Tải bản đầy đủ (.docx) (76 trang)

Nghiên cứu nồng độ cyfra 21 1, CEA, SCC huyết tương trong theo dõi hiệu quả điều trị bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 76 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Ung thư phổi (UTP) là một bệnh đặc trưng bởi không kiểm soát
được tăng trưởng tế bào trong các mô của phổi . Nếu không được điều trị, sự
tăng trưởng này có thể lan rộng ra ngoài phổi trong một quá trình được gọi
là di căn vào mô lân cận hoặc các bộ phận khác của cơ thể[1].
Ung thư phổi là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở nam giới tại các
nước phát triển và đang phát triển. Trong năm 2002 trên thế giới có khoảng
1.400.000 ca mới mắc ung thư phổi chiếm 12,5% tổng số các ca mới mắc ung
thư (UT), nam mắc nhiều hơn nữ với tỷ lệ mới mắc chuẩn theo tuổi (ASR) ở
nam là 30,9/100.000 dân; ở nữ giới ASR là 12,6/100.000 dân. Trung bình mỗi
năm trên thế giới có gần 1 triệu ca mới mắc ở nam và 400.000 ca mới mắc ở nữ,
trên 1 triệu người chết do UTP trong đó 48% ở các nước đang phát triển[2].
Các loại chính của ung thư phổi là ung thư phổi tế bào nhỏ (UTP-TBN)
và ung thư phổi không phải tế bào nhỏ (UTP-TBKN). Việc chẩn đoán sớm,
tiên lượng bệnh, đánh giá giai đoạn và theo dõi điều trị trong ung thư phổi sẽ
giúp kéo dài thời gian sống thêm, cải thiện chất lượng sống thậm chí là khỏi
bệnh[1, 3].
Có nhiều phương pháp chẩn đoán ung thư phổi: chẩn đoán hình ảnh,
giải phẫu bệnh, sử dụng các marker có độ nhạy và độ đặc hiệu tương đối cao
đối với ung thư phổi. Trong đó tiêu chuẩn vàng là xét nghiệm mô bệnh học.
Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng thực hiện được chẩn đoán mô bệnh học,
hay tế bào học, vì đây là kỹ thuật xâm nhập, có tỷ lệ tai biến nhất định, thậm
chí tử vong. Các marker không chỉ có ý nghĩa trong việc nghiên cứu về sinh
học khối u mà còn có vai trò chẩn đoán, tiên lượng trong điều trị ung thư[3].


2


Theo nghiên cứu của tác giả A. Pastor, R. Mennesndez và các cộng sự
(năm 1997), trong nhóm ung thư phổi (n=94), với độ đặc hiệu là 95% thì độ
nhạy của SCC là 41% (cut-off 2,1ng/ml), độ nhạy của CEA là 33% (cut-off
5,9ng/ml), độ nhạy của CYFRA 21-1 là 79% (cut-off 2,1ng/ml). Với độ tin
cậy (CI) là 95% thì độ nhạy của SCC, CEA, CYFRA 21-1 lần lượt là 31-51%,
22-40%, 71-87%. Trong nhóm phân loại mô bệnh học với độ đặc hiệu là 95%,
độ nhạy của SCC, CEA, CYFRA 21-1 lần lượt là 61%, 15% và 83% (ung thư
biểu mô tế bào vảy); 41%, 57%, 79% (ung thư biểu mô tuyến); 21%, 31%,
79% (ung thư phổi tế bào nhỏ)[4].
Theo nghiên cứu của tác giả Xavier Filella , Rafael Molina , Josep M
Auge (năm 2006) với việc sử dụng bộ 3 marker trong UTP-KTBN (CEA,
CYFRA 21-1, SCC) có độ nhạy cao hơn 80% bệnh nhân giai đoạn I-III, 90%
bệnh nhân giai đoạn IV và 100% ở bệnh nhân có di căn. Trong phân loại mô
bệnh học thấy 95% nồng độ SCC huyết tương cao bất thường trong UTPKTBN (75% ung thư biểu mô vảy)[5].
Hiện nay, ở Việt Nam chưa có nghiên cứu đánh giá bộ 3 marker Cyfra
21-1, CEA, SCC trong theo dõi điều trị bệnh ung thư phổi không tế bào nhỏ.
Do đó, chúng tôi nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu nồng độ Cyfra 21-1, CEA,
SCC huyết tương trong theo dõi hiệu quả điều trị bệnh nhân ung thư phổi
không tế bào nhỏ”nhằm hai mục tiêu:
1. Khảo sát nồng độ 3 marker Cyfra 21-1, CEA, SCC huyết tương bệnh
nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn III, IV.
2. Nghiên cứu biến đổi nồng độ 3 marker Cyfra 21-1, CEA, SCC huyết
tương trong theo dõi điều trị bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai
đoạn III, IV.


3

Chương 1
TỔNG QUAN

Ung thư phổi nguyên phát (gọi tắt là ung thư phổi)có tỷ lệ mắc và tử
vong tăng nhanh kể từ đầu thế kỷ XX. Cho đến cuối thập kỷ 80 đầu thập kỷ
90 của thế kỷ XX, ung thư phổi có tỷ lệ mắc và tử vong cao nhất trong các
bệnh ác tính ở người. Bệnh được Agricola G nói đến lần đầu tiên vào nửa đầu
thế kỷ XIV. Năm 1761, Morgani G.B mô tả 2 trường hợp mổ tử thi bệnh nhân
UTP, Bayle G.H thông báo những nghiên cứu đầu tiên về triệu chứng hô hấp
của bệnh nhân ung thư phổi vào năm 1810. Các triệu chứng khác của bệnh
được phát hiện vào cuối thế kỷ XIX[6].
Cho đến cuối thế kỷ XIX, ung thư phổi vẫn là bệnh ít gặp. Rokitasky K
đã nói: “Ung thư nguyên phát rất ít gặp ở phổi”. Năm 1912, Alder I mới chỉ
tập hợp được 374 trường hợp UTP được thông báo trên các y văn thế giới.
Cùng với sự ra đời của Xquang, nội soi phế quản và sự hoàn thiện của chẩn
đoán mô bệnh học, tế bào, hiểu biết về lâm sàng và dịch tễ của bệnh UTP
ngày càng sâu sắc hơn[17]. Phương pháp phẫu thuật cắt bỏ khối u phổi ra đời
năm 1930 và hóa chất năm 1940 đã giúp kéo dài thời gian sống cho bệnh
nhân [7-10].
Dựa vào số liệu của các Ghi nhận ung thư quần thể tại nhiều vùng khác
nhau, Tổ chức Y tế Thế giới ước tính hàng năm trên thế giới có khoảng 11
triệu trường hợp mới mắc và khoảng trên 6 triệu người chết do ung thư. Tình
hình bệnh ung thư trên thế giới rất khác biệt giữa các nước và các vùng. Nơi
có tỷ lệ mới mắc ung thư ghi nhận được cao nhất là vùng Bắc Mỹ và thấp
nhất vùng Bắc Phi. Sự khác biệt của một số loại ung thư có thể lên tới hàng
trăm lần, tùy thuộc vào mức độ tiếp xúc của cộng đồng với các yếu tố nguy cơ


4

và yếu tố di truyền. Ngay trong một quốc gia, tỷ lệ mắc các ung thư khác
nhau cũng dao động rất lớn. Các ung thư hàng đầu trên thế giới ở nam giới là
UTP, dạ dày, đại-trực tràng, tuyến tiền liệt, gan. Ở nữ giới là vú, đại trực

tràng, cổ tử cung, dạ dày, phổi[11].
1.1. Ung thư phổi
1.1.1.Khái niệm ung thư phổi
Ung thư là loại bệnh được mô tả bởi những tế bào phát triển không
kiểm soát và không chết theo chương trình, ung thư phổi xảy ra khi tế bào
phát triển không kiểm soát này bắt đầu ở một hoặc hai phổi. Những tế bào bất
thường này tiếp tục phân chia thành những u cục hoặc mô được phát triển to
lên gọi là khối u. Khối u này sẽ gây trở ngại cho chức năng chính của phổi đó
là trao đổi khí, cung cấp oxy vào máu để đưa đến các tế bào trong cơ thể. Nếu
khối u chỉ là một nốt nhỏ trên phim Xquang lồng ngực và phát triển giới hạn
thì nghĩ đến lành tính. Nguy hiểm hơn là ác tính, tế bào ung thư di căn đến nơi
khác trong cơ thể qua dòng máu hoặc hệ thống bạch huyết, xâm lấn và phá
hủy những mô lành khác, gọi là di căn và đến lúc này điều trị sẽ rất khó khăn.
Ung thư phổi nguyên phát khi tổ chức ung thư khởi phát ở phổi. Ung thư phổi
thứ phát khi tổ chức ung thư ở nơi khác trong cơ thể di căn đến phổi[7].
Ung thư phổi bắt nguồn từ những mô của phổi, thường là từ lớp lót tế
bào túi khí. Có hai loại chính là ung thư phổi tế bào nhỏ (UTP-TBN) và
ung thư phổi không phải tế bào nhỏ (UTP-TBKN) loại này chiếm
khoảng 80% trong số các loại ung thư phổi. Những loại này được chẩn
đoán dựa vào việc quan sát tế bào dưới kính hiển vi. Có nhiều trường hợp
UTP hỗn hợp cả ung thư phổi tế bào nhỏ và ung thư phổi không tế bào nhỏ.
Sự biệt hóa loại mô và giai đoạn của bệnh có tính đặc biệt quan trọng cho
phương hướng điều trị.


5

Hạch bạch huyết
Khí quản


Khối ung thư

Phế quản gốc

Phổi phải:
Thùy trên

Phổi trái:
Thùy trên

Thùy giữa

Thùy dưới

Thùy dưới

Hình 1.1. Ung thư phổi
1.1.2. Tình hình ung thư phổi trên Thế Giới
Tỉ lệ mắc bệnh
Ung thư phổi (UTP) là loại ung thư phổ biến nhất trên toàn cầu. Tỉ lệ
mắc bệnh UTP rất khác biệt giữa các nước. Ở Mỹ, UTP là nguyên nhân gây tử
vong hàng đầu ở cả hai giới, năm 2006 ước tính có khoảng 174.470 ca mới
mắc và có khoảng 162.460 ca tử vong do căn bệnh này. Ở các nước châu Âu,
tỉ lệ mắc UTP năm 2000 cao nhất ở Bỉ 76,43/100.000 dân và ở Hà Lan
62,04/100.000 dân; thấp nhất ở Thụy Điển với 21,4/100.000 dân[12].
Tỉ lệ mắc ở nam cao hơn ở nữ. Tỉ lệ mắc bệnh ở nam là 34,9/100.000 dân,
ở nữ tỉ lệ mắc thấp hơn là 11,1/100.000 dân, cao nhất được thấy ở Bắc Mỹ và
Tây Bắc Âu là tỉ lệ cao nhất được theo dõi ở những nước phát triển mặc dù đây
là những nước mà bệnh lao phổi đã bị đẩy lùi. Tỉ lệ tử vong và mắc bệnh có
khuynh hướng gia tăng[13]. Tỉ lệ mắc giữa nam/nữ ở các nước cũng khác nhau.

Tỉ số này thấp nhất ở Đan Mạch là 1,7 và cao nhất ở Tây Ban Nha là 13,4; ở Hoa


6

Kỳ là 1,7[6]. Theo ước tính của WHO, những năm đầu của thế kỷ XXI thế giới
sẽ có khoảng 2 triệu trường hợp ung thư phổi được phát hiện hàng năm, 86%
trong số này sẽ tử vong trong vòng 5 năm sau khi được chẩn đoán.
Tỉ lệ tử vong
Trên toàn thế giới, ung thư phổi là loại ung thư phổ biến nhất cả về tỷ lệ
mắc và tử vong ở nhiều quốc gia ở cả nam và nữ với số tử vong hàng năm
khoảng 1,2 triệu người. Trong năm 2008, đã có 1,61 triệu trường hợp mới
mắc và 1,38 triệu người chết do ung thư phổi.Tại Mỹ, năm 2003 có khoảng
155.000 trường hợp tử vong; năm 2008 có 165.000 trường hợp tử vong chiếm
29% tổng số tử vong do ung thư. Tỉ lệ tử vong do UTP năm 2000 cao nhất ở
Bỉ 70,8/100.000 dân và ở Hà Lan 59,71/100.000 dân; thấp nhất ở Thụy Điển
với 22,64/100.000 dân[9, 14].Trái ngược với tỷ lệ tử vong ở nam giới, bắt đầu
giảm hơn 20 năm trước đây, tỷ lệ tử vong ung thư phổi của phụ nữ đã tăng lên
trong những thập kỷ qua. Năm 1950 UTP chỉ chiếm 3% tổng số các trường
hợp chết ở phụ nữ nhưng đến năm 2000 con số này lên đến 25% và đến năm
2006 là 26%[1, 15].
Bảng 1.1: Kết quả số liệu thống kê về ung thư phổi tại Hoa Kỳ
trong 6 năm từ 2005-2010 của Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ
Năm

Số mới mắc/năm
Tổng số

Số chết/năm


Tỉ lệ tử vong (%)

Nam

Nữ

Tổng số

Nam

Nữ

Tổng số

Nam

Nữ

2005 172.570

93.010

79.560

163.510

90.490

73.020


94,75

97,29 91,78

2006 174.470

92.700

81.770

162.460

90.330

72.130

93,12

97,44 88,21

2007 213.380 114.760 98.620

160.390

89.510

70.880

75,17


78,00 71,87

2008 215.020 114.690 100.330 161.840

90.810

71.030

75,27

79,18 70,80

2009 219.440 116.090 103.350 159.390

88.900

70.490

72,63

76,58 68,21

2010 222.520 116.750 105.770 157.300

86.220

71.080

70,69


73,85 67,20


7

1.1.3. Tình hình ung thư phổi ở Việt Nam
Tại Việt Nam theo ghi nhận ung thư quốc tế 2002, tỷ lệ mắc chuẩn hóa
theo tuổi (ASR) ở nam là 29,6/100.000 dân, đứng đầu trong các loại ung thư ở
nam, ở nữ là 7,3/100.000 dân, đứng thứ 5 sau ung thư cổ tử cung, vú, dạ dày
và đại trực tràng. Tỷ lệ tử vong chuẩn hóa theo tuổi là 27,4/100.000 dân ở
nam, 6,7/100.000 dân ở nữ[12].
Theo ghi nhận ung thư tại 5 tỉnh thành là: Hà Nội, Thái Nguyên, Thừa
Thiên-Huế, Cần Thơ giai đoạn 2001-2004, có 20.559 nam và 6.853 nữ mắc
UTP. Tỉ lệ nam/nữ khoảng 3/1. Dựa trên số liệu ghi nhận ung thư tại 5 tỉnh
thành phố nói trên ước tính số ca mới mắc trung bình hàng năm từ 27,640,2/100.000 dân. Tỉ lệ mắc cao nhất ở Hà Nội, thấp nhất ở Huế. Ở Hà Nội,
ung thư phổi vẫn đứng hàng thứ nhất ở nam với tỉ lệ mắc là 39,8/100.000 dân
và đứng hàng thứ ba ở nữ với tỉ lệ 10,5/100.000 dân. Tại Hải Phòng, tương tự
như Hà Nội, tỉ lệ mắc ở nam là 22,4/100.000 dân và 6,4/100.000 dân ở nữ.
Thái Nguyên, 26,8/100.000 dân ở nam và 5,3/100.000 dân ở nữ. Thừa Thiên –
Huế có tỉ lệ mắc thấp nhất cả nước, đứng hàng thứ ba ở nam với tỉ lệ mắc
10,8/100.000 và hàng thứ tư ở nữ với tỉ lệ mắc là 3,6/100.000 dân. Tại Cần
Thơ, ung thư phổi đứng hàng thứ tư ở nam sau ung thư gan, dạ dày, đại-trực
tràng với tỉ lệ mắc 14,1/100.000 dân; đứng hàng thứ sáu ở nữ với tỉ lệ mắc là
6,6/100.000 dân[16].
Tại khoa Hô hấp- Bệnh viện Bạch Mai, số các trường hợp ung thư phổi
nhập viện tăng đều hàng năm: 1969-1972 có 89 trường hợp UTP, từ 19741978 có 186 trường hợp, từ 1981-1985 có 285 trường hợp, từ 1996-2000 có
639 trường hợp, chiếm 16,6% tổng số các bệnh nhân điều trị, đứng hàng thứ
hai sau bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính.



8

Bảng 1.2: Thống kê ung thư của Tổ chức Y tế Thế giới
– GLOBOCAN về UTP năm 2008 ở Việt Nam
Năm

2008

Số ca mới mắc

Số tử vong

Tổng số

Nam

Nữ

Tổng số

20.659

13.152

7.507

17.583

Nam


Tỉ lệ tử vong (%)
Nữ

11.070 6.513

Tổng số
85,11

Nam

Nữ

84,17 86,76

Tóm lại, ung thư phổi trên thế giới nói chung và cũng như ở Việt Nam
nói riêng là bệnh phổ biến trong tất cả các loại ung thư. Đây là bệnh có tiên
lượng xấu bởi tiến triển nhanh, di căn sớm, phát hiện bệnh thường ở giai đoạn
muộn. Việc điều trị ung thư phổi vẫn còn là một vấn đề nan giải, ít tiến bộ so
với các loại ung thư khác nên cần quan tâm chẩn đoán sớm và tăng cường
công tác dự phòng.
1.1.4. Phân loại ung thư phổi
1.1.4.1. Ung thư phổi tế bào nhỏ (small cell carcinoma)
Sự xắp xếp phân loại mô bệnh học cho UTP-TBN có nhiều loại khác
nhau. Lần đầu tiên (1967) Tổ chức Y tế Thế giới phân loại UTP-TBN thành 4
dạng tế bào khác nhau: dạng hình thoi, dạng nhiều cạnh, dạng tế bào lympho
và dạng khác. Năm 1981, WHO lại phân thành 3 kiểu phụ bao gồm: ung thư
tế bào yến mạch (dạng tế bào lympho), dạng trung gian (dạng hình thoi và
nhiều cạnh) và dạng phối hợp. Loại yến mạch kinh điển được mô tả là những
tế bào nhỏ, đồng dạng, ít nhất lớn gấp 2-3 lần tế bào lympho trưởng thành, có
nhân đặc tròn hoặc bầu dục, chất chromatin khuyếch tán, hạt nhân không nổi

rõ và bào tương rất ít. Loại trung gian bao gồm những tế bào lớn với tỉ lệ nhân
cao và tế bào chất thấp, nhân có hình thoi hoặc nhiều cạnh[17].
1.1.4.2. Ung thư phổi không tế bào nhỏ (Non-small cell carcinoma)


9

Hơn 80% ung thư phổi thuộc loại ung thư phổi không phải tế bào nhỏ,
được chia thành các loại như sau:
- Ung thư biểu mô tế bào vảy hay ung thư biểu bì, chiếm tỉ lệ 29%
trong số các loại ung thư phổi, là khối u biểu mô ác tính có đặc điểm là các tế
bào u biệt hóa vảy đó là hình thành sừng, cầu nối nguyên sinh chất hoặc cả hai.
Đại thể: Khối u thường nằm ở vùng trung tâm (2/3 các trường hợp) vì
vậy hay thấy tổn thương ở những phế quản lớn. Khối u thường có ranh giới
không rõ, diện cắt màu trắng xám hoặc màu vàng đục là do biểu hiện có chất
sừng. Hoại tử và chảy máu hay gặp. Một số trường hợp diện cắt chắc là do xơ
tăng sinh. Kích thước của u carcinoma vảy thường nhỏ hơn một số loại ung
thư khác của phổi là do u hay gây chít hẹp lòng phế quản, vì thế bệnh nhân
thường đến khám sớm hơn và cũng dễ phát hiện qua nội soi phế quản.
Vi thể: Thường rất đa dạng tùy theo mức độ biệt hóa. Bào tương có
sừng và hoặc có cầu nối nguyên sinh chất. Sừng hóa có thể tạo ra các cầu
sừng hoặc ở tế bào riêng biệt với bào tương bắt mầu rất toan, đặc biệt thấy rõ
ở những u biệt hóa cao và ít ở u kém biệt hóa. Carcinoma vẩy tại chỗ thường
thấy ở đường hô hấp trên. Hầu hết phát sinh ở phế quản trung tâm, thùy hay
phân thùy. Tuy nhiên, tần xuất ở phổi ngoại vi đang tăng lên.
Các biến thể: thể nhú, thể tế bào sang, thể tế bào nhỏ, thể tế bào dạng đáy.
- Ung thư biểu mô tuyến: chiếm tỷ lệ 32% trong số các loại ung thư
phổi. Carcinoma tuyến của phổi là khối u biểu mô ác tính với biểu hiện vi thể
hình thành các cấu trúc ống, túi, nhú hoặc đặc, có sự tạo nhầy.
Đại thể: Khối u thường nằm ở ngoại vi, ranh giới rõ thường đi kèm

theo xơ hóa màng phổi. Tuy nhiên, nó cũng có thể nằm ở trung tâm hoặc thậm
chí nằm trong lòng phế quản. Kích thước khối u có thể thay đổi từ dưới 1cm
đến những u có thể chiếm hết một bên phổi. Diện cắt có màu trắng xám,


10

thường có sẹo hóa ở trung tâm. Hoại tử và chảy máu hay gặp. Trên diện cắt
cũng có thể thấy biểu hiện chất nhầy. Những khối u ở gần màng phổi thường
xâm lấn vào màng phổi, vì vậy dễ nhầm với u trung mô ác tính của màng phổi.
Vi thể: Carcinoma tuyến của phổi thường phối hợp các thể mô bệnh
học là thể tiểu phế quản phế nang, thể nhú, thể túi, thể ống, thể đặc. Khối u
đường kính <2cm thường chỉ 1 loại mô bệnh học đơn thuần. Carcinoma tuyến
bao gồm các ổ tế bào đặc, trong bào tương chứa nhiều chất nhầy và một số túi
tuyến được gọi là carcinoma tuyến túi kém biệt hóa. Các phân týp mô học
khác của carcinoma tuyến (thể túi, thể nhú, thể đặc và hỗn hợp) có thể phát
triển từ bất kỳ chỗ nào của phổi, từ phế quản gốc đến phế nang vì thể có thể
phát triển tạo thành các khối trong lòng phế quản hoặc vùng ngoại vi của
phổi. Một số carcinoma tuyến nguyên phát của phổi giống carcinoma của vú,
tuyến nước bọt, một số giống carcinoma tế bào nhẫn của ung thư dạ dày, ruột.
Trong hầu hết carcinoma tuyến thấy rõ chất nhầy. Tế bào u hình đa diện với
nhân có hốc lớn, hạt nhân nổi rõ và bào tương nhiều vừa. Phân týp hỗn hợp là
loại carcinoma tuyến hay gặp nhất. Thường có một hỗn hợp các mẫu chum
nang, nhú, đặc có tạo chất nhầy và mẫu tiểu phế quản phế nang nhưng không
có bất cứ loại nào trong số đó thấy ở dạng thuần khiết. Độ mô học của
carcinoma tuyến dựa vào mức độ biệt hóa có thể áp dụng theo các tiêu chuẩn
mô học thông thường, dựa vào đặc điểm cấu trúc và tế bào. Khối u với những
thành phần đặc thường phân độ kém biệt hóa.
Carcinoma tuyến được chia thành các phân týp: tuyến chùm nang,
tuyến nhú, tuyến tiểu phế quản phế nang, thể không chế nhầy.

Các biến thể của carcinoma tuyến: carcinoma tuyến bào thai biệt hóa
rõ, carcinoma tuyến nhầy “dạng keo”, carcinoma tuyến nang nhầy, carcinoma
tuyến tế bào hình nhẫn, carcinoma tuyến tế bào sáng.


11

- Ung thư biểu mô tuyến vảy: Khối u gồm cả hai loại carcinoma vảy
và carcinoma tuyến. Mỗi loại chiếm ít nhất 5% toàn bộ khối u.
Đại thể: carcinoma tuyến vảy tương tự như carcinoma không tế bào
nhỏ khác của phổi. Vị trí hay gặp vùng ngoại vi. Vùng tâm u hay bị sẹo hóa.
Vi thể: vi thể khối u gồm 2 thành phần, thành phần vảy và thành phần
tuyến. Thành phần tuyến có thể tuyến túi, tuyến nhú hoặc bất kể dạng tuyến
nào. Hai thành phần này có thể riêng biệt hoặc pha trộn lẫn nhau; có thể trội
lên một trong hai thành phần hoặc tỉ lệ hai thành phần ngang bằng nhau. Mức
độ biệt hóa của hai thành phần không phụ thuộc vào nhau. Ngoài hai thành
phần tuyến và vảy có thể thấy xuất hiện thành phần carcinoma tế bào lớn.
- Ung thư biểu mô tế bào lớn: Khối u biểu mô ác tính không biệt hóa
với các tế bào có nhân lớn, hạt nhân rõ, bào tương rộng, không có các đặc
điểm tế bào học của carcinoma vảy, tế bào nhỏ hoặc tuyến.
Đại thể: điển hình là khối lớn, có hoại tử, có thể xâm lấn vào màng
phổi hoặc cấu trúc lân cận.
Vi thể: là loại carcinoma tế bào lớn với hình ảnh mô học có phần dạng
tổ chức, dạng bè, giống hình “hoa hồng” hoặc xếp theo “hàng dậu” gợi ý biệt
hóa thần kinh nội tiết. Dưới kính hiển vi quang học, các tế bào u có nhân lớn,
bào tương rộng hoặc trung bình. Chất nhiễm sắc thể có thể tạo thành các hốc
hoặc các hạt nhỏ. Hạt nhân thường lớn. Sự có mặt của hạt nhân giúp chúng ta
phân biệt với carcinoma tế bào nhỏ. Tuy nhiên một số khối u không nhìn thấy
hạt nhân mà hình thái học của nó chỉ đủ cho tiêu chuẩn của carcinoma không
phải tế bào nhỏ. Hình ảnh nhân chia thường nhiều, điển hình là >11 nhân/10

vi trường độ phóng đại lớn. Hoại tử u hay gặp. Một hình ảnh hiếm gặp trong
carcinoma tế bào lớn là týp tế bào khổng lồ nhiều nhân. Đường kính của các
tế bào này có thể lên tới 700-800 µcm.


12

Các biến thể: carcinoma thần kinh nội tiết tế bào lớn, carcinoma thần
kinh nội tiết tế bào lớn tổ hợp, carcinoma dạng đáy, carcinoma dạng u
lympho-biểu mô, carcinoma tế bào sáng,carcinoma tế bào lớn với kiểu hình
dạng vân.
* Ngoài ra, phân loại ung thư phổi còn có: các khối u carcinoid và
không xếp loại[12, 18].
1.1.5. Đánh giá mức độ tiến triển
1.1.5.1. Đánh giá TNM (UICC 2002)
U nguyên phát (T)
- Tx: Có tế bào ung thư trong dịch tiết phế quản nhưng không nhìn thấy
u trên phim X-quang hoặc khi soi phế quản.
- To: Không có dấu hiệu của u nguyên phát
- Tis: Ung thư tại chỗ
- T1: U có đường kính ≤ 3cm, u được bao quanh bởi nhu mô phổi hoặc
màng phổi tạng và không có dấu hiệu khối u xâm lấn tới phế quản thùy khi
thăm khám bằng nội soi.
- T2: U có đường kính > 3cm, hoặc u có mọi kích thước xâm lấn tới
phế mạc tạng hoặc gây xẹp phổi hoặc viêm phổi tắc nghẽn do u xâm lấn tới
vùng rốn phổi. Khi nội soi phế quản, độ xâm lấn của u giới hạn ở phế quản
thùy hoặc cách carina ≥ 2cm. Xẹp phổi và viêm phổi tắc nghẽn có thể lan tới
vùng rốn phổi nhưng không ảnh hưởng tới toàn bộ phổi.
- T3: U với mọi kích thước xâm lấn trực tiếp tới thành ngực, cơ hoành
hoặc phế mạc vùng trung thất hoặc ngoại tâm mạc như chưa xâm lấn tới tim,

các mạch lớn, khí quản, thực quản, hoặc thân đốt sống, hoặc u ở phế quản gốc
cách carina < 2cm nhưng chưa xâm lấn tới carina.


13

- T4: U với mọi kích thước, xâm lấn trung thất, tim mạch máu lớn, khí
quản, thực quản, thân đốt sống hoặc carina hoặc tràn dịch màng phổi ác tính,
hoặc có u vệ tinh ở cùng một thùy.
Hạch vùng (N)
- No: Không có di căn hạch vùng
- N1: Di căn hạch cạnh phế quản thùy hoặc hạch rốn phổi cùng bên,
hạch trong phổi bao gồm cả sự xâm lấn trực tiếp của u nguyên phát vào các
hạch này.
- N2: Di căn hạch trung thất cùng bên hoặc hạch dưới carina hoặc cả hai
- N3: Di căn hạch trung thất đối bên, hạch rốn phổi đối bên, hạch cơ
bậc thang cùng hoặc đối bên hoặc hạch thượng đòn.
Di căn xa (M)
- Mx: Không đánh giá được di căn xa
- Mo: Không có di căn xa
- M1: Di căn xa, bao gồm u ở phổi không cùng thùy với u nguyên phát[12].
1.1.5.2. Đánh giá giai đoạn
Xếp giai đoạn theo UICC 2002
- GĐIA: T1, No, Mo
- GĐIB: T2, No, Mo
- GĐIIA: T1, N1, Mo
- GĐIIB: T2, N1, Mo: T3, No, Mo
- GĐIIIA: T3, N1, Mo; T1-3, N2, Mo
- GĐIIIB: T4, bất kỳ N, Mo; bất kỳ T, N3, Mo
- GĐIV: Bất kỳ T, bất kỳ N, M1[12].



14

Giai đoạn IA

Giai đoạn IB

Khối u
≤ 3cm

Khối u
3 - 5cm

Khí quản
Hạch bạch huyết

Phế quản
gốc phải

Màng phỏi
Phế quản gốc trái
Nhánh phế quản

Xương sườn

Cơ hoành
Phổi

Hình 1.2. Ung thư phổi giai đoạn I


Giai đoạn IIA

Khối u
≤ 5cm

Khí quản
Hạch bạch huyết

Phế quản
gốc phải

Phế quản gốc trái

Khối u
5 - 7cm
Màng phỏi

Nhánh phế quản

Xương sườn

Cơ hoành
Phổi
Khối u ở hạch
bạch huyết

Hình 1.3. Ung thư phổi giai đoạn II



15
Giai đoạn IIIA

Khối u với bất cứ
kích thước nào

Giai đoạn IIIB

Khí quản
Hạch bạch huyết
Thành ngực

Phế quản gốc

Khối u xâm nhập
vào hạch bạch
huyết

Thực quản

Xương sườn

Xương ức

Phổi
Màng phổi

Cơ hoành

Động mạch chủ


Tim

Tĩnh mạch chủ dưới

Hình 1.4. Ung thư phổi giai đoạn III

Não

Khối u
thứ phát

Phổi
Xương
Gan
Tuyến thượng thận

Hình 1.5. Ung thư phổi giai đoạn IV

Khối u
nguyên phát


16

1.1.6. Các yếu tố nguy cơ và dự phòng ung thư phổi
1.1.6.1. Hút thuốc lá
Trên thế giới, hằng năm có khoảng 5 triệu người chết sớm bởi thuốc lá
và tỉ lệ này được chỉ ra sẽ tăng gấp đôi vào năm 2020. Tỷ lệ tử vong liên quan
đến thuốc lá tăng ở các nước phát triển, tăng chậm ở nam giới và tăng nhanh

ở nữ giới.Việc tiêu thụ thuốc lá những thập kỷ gần đây tăng ở các nước đang
phát triển, tử vong do thuốc lá cũng có chiều hướng gia tăng. Ước tính đến
năm 2030 số người chết do thuốc lá hằng năm trên toàn cầu sẽ tăng lên tới 10
triệu người, 70% trong số đó ở các nước đang phát triển.
Năm 1979, Richard Doll lãnh đạo nhóm nghiên cứu nguyên nhân gây
ung thư trên người do môi trường sống, trong đó nhấn mạnh vai trò quan
trọng của hút thuốc lá đối với ung thư phổi. Nhiều nghiên cứu sau đó đã chỉ rõ
hút thuốc lá là nguyên nhân chính dẫn đến ung thư phổi, 96% ung thư phổi ở
nam giới của người da trắng là do hút thuốc lá. Mặc dù nguy cơ mắc UTP
giảm đi sau khi ngừng hút thuốc, nhưng không thể giống những người chưa
hút thuốc lá bao giờ. Chỉ riêng ở Mỹ, sử dụng thuốc lá, chủ yếu là hình thức
hút, gây trên 440.000 trường hợp tử vong mỗi năm và chiếm khoảng 30% các
trường hợp tử vong do ung thư.
Hút thuốc lá là nguyên nhân chính gây UTP, khoảng 87% trong số
177.000 ca mới mắc ở Mỹ năm 1996 là do thuốc lá, còn lại là do các nguyên
nhân khác như: ô nhiễm môi trường, bệnh nghề nghiệp, ăn uống, cơ địa và
các yếu tố di truyền. 90% trong số 660.000 ca được chẩn đoán UTP hàng năm
trên thế giới là người hút thuốc lá. Giả đinh nguy cơ của những người không
hút thuốc lá bi UTP là 1 thì nguy cơ bị UTP của những người hút thuốc lá cao
hơn gấp 10 lần so với người không hút thuốc lá. Mức độ tăng nguy cơ khác
nhau tùy theo loại tế bào ung thư, nguy cơ bị ung thư biểu mô tế bào vảy và


17

ung thư biểu mô tế bào nhỏ ở những người hút thuốc tăng 5-20 lần trong khi
nguy cơ bị ung thư biểu mô tuyến và ung thư biểu mô tế bào lớn tăng từ 2-5
lần so với những người không hút thuốc[2].
1.1.6.2. Một số yếu tố nguy cơ khác
* Ô nhiễm không khí và các chất độc hại

Những chất độc hại có thể gây UTP bao gồm chất radon (khí ga),
amiang, thạch tín, crom, niken, tia bức xạ (tia gamma, tia cực tím) và sự ô
nhiễm không khí. Những người sống trong môi trường không khí ô nhiễm kéo
dài rất dễ bị UTP. Tỉ lệ UTP do ô nhiễm không khí ở thành thị các nước châu
Âu ước tính 11%. Những công nhân làm việc trong môi trường tiếp xúc với
các carcinogen như bụi silic, thạch anh, asbestos... và tiếp xúc với các chất có
hoạt tính phóng xạ uranium có nguy cơ cao bị UTP[19].
* Ăn uống
Hoa quả và rau là nguồn dinh dưỡng rất giàu các vitamin chống oxy
hóa và các vi chất khác, đặc biệt là caroten, một chất có lợi cho sức khỏe và
giảm nguy cơ UTP. Một số vitamin có tác dụng bảo vệ như vitamin C, E. Chất
béo không thấy có liên quan đến UTP, nhưng thịt rán và ớt lại làm tăng nguy
cơ UTP[19].
Uống rượu: nghiên cứu trên 400.000 người tham gia và hơn 3.000 bệnh
nhân UTP, Freudenheim J.L và CS (2005) thấy có nguy cơ cao UTP ở người
uống 30g rượu/ngày [20].
* Rèn luyện thể lực
Những người rèn luyện thể lực tốt thì có nguy cơ bị UTP thấp hơn 1030% so với những người không rèn luyện. Đồng thời rèn luyện thể lực cũng
làm giảm nguy cơ mắc UTP và tử vong ở những người hút thuốc[21].


18

* Virus
Human papilloma virus (HPV) là một loại virus gây ung thư phá hủy
DNA, nó mã hóa cho oncoprotein E6 và E7 nơi có thể gắn vào gen ức chế u
p53 và RB của tế bào cơ thể người làm mất chức năng ức chế u. Nhiễm HPV
có liên quan đến UTP. Cheng và CS (2002), Fei Y và CS (2006) đã tìm thấy
HPV ở tổ chức phổi của bệnh nhân UTP [22, 23].
Epstein-Barr virus (EBV) là loại virus gây herpes ở hơn 90% người

trưởng thành. Một số protein của EBV (BCRF1, BHRF1) giống với protein
của người (84% của IL-10 và 25% của BCL-2) do đó làm cho nó thoát khỏi
sự kiểm soát của hệ thống miễn dịch và đột biến gen. Người ta đã chứng minh
mối lien quan giữa EBV với UTP, đặc biệt là ung thư biểu mô tuyến[24].
* Gen nhạy cảm và di truyền
Theo ước tính, 80-90% tỉ lệ mới mắc của UTP có mối liên quan với hút
thuốc. Tuy nhiên, chỉ 10-15% các trường hợp hút thuốc phát triển thành UTP
và 10-15% tất cả các trường hợp UTP không hề hút thuốc. Như vậy đặc tính
của từng cá nhân có mối liên quan với việc phát triển UTP. Bằng chứng chứng
tỏ khả năng di truyền là yếu tố nguy cơ[2].
Các nghiên cứu nguy cơ mang tính gia đình được mô tả hỗ trợ cho giả
thuyết tồn tại gen đơn lẻgây UTP hoạt động trong ảnh hưởng với các yếu tố
phơi nhiễm môi trường và thích hợp với gen nhạy cảm làm tăng nguy cơ bị
ung thư. UTP được xuất hiện, trong các gia đình Li-Fraumeni, liên quan tới di
truyền gen đột biến p53[2]. Proto-gen gây ung thư được cho là biến thành gen
ung thư khi tiếp xúc với chất gây ung thư đặc biệt. Các đột biến trong K-ras
proto-oncogene gây nên 10-30% UTP. Các biểu bì thụ thể yếu tố tăng trưởng
EGFR điều chỉnh tăng sinh tế bào, quá trình apotosis mạch và sự xâm lấn khối u.
Đột biến và khuyếch đại của EGFR là phổ biến ở ung thư phổi không tế bào nhỏ.


19

Đột biến của RB (gen của u nguyên bào võng mạc) và dị thường nhiễm sắc thể
3p, 5q, 13q và 17p đặc biệt phổ biến trong trong ung thư phổi tế bào nhỏ[25-29].
1.1.7. Cơ chế bệnh sinh của ung thư phổi
* Đặc tính của tế bào ung thư phổi
-Về hình thái học
+Có sự thay đổi về nhân: nhân tăng kích thước, đa dạng, nhiều thùy,
đặc biệt có những nhân khổng lồ, phân chia mạnh gọi là nhân quái, nhân chia.

Màng nhân dày lên, đường viền không đều.
+Có sự thay đổi giữa tỉ lệ nhân và nguyên sinh chất: nhân to lên,
nguyên sinh chất hẹp lại.
+Có sự thay đổi của nguyên sinh chất: trong nguyên sinh chất có những
tổn thương thoái hóa, có nhiều hang, hốc. Nguyên sinh chất chứa các chất chế
tiết, chất vùi.
+Có sự thay đổi của mối quan hệ giữa các tế bào: có nhiều tế bào non,
kích thước lớn, khổng lồ nhưng chức năng kém.
-Về chức năng
+Biệt hóa kém, không làm được chức năng bình thường, dễ hoại tử.
+Không còn khả năng ức chế tiếp xúc nên dễ sinh sôi, phát triển và
bong ra khỏi u (di căn).
+Tiết ra những chất lạ, gọi là chất chỉ điểm: CEA, CYFRA 21-1 trong ung
thư phổi không tế bào nhỏ; NSE và Pro-GRP trong ung thư phổi tế bào nhỏ…
*Cơ sở sinh học phân tử của tế bào ung thư
-Phần quy định sinh sản DNA của nhân tế bào
+Trong ung thư, việc thay đổi DNA dẫn đến sự sinh sản vô tổ chức là
hậu quả của quá trình đột biến gen.


20

+Những chất gây đột biến gen chính là các yếu tố hóa, lý, sinh học gây
ung thư. Ngược lại, những tác động gây ung thư cũng gây nên đột biến gen.
-Gen ung thư: cho đến nay người ta đã tìm thấy 40 gen, có 3 giả thuyết giải
thích việc hình thành các gen ung thư.
+Do rối loạn cơ chế điều hành các yếu tố tăng trưởng gây hoạt hóa
mạnh kích thích hình thành các gen ung thư.
+Gen ung thư là những đoạn DNA bị tổn thương bởi các tác nhân gây
ung thư. Cơ thể đã sửa chữa DNA nhưng không hoàn hảo, nên có người bị

ung thư, người không bị ung thư.
+Những gen do virus bơm vào cơ thể giống với DNA của virus.
*Điều hòa gen ung thư
Người ta tìm thấy trong cơ thể con người có trên 50.000 loại gen, trong
đó có trên 40 loại gen ung thư và cũng chừng đó gen kìm chế gen ung thư và
những loại protein hoạt hóa gọi là yếu tố tăng trưởng.
1.2.Tiêu chuẩn chẩn đoán ung thư phổi
Các phương pháp chẩn đoán ung thư phổi dựa vào lâm sàng, chẩn đoán
hình ảnh, tế bào mô bệnh học và các marker ung thư.
1.2.1. Lâm sàng
Triệu chứng sớm của UTP nghèo nàn, bệnh phát hiện được thường do
tình cờ. Giai đoạn muộn của bệnh có triệu chứng lâm sàng phong phú, dễ
chẩn đoán với các triệu chứng và hội chứng[12]:
Triệu chứng hô hấp
- Ho khan hoặc có máu lẫn đờm:
Ho là triệu chứng hay gặp nhất ở bệnh nhân UTP. Ho biểu hiện lúc
chẩn đoán ở hơn 50% bệnh nhân và thường xuất hiện về sau ở hầu hết bệnh


21

nhân không được điều trị khỏi. Ho trong UTP có thể liên quan đến nhiều yếu
tố bao gồm khối u trung tâm, viêm phổi tắc nghẽn, đa di căn nhu mô và tràn
dịch màng phổi.
Ho ra máu trong UTP có nhiều mức độ khác nhau nhưng thường bao
gồm đờm có vệt máu, ho ra đờm nhuốm ít máu trong vài ngày liên tiếp. Mức
độ nghi ngờ tăng lên nếu các triệu chứng dai dẳng hoặc tái diễn, đặc biệt ở
những bệnh nhân có tiền sử hút thuốc. Nên bắt đầu kiểm tra ngay ở những
bệnh nhân trên 40 tuổi, có tiền sử hút thuốc mà có biểu hiện ho ra máu[30].
- Khó thở

Khó thở là triệu chứng khá thường gặp ở bệnh nhân UTP. Khó thở có
thể do nhiều nguyên nhân khác nhau bao gồm bản thân khối u hoặc bệnh phổi
mãn tính kèm theo và có thể do đa yếu tố. Bệnh nhân cũng có thể khó thở do
các biến chứng của xạ trị kết hợp hoặc không kết hợp với hóa chất[30].
Các triệu chứng chèn ép trung thất
- Đau ngực ở vị trí tương ứng với khối u
Đau ngực là một triệu chứng thường gặp, có thể xảy ra ở UTP giai đoạn
rất sớm mà không có xâm lấn màng phổi, thành ngực hoặc trung thất. Nguồn
gốc của sự khó chịu đó là không rõ ràng bởi nhu mô phổi không được cung
cấp các sợi cảm giác đau. Đau không phải là dấu hiệu tiên lượng xấu và
thường đáp ứng tốt với việc quản lý khối u[30].
- Khàn tiếng do u chèn ép dây thần kinh quặt ngượcUTP hầu như luôn
do tổn thương dây thần kinh quặt ngược trái dẫn đến liệt dây thanh âm trái.
Do dây thần kinh quặt ngược trái chạy dưới cung động mạch chủ nên thường
dễ bị tổn thương bởi khối u nguyên phát hoặc hạch ở cửa sổ chủ - phổi.
Khàn tiếng do tổn thương dây thần kinh quặt ngược trái thường là dấu
hiệu báo trước UTP không thể cắt bỏ được. Khàn tiếng cũng có thể thấy sau


22

phẫu thuật UTP bởi dây thanh quản quặt ngược trái đã bị hy sinh để cắt bỏ
hoàn toàn khối u[30].
- Phù áo khoác do chèn ép tĩnh mạch chủ trên
Hội chứng tĩnh mạch chủ trên là một biến chứng tương đối thường gặp
của UTP. Nói chung, tắc nghẽn tĩnh mạch chủ trên là do các hạch cạnh khí
quản ở bên phải to lên hoặc do khối u nguyên phát ở thùy trên phải lan rộng
về trung tâm. Hội chứng có đặc điểm sưng nề mặt, đỏ mặt, ho, các tĩnh mạch
cổ và ngực giãn. Mức độ nặng của các triệu chứng phụ thuộc chủ yếu vào tốc
độ tiến triển của tắc nghẽn, tốc độ và mức độ phát triển của tuần hoàn bàng

hệ. Nguy hiểm nhất khi sự tắc nghẽn tiến triển nhanh có thể dẫn đến các triệu
chứng thần kinh trung ương, hôn mê và tử vong. Nhiều trường hợp, bệnh khởi
phát âm ỉ với sưng nề dần vùng mặt, chi trên và ngực làm cho bệnh nhân đi
khám[30].
Các triệu chứng toàn thân
Phần lớn các bệnh nhân UTP, đặc biệt TBN đều có triệu chứng liên
quan đến bệnh. Các triệu chứng toàn than chủ yếu là mệt mỏi, chán ăn, sút
cân và suy nhược. Các triệu chứng này thường xuất hiện ở mức độ nặng nề
hơn so với tình trạng bệnh hiện có[31].
Các hội chứng khác
- Hội chứng Pancoas-Tobias,hội chứng Claude-Bernard-Horner:
Hội chứng Pancoast là hiện tượng đau vai và thành ngực trên do khối u
ở đỉnh phổi xâm lấn vào cấu trúc lân cận. Hội chứng này thường kèm theo hội
chứng Horner, bệnh đám rối cánh tay, loạn dưỡng giao phản xạ. Đau ngực gây
ra do xâm lấn trực tiếp vào thành ngực xương sườn thứ nhất và thứ hai và
trong một số trường hợp vào mỏm ngang và than các đốt sống ngực trên. Một


23

số bệnh nhân bị chèn ép tủy. Hội chứng Horner do sự tổn thương của hạch
thần kinh cổ trên và bao gồm sụp mi cùng bên, co đồng tử, thụt nhãn cầu và
giảm tiết mồ hôi nửa mặt cùng bên. Khi chuỗi giao cảm trên bị phá hủy, sự
chi phối thần kinh tự phát tới chi cùng bên bị mất, dẫn đến loạn dưỡng giao
cảm phản xạ. Tình trạng này có đặc điểm là đau và sưng nề do mất điều hòa
trương lực của mạch. Tổn thương đám rốicánh tay dẫn đến đau lan tỏa trong
cánh tay và cẳng tay[30].
- Hội chứng tràn dịch màng phổi
Khoảng 15% bệnh nhân UTP có tràn dịch màng phổi. Các chẩn đoán
phân biệt nguyên nhân tràn dịch bao gồm: xẹp phổi, viêm phổi, tắc mạch bạch

huyết do hạch to, suy tim ứ huyết và một số nguyên nhân khác[30].
- Các hội chứng cận ung thư:
Hội chứng cận ung thư liên quan đến tình trạng ác tính nhưng không
trực tiếp liên quan đến hoặc khối u nguyên phát, hoặc sự lan rộng trong khu
vực hay di căn xa. Hội chứng cận ung thư đặc biệt thường gặp trong UTPTBN và gặp với tỉ lệ 50% trong khi đó đối với UTP-KTBN tỉ lệ này chỉ
khoảng 10%. Các hội chứng cận ung thư thường xuất hiện sớm, hoặc có thể
xuất hiện trong quá trình tiến triển và khi các triệu chứng càng nặng lên thì
bệnh càng tiến triển xấu[31].
Các triệu chứng di căn
- Di căn não: UTP là nguyên nhân thường gặp nhất của di căn não. Các
biểu hiện của di căn não đa dạng tùy thuộc vào vị trí tổn thương và mức độ phù
não và/ hoặc chảy máu. Bệnh nhân có thể biểu hiện như liệt dây thần kinh sọ.
- Di căn xương: UTP có thể di căn tới bất kỳ xương nào, mặc dù các
xương trục (gồm xương sọ, cột sống) và các xương dài thường bị di căn nhất.


24

- Di căn gan, tuyến thượng thận và hạch trong ổ bụng:
Di căn gan khá thường gặp ở bệnh nhân UTP, thường gây mệt, sút cân,
khó chịu thượng vị, nôn và buồn nôn. Bệnh nhân có thể đau vùng hạ sườn do
tổn thương di căn gan lớn. Khi có di căn gan, tiên lượng xấu.
Di căn tuyến thượng thận và ổ bụng thường được phát hiện trên CT
thực hiện trong khi đánh giá UTP. Trong hầu hết các trường hợp, các tổn
thương này vô triệu chứng[30].
1.2.2. Xét nghiệm tế bào ung thư trong đờm
Năm 1954 của thế kỷ 20, Papaicolaou G.N đã đưa ra phương pháp xét
nghiệm tìm tế bào ác tính trong đờm, từ đó đã có những nghiên cứu và chuẩn
hóa kỹ thuật này đề chẩn đoán UTP [32, 33]. Tuy nhiên do độ nhạy và độ đặc
hiệu không cao, khó phân định được typ UTP cũng như đã có nhiều kỹ thuật

hiện đại thay thế nên phương pháp này hiện ít được sử dụng [34].
1.2.3. Chẩn đoán hình ảnh
- Chụp X-quang phổi chuẩn
Chụp X-quang phổi thẳng nghiêng là bước đầu tiên nếu bệnh nhân có
triệu chứng nghi ngờ UTP, góp phần xác định tính chất lành tính hay ác tính
của một tổn thương ở phổi, mức độ lan rộng của khối ung thư trong lồng
ngực, chẩn đoán di căn xa và dẫn đường cho các kỹ thuật nội soi, sinh thiết [7,
35, 36]. Biểu hiện trên X-quang của UTP rất đa dạng, thường là những khối u
tròn đơn độc, bờ không đều, có múi, đa cung; hoặc những đám ranh giới
không rõ, cục bộ hoặc lan tỏa. Hình ảnh viêm phổi, xẹp phổi do khối u làm
tắc nghẽn các phế quản đi kèm. Trung thất rộng gợi ý di căn hạch, hình ảnh
bạch mạch viêm, tràn dịch màng phổi, tổn thương thành ngực.
Sàng lọc UTP bằng X-quang đã được ứng dụng rộng rãi, để phát hiện
sớm UTP cần kiểm tra những người có nguy cơ cao, kết hợp với xét nghiệm


25

đờm 4 tháng/lần, tỉ lệ phát hiện ở người không có biểu hiện lâm sàng là
48/100.000 người. Tuy nhiên, một số tác giả lại không đề nghị khám sàng lọc
UTP bằng X-quang vì hiệu quả chẩn đoán thấp, những tổn thương nhỏ <1cm
có thể đã có những di căn ổ nhỏ mà không thể phát hiện bằng X-quang
thường; hơn nữa sàng lọc không làm giảm được tỉ lệ tử vong và chụp Xquang nhiều có thể tăng nguy cơ UTP[19, 37, 38].
- Chụp cắt lớp lồng ngực (CLVT)
Là một kỹ thuật ghi hình có hiệu quả đối với các tổn thương ở phổi và
trung thất. Chụp CLVT phổi xác định được chính xác hình thể, kích thước, bờ
khối u. Bờ khối u thường có múi, tua gai, khe nứt không đều, u tỉ trọng mô
mềm, ngấm thuốc cản quang, sau tiêm cản quang tĩnh mạch nếu tỉ trọng tăng
>20 đơn vị HU thường là các u ác tính [39, 40]. Chụp CLVT giúp nhận định
được khối u dính vào màng phổi, khí quản, tĩnh mạch chủ, động mạch chủ ngực

hoặc dính vào thành ngực. Có thể thấy khối u dính vào phế quản gốc, làm hẹp
long phế quản thùy trên. Ngoài ra, còn có thể thấy hạch rốn phổi to, trong ngăn
Barety, đôi khi thấy hẹp phế quản gốc hoặc nhìn thấy hạch cạnh phế quản gốc,
hạch trước carina. U phổi có thể bị quai động mạch chủ che lấp một phần, hoặc u
ở đáy phổi trái bị tim che lấp, cần phải chụp CLVT[7, 8]. Độ nhạy của chụp
CLVT trong chẩn đoán UTP từ 89-100%, độ đặc hiệu từ 56-63% [36].
- Chụp xạ hình phổi
Chụp xạ hình phổi được thực hiện bằng cách tiêm vào tĩnh mạch
Techitium 99m (Te99m) với thời gian bán hủy 6 giờ, người ta nghiên cứu sự
phân bố của chất phóng xạ trên hệ mạch máu của phổi được ghi lại bằng máy
SPECT. Đây là phương pháp chụp đơn giản, không tốn kém. Phương pháp
này cho rất ít thông tin, độ nhạy thấp và thường được chỉ định chụp khung
xương toàn than để đánh giá tình trạng di căn xương.


×