, động từ, tính từ qua những kinh nghiệm dạy học của bản thân được tích
lũy trong những năm qua.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Từ loại Tiếng Việt
- Các biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 4 phân biệt danh từ, động từ, tính từ
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2


- Nghiên cứu các tài liệu về từ loại Tiếng Việt
- Nghiên cứu thực tiễn dạy học trên lớp qua các năm học, các đối tượng học
sinh lớp 4 khi học từ loại danh từ, động từ, tính từ
- Điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin, dữ liệu về các từ loại nghiên
cứu
- Thống kê toán học, xử lí số liệu về kết quả vận dụng thực hành xác định
danh từ, động từ, tính từ và các bài tập vận dụng.
- Phân tích, tổng hợp, khái quát hóa một số vấn đề về danh từ, động từ, tính
từ trong Tiếng Việt.

3



2. NỘI DUNG
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
2.1.1. Căn cứ để phân biệt danh từ, động từ, tính từ:
Để tạo thành một đoạn văn cần có những câu văn. Để tạo thành một câu văn
cần có từ. Từ biểu thị sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan đồng thời xác
định mối quan hệ của chúng với các thành phần khác trong câu. Bằng các cách thức
khác nhau, từ đảm nhiệm các chức năng nói trên. Dựa vào các đặc điểm ngữ pháp,
các từ được phân chia ra thành từng loại nên ta gọi là từ loại. Mỗi từ loại đều có
chung ý nghĩa khái quát và đặc điểm ngữ pháp. Các từ đó có cùng một hoặc nhiều
đặc điểm giống nhau tạo thành nhóm từ. Đó cũng là cơ sở để phân loại từ vựng
thành các nhóm từ hay phân chia từ vựng thành các từ loại. Từ loại là những lớp
khái niệm khái quát nhất của các từ có liên quan đến các chức năng cú pháp nhất
định. Khả năng đảm nhiệm các chức vụ ngữ pháp của từ rất quan trọng. Khả năng
đó giúp chúng ta biết có thể kết hợp các từ lại với nhau như thế nào là phù hợp, từ
đó chúng ta sử dụng từ đúng quy tắc ngôn ngữ.
Danh từ, động từ, tính từ là những từ loại mang những đặc điểm rõ nét và
khả năng kết hợp rành mạch, số lượng từ cũng chiếm nhiều trong Tiếng Việt. Trên
cơ sở của nhóm từ có cùng đặc điểm giống nhau, khả năng kết hợp từ giống nhau,
đảm nhiệm các chức năng ngữ pháp khác nhau, chúng được phân chia thành các
nhóm từ mang tên gọi gợi bản chất khái quát của chúng: Danh từ, động từ, tính từ.
2.1.2. Các cách phân chia từ loại danh từ, động từ, tính từ
Trong vốn từ vựng Tiếng Việt, chúng ta có thể dựa vào ngữ nghĩa và cú pháp
để phân chia vốn từ vựng thành từ loại.
Theo tiêu chí ngữ nghĩa, từ vựng được phân chia thành thực từ và hư từ.
Thực từ chính là những từ mang ý nghĩa cụ thể, có ý nghĩa từ vựng, thường gọi tên
các sự vật, sự việc, hiện tượng, gọi tên các hoạt động, trạng thái, đặc điểm của sự
vật ...được gọi là nhóm từ định danh. Như vậy, danh từ, động từ, tính từ có ý nghĩa
từ vựng cụ thể nên chúng thuộc nhóm thực từ. Bên cạnh đó, thực từ còn có các từ

thuộc nhóm chỉ định và các từ thuộc nhóm liệt kê, xếp dãy. Hư từ là những từ
không mang ý nghĩa từ vựng, không rõ nghĩa từ vựng. Hư từ chỉ mang ý nghĩa ngữ
pháp, chỉ có chức năng ngữ pháp trong câu, đảm nhiệm một số chức năng trong
câu.
Theo tiêu chí cú pháp, chúng ta phân biệt từ vựng dựa vào khả năng kết hợp
với những từ khác. Vì vậy, căn cứ vào khả năng kết hợp và đảm nhiệm các chức vụ
ngữ pháp trong câu, chúng ta sẽ biết đó là từ loại gì? Dựa vào tiêu chí này, nhóm từ
định danh sẽ bao gồm danh từ, động từ, tính từ... còn các từ khác được coi như là
công cụ hay những hình vị ngữ pháp có vai trò làm cho câu văn, đoạn văn được
liên kết chặt chẽ với nhau, logic, giúp câu văn mang ý nghĩa trọn vẹn. Cũng trên cơ
sở dựa vào ý nghĩa khái quát, khả năng kết hợp và chức vụ ngữ pháp, chúng ta đã
phân chia từ vựng thành nhiều lớp cụ thể với các đặc trưng xác định.
4


2.2. THỰC TRẠNG
2.2.1. Nội dung dạy danh từ, động từ, tính từ ở Tiểu học:
Trong chương trình phân môn luyện từ và câu ở bậc Tiểu học, danh từ, động
từ và tính từ được học từ lớp 2 đến lớp 5 nhưng các lớp 2 và 3 chưa xuất hiện khái
niệm danh từ, động từ, tính từ. Ở các lớp này, chủ yếu học sinh được luyện tập
nhiều lần qua các bài tập với yêu cầu tìm từ chỉ sự vật hoặc hoạt động, đặc điểm,
dùng từ chỉ sự vật, hoạt động, đặc điểm để viết câu. Lên lớp 4, các em bắt đầu được
làm quen với nhiều khái niệm trong đó có khái niệm danh từ, động từ, tính từ. Ở
mỗi bài học khái niệm này, học sinh được lĩnh hội kiến thức theo phương pháp quy
nạp - diễn dịch, nghĩa là học sinh thông qua tìm hiểu, phân tích các ngữ liệu ở các
bài tập phần nhận xét rút ra nội dung ghi nhớ và tiếp tục vận dụng nội dung cần ghi
nhớ đó vào giải quyết các bài tập cụ thể ở phần luyện tập. Đến lớp 5, học sinh được
ôn tập, củng cố lại các khái niệm về từ loại đã học ở lớp 4 và tiếp tục thực hành giải
quyết các bài tập nhận diện từ, đặt câu, viết câu văn, đoạn văn. Hệ thống các bài tập
về từ loại được sắp xếp theo trình tự từ dễ đến khó.

Ví dụ: Bài tập nhận diện từ:
Lớp 2: Tìm những từ chỉ sự vật ( người, đồ vật, con vật, cây cối...) được vẽ
trong tranh.
Lớp 3: Tìm từ chỉ sự vật trong khổ thơ sau:
Tay em đánh răng
Răng trắng hoa nhài.
Tay em chải tóc
Tóc ngời ánh mai.
Lớp 4: Tìm các danh từ chung và danh từ riêng trong đoạn văn sau:
“ Chúng tôi đứng trên núi Chung ....giữa hai dãy núi là nhà Bác Hồ”
Bài tập vận dụng:
Lớp 2: Tìm các từ:
- Chỉ đồ dùng học tập
M: bút
- Chỉ hoạt động của học sinh.
M: đọc
- Chỉ tính nết của học sinh.
M: chăm chỉ
Lớp 3: Đặt câu theo mẫu Ai thế nào? để miêu tả:
a. Một bác nông dân
b. Một bông hoa trong vườn.
c. Một buổi sớm mùa đông
Lớp 4: - Hãy tìm những từ ngữ miêu tả mức độ khác nhau của các đặc điểm
sau: đỏ, cao, vui.
- Đặt câu với mỗi từ ngữ em vừa tìm được ở bài tập 2.
Lớp 5: Dựa vào ý khổ thơ 2 trong bài “ Hạt gạo làng ta” của Trần Đăng
Khoa, viết một đoạn văn ngắn tả người mẹ cấy lúa giữa trưa tháng sáu nóng bức.
Chỉ ra một động từ, một tính từ và một quan hệ từ em đã dùng trong đoạn văn ấy.
5



Đối với chương trình học cơ bản, việc sắp xếp mạch kiến thức về từ loại
Tiếng Việt và hệ thống bài tập đưa ra như vậy là tương đối hơp lí. Một số kiến thức
từ loại mang tính trừu tượng đã được giảm tải đảm bảo mức độ chuẩn kiến thức kĩ
năng như danh từ chỉ khái niệm và danh từ chỉ đơn vị đã được lược bỏ trong
chương trình LTVC lớp 4. Việc học và giải quyết các bài tập về danh từ, động từ,
tính từ trở nên nhẹ nhàng hơn. Song ngoài những nội dung được luyện tập trong
SGK, các em có những lúc còn luyện tập thêm một số dạng bài khác nhằm củng cố,
khắc sâu kiến thức đã học. Qua một số bài tập khác dạng đó, các em bộc lộ rõ
những hạn chế trong việc nắm kiến thức, vận dụng giải quyết bài tập.
2.2.2. Thực trạng học từ loại danh từ, động từ, tính từ của học sinh lớp
4.
Mặc dù ở lớp 2, 3 các em đã được làm quen với các bài tập nhận diện các từ
chỉ sự vật, hoạt động, đặc điểm nhưng lên lớp 4, việc giải quyết các bài tập về từ
loại vẫn còn nhầm lẫn. Thực tế các bài tập học sinh mắc nhiều lỗi khác nhau như:
xác định thiếu từ loại theo yêu cầu (VD: Đoạn thơ có 5 danh từ, chỉ xác định được
4 danh từ), nhầm lẫn giữa từ loại này với từ loại khác, nhất là trong một số trường
hợp chuyển loại từ ( VD: nhầm lẫn danh từ với đại từ, nhầm lẫn động từ chỉ trạng
thái với tính từ), việc đặt câu hoặc viết đoạn văn có mẫu câu chứa các từ loại đã học
chưa đạt yêu cầu đề bài ( VD: Đề yêu cầu viết câu mẫu Ai làm gì ? có em lại viết
câu mẫu Ai thế nào?), có em nhầm lẫn từ loại với từ chia theo cấu tạo ( VD: Đề
yêu cầu xác định danh từ, động từ, tính từ thì lại xác định từ đơn, từ ghép, từ láy),
có em không phân chia được danh giới từ nên nhầm lẫn xác định cụm từ là một từ
hoặc ghép 1 tiếng của từ phức đứng trước với một tiếng của từ phức đứng sau để
tạo thành một từ loại một cách tối nghĩa, nhầm lẫn giữa danh từ chung với danh từ
riêng.....Bên cạnh đó cũng có một số học sinh còn mơ hồ về các từ loại danh từ,
động từ, tính từ. Để xác định chính xác mức đạt được của học sinh, sau khi học
xong tuần 24, tôi đã tiến hành tổ chức cho các em học sinh lớp 4B, năm học 2017
– 2018 làm một bài kiểm tra như sau:
Đề bài:

1. Tìm danh từ chung, danh từ riêng trong đoạn thơ sau:
Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay
Vượn hót, chim kêu suốt cả ngày
Khách đến thì mời ngô nếp nướng
Săn về thường chén thịt rừng quay.
2. Xác định chủ ngữ, vị ngữ của các câu sau và nói rõ vị ngữ do từ ngữ nào
tạo thành?
a. Màu vàng trên lưng chú lấp lánh.
b. Cánh hoa nhỏ như vảy cá, hao hao giống cánh sen con, lác đác vài nhụy
li ti giữa những cánh hoa.
Đáp án:
6


1.
Danh từ riêng: Việt Bắc
Danh từ chung: cảnh, rừng, vượn, chim, ngày, khách, ngô nếp, thịt rừng.
2.
a. Màu vàng trên lưng chú // lấp lánh.
CN
VN
b. Cánh hoa //nhỏ như vảy cá, hao hao giống cánh sen con, lác đác vài nhụy
CN
VN
li ti giữa những cánh ho
Vị ngữ ở câu a do tính từ tạo thành, vị ngữ ở câu b do cụm tính từ tạo thành.
Kết quả sau khi học sinh làm bài là:

Năm học
2017 – 2018


Tổng số
học sinh
34

Điểm 9,
Điểm 7, 8
Điểm 5, 6
10
2 = 5,8 % 11= 32,3 % 14=41,4 %

Điểm dưới
5
7 = 20,5 %

Qua nhiều năm dạy các em học sinh lớp 4, tôi nhận thấy từ loại trong chương
trình phân môn luyện từ và câu chỉ chiếm 6 tiết nhưng đây là một nội dung học tập
quan trọng, cơ bản và trọng tâm. Trong các đề kiểm tra giữa kì, cuối kì, các câu hỏi
về từ loại thường xuyên xuất hiện. Chất lượng làm các bài tập có liên quan đến từ
loại của học sinh chưa đạt như mong muốn. Xuất phát từ mục tiêu nâng cao hơn
nữa việc nhận diện các từ loại danh từ, động từ, tính từ và vận dụng kiến thức đã
học giải quyết các bài tập liên quan, tôi đã nghiên cứu một số biện pháp giúp học
sinh làm tốt các bài tập về từ loại .
2.3. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
2.3.1. Giúp học sinh phân chia ranh giới từ chính xác
Việc phân chia ranh giới từ đúng sẽ giúp học sinh xác định đúng từ loại.
Trong thực tế, nhiều bài làm của học sinh do không phân chia đúng ranh giới từ đã
dẫn đến xác định cả cụm từ là một từ hoặc khó xác định từ loại.
Ví dụ: Xác định danh từ, động từ, tính từ trong các câu sau:
“ Xe chúng tôi leo chênh vênh trên dốc cao của con đường xuyên tỉnh

Hoàng Liên Sơn. Những đám mây trắng nhỏ sà xuống cửa kính ô tô tạo nên một
cảm giác bồng bềnh, huyền ảo.”
Do vạch danh giới từ chưa đúng, một số học sinh đã xác định “ dốc cao” là
một từ và đó là danh từ, “ mây trắng nhỏ” là một tính từ. Để xác định đúng các từ
loại trong đoạn văn, trước hết, giáo viên cần cho học sinh vạch ranh giới từ như
sau:

7


“ Xe/ chúng tôi/ leo/ chênh vênh/ trên/ dốc/ cao/ của/ con/ đường/ xuyên/
tỉnh/ Hoàng Liên Sơn/. Những/ đám/ mây trắng/ nhỏ/ sà/ xuống/ cửa kính/ ô tô/ tạo
nên/ một/ cảm giác/ bồng bềnh/, huyền ảo/.”
Việc phân chia được danh giới từ cần có những kiến thức vững chắc về cấu
tạo từ. Vì vậy, khi học sinh học cấu tạo từ, giáo viên yêu cầu học sinh nắm chắc
khái niệm từ đơn, từ phức ( bao gồm từ ghép và từ láy), khắc sâu nội dung ghi nhớ:
Từ đơn chỉ gồm một tiếng có nghĩa, từ phức gồm hai hay nhiều tiếng ( nếu ghép
các tiếng lại với nhau thành nghĩa chung là từ ghép, nếu phối hợp những tiếng có
âm đầu hoặc vần hoặc cả âm đầu và vần giống nhau là từ láy), đồng thời luyện tập
nhiều bài tập về cấu tạo từ trong đó có bài tập vạch danh giới từ.
Trong tiếng Việt, có những trường hợp từ “lưỡng tính”, học sinh có các cách
phân tích khác nhau. Chẳng hạn: cụm từ“ những đám mây trắng” có thể phân tích
thành
những/ đám/ mây/ trắng/ nhỏ/ (1)
những /đám/ mây trắng / nhỏ/(2)
những /đám mây trắng/nhỏ (3)
những /đám/ mây trắng nhỏ (4)
Trong trường hợp học sinh có những phân tích như trên, giáo viên nên đưa ra
một sự nhất quán trong phân tích các cụm từ tương tự để học sinh nắm chắc cách
phân tích cấu tạo. Từ dó, các em sẽ làm đúng các bài tập tương tự. Trong ba cách

phân tích trên, giáo viên khẳng định cách phân tích (2) là phù hợp trong đó
“đám”là từ đơn và là một danh từ đơn vị, “mây trắng” là từ ghép và là danh từ chỉ
sự vật, “nhỏ” là tính từ.
Ở những bài tập nhận diện từ loại trong một dữ liệu ( đoạn văn, đoạn thơ, câu
văn, câu thơ), đối với những học sinh có kĩ năng nhận định ranh giới từ tốt thì
không cần thiết yêu cầu học sinh vạch ranh giới từ, đối với những học sinh nhận
định còn nhầm lẫn, giáo viên cần cho các em dùng bút vạch rõ ranh giới các từ. Từ
đó, các em có cơ sở xác định đúng danh từ, động từ, tính từ.
2.3.2. Nắm vững khái niệm từng từ loại
Các từ loại được học trong chương trình luyện từ và câu lớp 4 bao gồm danh
từ, động từ, tính từ.
2.3.2.1. Danh từ:
Phần ghi nhớ SGK Tiếng Việt 4, tập 1, trang 53 có viết: Danh từ là những
từ chỉ sự vật ( người, vật, hiện tượng, khái niệm hoặc đơn vị). Trong đó, danh từ
chỉ người như : ông, cha, học sinh, giáo viên...; danh từ chỉ vật như: sông, hồ, bàn,
ghế, mũ, nón...; danh từ chỉ hiện tượng như: mưa, nắng, giông bão; danh từ chỉ khái
niệm như: cuộc sống, đạo đức, kinh nghiệm, danh từ chỉ đơn vị như: con, cái,
chiếc, mảnh, tấm, tấn, tạ, ki- lô - gam, xăng - ti –mét, thôn, xóm, tỉnh huyện....
Để giúp học sinh mở rộng kiến thức về khái niệm danh từ, trong bài học,
giáo viên có thể lồng thêm một số kiến thức về danh từ. Chẳng hạn, ngoài các danh
8


từ chỉ người, vật, hiện tượng, khái niệm, đơn vị, trong nhiều văn cảnh còn có danh
từ chỉ sự việc như: lễ chào cờ, cuộc họp, giáng sinh, sinh nhật... Từ đó, có thể khái
quát để học sinh hiểu rộng hơn: Danh từ là những từ chỉ sự vật, sự việc. Sau khi
học sinh nắm được khái niệm danh từ, ở mỗi loại danh từ, giáo viên nên cho học
sinh tự lấy ví dụ để khắc sâu kiến thức một lần nữa và vận dụng làm các bài tập.
Đối với bài tập 1, 2 trong SKG Tiếng Việt 4 trang 53, do đã được giảm tải nên giáo
viên có thể thay thế bằng hai bài tập khác. Trong các năm dạy lớp 4, tôi đã thay thế

bằng hai bài tập sau:
Bài 1: Xếp những từ sau đây thành hai nhóm và đặt tên cho mỗi nhóm:
sách, cô giáo, bút, mẹ, cha, vở, anh chị, quần áo, bộ đội, khăn đỏ.

Nhóm
1:
Từ Nhóm 2: Từ chỉ.................................
chỉ ...............................
.....
từ: Các từ: --------------------------------------

Các

.............................

----------------------------------------------------------------

.......................

--------------------------------

----------------------------------------------------------------------------------------------Bài 2: Viết tiếp vào chỗ trống 5 từ ngữ chỉ người theo nghề nghiệp:
Giáo viên, thợ xây,.............................................................................................
------------------------------------------------------------------------------------------Sau khi học sinh nắm vững khái niệm danh từ, giáo viên tiếp tục cho học
sinh phân biệt danh từ riêng, danh từ chung. Danh từ riêng là tên riêng của một sự
vật, danh từ riêng luôn luôn được viết hoa như: Cửu Long ( dòng sông lớn nhất
chảy qua nhiều tỉnh phía Nam nước ta), Lê Lợi ( vị vua có công đánh đuổi giặc
Minh, lập ra nhà Lê ở nước ta). Danh từ chung là tên chung của một loại sự vật
như: sông ( dòng nước chảy tương đối lớn, trên đó thuyền bè đi lại được), vua
( người đứng đầu nhà nước phong kiến). Để học sinh hiểu và nhận diện đúng các

danh từ chung, giáo viên giới thiệu danh từ chung có thể chia thành hai loại: Danh
từ cụ thể và danh từ trừu tượng. Những danh từ cụ thể thường chỉ sự vật mà chúng
9


ta có thể cảm nhận được bằng các giác quan như: quần áo, mưa, nắng, bác sĩ, bảo
vệ..., còn những danh từ trừu tượng thường chỉ các sự vật mà ta không cảm nhận
được bằng giác quan, chỉ cảm nhận được nhờ những suy nghĩ, tưởng tượng, nhận
thức của mỗi người như: tâm hồn, tính cách, niềm tin....
Việc xác định danh từ cần được luyện tập thêm giúp học sinh chắc chắn hơn
khi giải quyết các bài tập. Vì vậy, ngoài các buổi chính khóa, giáo viên có thể tổ
chức cho học sinh làm thêm một số bài tập khác. Chẳng hạn những bài tập yêu cầu
học sinh viết tên địa chỉ nơi mình ở hoặc viết tên các danh lam, thắng cảnh, di tích
lịch sử, giáo viên giúp học sinh vừa nắm được quy tắc viết tên người, tên địa lí
Việt Nam, vừa nhận biết đúng danh từ chung, danh từ riêng:
VD: Viết địa chỉ của gia đình em:
làng Cao Thắng, xã Cao Thịnh, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa
các từ: làng, xã, huyện, tỉnh là danh từ chung nên viết thường; các từ Cao Thắng,
Cao Thịnh, Ngọc Lặc, Thanh Hóa là danh từ riêng nên viết hoa.
2.3.2.2. Động từ
Động từ là những từ chỉ hoạt động, trạng thái của sự vật ( Ghi nhớ - SGK
Tiếng Việt 4, trang 94). Khi dạy đến bài học về động từ, giáo viên giúp học sinh
hiểu rõ bản chất của từ, nắm chắc kiến thức về động từ, biết lấy ví dụ về các trường
hợp của động từ. Các động từ chỉ hoạt động thường thể hiện sự tác động giữa các
sự vật với nhau như: đánh, chơi, ăn, chạy, học, viết... giúp học sinh dễ nhận diện.
Tuy nhiên, các động từ chỉ trạng thái thường thể hiện những diễn biến bên trong sự
vật như: còn, mất, biến thành, biến mất, vui, buồn, hốt hoảng.... học sinh khó phát
hiện hoặc nhầm lẫn với tính từ. Để giúp học sinh nhận diện được các động từ chỉ
trạng thái, giáo viên có thể giới thiệu thêm cho các em một số loại động từ chỉ trạng
thái như động từ chỉ trạng thái tâm lí: vui, buồn, giận dỗi, lo lắng, băn khoăn..,

động từ chỉ trạng thái biến hóa: biến thành, biến, hóa, hóa thành...., động từ chỉ
sự tồn tại: còn, mất, có, hết, ....động từ chỉ trạng thái so sánh: hơn, kém, thua,
bằng, là.... động từ chỉ trạng thái tiếp nhận: bị, được, chịu, phải....
Động từ chỉ trạng thái còn được gọi là động từ nội động, thường chỉ tình
trạng của con người hoặc các sự vật khác tồn tại trong hiện thực. Nó mang tính
trung gian giữa động từ và tính từ nên có nhiều động từ trạng thái vẫn được xác
định là tính từ. Để giúp học sinh tiểu học không nhẫm lẫn, giáo viên nhấn mạnh các
từ chỉ trạng thái là động từ và cho các em thực hành một số bài tập nhận diện động
từ chỉ trạng thái để khắc sâu kiến thức.
VD: Gạch dưới động từ trong các câu sau:
a. Chiếc bút của em đã bị mất.
b. Tre bần thần nhớ gió.
c.
Những ngôi sao thức ngoài kia
Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con.
Ngoài ra, trong nhiều văn cảnh ta còn gặp những từ “gần nghĩa khác âm”
10


( còn gọi là hiện tượng chuyển nghĩa) và được xem như là một động từ chỉ trạng
thái.
VD: Ông cụ đã đi cách đây hai ngày. ( đi cùng nghĩa với từ trần, quá cố, mất,
chết, qua đời...là hiện tượng chuyển nghĩa từ động từ hoạt động“đi” (chỉ sự di
chuyển bằng chân) sang động từ trạng thái “đi” ( chỉ sự không tồn tại )
Trong Tiếng Việt, những trường hợp khi là động từ chỉ sự hoạt động, khi là
động từ chỉ trạng thái như trên ta gặp rất nhiều. Chẳng hạn:
Mặt trời đã đứng bóng. ( Từ đứng chỉ trạng thái)
Tôi đang đứng trên bờ đê con sông Mã. (Từ đứng chỉ hoạt động)
Khi gặp những câu văn như trên, giáo viên lưu ý học sinh dựa vào văn cảnh
để xác định đúng từ loại động từ.

Có một số động từ chỉ trạng thái rất dễ nhầm lẫn với tính từ như: vui, buồn,
yêu, ghét.... Trong những văn cảnh có các động từ này, đối với học sinh Tiểu học,
chúng ta đều cho các em xác định là động từ.
2.3.2.3. Tính từ
Tính từ là những từ miêu tả đặc điểm hoặc tính chất của sự vật, hoạt
động, trạng thái ( Phần ghi nhớ SGK Tiếng Việt 4, trang 111 ). Trong tiết dạy về
tính từ, sau khi cho học sinh tìm hiểu và giải quyết các bài tập ở phần nhận xét, rút
ra nội dung cần ghi nhớ trên đây, giáo viên nên phân tích mở rộng thêm về nội
dung ghi nhớ, nhấn mạnh và khắc sâu các ý trong phần ghi nhớ: miêu tả đặc điểm
hoặc tính chất của sự vât, đặc điểm hoặc tính chất của hoạt động, đặc điểm hoặc
tính chất của trạng thái, đồng thời lấy thêm ví dụ minh họa thêm cho mỗi ý.
VD: Mặt đường phẳng lì. (Tính từ phẳng lì miêu tả đặc điểm sự vật)
Nước mía ngọt lịm (Tính từ ngọt lịm miêu tả tính chất của sự vật)
Cậu bé chạy nhanh thoăn thoắt. ( Tính từ thoăn thoắt miêu tả đặc
điểm của hoạt động nhanh)
Chị ấy đang buồn rười rượi. ( Tính từ rười rượi miêu tả đặc điểm của
trạng thái buồn).
Đặc điểm hoặc tính chất của sự vật có thể là màu sắc, hình dáng, kích thước,
âm thanh, hình khối và phẩm chất, tư chất, tính tình của con người. Từ chỉ đặc điểm
của con người, đồ vật cây cối, con vật là những từ chỉ vẻ riêng, nét riêng bên ngoài
chúng ta có thể tri giác được, quan sát được như: to, nhỏ, cao, thấp, béo, gầy, xanh,
đỏ... hoặc những đặc điểm bên trong chúng ta cảm nhận được qua sự phân tích,
khái quát, nhìn nhận như: trung thực, hiền lành, thông minh, tốt, xấu... Những tính
từ chỉ các đặc điểm bên trong sự vật là những tính từ chỉ tính chất, tư chất, phẩm
chất.
Khi dạy về tính từ, ngoài giúp học sinh hiểu thấu đáo các ý trong nội dung
phần ghi nhớ, giáo viên cần giúp các em nắm được các mức độ của tính từ bao
gồm: tính từ không có mức độ, tính từ có mức độ và tính từ chỉ mức độ cao nhất.

11



VD: cao, đỏ, béo, dài, xa, lạ... là những tính từ không có mức độ, thường chỉ
tính chất chung ( thường do các từ đơn tạo thành)
cao cao, đo đỏ, dài dài, xa xa, là lạ ....là những tính từ chỉ mức độ thấp
( thường do các từ láy tạo thành)
cao vút, đỏ chói, dài ngoẵng, xa tít, lạ lẫm .....là những tính từ chỉ mức độ
cao nhất (thường do các từ ghép tạo thành).
2.3.3. Giúp học sinh làm tốt bài tập từ loại dựa vào khả năng kết hợp
Ngoài nắm vững khái niệm danh từ, động từ, tính từ, để làm tốt các bài tập
liên quan đến ba từ loại này, giáo viên cần giúp học sinh dựa vào khả năng kết hợp
của từ loại đó với các từ khác để tạo thành cụm từ.
2.3.3.1. Khả năng kết hợp của danh từ
Một cụm danh từ đầy đủ sẽ có 3 yếu tố: từ bổ sung ý nghĩa đứng trước, danh
từ trung tâm và từ bổ sung ý nghĩa đứng sau.
VD: Những chú gà ấy
( PT: phụ trước, PS: phụ sau)
PT
DT PS
Để tạo được một cụm danh từ như trên cần phải có danh từ trung tâm và các
từ có khả năng kết hợp được với danh từ. Danh từ có thể kết hợp được với các từ
chỉ số lượng đứng trước. Những từ chỉ số lượng có thể là số lượng cụ thể như: Một,
hai, ba, bốn...
VD: bốn anh tài, hai chị em, năm anh em, ba bút chì ....
Ngoài các từ chỉ số lượng cụ thể, danh từ còn kết hợp với các từ chỉ số
lượng không cụ thể ( tổng lượng) như: vài ba, dăm bảy, những, các...
VD: Những chú chim, vài ba hàng quán, các anh chị phụ trách, ....
Danh từ còn kết hợp với các từ đứng trước là các từ chỉ đơn vị như: cái,
con, tấm, chiếc, mảnh, loại thứ....Đây cũng là những danh từ đơn vị kết hợp với các
danh từ khác để tạo thành cụm danh từ hay còn gọi là từ chỉ xuất.

VD: Năm cái chén, hai mảnh vải, bốn chiếc áo, thứ đồ chơi....
Đứng sau danh từ là các từ chỉ định như : này, nọ, kia, ấy, đó....Như vậy,
danh từ kết hợp được với các từ chỉ định đứng sau.
VD: học sinh ấy, cô gái nọ, cái bút kia...
Sau danh từ trung tâm còn có các từ chỉ đặc điểm, tính chất đi kèm có vai
trò bổ sung ý nghĩa cho danh từ.
VD: học sinh giỏi ấy, cô gái xinh đẹp kia, chú chó trung thành này....
Như vậy, một cụm danh từ có thể có tới 2, 3 thành tố phụ đứng trước và 1,
2 thành tố phụ đứng sau. Chẳng hạn:
Tất cả những cái áo trắng tinh ấy
1
2
3 DT
4
5
Các từ 1, 2, 3 là thành phần phụ trước, các từ 4, 5 là thành phần phụ sau.
Ngoài ra, danh từ còn có khả năng tạo câu hỏi với các từ nghi vấn như: nào? gì?
12


VD: bức tranh nào? cái gì? Con gì? Cây gì? ...
Trong một số trường hợp chuyển loại từ, các tính từ, động từ đi kèm với các
từ : nỗi, niềm, sự, cuộc, cái... sẽ trở thành danh từ.
VD: niềm vui, nỗi buồn, sự thành công, cuộc cách mạng...
Dựa vào các khả năng kết hợp trên đây của danh từ, giáo viên sẽ giúp các
em nhận diện đúng các danh từ, cụm danh từ trong những văn cảnh cụ thể. Trong
tiết học luyện tập thêm về danh từ, giáo viên mở rộng thêm kiến thức về khả năng
kết hợp của danh từ để các em có thể làm tốt các bài tập về danh từ.
2.3.3.2 . Khả năng kết hợp của động từ
Động từ có khả năng kết hợp với các phụ từ chỉ mệnh lệnh. Các phụ từ chỉ

mệnh lệnh thường đứng trước động từ như: hãy, đừng, chớ, cấm, phải....
VD: hãy học đi, đừng chơi nữa, cấm nổ pháo,....
Động từ có thể kết hợp các từ: đi, nào, thôi,...đứng sau trong những câu
khiến.
VD: đi thôi, học nào, về đi...hoặc: Anh chạy đi! Bé cố lên nào!...
Trong một số văn cảnh có hiện tượng chuyển loại từ, ta thấy một số tính từ
khi kết hợp với các phụ từ chỉ mệnh lệnh đứng trước sẽ trở thành động từ
VD1: Trong các câu:
“Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá, bạc như vôi”
( Hồ Xuân Hương)
Từ “thắm” và “ xanh” là tính từ đã trở thành động từ .
VD2: “ chớ đỏ đen”, hãy “sáng” lên...
( “đỏ đen”, “sáng” là tính từ chyển thành động từ do có phụ từ mệnh lệnh
đứng trước)
Động từ cũng có thể tạo thành câu hỏi bằng cách đặt sau chúng các từ như
các từ: bao lâu?, bao giờ? Nếu một từ nào đó đứng trước các từ “bao giờ”, “bao
lâu” ta xác định đó là động từ.
VD: đi bao lâu?, về bao giờ? ăn bao lâu? .....
Động từ còn có khả năng kết hợp với các phụ từ chỉ thời gian đứng trước
như: đã, sẽ, đang, ...
VD: đã sang thu, sẽ trở lại, đang viết sáng kiến kinh nghiệm,....
Động từ kết hợp được với các từ: đều, vẫn, cũng đứng trước.
VD: cũng đến, đều làm, vẫn hoạt động...
Động từ kết hợp với các từ: xong, rồi, nữa.. đứng sau:
VD: biến mất rồi, còn nữa, làm xong....
Dựa vào những khả năng kết hợp trên đây của động từ, giáo viên giúp các
em nhận diện đúng các động từ trong từng văn cảnh cụ thể. Với những kiến thức về
khả năng kết hợp trên đây, giáo viên có thể mở rộng thêm trong các tiết luyện tập


13


về động từ đồng thời cho các em làm các bài tập vận dụng. Từ đó, các em có kĩ
năng xác định đúng các động từ và cụm động từ.
2.3.3.3. Khả năng kết hợp của tính từ
Điểm nổi bật nhất của tính từ là khả năng kết hợp được với các phụ từ chỉ
mức độ. Các phụ từ chỉ mức độ có thể đứng trước hoặc đứng sau tính từ như: rất,
quá, lắm, cực kì, vô cùng, hơi, tuyệt vời, tuyệt trần, tuyệt hảo, tuyệt diệu....
VD: rất đẹp, quá xinh, xinh quá, siêng lắm, đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi, đẹp
tuyệt vời, đẹp tuyệt trần, ngon tuyệt hảo,...
Ngoài ra, các động từ chỉ trạng thái cảm xúc như vui, buồn, lo lắng, sợ hãi...
cũng thường kết hợp được với các phụ từ chỉ mức độ. Để thống nhất cho tất cả học
sinh Tiểu học, giáo viên chỉ rõ cho học sinh thấy đó là các động từ, không thuộc
tính từ.
Một số danh từ, động từ trong các văn cảnh do có sự kết hợp với các phụ từ
chỉ mức độ đã trở thành tính từ. Trong những trường hợp này,giáo viên cần nhấn
mạnh khi một từ nào đó kết hợp được với các từ chỉ mức độ, ta khẳng định từ đó là
tính từ.
VD: Những chiếc áo dài rất Việt Nam ấy ( Từ “ Việt Nam” là danh từ đã
chuyển thành tính từ).
Khi làm các bài tập nhận diện từ loại ở lớp 4, việc sử dụng các khả năng
kết hợp của mỗi từ loại sẽ giúp học sinh biết nhận diện các từ loại một cách chính
xác, tránh được sự nhầm lẫn hoặc thiếu sót. Bên cạnh việc nắm vững khái niệm mỗi
từ loại và nắm được khả năng kết hợp của từ loại, giáo viên còn giúp học sinh căn
cứ vào khă năng đảm nhiệm các chức vụ ngữ pháp của mỗi từ loại để phân biệt.
2. 3.4. Khả năng đảm nhiệm chức vụ ngữ pháp của các từ loại
2.3.4.1. Khả năng đảm nhiệm chức vụ ngữ pháp của danh từ
Trong thực tế, danh từ có thể đảm nhiệm nhiều chức vụ ngữ pháp khác
nhau trong câu như chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ và bổ ngữ, định ngữ ( trước đây đưa

vào chương trình Tiểu học). Tuy nhiên, chức năng ngữ pháp chính của danh từ là
làm chủ ngữ. Trong chương trình học luyện từ và câu lớp 4, các em được học câu
chia theo mục đích nói, đặc biệt các em được học về ba mẫu câu kể: Ai làm gì? Ai
thế nào? Ai là gì? Cả ba mẫu câu kể này đều có chủ ngữ do danh từ hoặc cụm danh
từ tạo thành. Đây là căn cứ để học sinh dễ dàng xác định đúng danh từ.
VD: Các bạn học sinh // đang học bài. ( “Các bạn học sinh” là cụm danh từ)
CN
VN
Tất cả những bộ quần áo màu xanh ấy // đã giặt sạch sẽ.
CN
VN
Trong một số trường hợp do đảm nhiệm chức vụ ngữ pháp trong câu mà
tính từ, động từ đã chuyển thành danh từ. Như vậy, chủ ngữ trong tất cả các câu đều
là danh từ, cụm danh từ.
VD: Ấm no// là hạnh phúc của mọi người, mọi nhà.
14


CN
VN
Lao động// là vinh quang.
CN
VN
Trong câu văn trên, từ “ ấm no” là tính từ giữ chức vụ chủ ngữ nên trở thành
danh từ, “ lao động” là động từ giữ chức vụ chủ ngữ nên trở thành danh từ.
Trong mẫu câu Ai là gì? danh từ đảm nhiệm cả chức vụ chủ ngữ và vị ngữ.
VD: Bố em// là bộ đội.
CN
VN
Mẹ em// là giáo viên.

CN
VN
Em// là học sinh lớp 4C.
CN
VN
Trong ba câu trên, “ bộ đội”, “giáo viên”, “ học sinh lớp 4C” đều là danh từ
hoặc cụm danh từ giữ chức vụ vị ngữ trong câu.
2.3.4.2. Khả năng đảm nhiệm chức vụ ngữ pháp của động từ và tính từ
Cũng như danh từ, động từ và tính từ cũng có thể giữ tất cả các chức vụ
ngữ pháp trong câu như chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ, bổ ngữ, định ngữ...Song, chức
năng ngữ pháp chính của động từ và tính từ là thường làm vị ngữ trong câu, trừ
mẫu câu kể Ai là gì?. Trong mẫu câu Ai làm gì?, bộ phận vị ngữ thường do động từ,
cụm động từ tạo thành. Trong mẫu câu Ai thế nào ?, bộ phận vị ngữ thường do tính
từ, động từ trạng thái hoặc cụm tính từ, cụm động từ trạng thái tạo thành.
VD: Bạn Hoa // rất chăm học.
( Mẫu câu Ai thế nào?)
CN
VN
Bố em // đang tập thể dục.
( Mẫu câu Ai làm gì?)
CN
VN
Ngoài các mẫu câu kể đã học và các bộ phận chính của mỗi câu kể đó, các
câu chia theo mục đích nói khác đều có vị ngữ là động từ hoặc tính từ?
VD: Câu hỏi: Cháu đã ăn cơm chưa?
Câu khiến: Chị cứ về nhà đi.
Câu cảm: Con mèo nhà em dễ thương quá!
Việc căn cứ vào các chức vụ ngữ pháp cũng phần nào giúp học sinh nhận
diện đúng danh từ, động từ, tính từ. Từ đó, các em có thể vận dụng khi làm các bài
tập khác có liên quan.

2. 4. Hiệu quả của những kinh nghiệm giúp học sinh làm tốt các bài tập
nhận diện từ loại.
Sau một vài năm dạy lớp 4 với các thử nghiệm về các biện pháp nâng cao
chất lượng làm các bài tập về từ loại ở lớp 4 trên đây, bước đầu đã có những
chuyển biến tích cực trong học sinh. Trước hết, nhận thức về yêu cầu đề bài ở các
em đúng đắn, không có học sinh hiểu nhầm yêu cầu đề bài như trước đây, các em
đã biết xác định đúng yêu cầu đề ra. Khả năng phát hiện, nhận diện các danh từ,
15


động từ, tính từ ở các em nhanh hơn. Việc xác định các danh từ, động từ, tính từ
trong các dữ liệu đoạn văn, câu văn đầy đủ, chính xác. Đặc biệt, những học sinh
tham gia Câu lạc bộ Toán – Tiếng Việt, các em đã có kĩ năng xác định danh từ,
động từ, tính từ rất tốt, biết cách trình bày bài khoa học, biết lập luận giải thích vì
sao em xác định đó là danh từ hoặc động từ hoặc tính từ khi giáo viên yêu cầu giải
thích. Trong đề bài giao lưu CLB Toán – Tiếng Việt cấp trường năm học 2017 - 2018, câu 1 của phần Tiếng Việt là:
Gió nâng tiếng hát chói chang
Long lanh lưỡi hái liếm ngang chân trời.
- Xác định từ đơn, từ ghép, từ láy trong hai câu thơ trên.
- Xác định danh từ, động từ, tính từ trong hai câu thơ trên.
Kết quả bài làm của HS:

16


Trong đề giao lưu CLB Toán – Tiếng Việt cấp trường năm học 2018 – 2019,
ở câu 2 của phần Tiếng Việt có yêu cầu xác định danh từ, động từ, tính từ trong 2
câu thơ:
Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay
Vượn hót chim kêu suốt cả ngày.

Kết quả bài làm là:

17


Chất lượng bài làm về nhận diện từ loại trong 2 năm giao lưu CLB Toán –
Tiếng Việt cấp trường như sau:
Năm học
Năm học 2017 – 2018

Số HS tham gia Xác định đúng các Xác định còn nhầm
từ loại
1 đến 2 từ
32
28 = 87,5%
4 = 12,5%
18


Năm học 2018 – 2019
42
38 = 90,4%
4 = 9,6%
Đối với những kiến thức cơ bản ở lớp đại trà, các em cũng hoàn thành tốt
các bài tập cơ bản về danh từ, động từ, tính từ. Năm học 2018 – 2019, sau khi học
xong tuần 24, tôi cũng tiến hành cho học sinh làm bài kiểm tra như đề bài đã thực hiện với học
sinh năm trước. Kết quả sau khi chấm như sau:

Năm học


Tổng số
học sinh

Điểm 9, 10

Điểm 9, 10

Điểm 5, 6

Điểm dưới
5

2018 – 2019

37

20 = 54,1%

12 =32,4 % 5 =13,5 % 0 = 0%

Với những kết quả đạt được như trên, tôi thấy những kinh nghiệm trong việc
nâng cao chất lượng làm bài tập nhận diện từ loại ở lớp 4 đã có hiệu quả. Đó là
những thành công nho nhỏ trong dạy học mà tôi mong muốn được chia sẻ với đồng
nghiệp.

3. KẾT LUẬN
3.1. Kết luận

19



Dạy luyện từ và câu cho học sinh là giúp các em nắm được các quy tắc,
kiến thức về từ và câu Tiếng Việt. Phân môn này bao gồm các quy tắc đôi khi khô
cứng khiến học sinh lĩnh hội hoặc tự chiếm lĩnh kiến thức một cách khó khăn. Tuy
nhiên, trong quá trình dạy học, bằng những phương pháp dạy học mềm dẻo, khéo
léo kết hợp với những biện pháp khắc sâu kiến thức, giáo viên sẽ dần xây dựng cho
học sinh kĩ năng làm bài tốt hơn, nâng cao chất lượng, hoàn thành tốt các bài tập.
Đối với mảng kiến thức về từ loại bao gồm danh từ, động từ, tính từ trong
chương trình luyện từ và câu lớp 4, trong nhiều năm qua, tôi đã thường xuyên áp
dụng các biện pháp trên đây và thấy rõ kết quả học sinh đạt được sau khi tổ chức
các hoạt động học. Một trong những biện pháp giúp học sinh nhận diện danh từ,
động từ, tính từ nhanh là dựa vào khái niệm và khả năng kết hợp của chúng. Điều
đó chứng tỏ việc tích lũy những kinh nghiệm khi dạy một nội dung kiến thức nào
đó để vận dụng những kinh nghiệm trong thực tế sẽ rất hiệu quả. Đây là việc làm
thiết thực mà mỗi giáo viên nên quan tâm hơn.
Đối với các em học sinh, sau khi hoàn thành tốt mỗi bài tập về từ loại, được
giáo viên khen ngợi, các em tự tin và nỗ lực hơn, có nhiều cố gắng hơn trong học
tập. Khi gặp những bài tập về từ loại, các em không lúng túng và ngần ngại, nhiều
em hào hứng làm bài. Từ đó phong trào học tập trong lớp trở nên sôi nổi, học sinh
hăng hái xây dựng bài.
3. 2. Kiến nghị
Chương trình các môn học ở lớp 4 ở tất cả các môn học đều khó. Học sinh
từ lớp 3 lên lớp 4 còn bỡ ngỡ với những bài học dạng khái niệm, bài bản. Các bài
tập về từ loại ở lớp 4 lại là những dạng bài khái niệm. Mỗi bài học bao gồm phần
nhận xét, ghi nhớ và luyện tập. Vì vậy, giáo viên dạy khối 4 cần có những hướng
dẫn cụ thể ngay từ những bài học có dạng khái niệm đầu tiên để các em làmq quen
và luyện tập tư duy khái quát, biết vận dụng những vấn đề đã được khái quát hóa
( tức phần ghi nhớ) vào các bài tập thực hành. Trong quá trình dạy các bài học về từ
loại, ngoài những kiến thức có trong SGK, giáo viên nên có những tham khảo để
mở rộng kiến thức cho học sinh đồng thời dạy cho các em biết cách nhận diện từ

loại nhanh, chắc chắn bằng phép thử với các từ có khả năng kết hợp. Giáo viên
cũng nên cho học sinh tự lấy các ví dụ minh họa cho mỗi nội dung kiến thức và làm
thêm một số bài tập ngoài SGK để khắc sâu kiến thức thành thạo kĩ năng làm bài
tập về từ loại.
Từ loại cũng là một mảng kiến thức hay mà tổ chuyên môn có thể xây dựng
làm một nội dung sinh hoạt. Trong dạy học, nếu giáo viên thấy còn băn khoăn về
một từ loại nào đó hoặc vướng mắc khi hướng dẫn học sinh giải quyết một bài tập
nên đưa vấn đề này thảo luận trong sinh hoạt tổ chuyên môn. Từ đó, chất lượng
sinh hoạt tổ chuyên môn nâng cao hơn.
Tổ chức sinh hoạt CLB Toán – Tiếng Việt ở nhà trường không những tạo
cho học sinh một môi trường học tập mới với những kiến thức mở rộng, nâng cao
20


đa dạng, phong phú hơn mà còn giúp các em được rèn các kĩ năng cần thiết trong
học tập và cuộc sống như: kĩ năng tìm hiểu kiến thức, kĩ năng làm bài, trình bày
bài, rèn thao tác tư duy, tính bản lĩnh, tự tin. Từ loại là một phần không thể thiếu
khi tổ chức hoạt động của CLB Tiếng Việt. Vì vậy, những giáo viên được phân
công chủ nhiệm CLB Tiếng Việt khối 4 và 5 tiếp tục có những nghiên cứu, tìm tòi,
thu thập những bài tập về từ loại phong phú hơn để học sinh được luyện tập, thực
hành nhận diện nhiều và ngày càng nâng cao chất lượng..
Trên đây là những kinh nghiệm nhỏ của bản thân tôi trong dạy học về từ loại
cho học sinh lớp 4. Chắc chắn nội dung của SKKN này còn có những khiếm
khuyết. Tôi rất mong được sự góp ý của đồng nghiệp, Hội đồng khoa học để SKKN
được hoàn thiện, có hiệu quả thiết thực.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Yên Định, ngày 2 tháng 4 năm 2019

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
NGƯỜI THỰC HIỆN

Lưu Thị Hương

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
TT

Tên tài liệu

1

Sách giáo khoa Tiếng
Việt 4 – Tập 1

2

Sách giáo viên Tiếng
Việt 4 – Tập 2

3

Thiết kế bài giảng Tiếng
Việt 4 – Tập 2
Phương pháp dạy học
Tiếng Việt

Giáo trình lí luận văn
học
Giáo trình tâm lí học
Tiểu học

4
5
7

Tên tác giả
( nhóm tác giả)
Nguyễn Minh Thuyết,
Hoàng Cao Cương,
Đỗ Việt Hùng,
Trần Thị Minh Phương,
Lê Hữu Tỉnh
Nguyễn Minh Thuyết,
Hoàng Cao Cương,
Đỗ Việt Hùng,
Trần Thị Minh Phương,
Lê Hữu Tỉnh
Nguyễn Huyền Trang,
Phạm Thị Thu Hà
Lê Phương Nga,
Nguyễn Trí
Phạm Đặng Dư
Lê Lưu Oanh
Bùi Văn Huệ

Tên nhà

xuất bản
Nhà xuất bản
giáo dục

Năm
xuất bản

2005

Nhà xuất bản
giáo dục

2005

Nhà xuất bản Hà
Nội
Nhà xuất bản
giáo dục
Nhà xuất bản
giáo dục
Nhà xuất bản
giáo dục

2005
1999
1997
1997

22




×