Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Nhân vật nữ trong truyện ngắn đỗ hoàng diệu từ góc nhìn giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (684.57 KB, 62 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
 

NGUYỄN THỊ THÙY LINH

NHÂN VẬT NỮ TRONG TRUYỆN NGẮN
ĐỖ HOÀNG DIỆU TỪ GÓC NHÌN GIỚI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lí luận văn học

HÀ NỘI – 2019


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
 

NGUYỄN THỊ THÙY LINH

NHÂN VẬT NỮ TRONG TRUYỆN NGẮN
ĐỖ HOÀNG DIỆU TỪ GÓC NHÌN GIỚI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lí luận văn học

Người hướng dẫn khoa học

TS. NGUYỄN THỊ VÂN ANH


HÀ NỘI – 2019


LỜI CẢM ƠN
Bằng tất cả sự biết ơn, kính trọng em xin giửi lời cảm ơn chân thành
nhất đến TS. Nguyễn Thị Vân Anh – người đã trực tiếp hướng dẫn tận tình
em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Thứ hai em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Ban Giám hiệu trường Đại
học sư phạm Hà Nội 2, Ban Chủ nhiệm khoa Ngữ Văn cùng toàn thể các
Thầy cô giáo trong khoa Ngữ Văn đã hết lòng chỉ bảo, dạy dỗ và giúp đỡ em
trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu khoa học tại Trường
Cuối cùng em xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè và người thân đã
luôn tạo điều kiện và động viên tinh thần giúp em hoàn thành tốt khóa luận tốt
nghiệp của mình.
Hà Nội, ngày 16 tháng 5 năm 2019
Sinh viên

Nguyễn Thị Thùy Linh


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp với đề tài: Nhân vật nữ trong
truyện ngắn Đỗ Hoàng Diệu từ góc nhìn giới là công trình nghiên cứu của
riêng tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Vân Anh. Những kết quả
được công bố trong khóa luận là hoàn toàn trung thực và chưa từng được
công bố trong bất cứ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày 16 tháng 5 năm 2019
Sinh viên

Nguyễn Thị Thùy Linh



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài......................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................... 3
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận .......................................... 4
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ................................................................. 4
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 5
6. Đóng góp của khóa luận ............................................................................ 5
Chương 3: Nhân vật nữ từ góc nhìn văn hóa – xã hội ...................................... 6
NỘI DUNG ....................................................................................................... 7
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIỚI VÀ TIẾP CẬN VĂN HỌC
TỪ GÓC NHÌN GIỚI ....................................................................................... 7
1.1. Khái niệm giới......................................................................................... 7
1.1.1. Giới là một vấn đề khoa học............................................................. 7
1.1.2. Giới trong sáng tác văn học .............................................................. 9
1.2. Vấn đề giới tính (sex) và phái tính (gender) trong nghiên cứu văn
học ................................................................................................................ 11
1.2.1. Phân biệt khái niệm giới tính (sex) và phái tính (gender) .............. 11
1.2.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề giới nữ trong văn học ........... 12
1.3. Tác giả Đỗ Hoàng Diệu và các sáng tác tiêu biểu ................................ 15
1.3.1. Tác giả Đỗ Hoàng Diệu .................................................................. 15
1.3.2. Giới thiệu các sáng tác của Đỗ Hoàng Diệu................................... 16
CHƯƠNG 2. NHÂN VẬT NỮ TỪ GÓC NHÌN GIỚI TÍNH TỰ NHIÊN ... 20
2.1. Vẻ đẹp hình thể ..................................................................................... 20
2.2. Tâm lí, suy nghĩ, cảm xúc..................................................................... 22
2.3. Bản năng, ý thức tính dục ..................................................................... 26
2.3.1. Tính dục – phương tiện khẳng định sự bình đẳng giới................... 26



2.3.2. Bản năng phụ nữ mạnh mẽ ............................................................. 30
2.2.3. Tình yêu gắn liền với nhu cầu bản năng......................................... 32
CHƯƠNG 3. NHÂN VẬT NỮ TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA – XÃ HỘI ...... 36
3.1. Vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách ................................................................... 36
3.1.1. Sức sống mãnh liệt, bản lĩnh cứng cỏi............................................ 36
3.1.2. Chủ động trong tình yêu và hạnh phúc của bản thân ..................... 37
3.2. Lên tiếng đòi quyền lợi chính đáng cho người phụ nữ......................... 39
3.2.1. Sự phản kháng đối với nền văn hóa phụ quyền.............................. 39
3.2.2. Khát vọng tự do, bình đẳng trong tình yêu, cuộc sống................... 43
3.3. Thế giới đàn ông qua cách nhìn của giới nữ......................................... 44
3.3.1. Nhu nhược đớn hèn trước những rào cản hủ tục ............................ 45
3.3.2. Người đàn ông bội bạc, tham lam, tàn nhẫn................................... 52
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Người phụ nữ chiếm một nửa của nhân loại, họ có vị trí vai trò vô cùng
to lớn đối với gia đình và xã hội. Họ là biểu tượng cho đạo đức và vẻ đẹp bền
vững của nghệ thuật và cuộc sống. Đã có không biết bao nhiêu nhà văn nhà
thơ trên khắp hành tinh này viết về người phụ nữ bằng tất cả lòng yêu thương
rộng mở. Ở Việt Nam hình ảnh người phụ nữ đã đi từ đời sống vào trong văn
học và trở thành một hình tượng, một đề tài quan trọng, gần gũi quen thuộc
không còn xa lạ với bạn đọc và giới nghiên cứu. Ở mỗi giai đoạn văn học
người phụ nữ lại hiện lên với những diện mạo và hình hài khác nhau đem đến
cho văn học những hình ảnh người phụ nữ vô cùng phong phú. Đặc biệt là từ
khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, kinh tế - xã hội phát triển góp phần

nâng cao dân trí đời sống tư tưởng của nhân dân được nâng cao. Kéo theo đó
là sự thay đổi của các nhà văn trong cách nhìn cuộc sống, trong quan điểm
nghệ thuật. Chính vì vậy mà nền văn học dân tộc đã có những chuyển biến rõ
rệt và đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Một trong những thành tựu đó
phải kể đến sự đóng góp của thể loại truyện ngắn, trong việc thể hiện nhân vật
người phụ nữ, nhất là những nhân vật nữ do chính nhà văn nữ viết. Ta có thể
kể đến một loạt các nhà văn nữ đương đại tiêu biểu như: Võ Thị Hảo, Nguyễn
Ngọc Tư, Nguyễn Thị Thu Huệ, Đỗ Hoàng Diệu, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh,
Lý Lan. Nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng coi sự xuất hiện của các cây bút nữ
là một hiện tượng đáng chú ý của văn xuôi đương đại. Ông viết: “Văn học
đang mang gương mặt nữ ngày càng trắc ẩn và khoan dung, ngày càng tinh tế
và đằm thắm” [20]. Một vấn đề hết sức nổi bật trong sáng tác của các cây bút
nữ đó chính là sự xuất hiện đông đảo và chiếm ưu thế của các nhân vật nữ.
Các nhà văn nữ với những cố gắng đã khẳng định được ví trí của mình trên
văn đàn. Phạm Xuân Nguyên cũng đã từng nhận định: “Số lượng nhiều các
tác giả nữ lại tỏ ra chức tay trong cái dàn chung, đem đến cho văn học nói
chung, truyện ngắn nói riếng một sinh khí mới cần thiết để thể hiện bề sâu của
cuộc sống hôm nay” [14].

1


Để nghiên cứu, tìm hiểu về nhân vật người phụ nữ các nhà nghiên cứu
đã tìm ra rất nhiều hướng tìm hiểu khác nhau. Nhưng những năm trở lại đây
có một hướng nghiên cứu đem đến nhiều điều mới mẻ về các nhân vật nữ.
Đó chính là hướng nghiên cứu nữ quyền hay rộng hơn là góc nhìn về giới
đang thu hút rất nhiều sự quan tâm từ giới nghiên cứu. Hiện nay nghiên
cứu văn học từ góc nhìn phê bình nữ quyền, hay rộng hơn là góc nhìn về
giới đang tạo ra lực hút rất lớn đối với các nhà nghiên cứu văn học Việt
Nam. Tính độc đáo và đa dạng của thuyết thuyết nữ quyền đã mang lại một

hướng nghiên cứu mới, dựa vào xã hội học và phát triển của nó. Có thể nói,
vấn đề nữ quyền nói chung đã thực sự xuyên thấm vào mọi lĩnh vực đời
sống hàng ngày và càng khẳng định tầm giá trị vô cùng lớn lao của mình.
Vì vậy, để việc tìm hiểu và nghiên cứu về các nhân vật nữ theo góc nhìn
giới nữ có hiệu quả nhất, chúng tôi nghĩ nên đi từ một tác phẩm cụ thể của
một nhà văn nữ cụ thể. Trong các nhà văn nữ đương đại, Đỗ hoàng Diệu hiện
lên như một đại diện xuất sắc và giàu cá tính. Các tác phẩm của Đỗ Hoàng
Diệu người khen thì hết lời mà người chê thì cũng hết ý, tuy nhiên ta có thể
thấy rằng các tác phẩm của cô ngày càng chiếm được nhiều tình cảm của độc
giả. Dù là ở lĩnh vực tiểu thuyết hay truyện ngắn như tập truyện ngắn Bóng đè
và các truyện ngắn khác, Đỗ Hoàng Diệu đã thực sự chinh phục người đọc
bằng ngòi bút sắc sảo mà tinh tế, mãnh mẽ mà tài hoa của mình. Đỗ Hoàng
Diệu được thừa nhận là một trong những cây bút nổi bật và giàu cá tính trong
làng truyện hiện đại Việt Nam. Đọc các sáng tác của cô người đọc dễ nhận
thấy trong đó rất đậm yếu tố sex và yếu tố dục tính, nhưng qua đó từng số
phận của của những người phụ nữ hiện lên trong tác phẩm. Hơn nữa vấn đề
người phụ nữ không chỉ là vấn đề riêng của sáng tác Đỗ Hoàng Diệu hay văn
học Việt Nam mà là vấn đề chung của văn học Thế giới hiện nay.
Chính vì thế mà những năm gần đây xu hướng nghiên cứu từ góc nhìn
giới đang trở thành một trào lưu phê bình, mới mẻ, hấp dẫn gây được nhiều sự
chú ý. Chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Nhân vật nữ trong truyện ngắn Đỗ
Hoàng Diệu từ góc nhìn giới nữ” để trước hết có cái nhìn sâu hơn về người
phụ nữ trong trong sáng tác của cô. Từ đó bước đầu nghiên cứu văn học từ
góc nhìn giới tính tiếp cận một hướng nghiên cứu mới.

2


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Truyện ngắn của Đỗ Hoàng Diệu đang ngày được độc giả tiếp nhận và

quan tâm. Người ta dễ dàng nhận thấy ở nhà văn này một vốn hiểu biết, vốn
sống phong phú, một đời sống tình cảm hết sức mãnh liệt và nhiều nét sắc
sảo, độc đáo, táo bạo và chân thực trong sáng tác.
Mặc dù, Đỗ Hoàng Diệu là một cây bút xuất hiện chưa lâu nhưng đã gây
xôn xao trên nhiều văn đàn. Có hàng chục bài viết đề cập đến như các trang
báo như: An ninh Thế giới, Tuổi trẻ, Văn nghệ trẻ, Hợp lưu, Talawas, hàng
chục ý kiến trao đổi qua các trang web, nhiều hội thảo và cả phỏng vấn, đối
thoại của những cơ quan thông tấn nước ngoài có uy tín (BBC)… Vấn đề hay
– dở đến đâu chưa nói đến thì cũng vẫn phải công nhận Đỗ Hoàng Diệu và
các truyện ngắn của cô (đặc biệt là tập Bóng đè NXB Đà Nẵng, 2005) quả thật
đã thu hút nhiều sự cú ý của bạn đọc, nhiều nhà nghiên cứu văn học chuyên
nghiệp. Và ta có thể xem Đỗ Hoàng Diệu và những tác phẩm truyện ngắn của
cô là một hiện tượng văn học của đời sống văn học Việt Nam 2005
Tập truyện ngắn “Bóng đè” là một tác phẩm mới trên văn đàn, thế
nhưng ngay từ khi xuất hiện nó đã dành được rất nhiều sự quan tâm của báo
chí, dư luận và các nhà nghiên cứu, phê bình văn học. Bình luận về truyện
ngắn Bóng đè đã xuất hiện rất nhiều ý kiến khác nhau và gây nhiều tranh cãi.
Nhà văn Nguyễn Ngọc khi viết lời giới thiệu đã khen giọng văn của Đỗ
Hoàng Diệu: “Tấm đẫm nữ tính, tỉnh táo nhiều khi đến tàn nhẫn mà vẫn mê
hoặc…” [15]. Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên cho rằng: “Những
phản ứng nhiều chiều cho thấy Bóng đè thực sự là một hiện tượng văn học
thách thức cảm nhận và đánh giá của giới trong nghề và của giới độc giả rộng
rãi. Vì tư tưởng của tác phẩm, vì cách viết của tác giả. Truyện ngắn Đỗ Hoàng
Diệu gần như chủ yếu viết về người phụ nữ và dục tính. Phụ nữ trong quan hệ
với dục tính, nhưng quan trọng hơn, phụ nữ và dục tính trong mối quan hệ với
xã hội và lịch sử. Ở đây có phần nào màu sắc của nữ quyền. Tuy nhiên, cô
dùng người phụ nữ và chuyện dục tính như một bộ mã để gửi đi một thông
điệp của mình cho cuộc sống này. Bóng đè là một truyện ngắn hay về nội
dung và cách viết” [15]. Thế nhưng dịch giả Tiễn Cao Đăng lại dưa ra ý kiến
trái chiều với nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên, ông không đánh giá

3


cao truyện ngắn Bóng đè: “Tôi không thích cách hành văn của Đỗ Hoàng
Diệu. Văn chương được tôi đánh giá cao phải là văn chương giản dị, dứt
khoát, trực tiếp. Qua Đỗ Hoàng Diệu, tôi thấy người viết văn Việt Nam vẫn bị
ràng buộc những mặc cảm về quá khứ, mặc cảm nhược tiểu. Tôi mong được
đọc những nhà viết văn mới, viết với một phong thái hào sảng”[15]. Không
phải ngẫu nhiên Bóng đè lại được nhiều nhà báo, phóng viên, nhà ngiên cứu,
phê binh văn học có tên tuổi giới thiệu một cách đầy trân trọng đến như vậy.
Xung quanh tập truyện ngắn Bóng đè và một số truyện ngắn khác của
Đỗ Hoàng Diệu vẫn còn rất nhiều ý khiến khác nhau, thậm chí trái chiều
nhau. Vì thế, đối với khóa luận này tôi tập trung nghiên cứu nhân vật nữ trong
truyện ngắn Đỗ Hoàng Diệu dưới góc nhìn giới.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận
Thông qua việc khảo sát, tìm hiểu, nghiên cứu về nhân vật nữ trong sáng
tác của Đỗ Hoàng Diệu, khóa luận muốn hướng tới những mục tiêu và nhiệm
vụ sau:
 Làm rõ các khái niệm Sex và Gender
 Tìm ra những phương diện thể hiện góc nhìn phái tính trong truyện
ngắn của Đỗ Hoàng Diệu
 Đưa cách hiểu, cách kiến giải mới về nhân vật nữ trong truyện ngắn Đỗ
Hoàng Diệu từ góc nhìn giới nữ
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là nghiên cứu nhân vật nữ trong
truyện ngắn của Đỗ Hoàng Diệu từ góc nhìn giới nữ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận chỉ chủ yếu tập trung khảo sát truyện ngắn của Đỗ hoàng
Diệu được tập hợp trong tập truyện ngắn Bóng đè, gồm có tám truyện ngắn:

Bóng đè, Hoa máu, Linh thiêng, Dòng sông hủi, Vu quy, Huyền thoại về lời
hứa, Căn bệnh và Bốn người đàn bà và một đám tang

4


Ngoài ra khóa luận còn đi vào tìm hiểu thêm một số truyện ngắn khác
của tác giả Đỗ Hoàng Diệu như: Tình chuột, Những sợi tóc màu tang lễ, Cô
gái điếm và năm người đàn ông, Hầm mộ,… Để có được cái nhìn khái quát và
hệ thống hơn về các nhân vật nữ trong truyện ngắn của Đỗ Hoàng Diệu từ góc
nhìn giới nữ.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong khóa luận này chúng tôi sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu
khác nhau, trong đó những phương pháp chủ yếu được vận dụng là:
5.1. Phương pháp hệ thống
Khảo sát, hệ thống nhân vật nữ trong tác phẩm của Đỗ Hoàng Diệu ở
mảng truyện ngắn. Xây dựng một cái nhìn toàn cảnh về nhân vật nữ của Đỗ
Hoàng Diệu
5.2. Phương pháp so sánh đối chiếu
Đối chiếu với một số tác phẩm có hình tượng nhân vật là nữ tiêu biểu
để tìm ra những nét đặc sắc và khác lạ trong phương thức thể hiện nhân vật
nữ của Đỗ Hoàng Diệu
5.3. Phương pháp phân tích tổng hợp
Từ kiến thức về nhân vật văn học, nhân vật trung tâm, lí thuyết phái tính,
lý thuyết nữ quyền luận, những đánh giá, nhận định về nhân vật nữ nói
riêng và nhân vật trong tác phẩm của Đỗ Hoàng Diệu nói chung để có
những kiến giải về hình tượng nhân vật nữ trong truyện ngắn của Đỗ Hoàng
Diệu từ góc nhìn về giới.
6. Đóng góp của khóa luận
Dựa trên cơ sở những khái niệm đã được xác lập, khóa luận tập trung

khảo sát tập truyện ngắn Bóng đè với cái nhìn hệ thống. Từ đó khóa luận đưa
cách hiểu, cách kiến giải về nhân vật nữ trong các sáng tác của Đỗ Hoàng
Diệu. Cũng như chỉ ra giá trị của góc nhìn giới nữ trong việc biểu đạt tư
tưởng, quan niệm thẩm mĩ của nhà văn. Với khóa luận này chúng tôi hy vọng
góp phần làm rõ những nét độc đáo trong việc xây dựng các nhân vật nữ từ
góc nhìn phái tính trong truyện ngắn của Đỗ Hoàng Diệu nói riêng. Đồng thời
5


khẳng định sức mạnh và ưu thế của dòng văn học nữ trong văn học Việt Nam
hiện đại nói chúng
7. Bố cục của khóa luận
Với khóa luận này, ngoài phần mở đầu, phân kết luận và phần tài liệu
tham khảo thì nội dung chính của khóa luận được chúng tôi triển khai trong
ba chương như sau:
Chương 1: Khái quát chung về giới và tiếp cận văn học từ góc nhìn giới
Chương 2: Nhân vật nữ từ góc nhìn giới tính tự nhiên
Chương 3: Nhân vật nữ từ góc nhìn văn hóa – xã hội

6


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIỚI
VÀ TIẾP CẬN VĂN HỌC TỪ GÓC NHÌN GIỚI
1.1. Khái niệm giới
Trong nhiêu công trình nghiên cứu, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra: “Giới
là một thuật ngữ xã hội học xuất phát từ môn nhân loại học, nói đến vai trò
trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội quy định cho cả nam và nữ. Bao gồm việc

phân chia lao động, các kiểu phân chia, các nguồn và lợi ích. Giới đề cập đến
các quy tắc tiêu chuẩn theo nhóm tập thể chứ không theo thực tế cá nhân. Vai
trò giới được xác định theo văn hóa, không theo khía cạnh sinh vật học và có
thể thay đổi theo thời gian, theo các xã hội và các vùng địa lý khác nhau. Khi
sinh ra chúng không mạng theo những đặc tính giới mà chúng ta học được
những đặc tính giới từ gia đình, xã hội và nền văn hóa của chúng ta”.
1.1.1. Giới là một vấn đề khoa học
1.1.1.1. Giới dưới cái nhìn sinh học
Dưới cái nhìn sinh học các nhà nghiên cứu đã chỉ ra: “giới tính là thuật
ngữ dùng để phân biệt sự khác biệt về thể xác giữa hai mô cấu trúc: giới nam
và giới nữ. Giới tính được phân biệt rõ ràng qua vóc dáng, hình thể bên ngoài
hoặc nhận biết qua các đặc điểm sinh học bên trong như nhiễm sắc thể, cơ
quan sinh dục và cấu trúc não bộ”
Những đặc điểm sinh học này sẽ có ảnh hưởng nhất định đến việc phân
công lao động, quy định cách nhận định thế giới khách quan của cả hai giới.
Trong đó, nguyên nhân chủ yếu là do những đặc điểm về cấu trúc não bộ. Các
nhà khoa học đã chỉ ra, bộ não của nam giới lơn hơn nữ giới đến 8% (điều
này không ảnh hưởng đến khả năng tư duy của hai giới). Theo các nhà khoa
học ở nam giới não trái thường làm việc tích cực và phát triển hơn còn ở nữ
giới là não phải. Do đó, khả năng phân tích, tổng hợp vấn đề là khả năng nổi
trội của nam giới. Còn ở nữ giới thì thiên về ghi nhớ những sự việc lẻ tẻ, chú
trọng tiểu tiết, thiên về cảm xúc. Bởi vậy, nữ giới có thể làm nhiều việc một

7


lúc còn nam giới thường làm việc tập trung hơn. Chính vì vậy trong sáng tác
văn học những sáng tác thiên về lý trí, tổng hợp hiện thực khách quan là sáng
tác của các nhà văn nam. Còn xu hướng tự truyện, thiên về cái chủ quan, giàu
cảm xúc là của các nhà văn nữ. Từ đó cũng cho ta thấy được đặc điểm giới

tính cũng ảnh hưởng đến công việc sáng tạo văn chương.
Những đặc điểm sinh học về giới đôi khi trở thành lí do giải thích quyền
lực của mỗi giới trong xã hội. Không chỉ về vóc dáng, hình thể mà những đặc
điểm sinh học còn trở thành nguyên nhân để thiết lập quyền lực cho nam giới.
Các nhà nữ quyền luận do đó đã nhìn thấy những hạn chế mà thuật ngữ giới
tính – sex, sexe đem lại. Và họ đã sáng lập ra thuật ngữ gender, gende để phân
biệt những đặc điểm về mặt tâm lí, kinh tế, xã hội… Để lý giải một cách
thuyết phục vì sao phụ nữ bị xếp vào địa vị kém hơn hẳn đàn ông, từ đó tạo
cơ sở cho công cuộc đấu tranh đòi bình đẳng giới.
1.1.1.2. Giới dưới cái nhìn của các nghành khoa học khác
Ngành nghiên cứu tâm lí học giới đã hình thành cả một chuyên nghành
nghiên cứu về giới. Nó đã khắc phục những quan điểm phiến diện cho sự
thống trị của nam giới là do những điều kiện tư nhiên quyết định và chỉ ra
nguồn gốc của sự khác biệt giới trong xẫ hội là do hoàn cảnh gia đình, mối
trường sống, điều kiện văn hóa, xã hội.
Xã hội học cũng quan tâm đến vấn đề giới từ đó chỉ ra các nhân tố xã
hội đã tác động đến tác dộng đến sự phân chia giới và sự bất bình đẳng giới.
Trong xã hội học, ta tìm thấy những đặc điểm khác biệt giữa nam và nữ cả về
gia đình, xã hội, phân công lao động xã hội,.., những yếu tố tác dộng đến sự
phân biệt hai giới trong xã hội.
Như vậy tâm lý học và xã hội học đều chỉ ra sự khác biệt về giới có
nguồn gốc từ những quan niệm, văn hóa, xã hội và môi trường sống. Quan
niệm này được các nhà nữ quyền luận hưởng ứng. Simone de Beauvoir cho
rằng “Người ta không sinh ra là đàn bà, người ta trở thành đàn bà dưới sự ảnh
hưởng giáo dục phụ quyền chế” [3]. Bourdieu cho rằng điều đó cũng đúng với
đàn ông “Người ta không sinh ra là đàn ông. Người ta trở thành đàn ông” [3].
Và xuyên qua cả một nền giáo dục quyền lực của đàn ông đã được hình thành.

8



Quyền lực của họ cũng được thể hiện ở trong lĩnh vực văn hóa tinh thần mà
văn học là một hình thái ý thức xã hội tiêu biểu.
1.1.2. Giới trong sáng tác văn học
Lý thuyết về giới cũng có ảnh hưởng quan trọng tới sáng tác văn học
mà tiêu biểu là sự xuất hiện của dòng văn học nữ quyền trên thế giới. Nói về
giới trong sáng tác văn học là nói tới một khái niệm không đồng nhất với văn
học nữ quyền. Văn học nữ quyền viết dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa nữ
quyền được định nghĩa như sau: “Chủ nghĩa nữ quyền là suy nghĩ về sự bình
đẳng của hai phái trong xã hội và phản đối có tổ chức với chế độ gia trưởng
và phân biệt đối xử giống phái. Chủ nghĩa nữ quyền không thừa nhận mẫu
văn hóa chia khả năng của con người thành đặc điểm nam tính và nữ tính và
tìm cách xóa bỏ sự bất lợi trong xã hội mà phái nữ thường gặp”. Văn học nữ
quyền từ đó được hiểu như một dòng văn học dấn thân, dấu tranh cho quyền
lợi của phụ nữ và được viết bởi những người phụ nữ. Còn nói tới vấn đề giới
trong sáng tác trong văn học là đề cập đến một vấn đề rộng hơn vấn đề nữ
quyền, đó là tương quan giữa hai giới trong sáng tác văn chương, những ưu
thế riêng của từng giới trong sáng tác. Lẽ tất nhiên vai trò sáng tác của nam
giới đã được lịch sử công nhận nên nói tới vấn đề giới trong văn học. Văn học
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là chủ yếu nói tới sáng tác của riêng giới
các cây bút nữ trong quá trình tự khẳng định mình, khẳng định bản sắc riêng
của giới mình.
Văn chương vốn dĩ được cho là nơi mà người phụ nữ không được
khuyến khích sáng tác nghệ thuật. Bởi vậy mà trong sáng tác văn học vấn đề
giới không được các nhà nghiên cứu thật sự quan tâm. Mãi cho tới khi phong
trào nữ quyền phát triển mạnh mẽ một cách sâu rộng, rồi sau đó tràn sang cả
lĩnh vực văn học thì vấn dề nữ quyền mới thực sự được quan tâm. Dấu hiệu
đầu tiên trong việc phát triển nở rộ của phong trào nữ quyền được thể hiện ở
việc xuất hiện ngày càng nhiều các cây bút nữ. Họ dần vươn lên, dành lại địa
vị và vai trò của mình từ trong đời sống xã hội và khẳng định tài năng của

mình ở trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, mà cụ thể là sáng tác văn chương.
Ở các nước có tư tưởng tưởng bộ đặc biệt là phương Tây các nhà văn lớn như
Simone de Beauvoir, Virgina Woolf được đánh giá là một trong những cây
9


bút nữ đầu tiên đã đặt nền móng cho văn học nữ quyền. Chính vì sự vươn lên
của lực lượng các cây bút nữ đã dần chứng tỏ ưu thế của họ trong việc sáng
tạo văn học nghệ thuật. Sự thành công của các nhà văn nữu đã ngấm ngầm
khẳng định các nhà văn nữ có quyền đứng ngang hàng với các nhà văn nam
trong lĩnh sáng tác văn học và ngay trong cả lĩnh vực đời sống văn hóa –
chính trị - xã hội.
Một điều hiển nhiên rằng khi chúng ta đem một nhà văn nữ và một nhà
văn nam lên bàn cân để so sánh, thì sẽ thấy rất nhiều điểm khác biệt trong
quan điểm nghệ thuật, cách đánh giá và cách phản ánh hiện thực cuộc sống.
Đã có thật nhiều các tác phẩm viết về người phụ nữ bởi các nhà văn nam, thế
nhưng dù có cách nhìn tốt đẹp và mĩ miều đến đâu thì nó vẫn không thoát ra
khỏi sự chi phối của cái nhìn nam quyền trong khi nhà văn snags tạo tác
phầm. Chính vì vậy, chỉ khi nào người phụ nữ được trao tặng cây bút, được
quyền sáng tác và tự do trong việc lên tiếng viết về giới mình. Thì khi đó văn
học mới thật sự đạt đến sự bình đẳng, mọi nhà văn đều ngang hàng nhau
không phân biệt giới tính, tôn giáo, màu da như bao người đã mong ước. Vì lẽ
đó mà trong những tác phẩm các nhà văn nữ viết về giới mình ta mới thấy
rằng chưa boa giờ người phụ nữ lại xuất hiện một cách tự tin và mạnh mẽ đến
vậy. Bởi vì khi viết về mình họ mới khẳng định được vai trò, giá trị và địa
mình, họ bộc lộ niềm tư hào về giới tính và đòi hỏi những quyền lợi từ tước
đến nay tư tưởng nam quyền luôn kìm hãm họ. Nhìn vào trong văn học đương
đại ngày nay, ta thấy một điện mạo hoàn toàn khác so với nền văn học trước
đó bởi vì chưa bao giờ người phụ nữ lại bước vào văn học một cách tự tin và
đầy say mê như thế.

Khi nhắc đến vấn đề giới trong sáng tác văn học thì không thể không
nhắc đến vấn đề tính dục. Tính dục từ trước đến nay vốn được coi là một
trong những đặc điểm sinh học quan trọng để phân biệt giới tính giữa hai phái
nam giới và nữ giới. Đồng thời tính dục cũng được coi là địa bàn sáng tác của
đàn ông, là nơi đucợ gọi là vùng cấm, là lãnh địa trong sáng tác của các nhà
văn nữ. Thế nhưng, trong văn học đương đại ngày nay, vấn đề tính dục đã trở
thành một miền đất hứa đầy mới mẻ và lí thú để đón nhận các cây bút nữ vào
cày sới trong lĩnh vực sáng tác văn chương. Tại mảnh đất hứa này, họ đã thể

10


hiện tài năng cũng như ngấm ngầm bộc lộ những ưu thế, những suy nghĩ và
quan điểm riêng của giới mình.
Như vậy, nói đến vấn đề giới trong sáng tác văn học là nói đến sự vươn
lên của lực lượng các nhà văn nữ trong sáng tác văn học. Các nhà văn nữ đã
bộc lộ ưu thế của mình so với các nhà văn nam trong sáng tác văn học nghệ
thuật. Đặc biệt là sự khác nhau trong việc cách nhìn nhận và đánh giá về hình
tượng người phụ nữ cụ thể hơn là về tính dục trong văn chương. Chính những
đặc điểm riêng biệt này đã khẳng định vai trò và ưu thế của các nhà văn nữ so
với các nhà văn nam, điều này đã góp phần không nhỏ vào cuộc đấy tranh đòi
quyền bình đẳng giới trong xã hội.
1.2. Vấn đề giới tính (sex) và phái tính (gender) trong nghiên cứu văn học
1.2.1. Phân biệt khái niệm giới tính (sex) và phái tính (gender)
Hai khái niệm giới tính (sex) và phái tính (gender) lâu nay đã được luận
bàn khá nhiều ở một số lĩnh vực như: sinh học, tâm lí học, xã hội học chứ
không riêng gì trong nghiên cứu văn học. Có người đề xuất dịch “gender” là
giới tính xã hội còn “sex” là giới tính sinh học. Một số người lại hiểu “gender”
là giới và “sex” là giới tính. Một hướng xác lập khác còn gọi “gender” là giới
tính và “sex” là phái tính…. Theo chúng tôi những cách xác định tên gọi ở

trên có phần rườm rà và chưa thống nhất. Dẫn đến việc dễ lẫn lộn khó phân
biệt giới và giới tính. Vì thế, ở đây chúng tôi thống nhất với cách xác lập phổ
biến hiện nay là giới tính (sex) và phái tính (gender). Trên một ý nghĩa khái
quát, có thể hình dung về hai khái niệm này như sau:
Phái tính (gender) là khái niệm dùng để phân biệt người nam và nữ dựa
trên các đặc điểm về văn hóa - xã hội. Theo đó, mỗi xã hội sẽ tùy thuộc vào
những tập tục văn hóa và những quy tắc ứng xử riêng của nền văn hóa ấy mà
hình thành quan điểm mang tính đặc thù về nam tính và nữ tính. Cụ thể như
trong xã hội Việt Nam ta, từ bấy lâu nay do ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng
trọng nam khinh nữ. Vì thế khi nhắc đến người nam là người ta liền nghĩ tới
phái mạnh, những người trụ cột trong gia đình và ra ngoài xã hội. Nam giới
do ưu thế về sức mạnh cơ bắp cho nên đã trở thành “kẻ mạnh” lo những việc
chinh chiến bảo vệ tổ quốc. Ngược lại, nhắc đến phụ nữ la người ta liên tưởng

11


đến “phái yếu”, những người chân yếu tay mềm, đứng đằng sau đàn ông lo
việc trong gia đìn và chăm sóc con cái và hầu như không có tiếng nói trong
những việc quan trọng mang tính chất quyết định. Ngày nay cuộc sống ngày
càng phát triển hơn đãn đến sự thay đổi trong tư tưởng và nhận thức, vai trò
của người nam và người nữ đang đàn trở nên bình đẳng. Như thế, phái tính là
sản phẩm được kiến tạo trên nền tảng của văn hóa - xã hội. Nó không dĩ thành
bất biến mà có thể biến đổi theo sự vận động của nền văn hóa - xã hội. Nói
khác đi, mỗi không gian văn hóa - xã hội, ở vào những thời điểm lịch sử cụ
thể lại có thể hình thành những diễn ngôn khác nhau về phạm trù phái tính.
Trong khi đó, khái niệm giới tính (sex) thường được sử dụng nhằm phân biệt
nam giới và nữ giới về mặt sinh học thông qua những yếu tố như hoãc môn,
nhiễm sắc thể, buồng trứng, âm vật, dương vật… Khác với phái tính, giới tính
là những đặc điểm sinh học bẩm sinh, mang tính phổ quát và không thay đổi ở

cả hai giới.
Trên đây là sự phân biệt chỉ mang tính chất tương đối bởi nếu tư duy sâu
hơn sẽ thấy phái tính (gender) là một khái niệm không đơn thuần chỉ nhằm
phân biệt hai giới nam và nữ dưới áp lực của văn hóa - xã hội. Mặc dù có sự
khác nhau nhưng chúng có mối liên hệ rất mật thiết giống như hai mặt của tờ
giấy. Nói cách khác, chúng là hai mặt cùng tồn tại trong mỗi bản thể người.
Do đó, xem xét diễn ngôn về giới nữ trong văn học thực chất là việc phân
tích, lí giải cơ chế hình thành phát ngôn về các mặt phái tính và giới tính (mặt
xã hội và mặt sinh học) của người phụ nữ.
1.2.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề giới nữ trong văn học
Trong tiến trình văn học, kể từ khi hệ thống chữ viết được hình thành,
các nhà văn nam chiếm vị trí sáng tạo tuyệt đối và chi phối toàn bộ nền văn
học. Nếu để ý kĩ ta sẽ thấy không phải vô tình mà “man” trong tiếng anh vừa
có ý nghĩa là “nam” và còn có ý nghĩa là “nhân loại”. Trong khi đó “woman”
nghĩa là “nữ” nhưng lại được sinh ra từ nam. Có thể nói tư tưởng “trọng nam
khinh nữ” từ lâu nay đã ăn sâu bén rễ vào trong đời sống xã hội và thậm chí
còn ảnh hưởng tràn sang lĩnh vực sáng tạo và thường thức văn học nghê thuật,
cũng như nhiều các hoạt động văn nghệ, văn hóa giải trí khác. Trong hoạt
động thưởng thức văn học như những cuộc tọa đàm, đàm đạo về văn chương
12


thì chỉ có mặt của những người nhà văn nam. Dường như là ta không thấy
bóng dáng người phụ nào trong các cuộc thưởng thức văn chương đó, và họ
quan niệm rằng văn chương không dành chỗ cho “nữ nhi thường tình”. Ta
xuất phát từ trong văn học trung đại lực lượng sáng tác chính về cơ bản là
thuộc về đàn ông. Thực ra ta cũng bắt gặp những cây bút nữ tài năng nằm
ngoài vòng cương toả của chế độ nam quyền như: Ba Huyện Thanh Quan,
Đoàn Thị Điểm, và đặc biệt là thi sĩ Hô Xuân Hương. Trong sáng tác của các
cây bút nữ thời bấy giờ đã nhìn thấy sự nổi loạn và tràn đầy tinh thần phản

kháng. Thế nhưng những sáng tác của các cây bút nữu thời bấy giờ vẫn chủ
yếu là những tiếng than khóc về thân phận, số phận người phụ nữ đặc biệt là
trong các khúc tự tình của nữ sĩ họ Hồ, đó cũng là lí do khiến cho Bà Chúa
thơ Nôm từng phải ao ước mà thốt lên rằng:
“Ví đây mà đổi phận làm trai được
Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu”
Đọc hai câu thơ này ta thấy trong đó dường như ấn dấu một trạng thái tâm lý
muốn phản kháng, muốn đổi phận không chỉ của riêng Hồ Xuân Hương mà là
của tất cả giới nữ nói chúng. Mong ước của nữ sĩ họ Hồ, cho ta thấy khao
khát muốn đổi phận ấy dường như là không thể thực hiện được trong thực tế.
Bên cạnh đó, dường như tác giả đã gián tiếp xác nhận vị thế thống trị của đàn
ông trong xã hội.
Bước sang thời kì hiện đại, xã hội phát triển, đời sống của nhân dân
được cải thiện khiến cho dân trí nâng cao. Địa vị và đời sống của người phụ
nữ cũng được cải thiện. Người phụ nữ lúc này được đi đến trường học chữ,
được tự do tham gia ứng cử và bầu cử, sự xuất hiện của phụ nữ cũng có trong
các bộ máy hành chính. Và hiển nhiên quá trình thay đổi nhận thức của xã hội
về phái yếu không phải lúc nào cũng diễn ra một cách thuận lợi và mau lẹ mà
phải trải qua rất rất nhiều sự cản trở, khó khăn, sóng gió.
Với sự ra đời của Hội phụ nữ Việt Nam sau năm 1945 thì vai trò và vị
trí của phụ nữ đã được thay đổi và đặc biệt đề cao. Đây chính là điều kiện văn
hóa - xã hội vô cùng thuận lợi để cho dòng “văn học nữ tính” có cơ hội nảy
nở và phát triển. Dần dần ta thấy hàng loạt các cây bút nữ xuất hiện, đội ngũ

13


các nhà văn nữ cầm bút đông đảo hơn. Và đặc biệt nam giới và xã hội cũng
thừa nhận tài năng của họ bằng việc có rất nhiều các tác phẩm của họ được sử
dụng để dạy và thi cử trong nhà trường các cấp từ trung học phổ thông cho

đến cấp đại học. Chỉ riêng trong lĩnh vực văn học ta cũng đã thấy rất rõ sự
thay đổi về ý thức phái tính và thái độ đề cao vai trò của nữ giới.
Kể từ năm 1986 đến nay sự phát triển mạnh mẽ và không ngừng nghỉ
của đất nước theo hướng đổi mới và hội nhập. Kết hợp với đó là những nỗ lực
về bình đẳng giới đã tạo nên những điều kiện thuận lợi giúp nâng cao địa vị
vai trò của người phụ nữ. Họ đã dám đấu tranh thoát khỏi sự áp chế của đàn
ông, họ có khả năng tồn tại độc lập và có thể tự quyết số phận của mình. Ngày
nay ta bắt gặp hình ảnh người phụ nữ hiện đại không chỉ sinh hoạt nơi góc
bếp mà họ đã mạnh dạn tham gia nhiều hơn vào các hoạt động xã hội – văn
hóa - chính trị. Nhưng quan trọng hơn, ý thức về giới đã lan tỏa và ăn sâu vào
tâm thức của nhân dân và đặc biệt là đội ngũ cán bộ cầm bút. Chính sự nhận
thức một cách tựu giác về vai trò và địa vị của giới mình một cách tự giác đã
tạo nên âm hưởng nữ quyền trong văn học.
Trong văn học, hình tượng người phụ nữ vốn xuất hiện từ lâu thế nhưng
toàn bộ phẩm chất, giá trị của họ đều được phản ánh và nhìn nhận bằng đôi
mắt nam quyền và được viết bới các nhà văn nam. Chỉ khi nào, các vấn đề
của ngươi phụ nữ thoát khỏi sự đánh giá dưới những giá trị và quan điểm của
hệ tư tưởng nam quyền thì khi đó văn học nữ tính mới xuất hiện đầy đủ với
đúng nghĩa của nó. Sau 1986, văn học Việt Nam cũng chứng kiến sự phát
triển vô cùng mạnh mẽ của dòng văn học nữ tính. Ta có thể kể đến sự góp mặt
của những cây bút có thực tài như: Phạm Thị Hoài, Phan Thị Vàng Anh, Võ
Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Đỗ Hoàng Diệu, Vi Thùy Linh, Nguyễn Ngọc
Tư,… Những cây bút nữ vô cùng tài năng này đã đem đến cho văn đàn Việt
Nam một diện mạo mới mẻ với những tiếng nói vô cùng thời sự và cấp bách.
Buộc các nhà văn và các nhà phê bình nam giới phải nhìn nhận lại và thừa
nhận tài năng của họ.
Tuy các nhà văn nữ xuất hiện nhiều thế nhưng trong thực tế vấn đề phái
tính và dòng văn học nữ tính đến nay vẫn chưa nhận được sự quan tâm và
nhìn nhận một cách nghiêm túc. Sự xuất hiện của dòng văn học nữ tính và
14



trào lưu văn học nữ quyền trong văn học có thể đánh giá là một bước đi xa và
lâu dài trong sự phát triển của văn học theo hướng dân chủ hóa. Nghiên cứu
vấn đề giới nữ trong lĩnh vực văn học thực sự đã tạo ra một cuộc “cách mạng
giới”. Cuộc cách mạng triệt để và toàn diện này đã chính thức đánh đổ hoàn
toàn sự thống trị tự nhiên của chế độ phụ quyền và chủ nghĩa nam giới trung
tâm trong văn học, mang đến một hướng nghiên cứu mới, là bàn đạp thúc đẩy
của văn học nữ quyền phát triển sâu rộng hơn.
1.3. Tác giả Đỗ Hoàng Diệu và các sáng tác tiêu biểu
1.3.1. Tác giả Đỗ Hoàng Diệu
Trong văn học Việt Nam những năm trước đây, dường như thiếu vắng
gương mặt của các cây bút nữ. Người phụ nữ bị xã hội phong kiến ràng buộc
bị bó buộc bởi những luật lệ hà khắc, bởi những quan niệm “tam tòng tứ
đức”, “công dung ngôn hạnh”. Thế nên đã giới hạn khả năng phát huy sự sáng
tạo văn học nghệ thuật của người phụ nữ.
Phải đến văn học hiện đại chúng ta mới thấy bóng dáng của các cây bút
nữ, tuy nhiên cũng chỉ chiếm một phần rất nhỏ. Văn học Việt Nam từ đầu
thế kỉ XX cho đến những năm 1975 đa phần là các cây bút nam. Từ các thế
hệ nhà văn như: Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyễn Công
Hoan… đến các thế hệ nhà văn tiếp theo như: Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc,
Kim Lân, … và sau này có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp,..
Nhưng nói đến sự phát triển của các cây bút nữ phải kể đến thời kỳ sau
1945, hàng loạt các cây bút nữ trẻ bắt đầu nở rộ và họ dần dần chứng tỏ được
tài năng và vị trí của mình. Sau thời kỳ đổi mới, cùng với sự khẳng định vững
vàng của hàng loạt cây bút như: Nguyễn Minh Châu, Xuân Thiều, Nguyễn
Quang Sáng… Là sự xuất hiện của hàng loạt các cây bút trẻ đầy triển vọng,
vói những phong cách hết sức độc đáo và có phần có nhiều táo bạo: Nguyễn
Ngọc Tư, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh…
Trong đó cái tên Đỗ Hoàng Diệu cũng được nhắc đến như một hiện tượng được

đông đảo công chúng quan tâm chú ý.
Năm 1976 nhà văn Đỗ Hoàng Diệu ra đời tại Thanh Hóa. Sau nhiều năm
học tập và rèn luyện cô thi đỗ cử nhân báo chí và sau này làm việc và sinh
15


sống tại Hà Nội. Đố Hoàng Diệu đến với khán giả không phải ở văn đàn Việt
Nam mà là trên văn đàn hải ngoại với truyện ngắn Tình chuột, in trên Hợp
Lưu số 74 (tháng 12/2003 – 1/2004), rồi liên tiếp các tác phẩm khác ra đời
ngay sau đó như: “Những sợi tóc màu tang lễ (Hợp Lưu 75), Cô gái điếm và
năm người đàn ông (Hợp Lưu 76), Bóng đè (Hợp Lưu 78), Dòng sông hủi
(Hợp Lưu 80) và Vu quy (Hợp Lưu 82)”. Nổi tiếng ở nước ngoài danh tiếng
của cô liền vang xa về trong nước. Biết được danh tiếng của cô Nhà xuất bản
Đà Nẵng đã nhanh chóng nhận in tập Bòng đè, trong đó có ba truyện: Dòng
sông hủi, Bóng đè, Vu quy,… cũng với một số truyện ngắn khác. Ngay khi
mới xuất hiện tập truyện ngắn này đã gây xôn xao dư luận và trở thành đối
tượng bàn bạc, phê bình và công kích rất lớn tư phía dư luận trong những năm
gần đây.
1.3.2. Giới thiệu các sáng tác của Đỗ Hoàng Diệu
Đỗ Hoàng Diệu ngay từ khi xuất hiện trên văn đàn thế giới và nổi tiếng
vọng về Việt Nam đã được nhận định là một hiện tượng mới nổi của nên văn
học Việt Nam đương đại. Cô xuất hiện lần đầu không phải trên văn đàn Việt
Nam mà là trên văn đàn hải ngoại với truyện ngắn Tình chuột, in trên Hợp
Lưu số 74 (tháng 12/2003 – 1/2004), rồi sau đó cô liên tiếp cho ra đời các tác
phẩm như: “Những sợi tóc màu tang lễ (Hợp Lưu 75), Cô gái điếm và năm
người đàn ông (Hợp Lưu 76), Bóng đè (Hợp Lưu 78), Dòng sông hủi (Hợp Lưu
80) và Vu quy (Hợp Lưu 82)”. Nổi tiếng ở nước ngoài danh tiếng của cô
nhanh chóng vang xa về trong nước. Nhà xuất bản Đà Nẵng nhận in tập Bòng
đè, trong đó có ba truyện: “Bóng đè, Vu quy, Dòng sông hủi cũng với một số
truyện ngắn khác: Linh thiêng, Hoa máu, Bốn người đàn bà và một đám tang,

Huyền thoại về lời hứa và Căn bệnh”. Tập Truyện ngắn Bóng đè ra trình làng
đã gây một cơn sốt cho đọc giả bởi cách viết mới lạ so với truyền thống.
Trong tác phẩm này Đỗ Hoàng Diệu đã đem đến cho văn đàn Việt Nam một
cách viết vô cùng khác lạ kết hợp với thứ ngôn ngữ có lúc tinh tế nhưng có
lúc mang tính nhục dục thậm chí thô thiển. Phải chăng đó là cách viết tân tiến,
chịu ảnh hưởng của lối viết Châu Âu, hay là nét phong cách riêng của tác giả
này. Câu chuyện có hay hay là dở như thế nào ta chưa vội vàng nhận định và
phán xét, thế nhưng phải khẳng định một điều rằng sự ra đời của những trang

16


viết bày của cô đã làm cho dư luận văn đàn Việt Nam đang lặng lẽ bỗng trở
nên xôn xao kỳ lạ. Một loạt các lời khen chê xuất hiện trên các báo, các trang
web cũng vào cuộc với nhiều hội thảo, rồi sự phỏng vấn của các cơ quan nước
ngoài. Đặc biệt bạn đọc trên khắp cả nước cũng lên cơn sốt Đỗ Hoàng Diệu,
người ta mua sách, người ta lên mạng, ngươi ta bàn tán, làm cho đời sống văn
học tưởng như quá im lặng trong thời đại công nghệ thông tin đại chúng trở
nên sôi động.
Xung quanh tập truyện ngắn Bóng đè có nhiều ý kiến khác nhau, có người
cho đây là một sự đổi mới vô cùng mạnh dạn trên văn đàn nước ta. Có một số
người còn liên hệ với các nhà văn có tên tuổi ở lớp trước như Nguyễn Công
Hoan, Nam Cao, Tô Hoài. Như Phạm Toàn có nói: “Vì những tác phẩm
truyện ngắn mới xuất hiện đã mạng một giọng điệu khác đi so với những
thành tựu trước chúng”. Bên cạnh những lời khen ngợi Đỗ Hoàng Diệu, cụ
thể là truyện ngắn Đỗ Hoàng Diệu có những nhà văn, nhà phê bình có tên tuổi
như: Châu Diên, Nguyên Ngọc và một số nhà văn, nhà phê bình khác. Nhà
văn Nguyên Ngọc đã từng nhận xét: “Trong vài năm trở lại đây ông có tâm
trạng bi quan về văn học Việt Nam, nhưng với Bóng đè ông nhận ra mình đã
lầm. Ông cho rằng cũng như Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh trước đây, Đỗ

Hoàng Diệu là một bất ngờ và sự ra đời của một cuốn sách như Bóng đè đã
đánh đấu một khởi đầu mới của một thời kỳ mới”. Phạm Xuân Nguyên khi
viết giới thiệu sách cũng nhận định như sau: “Đỗ Hoàng Diệu tự mở cho mình
một cuộc sống bị che khuất hay câm lặng”
Bên cạnh những lời khen thì cũng có không ít người chê những tác
phẩm của Đỗ Hoàng Diệu, họ cho rằng Bóng đè là một tác phẩm gợi dục rẻ
tiền, Đỗ Hoàng Diệu chỉ là cây bút tầm thường. Độc giả với những sáng tác
của Đỗ Hoàng Diệu có khen và cũng có cả những lời chê. Họ khen lối viết
mới mẻ của cô, có những ẩn dụ sâu xa về sex, thế nhưng sex trong các sáng
của cô chỉ là phương thức để truyền tải thông điệp. Còn chê ở chỗ các sáng
tác chứa những ẩn dụ về sex chưa thật sự chính xác, thậm chí phỉ báng cả quá
khứ dân tộc và nhiều trang viết gợi dục quá ngưỡng của thời đại chúng ta.
Vấn đề khen hay là chê cũng là điều dễ hiểu, với người tân tiến, tiếp xúc
nhiều với cách viết Châu Âu thì dễ dàng chấp nhận. Nhưng những người còn
17


giữ cách viết truyền thống thì phản ứng dữ dội với cách viết quá trần tục của
cô. Họ cho rằng những vấn đề tế nhị, nhục dục của con người không nên phô
trên trang giấy. Nhưng cuộc sống bao giờ cũng có mặt phải cả mặt trái. Phải
chăng Đỗ Hoàng Diệu chỉ miêu tả đời thực mà thôi. Nhưng hiện thực cuộc
sống đó có mấy ai dám viết, dám nói như cô hay không mới là vấn đề. Có rất
nhiều hiện tượng người thấy, người ta nghĩ nhưng lại chẳng dám viết ra. Họ
cho rằng đó là phô trương hay thô thiển lộ liễu. Nhưng tại sao lại thế, tại sao
lại phải dấu cái hiện thực kia. Đó cũng chính là điều chúng ta cần hiểu, cần
biết. Cái thực tại mà cả lũ đàn ông xăm soi là gạt cô gái, đẩy cô gái vào cái
chết vì sự lầm lỡ, mong gặp người yêu phương xa của mình. Cái thực trạng
mà lễ giáo phong kiến cổ hủ trói buộc khiến một cô gái phải bốn lần tuyệt
tình, để đến lần thứ năm phải chấp nhận lấy một ông già tóp teo bất lực. Cái
thực trạng mà năm cậu bé vị thành niên trong lần đầu được nếm trải mùi vị

đàn bà và bị ám ảnh suốt đời. Cái thực trạng mà một cô gái bị áp chế cả về
tinh thần và thể xác đến nỗi cảm thấy hạnh phúc khi sống trong một làng hủi
còn hơn là bên cạnh người chồng thù ác. Tất cả là một bức tranh màu xám của
măt trái cơ chế thị trường đã ảnh hưởng vào đời sống văn hóa xã hội Việt
Nam mấy chục năm sau những trang sách tò mò gợi dục mà Đỗ Hoàng Diệu
tạo nên.
Nhưng sâu xa hơn những trang viết của Đỗ Hoàng Diệu còn đề cập đến
những vấn đề văn học, lịch sử dân tộc, những cảm tình do ép hôn do cưỡng
bức và loạn luân. Phải chăng là những ẩn dụ về sự ảnh hưởng, sự nô lệ ngoại
bang của người Việt Nam trong thời kỳ lịch sử và còn tàn dư cho đến tận bây
giờ. Cái hình ảnh người đàn bà cong lưng hình chữ S bị cưỡng hiếp một cách
chua chát và thích thú.
Như vậy, ở chương này người viết tập trung vào ba vấn đề: Thứ nhất là
một số vấn đề chung về giới và thứ hai là vấn đề giới tính và phái tính trong
văn học và thứ ba là về tác giả Đỗ Hoàng Diệu cũng như các sáng tác tiêu
biểu của cô. Từ đó xác lập cách hiểu vấn đề về giới. Tiếp sau đó, chúng tôi đã
xác lập một cách hiểu chung nhất về hai khái niệm giới tính và phái tính, vì
thực tế giữa hai khái niệm này còn có sự chồng chéo, rườm rà. Việc xác lập sẽ
tạo cơ sở để hiểu hơn về văn học nữ tính trong sự so sánh với văn học nam

18


tính đã có từ lâu. Chúng tôi cũng chỉ ra ý nghĩa quan trọng và cấp thiết của
việc nghiên cứu vấn đề giới nữ trong văn học. Sự xuất hiện của dòng văn học
nữ tính và trào lưu văn học nữ quyền trong văn học có thể đánh giá là một
bước đi xa và lâu dài trong sự phát triển của văn học theo hướng dân chủ hóa.
Cuộc cách mạng triệt để và toàn diện này đã chính thức đánh đổ hoàn toàn sự
thống trị tự nhiên của chế độ phụ quyền và chủ nghĩa nam giới trung tâm
trong văn học, mang đến một hướng nghiên cứu mới, là bàn đạp thúc đẩy của

văn học nữ quyền phát triển sâu rộng hơn.

19


×