Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Một số biện pháp hướng dẫn nhằm giúp học sinh phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo khi học và thực hành luyện nói trong phân môn tiếng việt lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.71 MB, 27 trang )

1


MỤC LỤC
NỘI DUNG

TRANG

1 MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận
2.2 . Thực trạng của vấn đề.
2.2.1. Về phía giáo viên
2.2.2. Về phía học sinh
2.3.3. Một số hạn chế của sách giáo khoa và sách giáo viên
2.3. Các biện pháp thực hiện
2.3.1Giúp học sinh phát triển lời nói
2.3.2 Rèn kĩ năng nói cho học sinh
2.3.3 Sử dụng một số phương pháp dạy học tích cực vào dạy
luyện nói trong môn Tiếng Việt.
2.3.4 Một số chú ý khi tiến hành dạy luyện nói.
2.4. Hiệu quả
3 . KẾT LUẬN & KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3. 2. Kiến nghị

02


02
03
03

04
07
07
07
08
11
11
11
15
21
22
23
23
23

2


1. MỞ ĐẦU.
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Phân môn Tiếng Việt trong các nhà trường phổ thông nói chung và
trường Tiểu học nói riêng có một vị trí vô cùng quan trọng. Môn học này là
cơ sở, là nền tảng giúp học sinh học tốt các môn học khác. Tiếng Việt vừa là
một khoa học vừa là công cụ, phương tiện giúp học sinh lĩnh hội tri thức, rèn
luyện kỹ năng, kỹ xảo, phát triển tư duy. Việc dạy Tiếng Việt ở trường tiểu
học với tư cách là dạy tiếng mẹ đẻ luôn là vấn đề được quan tâm chú trọng.

Trong đó lớp Một có ý nghĩa vô cùng to lớn, đặt những viên gạch nền móng
cho hệ thống giáo dục phổ thông và quan trọng hơn là sự hình thành và phát
triển nhân cách con người sau này.
Trong những năm học vừa qua, ngành giáo dục đã phát động phong
trào thi đua "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực". Muốn trở
thành một môi trường giáo dục thật sự thân thiện, tích cực và có chất lượng,
quan trọng nhất người giáo viên phải dạy Tiếng Việt cho học sinh chính là
dạy học tiếng mẹ đẻ. Chương trình Tiếng Việt mới nhấn mạnh chủ trương
“Hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng nghe – nói - đọc - viết để học
tập và giao tiếp trong môi trường hoạt động của lứa tuổi”. – Quan điểm giao
tiếp nói cụ thể hơn là quan điểm phát triển lời nói định ra nguyên tắc, phương
hướng xây dựng chương trình môn Tiếng Việt. Mỗi phân môn, mỗi tiết học,
mỗi nội dung dạy học đều hướng tới mục đích phát triển lời nói. Mục tiêu chủ
yếu của môn Tiếng Việt lớp 1 hiện nay là chú trọng dạy chữ trên cơ sở dạy âm
và dạy vần là để dạy chữ.
Vấn đề phát triển lời nói cho học sinh đã được chủ tịch Hồ Chí Minh
dạy: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân
tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó, làm cho nó phổ biến ngày càng
rộng khắp”. Và cố thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng đã từng nói: “Trường
học có trách nhiệm lớn lao trong việc giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
Phải làm cho thế hệ trẻ nói và viết tốt hơn chúng ta”. Muốn thực hiện được
lời dạy đó, trường tiểu học cần phải có cách thức tổ chức và phương pháp
dạy học hợp lý, tích cực nhằm nâng cao chất lượng dạy - học môn Tiếng
Việt, giúp học sinh sử dụng thành thạo Tiếng Việt.
Cho đến nay, việc triển khai chương trình Tiếng Việt 1 mới trên toàn
quốc đã lâu nhưng phần lớn giáo viên vẫn tỏ ra lúng túng, e ngại khi tổ chức
dạy luyện nói cho học sinh, còn học sinh rất khó khăn khi học phần này.
Nhìn chung, việc dạy học nội dung này vẫn chưa đạt hiệu quả cao.
Đây cũng là lý do tôi viết sáng kiến kinh nghiệm với chủ đề: “Một số biện
pháp hướng dẫn nhằm giúp học sinh phát huy tính chủ động, tích cực,

sáng tạo khi học và thực hành luyện nói trong môn Tiếng Việt ở lớp 1”.
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
- Góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt nói chung và
nội dung luyện nói nói riêng ở lớp 1.
- Phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh khi học luyện nói
trong môn Tiếng Việt 1.
3


1.3. ĐỐI TƯỢNG , PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Một số biện pháp hướng dẫn nhằm giúp học sinh phát huy tính chủ
động, tích cực, sáng tạo khi học và thực hành luyện nói trong môn Tiếng
Việt ở lớp 1”.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
a . Phương pháp nghiên cứu tài liêu:
Nghiên cứu sách Tiếng Việt 1, sách giáo viên và các tài liệu tham
khảo khác có liên quan đến phần luyện nói của học sinh.
b. Phương pháp nghiên cứu thực tế:
- Điều tra việc nói của học sinh trong giờ Học vần và Tập đọc.
- Điều tra về dạy luyện nói của bản thân và đồng nghiệp.
c . Phương pháp nghiên cứu lí luận:
Nghiên cứu những vấn đề lí luận và thực tiễn liên quan đến dạy luyện nói.
d . Phương pháp thực nghiệm:
Áp dụng những biện pháp tìm được vào việc giảng dạy phần luyện nói
cho học sinh lớp 1D Trường Tiểu học Quý lộc.
e . Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:
Tổng kết kinh nghiệm đúc rút được trong quá trình dạy luyện nói cho
học sinh lớp 1.

4



2 . NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
Mục tiêu của môn Tiếng Việt mới đã thể hiện được quan điểm mới
trong dạy học đó là quan điểm giao tiếp. Hoạt động giao tiếp bao gồm các
hành vi nhận thông tin và phát thông tin. Trong ngôn ngữ mỗi hành vi đều có
thể thực hiện bằng hai hình thức là khẩu ngữ (nghe, nói) và bút ngữ (đọc,
viết). Dạy học theo quan điểm giao tiếp là xu thế phổ biến trong các tài liệu
dạy tiếng mẹ đẻ cũng như dạy ngoại ngữ ở các nước tiên tiến hiện nay. Quan
điểm này được thể hiện trên cả hai phương diện nội dung và phương pháp
dạy học.
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về giao tiếp nhưng tựu chung
thì về vấn đề cốt lõi của các định nghĩa là: giao tiếp là hoạt động tiếp xúc,
trao đổi giữa con người với con người trong xã hội, nhằm truyền đạt cho
nhau những nhận thức, những tư duy hoặc nhằm bày tỏ, chia sẻ những tình
cảm, thái độ, đối với nhau cũng như đối với các sự vật, hiện tượng trong
thực tế khách quan. Như vậy, điều kiện trước tiên đảm bảo cho một cuộc
giao tiếp diễn ra bình thường là phải có ít nhất hai đối tượng tham gia:1 đóng
vai người nói và 1 đóng vai người nghe. Hai vai này sẽ luân phiên thay đổi
nhau trong suốt quá trình giao tiếp, họ cũng phải sử dụng một thứ ngôn ngữ
nhất định, cùng chịu sự chi phối của hoàn cảnh và nội dung giao tiếp để
hướng tới mục đích đã đề ra.
Trong quá trình dạy học luyện nói, lý thuyết giao tiếp giúp giáo viên
có sự định hướng về nội dung và phương pháp dạy học nhằm đạt được mục
tiêu dạy học đề ra. Đó là nhằm phát triển lời nói cho từng cá nhân học sinh.
Vì vậy, đòi hỏi giáo viên cần biết chuyển nội dung dạy học thành những tình
huống giao tiếp gần gũi, giúp học sinh vận dụng kinh nghiệm của mình thực
hiện hoạt động giao tiếp. Từ đó học sinh sẽ có kỹ năng giao tiếp và tất nhiên
sẽ phát triển được lời nói cho các em.

Chúng ta cũng đã biết trước khi vào lớp 1, trẻ đã được làm quen với
Tiếng Việt (tiếng mẹ đẻ) trong cuộc sống hàng ngày. Đó là một phương tiện
quan trọng giúp các em giao tiếp với mọi người, với xã hội, giúp các em
phát triển tư duy. Khi vào lớp 1, việc học môn Tiếng Việt một cách có tổ
chức, có phương pháp khoa học sẽ giúp các em củng cố thêm hiểu biết cũng
như các kỹ năng, kỹ xảo sử dụng tiếng mẹ đẻ của mình, từ đó giúp các em
học tốt các môn học khác và giao tiếp tốt hơn.
Việc dạy học nội dung luyện nói thực chất là dạy các em tạo lập nên
những ngôn bản nói để phục vụ hoạt động học tập và giao tiếp. Vì vậy nếu
giáo viên vận dụng các phương pháp dạy học một cách phù hợp nhằm phát
triển kỹ năng nói để tổ chức dạy học nội dung luyện nói trong môn Tiếng
Việt 1 thì sẽ phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
Từ đó nâng cao được hiệu quả dạy học, tăng cường năng lực sử dụng ngôn
ngữ nói của học sinh.
a/ Những yêu cầu về luyện nói ở lớp 1:
Chuẩn kĩ năng nói cho lớp 1:
5


Chủ đề
- Phát âm
- Sử dụng nghi thức lời
nói
- Đặt và trả lời câu hỏi
- Thuật việc, kể chuyện

-Phát biểu, thuyết trình

Mức độ cần đạt
-Nói rõ ràng đủ nghe. Nói liền

mạch cả câu.
- Có thái độ lịch sự, mạnh dạn,
tự nhiên khi nói.
- Biết nói lời chào hỏi, chia tay
trong gia đình, trường học.
- Biết trả lời đúng vào nội dung
câu hỏi. Nói thành câu.
- Kể được một đoạn hoặc cả
mẩu chuyện có nội dung đơn
giản được nghe thầy, cô kẻ trên
lớp (kết hợp với nhìn tranh
minh hoạ, đọc lời gợi ý dưới
tranh)
- Biết giới thiệu một vài câu về
mình, về bản thân hoặc một vài
đồ vật quen thuộc.

Ghi chú
- Nói đúng lượt
lời, nhìn vào
người nghe khi
nói.

b/ Hệ thống bài tập luyện nói trong SGK lớp 1:
Sách Tiếng Việt có hai phần:
Phần Học vần có 103 bài được chia làm ba dạng bài cơ bản:
- Làm quen với âm và chữ cái: từ bài 1 đến bài 6
- Dạy – học âm vần mới: từ bài 7 đến bài 103 (82 bài).
- Ôn tập âm vần mới: Cứ 6, 7 bài học âm vần mới lại có một bài ôn.
Nội dung luyện nói trong từng bài được sách giáo khoa xác định rất rõ

ràng. Mỗi bài luyện nói có một tên gọi cụ thể (trừ 5 bài trong phần Làm
quen với âm và chữ). Các bài tập luyện nói được sắp xếp cuối mỗi bài dạy
âm, vần mới và được trình bày bằng tranh minh hoạ, có từ, ngữ chứa âm,
vần đã học nói lên chủ đề luyện nói. Ở phần này yêu cầu luyện nói được lặp
đi lặp lại và cách trình bày đơn giản cho phù hợp với giai đoạn học chữ của
trẻ. Mục tiêu của phần này là giúp học sinh làm quen với không khí học tập
mới, mạnh dạn nói cho các bạn nghe và lắng nghe bạn nói.
Phần Luyện tập tổng hợp
- Trong phần luyện tập tổng hợp được bố trí các bài theo tuần với ba chủ
điểm lớn: Nhà trường, Gia đình, Thiên nhiên – Đất nước (từ tuần 25 trở về
sau) Các bài của mỗi tuần tập trung vào một chủ điểm – Cứ ba tuần hết một
lượt chủ điểm. Việc quay vòng chủ điểm này không phải là sự lặp lại y hệt
mà vòng sau mở rộng hơn vòng trước. Cụ thể:
Loại I: Luyện nói câu chứa tiếng có vần ôn trong bài tập đọc:
+ Kiểu 1: Nói câu chứa tiếng có vần cho trước. Kiểu này có 14 bài.
VD: Nói câu chứa tiếng có vần ưa – ua.
M:- Nước chanh mát và bổ.
- Quyển sách này rất hay.
(Tiếng Việt 1 tập hai trang 62).
+Kiểu 2: Nhìn tranh nói câu chứa tiếng có vần cho trước. Kiểu này có 1
bài.
6


VD: Nhìn tranh nói câu chứa tiếng có vần ăc- ăt. (Tiếng Việt 1 tập hai trang
110).
Loại II: Luyện nói theo đề tài.
+ Kiểu 1: Bài tập luyện nói theo bài
Dạng 1: Trả lời câu hỏi theo tranh: Dạng này có 1 bài. Ví dụ: trả lời các
câu hỏi theo tranh:

M: Tranh 1: Ai nấu cơm cho bạn ăn?
-Mẹ tôi nấu cơm cho tôi ăn
Tranh 2: Ai mua quần áo cho bạn?
Tranh 3: Ai chăm sóc bạn khi ốm?
Tranh 4: Ai vui khi bạn được cô khen?
(Tiếng Việt 1, tập hai – trang 56)
Dạng 2: Nói về một sự vật, sự việc…có nội dung liên quan đến bài tập
đọc. Dạng này có 11 bài. Ví dụ: Ở nhà em làm gì giúp bố mẹ (Tiếng Việt
1, tập hai – trang 59)
Dạng 3: Kể về một người, một việc,…có liên quan đến nội dung bài tập.
Dạng này có 5 bài. VD: Kể về người bạn tốt của em (Tiếng Việt 1, tập hai –
trang 107)
+ Kiểu 2: Bài tập hỏi - đáp
Dạng 1: Hỏi – đáp về một sự việc, một người, một sự vật, hiện tượng….có
liên quan đến bài tập đọc.
Dạng này có 10 bài: Ví dụ: Hỏi nhau về những việc làm buổi sáng?
M: Sáng sớm, bạn làm việc gì?
-Tôi tập thể dục, sau đó đánh răng, rửa mặt….
(Tiếng Việt 1 tập hai - trang 68)
Dạng 2: Hỏi - đáp theo nội dung bài bài tập đọc. Dạng này có 2 bài. Ví dụ:
Hỏi - đáp theo bài thơ:
M: Con gì hay nói ầm ĩ?
( Tiếng Việt 1 tập hai - trang 113)
Loại III: Luyện nói theo nghi thức lời nói:
Nói lời chào của nhân vật theo tình huống trong bài học. VD: Nói
lời chào của Minh khi gặp bác đưa thư, khi mời bác uống nước. (Tiếng
Việt 1 tập 2- trang 137).
Là một giáo viên đã nhiều năm liền dạy lớp 1 nên tôi biết luyện nói là
một nội dung cần thiết, có vai trò quan trọng trong việc góp phần phát triển
ngôn ngữ cho học sinh, là tiền đề cho môn Tập làm văn sau này nhưng

không phải là phần dễ dạy. Nhiều giáo viên cũng xác định đây là một bộ
phận quan trọng trong giờ học học vần hoặc tập đọc lớp 1, song vì lượng
thời gian dành cho nội dung này còn hạn chế (khoảng 10 phút cuối trong tiết
học), nên đôi lúc bị “bỏ qua” hoặc có tiến hành thì chỉ được tổ chức một
cách qua quýt. Còn về phần học sinh thì khả năng luyện nói trong các giờ
học này thường chỉ dừng lại ở việc trả lời các câu hỏi trong sách hoặc của
giáo viên, rất hiếm có học sinh nào biết tự nói một số câu về chủ đề bài học
đưa ra.

2.2 / Thực trạng của vấn đề:
2.1.1 Về phía giáo viên:
7


- Xét về nguyên nhân chủ quan đầu tiên cần phải kể đến là quan niệm của
giáo viên, một số giáo viên còn xem nhẹ hoạt động nói của học sinh trước
lớp, chỉ chú trọng đến kĩ năng đọc, viết nên trong giờ học Tiếng Việt thời
lượng dành cho hoạt động nói của học sinh quá ít. Chính vì thời lượng ít nên
số lượng học sinh tham gia nói về nội dung bài không được nhiều mà chỉ
qua loa một vài em mạnh dạn, hay phát biểu mà thôi.
- Giáo viên chưa tập trung tìm hiểu về đặc điểm tâm sinh lý, môi trường
sống của học sinh, chưa thật sự thông cảm với những khó khăn mà học sinh
gặp phải nên khi tiến hành hỏi đáp chỉ yêu cầu những học sinh nói hay hoặc
hay nói trả lời. Không mấy quan tâm đến những học sinh ít nói, nghèo nàn
về ngôn ngữ, nói ngọng vì sợ gọi những em này trả lời sẽ làm mất nhiều thời
gian. Vấn đề này vô tình giáo viên đã làm cho những học sinh rụt rè ngày
càng trở nên nhút nhát hơn.
- Nêu câu hỏi chưa phù hợp với từng đối tượng học sinh trong lớp, câu
hỏi dễ lại dành cho học sinh khá, câu hỏi khó đôi khi muốn học sinh yếu trả
lời,…

- Dạy phần luyện nói chỉ đơn giản là gọi học sinh trả lời 2, 3 câu hỏi;
chưa hướng dẫn học sinh biết liên kết các câu thành một đoạn đơn giản đúng
chủ đề.
- Có sửa sai nhưng chưa kiên trì, uốn nắn trong mọi tình huống, mọi hoạt
động của bài cũng như ở những giờ học khác.
- Chưa sáng tạo, linh hoạt, chưa biết kết hợp nhiều phương pháp dạy học
trong quá trình lên lớp và điều chỉnh những nội dung cần thiết, phù hợp để
phần luyện nói đạt kết quả tốt.
- Đồ dùng dạy học dành cho phần luyện nói còn chưa phong phú, chưa
phù hợp, sơ sài chủ yếu dựa vào tranh trong sách giáo khoa.
2.2.2 Về phía học sinh:
- Chưa chú ý lắng nghe một cách tích cực khi giáo viên nêu yêu cầu đến
lúc trình bày thường câu trả lời không đúng mục đích hoặc chưa hết ý. Một
số trường hợp chỉ trả lời một tiếng là “có” hoặc “không” chứ chưa giải thích
được theo ý mình là vì sao có, vì sao không ?
- Còn ỷ lại hoặc nói theo các bạn chứ chưa chịu khó tự tìm ra câu trả lời
hay cho chính mình.
- Do tâm lí rụt rè e ngại: Học sinh lớp 1 khả năng giao tiếp, giao lưu trò
chuyện với mọi người xung quanh còn rất ít. Mặt khác do tâm lí sợ nói sai ý
của giáo viên, sợ bạn bè chê cười khi nói không đúng hoặc nói ngọng nên
học sinh cũng rất ít thể hiện mình, rất ít nói thậm chí đến giờ luyện nói có
học sinh còn không nói được câu nào.
- Học sinh lớp 1 đa số rất hiếu động, dễ nhớ nhưng lại mau quên nên
việc ghi nhớ lời thầy cô dạy là chưa vững chắc.
2.2 .3. Một số hạn chế của sách giáo khoa và sách giáo viên
a. Sách giáo khoa lớp 1:
- Có bài chủ đề luyện nói không liên quan đến chữ, vần của bài đó.
8



Ví dụ: Bài 20 : k - kh- kẻ - khế , thì chủ đề luyện nói lại là “ù ù, vo vo, vù
vù, ro ro, tu tu”.

- Một số chủ đề nói chưa gần gũi,chưa phù hợp với học sinh của từng
vùng miền. Ví dụ: Bài 8- le le, bài 9- vó bè, bài 33- Lễ hội, bài 34 – Đồi,
núi.
- Phần luyện tập tổng hợp: Số lượng từng dạng bài tập còn chưa hợp lý. Bài
tập về nghi thức lời nói còn ít (chỉ có 2 bài, chỉ xoay quanh vấn đề nói lời chào,
lời chia tay) đó là bài Mẹ và cô - Sách Tiếng Việt 1 tập 2 trang 73 và bài Bác
đưa thư - sách Tiếng Việt 1 tập 2 trang 136. Số lượng nói theo đề tài nhiều và
chủ yếu là độc thoại (đây lại là mức độ cao của dạng thức lời nói, sẽ rất khó với
học sinh lớp 1).
- Những đề tài hội thoại có tranh gợi ý không còn phù hợp với thông tư 30.
Ví dụ :
Bài 65 trang 133 sách Tiếng Việt 1 tập một
Chủ đề luyện nói : Điểm mười

9


Bàn tay mẹ - sách Tiếng Việt 1 tập 2 trang 56

-Ai nấu cơm cho bạn ăn?

Ai mua quần áo mới cho bạn?

-Mẹ tôi nấu cơm cho tôi ăn

Ai chăm sóc khi bạn ốm?


Ai vui khi bạn được điểm mười?

10


Bài Chuyện ở lớp – Sách Tiếng Việt 1 tập 2 trang 101 : Hãy kể với cha mẹ:
Hôm nay ở lớp em đã ngoan thế nào.

Bài Chuyện ở lớp – Sách Tiếng Việt 1 tập 2 trang 101
b. Sách giáo viên:
- Phần lớn các bài soạn trong sách giáo viên chỉ là gợi ý cách thức, các bước
đơn giản. Các biện pháp đưa ra để luyện nói cho học sinh chỉ là nêu tên mà
không chỉ ra cụ thể cách thức thực hiện. Ví dụ: Phần học vần, sách giáo viên
hướng dẫn dạy học luyện nói lặp đi lặp lại cách làm sau:
+ Bước 1: Học sinh đọc tên bài luyện nói.
+ Bước 2: Giáo viên có các câu hỏi gợi ý theo tranh cho thích hợp.
+ Bước 3: Học sinh trả lời.
Hoặc: Với bài luyện nói “Bạn đã làm gì để bảo vệ loài chim?” (Sách Tiếng
Việt 1 tập hai - trang 152), sách giáo viên chỉ hướng dẫn: Chia nhóm, các
nhóm kể cho nhau xem bạn đã làm gì để bảo vệ các loài chim. Cử người kể
trước lớp.
- Hệ thống câu hỏi ở một số bài còn hạn chế:
+ Câu hỏi không kích thích tính tư duy của học sinh. Ví dụ: Bài “Le le”- có
câu hỏi: Vịt, ngan được người nuôi ở ao, hồ. Còn loài vịt sống tự do không
có người chăn được gọi là gì?
+ Có câu hỏi quá dài, khiến người nghe khó theo dõi, trong khi đáp án trả lời
lại là “có” hoặc “không”: Ra giữa nắng bắt chuồn chuồn, châu chấu, cào
cào, tối về sụt sịt, mai không đi học được, có tốt không?
+ Có câu hỏi trong cùng một hệ thống trùng lặp nhau: Chủ đề “Phim hoạt
hình có câu hỏi 1: Em thấy cảnh gì trong tranh?, câu hỏi 2: Trong cảnh đó

em thấy những gì?, câu hỏi 3: có ai ở trong cảnh? Họ đang làm gì?
Chính vì những khó khăn, hạn chế trên mà giáo viên thêm phần ngại
và lúng túng khi dạy luyện nói cho học sinh. Hơn nữa, nội dung luyện nói
còn được coi là khó dạy, khó học. Dạy nói cho học sinh lớp 1 phải gắn với
11


cả việc dạy đọc, dạy viết, dạy nghe. Vì vậy khi dạy nội dung này người giáo
viên phải có nhiều sáng tạo, linh hoạt, biết kết hợp nhiều phương pháp dạy
học trong quá trình lên lớp, biết điều chỉnh những nội dung cần thiết để giờ
học đạt kết quả tốt.
2.3. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:
2.3 1Giúp học sinh phát triển lời nói
Để giúp học sinh phát triển lời nói, giáo viên cần biết vận dụng lý
thuyết hội thoại vào dạy luyện nói:
* Phải tạo được nhu cầu hội thoại cho học sinh
- Việc tạo ra nhu cầu nói năng cho học sinh hết sức quan trọng. Khi có
nhu cầu biểu đạt, các em sẽ mạnh dạn, hứng thú, trình bày chân thực hơn
những suy nghĩ riêng của mình về đề tài đang được nói đến.
- Để tạo ra nhu cầu giao tiếp cho học sinh, giáo viên cần tạo ra những
tình huống giao tiếp giả định nhưng phải gần gũi và có sức hấp dẫn, kích thích
nhu cầu nói của các em . Khi đã hoà mình vào hoàn cảnh đã nhập vai giao tiếp
thì khi ấy các em sẽ thể hiện hết mình, muốn nói thực sự hết mình.
*. Phải tạo ra được hoàn cảnh giao tiếp tốt:
- Hoàn cảnh giao tiếp trong giờ Tiếng Việt chính là điều kiện lớp học
trong giờ luyện nói. Nó gồm: không khí lớp học, tư thế của giáo viên, các
hoạt động nghe của học sinh, trật tự lớp học và một số hoạt động khác có
ảnh hưởng gián tiếp đến việc nói năng của học sinh. Bởi vì học sinh không
thể nói trong hoàn cảnh lớp học ồn ào hoặc các em sẽ khó diễn đạt trước cặp
mắt nghiêm khắc của giáo viên. Các em sẽ tự tin hơn, phấn khởi hơn trước

sự chú ý lắng nghe của các bạn, trước ánh mắt trìu mến hoặc những lời động
viên khích lệ của cô giáo.
- Khi học sinh đang nói giáo viên không nên ngắt lời một cách tuỳ tiện
bởi sự gián đoạn trong lời nói thường làm các em lúng túng, giáo viên chỉ
nên sửa sai hoặc uốn nắn khi các em đã kết thúc phần nói của mình.
2.3.2. Rèn kĩ năng nói cho học sinh:
Để rèn kĩ năng nói và khả năng diễn đạt cho học sinh thì giáo viên cần
phải làm những việc sau:
* . Xác định và nắm rõ mục tiêu chính của chủ đề luyện nói
Chính chủ đề là điểm tựa, gợi ý cho phần luyện nói. Gợi ý sao cho tất
cả học sinh đều được nói, không đi quá xa với chủ đề. Chẳng hạn như chủ
đề. “Nói lời cảm ơn; Con ngoan trò giỏi; Giúp đỡ cha mẹ”…..nếu đi quá sâu
sẽ lẫn sang tiết Đạo đức. Để khắc phục điều này tôi chỉ định hướng các em
câu hỏi gợi ý xoay quanh vấn đề trọng tâm cần luyện nói.
Ví dụ:
Với chủ đề: Nói lời cảm ơn:
+ Em hãy kể cho cô và các bạn trong nhóm nghe về những lần mình đã cảm
ơn ai đó về điều gì?
Với chủ đề Giúp đỡ cha mẹ tôi hỏi:
+ Hai bạn nhỏ đã làm gì để giúp đỡ cha mẹ?
+ Em thường giúp đỡ cha mẹ vào những lúc nào?
+ Em đã giúp đỡ cha mẹ những việc gì? Hãy nói cho các bạn cùng nghe nhé!
Còn với chủ đề: Con ngoan, trò giỏi tôi có câu hỏi gợi ý:
12


+ Em đã làm được những việc gì để cố gắng là một người con ngoan trong
gia đình?
+ Em đã làm gì để cố gắng trở thành một trò giỏi ở trường học?
*. Nắm bắt thực tế về khả năng nói của từng em để đưa ra phương pháp,

hình thức dạy cho phù hợp.
Phải chuẩn bị hệ thống câu hỏi gợi ý cho từng nhóm đối tượng tuỳ
nội dung của từng bài. Tuỳ theo từng chủ đề mà tôi có định hướng cho học
sinh khi luyện nói, khi đặt câu hỏi để giúp các em biết cách nói cho sát nội
dung bài và nói một cách tự nhiên, chủ động không gượng ép. Tôi phải
chuẩn bị và dự trù thêm một số câu hỏi cho từng đối tượng, đi từ câu hỏi
khái quát rồi mới gợi ý bằng những câu hỏi nhỏ (Khi các em lúng túng sẽ
dễ dàng có cơ sở theo định hướng của cô để rèn nói.)
Ví dụ:
Khi tôi dạy bài 24. Chủ đề : Quà quê Tôi xây dựng hệ thống câu hỏi
dành cho các đối tượng như sau:
- Tranh vẽ gì? (tranh vẽ mẹ đi chợ về cho hai chị em quà.) - dành cho học
sinh trung bình - yếu.
- Quà của mẹ có những gì? (quà của mẹ có nhãn, mía, hồng) - dành cho học
sinh trung bình - yếu.
- Các em thử đoán xem bé đón mẹ hay đón quà? ( hai chị em rất vui, bé chìa
hai tay đón mẹ và cả quà mẹ cho nữa.) - Dành cho học sinh khá - giỏi.
Các em sẽ hào hứng và tham gia vào phần luyện nói một cách chủ
động, tích cực hơn. Nếu các em trả lời đúng nhưng chưa thành câu, giáo viên
chú ý uốn nắn sửa chữa ngay và cho các em nói lại để các em nhớ, tạo thành
kĩ năng.
Cần lưu ý để tạo nên ấn tượng tốt cho các em khi giảng dạy nói
chung và đàm thoại nói riêng thì người giáo viên phải thực sự gương mẫu
trong việc nói năng, nói đủ ý, diễn đạt gãy gọn và trong quá trình rèn luyện
cho học sinh qua từng câu, từng bài nên kiên trì, không nóng vội mà quát
nạt, giận dỗi hay trách móc học sinh. Phải hết sức nhã nhặn với các đối
tượng trong lớp tạo không khí vui vẻ, phấn trấn giúp các em có cảm giác
thoải mái thì hoạt động nói mới diễn ra một cách tự nhiên.
Nên chú trọng tìm hiểu điểm tâm sinh lý, những khó khăn của học
sinh trong lớp để có sự sẻ chia, thông cảm, động viên các em nói nhiều và

mạnh dạn hơn bắt đầu từ những điều đơn giản nhất, dần dần tăng mức độ
khó lên theo thời gian.
*/. Phân các chủ đề thành nhiều nhóm để lựa chọn phương pháp và hình
thức khác thay đổi cho phù hợp với cá nhân, nhóm, đối thoại, độc thoại,

Với những chủ đề gần gũi với học sinh như: Chủ đề: bố mẹ, ba má;
Quà quê; Nhà trẻ; Bé và bạn bè; Người bạn tốt; Bữa cơm, Hãy kể với cha
mẹ hôm nay ở lớp con đã ngoan thế nào?;…Giáo viên gợi mở cho học sinh
nói qua vốn hiểu biết thực tế của các em, lựa chọn những hình thức học tập,
trò chơi v.v…
Chẳng hạn:
- Chủ đề nói về gia đình: “Bố mẹ - Ba má, Bà cháu”…có thể cho học sinh
sắm vai nhân vật thể hiện tình cảm của ông bà, bố mẹ đã yêu thương, quan
13


tâm, chăm sóc em hoặc những tình cảm, việc làm của em thể hiện sự hiếu
thảo của một người cháu, người con đối với ông bà, cha mẹ mình.
- Với chủ đề “Vó bè”: Cho học sinh quan sát thật kĩ bức tranh và giới thiệu
trực tiếp đó chính là vó bè. Phân biệt thêm hình ảnh chiếc vó và bè. Gợi ý để
các em nói được dụng cụ đó được đặt ở đâu? Dùng để làm gì?
Với một số chủ đề khó hơn, chưa thật phù hợp với thực tế địa
phương (Ví dụ bài 20, bài 22, bài 30, bài 34, bài 40, bài 54,…) Thì giáo viên
cần hướng dẫn học sinh nghe - nói một cách linh hoạt, khai thác những nội
dung gần gũi với học sinhvà ít nhiều liên quan đến chủ đề (không nhất thiết
phải có trong tranh minh hoạ ở sách giáo khoa) Ví dụ:
Bài 20: Luyện nói về âm thanh của một số sự vật (ù ù, vo vo, vù vù,
ro ro, tu tu) Trước hết cần khai thác vốn hiểu biết của các em về các sự vật
vẽ trong tranh (Em biết sự vật nàovẽ trong tranh? Khi chuyển động sự vật đó
phát ra âm thanh như thế nào?) Giáo viên cũng có thể mở rộng, liên hệ đến

các sự vật khác không vẽ trong tranh nhưng gần gũi với cuộc sống của các
em. Ví dụ: Gió thổi vào rặng tre nghe như thế nào? Tiếng sáo diều trên cao
nghe ra sao? Tiếng mưa rơi trên mái nhà thế nào? Em biết tiếng kêu của
những con vật nào?...
Bài 34: Chủ đề Đồi núi, giáo viên có thể dùng tranh trong sách giáo
khoa hoặc tranh ảnh sưu tầm về cảnh đồi núi để giới thiệu và mở rộng hiểu
biết cho học sinh trước khi nêu câu hỏi cho học sinh trả lời, nêu nhận xét về
sự vật được vẽ trong tranh.
Bài 40: Chủ đề Ai chịu khó? Tranh vẽ có hình ảnh minh hoạ có thể
chưa rõ ý chủ đề (chó đuổi gà) song giáo viên chỉ cần dựa vào hình ảnh về
người và con vật để đặt câu hỏi gợi ý học sinh nói về khía cạnh “chịu khó”
(Không khai thác nội dung xa chủ đề). Ví dụ: Bác nông dân chịu khó là gì?
Con trâu làm việc thế nào? Con chim chịu khó làm gì? Chú mèo chịu khó
làm gì để giúp ích cho con người? Con chó chịu khó trông nhà giúp ai? Con
gà chăm chỉ kiếm mồi thì gà có chịu khó không?...

14


Với một số chủ đề chưa phù hợp thông tư 30:
Bài 65: chủ đề Điểm mười – sách Tiếng việt 1 tập 1; Trả lời câu hỏi
theo tranh trang 56 sách Tiếng Việt 1 tập 2; Hãy kể với cha mẹ hôm nay ở
lớp con đã ngoan thế nào trang 101 sách Tiếng Việt 1 tập hai. Đây là một
phần mới vì thông tư 30 hiện nay là không chấm điểm mà chỉ nhận xét. Vậy
khi có chủ đề này giáo viên phải giải thích cho học sinh biết được những
năm học trước giáo viên hàng ngày chấm điểm cho học sinh thì điểm 10 là
số điểm cao nhất tương ứng với những bạn nắm chắc kiến thức, thể hiện tốt
kiến thức bài học. Bên cạnh đó giáo viên có thể định hướng để học sinh nói
ra những câu khen học sinh nắm kiến thức và thể hiện tốt bài làm của mình
mà hàng ngày giáo viên vẫn làm.

*/. Chuẩn bị đồ dùng học tập đầy đủ và phong phú:
- Hình ảnh trong sách giáo khoa là chủ yếu
- Tận dụng những vật thật, tranh ảnh có sẵn trong thực tế để làm phương tiện
giảng dạy. Ví dụ khi dạy về chủ đề: Dế, cá cờ, bi ve, lá đa tôi có thể chuẩn bị
sẵn những vật thật đó để học sinh có thể quan sát trực tiếp tạo hứng thú cho
các em. Từ đó gợi ý các em có thể lấy những đồ dùng đó làm những trò chơi
dân gian mà trẻ em xưa vẫn chơi. Hoặc khi dạy chủ đề: Đèn dầu, đèn điện,
đèn huỳnh quang, chủ đề: Rổ rá, chủ đề: Chuối, bưởi, vú sữa… tôi cũng tiến
hành tương tự .
15


- Tận dụng những tranh ảnh, đồ dùng mà học sinh có thể cùng sưu tầm được.
Ví dụ: tranh ảnh về lễ hội khi dạy về chủ đề Lễ hội, các đoạn video clip về
gió, mây, mưa, bão, lũ……
- Khi phương tiện dạy học đầy đủ, phong phú, sát với thực tế sẽ tạo cho các
em hào hứng, chủ động và tích cực tham gia vào quá trình luyện nói.
*/. Lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức dạy học thích hợp:
- Gợi ý bằng hệ thống câu hỏi qua phương pháp đàm thoại. Trong quá
trình đàm thoại giữa giáo viên và học sinh dựa trên lời nói của học sinh giáo
viên sẽ chỉnh sửa câu nói sao cho rõ, gọn, đủ ý diễn đạt theo nội dung của
chủ đề.
- Sử dụng tranh ảnh, đồ dùng trực quan: Học sinh quan sát và diễn đạt
những gì đã đạt được quan sát khi nhìn tranh. Mỗi tình huống trong tranh là
một tình huống thể hiện chủ đề của bài. Khi học sinh đã quen với việc luyện
nói, giáo viên sẽ nâng dần hình thức trong quá trình dạy luyện nói.
- Tổ chức các hoạt động trò chơi, tạo hứng thú, giúp các em mạnh
dạn, tự tin, tích cực tham gia trong quá trình luyện nói. Ví dụ như chủ đề:
Nặn đồ chơi; Áo choàng, áo len, áo sơ mi; Ghế đẩu, ghế xoay, ghế tựa;
Phim hoạt hình …. học sinh sẽ được tham gia chơi nặn hình bằng đất, tô

màu, vẽ tranh, hoặc chọn các loại áo thích hợp với thời tiết…
- Tổ chức luyện nói theo hình thức cá nhân, nhóm đôi, nhóm bốn,…
học sinh sẽ tự nói cho nhau nghe, cùng trao đổi những nhận biết và bày tỏ
cảm xúc của mình về nội dung chủ đề.
- Phương pháp quan sát động viên khen thưởng: Trong tiết dạy, tôi
thường chú ý đến học sinh ít nói, thụ động, đặt câu hỏi dễ động viên các em
cùng tham gia nói. Đối với những em khá giỏi tôi sẽ khuyến khích, gợi mở
bằng những câu hỏi khái quát hơn để giúp các em tự tin, mạnh dạn trình bày
ý kiến, cảm xúc của mình một cách chân thành; tạo không khí lớp học thân
thiện, cởi mở, động viên khen thưởng kịp thời nhằm kích thích sự hứng thú,
ham học hỏi của các em. Trong khi dạy luyện nói tôi thường chú ý đến rèn kĩ
năng nói to, rõ tiếng, nói thành câu, đủ ý diễn đạt, câu nói giàu cảm xúc, ngữ
điệu tự nhiên, chân thành.
*. Vận dụng triệt để thông tư 30 và thông tư 22 vào quá trình dạy luyện
nói:
Tôi thường xuyên bám sát thông tư để nhận xét động viên các em một
cách kịp thời tạo hứng thú cho các em khi học luyện nói. Ví dụ: Với những
em nhút nhát chưa mạnh dạn nếu các em trình bày đúng chủ đề nhưng nói
còn nhỏ thì tôi có thể khen: Cô khen con nói đủ ý, đúng chủ đề nhưng nếu
con nói to hơn nữa thì sẽ rất hay. Hoặc với những em khá giỏi, tự tin khi nói
tôi có thể khen: Cô khen con nói đúng chủ đề, rõ ý, to rõ ràng nhưng nếu
con biết kết hợp cử chỉ, điệu bộ trong khi nói thì thật là tuyệt vời….
2.3.3 Sử dụng một số phương pháp dạy học tích cực vào dạy luyện nói
trong môn Tiếng Việt.
*. Vận dụng phương pháp đóng vai
- Phương pháp đóng vai là phương pháp dạy học trong đó giáo viên tổ
chức cho học sinh giải quyết một tình huống của nội dung học tập gắn liền
16



với cuộc sống thực tế bằng cách diễn xuất ngẫu hứng không cần luyện tập
kịch bản trước.
- Phương pháp đóng vai nhằm giúp học sinh thể hiện tình huống giao
tiếp bằng cách đóng vai nhân vật giao tiếp, trau dồi trí tưởng tượng, rèn kỹ
năng nói trong hội thoại, biết thể hiện ngữ điệu, cử chỉ, hành động khi vào
vai nhân vật. Phương pháp này thường dùng khi dạy các bài nói kiểu tình
huống giao tiếp, hoặc trò chuyện, hỏi - đáp về một đề tài.
Ví dụ: - Bài 31(Học vần): Bé tự giới thiệu
- Bài 60 (Học vần): Nói lời cảm ơn
- Bài: “Bác đưa thư - sách Tiếng Việt 1 tập hai trang 137”: Tập
nói lời
chào hỏi của Minh:
+ Khi gặp bác đưa thư
+ Khi mời bác uống nước.
- Nhìn chung, vận dụng phương pháp đóng vai trong dạy luyện nói sẽ
tạo môi trường tự nhiên để rèn luyện kỹ năng nói, học sinh sẽ sáng tạo lời
thoại của mình cho đúng với nội dung bài nêu ra và học sinh nói một cách tự
nhiên.
* Một số chú ý khi sử dụng phương pháp đóng vai:
+ Nội dung thực hành đóng vai phải vừa tầm với tất cả học sinh, trong
đó tăng độ khó với học sinh khá giỏi, giảm độ khó với học sinh yếu để tạo điều
kiện cho các em được tham gia đóng vai theo tình huống giao tiếp.
+ Khi tổ chức đóng vai, cần kết hợp với phương pháp kể chuyện, thảo
luận … để tạo điều kiện cho nhiều học sinh được tham gia. Giáo viên cần lưu
ý học sinh chú ý theo dõi, có thái độ đúng đắn và vỗ tay tán thưởng sau khi
bạn thể hiện vai diễn.
+ Ngoài ra, giáo viên cần biến đổi tình huống giao tiếp đã cho để
tạo ra các bài tập tình huống giao tiếp mới phù hợp với từng đối tượng
học sinh và giúp học sinh tiến hành bài tập từ đó rèn luyện kỹ năng nói
cho các em một cách có hiệu quả.

Ví dụ: ở bài “Bác đưa thư”, cô giáo biến đổi tình huống giao tiếp như sau:
“Một bạn trong vai bác đưa thư đến bấm chuông, Minh đi ra” Cô mời
một em đóng vai bác đưa thư, một em đóng vai Minh. Như vậy, tình huống
biến đổi ở chỗ: không chỉ có lời nói của bé mà còn có cả lời nói của bác đưa
thư đáp lại khi được Minh chào hỏi và mời nước. Tình huống này có yêu cầu
cao hơn, có nhiều em được tham gia đóng vai hơn.
+ Sau khi học sinh đóng vai, giáo viên tổ chức cho nhận xét, đánh giá,
rút kinh nghiệm, khen ngợi những em thể hiện vai diễn tốt.
*/. Bước đầu vận dụng phương pháp dạy học thảo luận nhóm theo mô
hình VNEN trong dạy học nội dung luyện nói ở lớp 1:
- Đặc trưng phương pháp dạy học hợp tác nhóm là học sinh trước hết
phải làm việc các nhân để có chính kiến riêng của mình, sau đó nói với nhau,
đưa ra ý kiến của mình và lắng nghe ý kiến của các bạn để hoàn thiện thêm ý
kiến của mình …. do vậy học sinh được tạo nhiều cơ hội hơn để diễn đạt,
khám phá ý tưởng, mở rộng suy nghĩ và rèn luyện kĩ năng nói; tự tìm tòi để
phải đưa ra được ý kiến của mình, tạo cơ hội để học hỏi từ các bạn, cũng từ
đây các em có kĩ năng giao tiếp tốt hơn. Việc học tập trong nhóm tăng cường
tính tích cực, chủ động, linh hoạt hơn.
17


Phương pháp thảo luận nhóm là một phương pháp dạy học trong đó
giáo viên tạo điều kiện cho học sinh học tập theo từng nhóm nhằm luyện tập
khả năng giao tiếp bằng cách trao đổi, hợp tác, tranh luận, bàn bạc… với
nhau để giải quyết các vấn đề học tập và tìm ra được những tri thức, kỹ năng
, kỹ xảo mới cho bản thân. Qua thảo luận nhóm, ngôn ngữ và năng lực tư
duy của học sinh trở nên linh hoạt hơn, đồng thời còn giúp các em luyện tập
tính tự giác, tính đoàn kết tập thể, có sự mạnh dạn, tự tin trong học tập và
giao tiếp.
- Các buổi học thảo luận nhóm bao giờ cũng rất sôi nổi. Những học

sinh nhút nhát, ít phát biểu trong lớp sẽ có môi trường tham gia xây dựng
bài. Hơn thế nữa, hầu hết các hoạt động nhóm đều mang cơ chế tự sửa lỗi và
học sinh học lẫn nhau, theo đó các lỗi sai được giải đáp trong bầu không khí
thoải mái.
- Khi tổ chức học nhóm giáo viên cũng có cơ hội tận dụng những ý
kiến và kinh nghiệm của học sinh. Khi đó học sinh có lợi thế hơn khi làm
việc độc lập, các em dễ nghĩ ra cách làm bài tập. Đồng thời khi học nhóm,
mối quan hệ giữa các học sinh được cải thiện, tạo cho lớp học bầu không khí
tin cậy. Mọi người ai cũng thích hoạt động giao tiếp xã hội, vì thế việc chia
nhóm sẽ tạo một thái độ tích cực hơn với hoạt động giảng dạy.
- Có nhiều cách để chia nhóm: nhóm ngẫu nhiên, nhóm cùng trình độ,
nhóm cùng sở thích….. giáo viên nên chọn chia nhóm sao cho phù hợp để
phần luyện nói diễn ra một cách tự nhiên, sôi nổi và hào hứng đối với các
em.
* Một số chú ý khi tổ chức dạy học luyện nói theo phương pháp nhóm:
+ Các đề tài đưa ra thảo luận phải có tác dụng kích thích sự suy nghĩ,
gây sự tò mò, chú ý của học sinh. Vì nếu đề tài quá dễ thì học sinh chóng
chán, thảo luận không có hiệu quả, còn nếu quá khó học sinh không có ý
kiến thì cuộc thảo luận sẽ bế tắc.
+ Không quá lạm dụng hình thức thảo luận nhóm trong giờ dạy luyện
nói vì nếu kéo dài sẽ ít có tác dụng.
+ Trong lúc thảo luận, giáo viên cần cố gắng cho mọi học sinh đều
được bày tỏ quan điểm, ý kiến. Giáo viên nên quan sát để hỗ trợ khi học sinh
cần, mặt khác để có biện pháp khích lệ đối với những học sinh quá ít lời.
Lúc ấy giáo viên có thể nhẹ nhàng hỏi: “Nào bây giờ cô muốn nghe ý kiến
của các bạn chưa nói” hay: “Bạn nói rồi, bây giờ mời em cho ý kiến?”….
+ Sau khi thảo luận, các nhóm có thể giao lưu trình bày kết quả của
nhóm mình.Trưởng ban học tập sẽ lên điều khiển thảo luận của các nhóm.
Khi có ý kiến phản hồi từ các nhóm, trưởng ban học tập có thể tự giải quyết
hoặc nếu kiến thức quá khó thì trưởng ban học tập sẽ tập hợp ý kiến và nhờ

sự trợ giúp của giáo viên. Các em tự giao lưu trao đổi lẫn nhau sẽ làm cho
phần luyện nói của các em được tự nhiên hơn. Giáo viên cần chú ý đến câu
hỏi có nhiều ý kiến.
+ Giáo viên nên để học sinh có nhận xét về bài nói của các nhóm, sau
đó mới đưa ra đánh giá của mình và có thể khen ngợi ý kiến đóng góp của
các em, động viên tinh thần làm việc của các nhóm.
Ví dụ 1: Bài luyện nói về chủ đề: “Giữ gìn sách vở” Sách Tiếng Việt
1 tập một trang 165.
18


- GV chia lớp thành các nhóm (nhóm đôi, ba, tư)
- Câu hỏi thảo luận:
+ Hãy chia sẻ cách giữ gìn sách vở của mình cho bạn. (Gợi ý: Bạn đã
làm gì để giữ gìn sách vở? Để sách vở luôn sạch, đẹp không bị quăn mép,
long bìa thì bạn cần làm gì?...)
- Từng cá nhân trình bày trong nhóm cách làm của mình, các thành
viên khác nhận xét góp ý bổ sung cho bạn rồi thống nhất cách làm. Nhóm
trưởng lên báo cáo kết quả làm việc (các thành viên trong nhóm luân phiên
làm nhóm trưởng).
- Các nhóm sau khi thảo luận sẽ trình bày trước lớp dưới sự điều
khiển của trưởng ban học tập. Các nhóm sẽ giao lưu bổ sung ý kiến. Cuối
cùng giáo viên nêu ý kiến và đánh giá tinh thần làm việc của các nhóm.
Ví dụ 2: Bài luyện nói “Trò chuyện về trời mưa” sách Tiếng việt 1 tập
hai - trang 125.
- Tiến hành tương tự. Giáo viên cũng có thể phát phiếu học tập cho
các nhóm, trong đó có nêu các câu hỏi thảo luận:
+ Bạn thích trời nắng hay trời mưa? Vì sao?
+ Bạn thích trời mưa như thế nào?
+ Sau cơn mưa cây cối và cảnh vật như thế nào?

*.Vận dụng phương pháp thông qua trò chơi học tập trong dạy học nội
dung luyện nói ở lớp 1:
- Trò chơi là hoạt động của con người nhằm mục đích vui chơi, giải
trí, thư giãn sau những giờ làm việc căng thẳng. Thông qua trò chơi, người
chơi còn có thể được rèn luyện thể lực, các giác quan, sự thông minh, nhanh
nhạy, sáng tạo, hoạt bát và đặc biệt là được giao lưu, học hỏi với bạn bè,
đồng đội. Đối với trẻ em thì trò chơi có vai trò rất quan trọng trong sinh
hoạt, vì vậy nếu biết kết hợp hợp lý giữa học tập và vui chơi thì sẽ tạo được
hiệu quả cao trong học tập, tránh được hiện tượng mệt mỏi, nhàm chán cho
học sinh.
* Một số chú ý khi sử dụng phương pháp trò chơi trong giờ luyện
nói lớp 1
- Nội dung của trò chơi phải gắn liền với nội dung tri thức, kỹ năng
cần rèn luyện cho học sinh trong giờ học đó.
Ví dụ: Bài luyện nói: “Nói về sen” (Tiếng Việt 1 tập hai - trang 92)
+ Giáo viên có thể đưa ra trò chơi “Thi nói về sen” giữa 2 đội chơi,
mỗi đội 5 em. Hai đội sẽ gắp thăm giành quyền nói trước, mỗi em nói một
câu về sen, hai đội luân phiên nhau nói, câu sau không được trùng câu trước.
Đội nào có câu nói lặp lại hoặc dừng trước sẽ thua cuộc.
- Mỗi trò chơi đều phải có luật chơi. Trò chơi học tập cần có luật chơi
đơn giản, dễ nhớ, dễ thực hiện và thời gian chơi ngắn, phù hợp với trình độ
của học sinh. Luật cũng cần được phổ biến rõ ràng trước cuộc chơi.
- Tuy nhiên cũng không nên lạm dụng trò chơi quá nhiều trong giờ
học, chỉ nên chơi vào ít phút cuối của giờ học, khi xuất hiện yêu cầu củng cố
kiến thức, kỹ năng, khi học sinh đã có dấu hiệu mệt mỏi. Lúc đó trò chơi sẽ
tạo sự hưng phấn để kết thúc tiết học và tạo thư giãn cho các em bước vào
tiết học tiếp theo.
19



- Trò chơi học tập trong giờ luyện nói có thể kết hợp các vận động
như: truyền điện, nói và viết lên bảng lớp….
Ví dụ: + Thi nói tiếp sức về đề tài trong bài: “Nói về các con vật mà
em biết” ( Tiếng Việt 1 tập hai - trang 149)
+ Hoặc thi tiếp sức (theo đội) điền vào chỗ chấm tên các con
vật mà em biết:
Ví dụ: Nhanh như…..
Dữ như……
Hiền như…….
Chạy như……..
Hót như……..
Đen như…..
Nhát như…..
+ Thi nói tiếp câu về đề tài hoa sen: Nói tiếp vào các câu sau để được
ý trọn vẹn
- Đầm sen rộng……
- Lá sen………
- Hoa sen…
- Nhị sen….
- Hương sen…..
Ở mỗi câu trên có thể gọi nhiều em nói để tạo ra sự phong phú, đa
dạng qua đó học sinh thấy rằng có nhiều cách diễn đạt một ý hoặc cùng một
sự vật có thể được nhìn bằng nhiều góc độ khác nhau. Như vậy còn rèn được
cho học sinh óc sáng tạo, trí tưởng tượng phong phú.
*. Vận dụng phương pháp dạy học vấn đáp vào dạy nội dung luyện nói ở lớp
1
- Phương pháp vấn đáp (hỏi - đáp) chiếm một vị trí quan trọng ở bậc
Tiểu học nói chung và ở lớp 1 nói riêng. Nó được sử dụng rộng rãi trong quá
trình dạy học nhằm gợi mở cho học sinh làm sáng tỏ những vấn đề mới, rút
ra những kết luận cần thiết từ những điều đã học. Nó tạo điều kiện cho học

sinh phát huy được tính tích cực, độc lập nhận thức, phát triển hứng thú học
tập và khát vọng tìm kiếm vấn đề để giải quyết.
- Ở giai đoạn đầu (phần học âm), phương pháp hỏi đáp được dùng
nhiều hơn vì lúc này học sinh chưa có nhiều kinh nghiệm trong kỹ năng nói.
Khi ấy các em rất cần sự gợi mở, dẫn dắt dần dần của giáo viên, hướng các
em vào việc trình bày một vấn đề nào đó.
+ Một số điều cần chú ý khi sử dụng phương pháp vấn đáp trong giờ dạy
luyện nói ở lớp 1:
+ Giáo viên cần xác định rõ mục đích, yêu cầu hỏi đáp để đưa ra hệ
thống câu hỏi chính và những câu hỏi phụ để gợi mở.
+ Các câu hỏi cần có mối liên hệ với nhau để trở thành đoạn hội thoại
giữa giáo viên và học sinh.
+ Câu hỏi phải rõ ràng, dễ hiểu, sát trình độ của học sinh.
+ Câu hỏi phải có tác dụng kích thích tính tích cực, độc lập tư duy,
phát triển hứng thú nhận thức của học sinh.

20


+ Giáo viên cần có thái độ bình tĩnh khi học sinh trả lời chưa đúng
hoặc thiếu chính xác, tránh thái độ nôn nóng, vội vàng cắt ngang ý kiến của
học sinh khi không thật cần thiết.
+ Không chỉ chú ý đến kết quả câu trả lời của học sinh mà phải chú ý
đến cả cách diễn đạt câu trả lời của các em. Từ đó cần sửa lỗi diễn đạt cho
học sinh sao cho chính xác, rõ ràng, hợp logic. Giáo viên cần biết cách động
viên, khuyến khích học sinh trả lời, tập thành thói quen trả lời một cách đầy
đủ, đúng ý, sáng tạo, tránh trả lời rập khuôn, máy móc, không đủ ý, đủ câu.
+ Giáo viên cần tổng kết phần hỏi đáp bằng cách yêu cầu học sinh độc
thoại, nói một đoạn ngắn về chủ đề đó (thường là học sinh giỏi) để rèn kỹ
năng độc thoại cho các em.

Ví dụ: Bài luyện nói: “Bữa cơm” (Tiếng Việt 1 tập một - trang 127).
Giáo viên có thể tổ chức bằng phương pháp hỏi đáp như sau:
- Yêu cầu học sinh nêu chủ đề luyện nói.
- Yêu cầu học sinh quan sát tranh trong sách giáo khoa, giáo viên nêu
câu hỏi cho HS trả lời:
+ Tranh vẽ cảnh gì?
+ Có những ai đang ăn cơm?
+ Bữa cơm trong gia đình em có những ai? (nhiều học sinh trả lời)
+ Trong bữa cơm có những món gì?
+ Em cảm thấy thế nào khi được ăn cơm cùng gia đình.
Với học sinh khá giỏi có thể yêu cầu học sinh kể về một bữa cơm bán
trú….
- Những câu hỏi đầu thường dành cho những học sinh yếu hoặc ít nói.
Sau mỗi câu trả lời giáo viên cần động viên, khuyến khích để học sinh tự tin,
mạnh dạn. Cuối cùng giáo viên yêu cầu một vài em tự nói một số câu về chủ
đề “Bữa cơm”. Đây chính là phần nâng cao, dành cho những học sinh khá,
giỏi.
*/ Vận dụng phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề trong
dạy luyện nói ở lớp 1:
- Phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là phương pháp
dạy học mà trong đó giáo viên đặt ra những vấn đề của bài học thông qua
các tình huống có vấn đề. Từ đó thu hút được sự quan tâm tìm hiểu của học
sinh, đòi hỏi học sinh phải tích cực, chủ động suy nghĩ, giải quyết các vấn đề
đặt ra để tìm kiếm cho bản thân những kiến thức mới và cách học tập mới.
Đây không phải là phương pháp dạy học mới nhưng nhìn chung nhiều giáo
viên chưa vận dụng thành thạo phương pháp này hoặc hiệu quả sử dụng
chưa cao.
- Phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề nhằm hình
thành ở học sinh khả năng tư duy giải quyết vấn đề, khả năng thích ứng, khả
năng hợp tác trong đời sống, đặc biệt trong giao tiếp... Phương pháp này đòi

hỏi học sinh tham gia giải quyết các vấn đề do một hoặc một số tình huống
đặt ra. Nhờ đó, học sinh vừa nắm được tri thức, vừa phát triển tư duy sáng
tạo và chủ động chiếm lĩnh tri thức mới.
Một số chú ý khi sử dụng phương pháp dạy học phát hiện và giải
quyết vấn đề:
21


- Tình huống có vấn đề mà giáo viên nêu ra phải phù hợp nội dung
bài luyện nói.
- Yêu cầu học sinh dựa vào kinh nghiệm sống của mình để tìm thấy
tình huống có liên quan đến nội dung bài học. Từ đó học sinh thấy được mối
liên quan giữa bài học với thực tế cuộc sống và kích thích sự suy nghĩ của
các em.
- Sau khi nêu vấn đề, cần gợi ý để học sinh nhớ lại kiến thức đã học có
liên quan đến vấn đề, thấy được trình tự giải quyết vấn đề đó.
Ví dụ: Bài luyện nói “Nói về các con vật em yêu thích” (Tiếng Việt 1
tập hai - trang 95) giáo viên có thể nêu ra tình huống sau: Khi nói về các
con vật, có bạn hỏi em: “Bạn yêu quý con vật nào nhất? Bạn có thể kể cho tớ
nghe về nó được không?” Em sẽ nói về con vật đó với bạn thế nào để bạn
cũng thấy mến nó?
- Học sinh sẽ phát hiện ra vấn đề cần giải quyết là: Nói với bạn về con
vật mình yêu quý để bạn cũng mến nó.
- Giáo viên cần gợi ý để học sinh tìm cách giải quyết, hướng các em
về giới thiệu con vật mình quý mến, giới thiệu những nét đáng yêu của con
vật đó.
(Ví dụ: Tớ có một con chó rất xinh, nó có bộ lông vằn đen nên tớ gọi
nó là Vện. Nó rất khôn, tớ đi học về là nó chạy tới, ngoáy tít cái đuôi. Tớ
còn dạy nó chơi bóng với tớ, mỗi khi quả bóng lăn ra xa nó lại chạy đến tha
về cho tớ…..)

- Sau khi học sinh trình bày trước lớp, giáo viên yêu cầu cả lớp nhận
xét, đánh giá bài làm của bạn. Giáo viên có thể hỏi:
+ Nghe bạn kể, con thấy con vật của bạn có gì đáng yêu?
+ Bạn dùng những từ nào để nói về sự đáng yêu đó?
- Cuối cùng giáo viên nêu nhận xét, khen và động viên để tạo hứng
thú cho các em luyện nói.
Tuy nhiên không có một phương pháp, hình thức nào là áp dụng tuyệt
đối, tối ưu mà ở đây người giáo viên phải phối hợp linh hoạt các phương
pháp và hình thức dạy học với nhau thì kết quả giờ dạy mới cao.
2.3.4 Một số chú ý khi tiến hành dạy nói cho học sinh lớp 1:
*. Các hoạt động trước khi luyện nói:
- Tạo tâm thế sẵn sàng học tập cho học sinh: Như trên đã nói, để có
được bài nói tốt, người nói cần có sự chuẩn bị tốt, tức là cần xác định được
những việc cần làm để thực hiện bài tập luyện nói có hiệu quả. Đối với học
sinh lớp 1, sự chuẩn bị trước tiên cho giờ luyện nói là các em phải có hứng
thú học tập. Giáo viên cần tạo cho học sinh một tâm thế hào hứng để bước
vào giờ học. Bởi lẽ, nội dung luyện nói thường khó đối với học sinh, mặt
khác mục này được sắp xếp vào cuối tiết học. Lúc đó học sinh đã mệt mỏi,
sự chú ý của các em không cao. Vì vậy, trong suốt các nội dung học tập
trước đó của giờ học, giáo viên cần tạo không khí học tập nhẹ nhàng, tự
nhiên và nên duy trì điều đó trong giờ luyện nói.
- Giáo viên cần chú ý chuẩn bị tốt các hoạt động cho giờ luyện nói
nhằm tạo không khí hào hứng, sôi nổi trong giờ học, kích thích học sinh
tham gia nói.
22


- Giáo viên cần định hướng bằng một số câu hỏi gợi ý để học sinh
hiểu rõ chủ đề luyện nói.
*. Các hoạt động trong giờ luyện nói:

- Giáo viên phải kích thích nhu cầu nói của học sinh bằng cách sử
dụng trực quan, tạo tình huống giao tiếp phù hợp, động viên học sinh tham
gia tích cực khi luyện nói.
- Giáo viên phải tạo hoàn cảnh giao tiếp tốt. Đó là các điều kiện trong
lớp học ở thời điểm luyện nói. Giáo viên cần giáo dục học sinh trong lớp
biết cách lắng nghe và có thái độ đúng khi nghe bạn nói. Giáo viên phải là
người động viên, khích lệ kịp thời để học sinh phấn khởi trong khi nói.
- Giáo viên cần giúp học sinh thực hiện được việc giữ bình tĩnh, tự tin
và chú ý đến thái độ của người nghe trong khi mình nói.
- Giáo viên cần giúp học sinh biết lựa chọn và sử dụng đúng các nghi
thức lời nói cũng như các từ ngữ, các kiểu câu khi nói.
- Giáo viên cần giúp học sinh biết sử dụng ngữ điệu phù hợp khi nói,
tránh lối nói như đọc thuộc lòng hoặc ngữ điệu thái quá.
- Khi học sinh đang nói, giáo viên không nên ngắt lời các em một
cách tuỳ tiện. Nếu cần uốn nắn giáo viên cũng cần tế nhị, nhẹ nhàng, nên để
học sinh dứt lời thì mới sửa lỗi. Giáo viên không nên làm đứt mạch suy nghĩ
hoặc tạo cho học sinh tâm lý e ngại vì sợ nói sai.
2.4 . HIỆU QUẢ:
So với cách dạy luyện nói trước đây giáo viên chỉ đặt những câu hỏi vấn đáp đơn
giản học sinh trả lời một cách thụ động, chỉ có một số học sinh khá giỏi thường xuyên
phát biểu còn lại học sinh lớp chỉ ngồi nghe, thậm chí có những học sinh nhút nhát còn
không dám nói thế nhưng từ khi tôi vận dụng những biện pháp trên vào dạy luyện nói cho
học sinh lớp 1 tôi thấy đạt học sinh được những kết quả như sau:

Đầu năm
- Diễn đạt lúng túng, chưa rõ ý, chưa
thành câu.
- Lời nói chưa tự nhiên, đôi khi còn
lạc chủ đề luyện nói.
- Học sinh còn nhút nhát, nói nhỏ,

còn lúng túng khi giao tiếp, chưa biết
cách đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi
của bạn.
- Học sinh chưa biết sử dụng âm
thanh, ngữ điệu.
- Sử dụng từ chưa phong phú, chưa
chính xác.
-Chưa biết sử dụng câu phù hợp với
hoàn cảnh giao tiếp.
- Lời nói còn đơn điệu chưa có nhiều
hình ảnh.
- Học sinh miễn cưỡng và thụ động
tham gia vào quá trình luyện nói.

Giữa HK II
- Diễn đạt rõ ràng lưu loát, rõ ý,
thành câu.
- Lời nói tự nhiên, đúng chủ đề.
- Mạnh dạn khi giao tiếp; nói to rõ
ràng; biết đặt câu hỏi và trả lời câu
hỏi của bạn.
-Học sinh đã biết sử dụng âm thanh,
ngữ điệu phù hợp khi nói.
- Biết chọn lọc từ ngữ khi luyện nói.
- Sử dụng câu đúng mục đích khi
luyện nói.
- Học sinh có thể diễn đạt được từ 34 câu trong mỗi chủ đề.
- Học sinh chủ động, hào hứng tham
gia vào luyện nói.


3 . KẾT LUẬN & KIẾN NGHỊ
23


3.1 KẾT LUẬN
Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã áp dụng vào việc dạy luyện
nói cho học sinh lớp 1. Mặc dù để đánh giá kết quả luyện nói của học sinh
thì không thể thống kê bằng những con số cụ thể được nhưng tôi nhận thấy
nếu giáo viên chú ý, quan tâm đến nội dung luyện nói trong mỗi giờ học của
môn Tiếng Việt, chọn lựa và đưa ra những phương pháp dạy học hợp lý thì
chất lượng nói (giao tiếp) của học sinh có khác biệt rõ rệt. Đó là:
- Bản thân giáo viên không còn cảm thấy “ngại” khi dạy nội dung này
trong các giờ học.
- Học sinh cũng không còn cảm thấy lúng túng mỗi khi được giáo
viên yêu cầu nói về một vấn đề gì nữa mà ngược lại các em rất hào hứng,
mong chờ được nói.
- Học sinh được tham gia giao tiếp trong mỗi tiết học nhiều hơn. Đặc
biệt với nhiều em học sinh đầu năm rất nhút nhát, ít hoạt động trong các giờ
học thì cuối học kỳ 1 đã tiến bộ hẳn. Các em đã mạnh dạn hơn trong giờ học,
dám giơ tay phát biểu xây dựng bài, đóng góp ý kiến mỗi khi thảo luận
nhóm trong các tiết học.
- Kỹ năng nói, trình bày vấn đề của học sinh tốt hơn. Các em biết cách
trả lời câu hỏi đủ ý, đủ câu, biết cách nhận xét vấn đề bạn trình bày…
- Tuy nhiên, trong quá trình dạy học, không có một phương pháp nào tối
ưu, mỗi phương pháp đều có những mặt mạnh và những hạn chế của nó. Khi
tiến hành dạy học giáo viên cần nắm vững các phương pháp dạy học, lựa chọn
và kết hợp các phương pháp sao cho phù hợp với nội dung và mục đích bài
học, phù hợp với tâm sinh lý học sinh lớp 1 để có thể đạt kết quả cao trong dạy
học luyện nói. Giáo viên cần khéo léo, mềm dẻo và linh hoạt khi vận dụng các
phương pháp dạy học đó.

3.2 KIẾN NGHỊ
- Với giáo viên trực tiếp giảng dạy:
+ Cần xác định rõ được vị trí và vai trò của phần luyện nói trong
tiết Học vần và Tập đọc từ đó giảng dạy có hiệu quả cao nhất.
+ Giáo viên cần phân bố thời gian một cách hợp lí và tuyệt đối
không được bỏ qua phần Luyện nói trong các tiết dạy.
- Với Tổ, khối chuyên môn:
+ Cần đưa ra thảo luận các chủ điểm Luyện nói trong cuộc họp
chuyên môn để chia sẻ và cùng thống nhất phương án dạy cho các bài trong
tuần.
+ Tổ chức chuyên đề Học vần, Tập đọc (tiết 2) để giáo viên học
hỏi kinh nghiệm của nhau.
Trên đây là những suy nghĩ và việc làm tôi đã áp dụng trong việc
giảng dạy nội dung luyện nói ở lớp 1. Mặc dù vậy, đó mới chỉ là những ý
kiến chủ quan của tôi, rất mong được sự đóng góp ý kiến của các đồng chí
lãnh đạo và các bạn đồng nghiệp để tôi có thêm kinh nghiệm, áp dụng tốt
hơn trong công tác giảng dạy của mình.

24


Tôi cam đoan những nội dung trong báo cáo. Nếu có gian dối hoặc
không đúng sự thật trong báo cáo, xin chịu hoàn toàn trách nhiệm .

XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Quý Lộc, ngày 25 tháng 5 năm
2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của

người khác.
Người viết

Trịnh Hồng Nhung

CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
25


×