Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Khoá luận tốt nghiệp Ca dao về Bác Hồ Những đặc điểm nổi bật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (717.69 KB, 68 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
===o0o===

KIỀU TRANG MI

CA DAO VỀ BÁC HỒ NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

HÀ NỘI - 2019


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
===o0o===

KIỀU TRANG MI

CA DAO VỀ BÁC HỒ NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học:
TS. Nguyễn Thị Ngọc Lan

HÀ NỘI - 2019


LỜI CẢM ƠN


Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô giáo - Tiến sĩ Nguyễn Thị Ngọc Lan Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã rất tận tâm, nhiệt tình chỉ dẫn, giúp đỡ em
trong suốt thời gian thực hiện khóa luận.
Em cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong tổ bộ môn Văn học Việt
Nam, các thầy, các cô trong khoa Ngữ Văn - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã
tạo điều kiện giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu.

Hà Nội, ngày 10 tháng 4 năm 2019
Sinh viên

Kiều Trang Mi


LỜI CAM ĐOAN

Khóa luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của
TS. Nguyễn Thị Ngọc Lan. Tôi xin cam đoan rằng:
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, kết quả này không trùng với
kết quả của bất kì tác giả nào đã được công bố.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày 10 tháng 4 năm 2019
Sinh viên

Kiều Trang Mi


MỞ ĐẦU

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1

2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 1
3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 3
4. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 3
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 3
6. Đóng góp mới của khóa luận ........................................................................ 3
7. Cấu trúc của khóa luận .................................................................................. 4
Chương 1. GIỚI THUYẾT VỀ CA DAO VÀ CA DAO VỀ BÁC ............. 5
1.1. Ca dao, ca dao hiện đại .............................................................................. 5
1.1.1. Khái niệm ................................................................................................ 5
1.1.2. Giá trị nội dung ....................................................................................... 6
1.1.3. Giá trị nghệ thuật..................................................................................... 7
1.2. Ca dao về Bác Hồ ....................................................................................... 9
1.2.1. Khái niệm ................................................................................................ 9
1.2.2. Lực lượng sáng tác ................................................................................ 10
1.2.3. Hoàn cảnh sáng tác................................................................................ 12
1.2.4. Số lượng ................................................................................................ 14
Chương 2. CA DAO VỀ BÁC HỒ - ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG ................. 17
2.1. Ca ngợi công lao của Bác......................................................................... 17
2.2. Tình cảm của người dân đối với Bác ....................................................... 20
2.3. Thể hiện vẻ đẹp của Bác .......................................................................... 23
Chương 3. CA DAO VỀ BÁC HỒ - ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT........... 26
3.1. Ngôn ngữ .................................................................................................. 26
3.1.1. Sự kết hợp giữa ngôn ngữ toàn dân và ngôn ngữ địa phương .............. 26
3.1.2. Sự kết hợp giữa ngôn ngữ văn chương và ngôn ngữ đời thường ......... 27
3.1.3. Cách sử dụng tên riêng chỉ địa điểm ..................................................... 29
3.1.4. Cách sử dụng ngôn ngữ trùng lặp ......................................................... 32
3.2. Thể thơ ..................................................................................................... 32


3.2.1. Thể lục bát ............................................................................................. 33

3.2.2. Thể song thất lục bát ............................................................................. 37
3.3. Kết cấu...................................................................................................... 41
3.3.1. Kết cấu đối thoại và kết cấu trần thuật .................................................. 41
3.3.2. Kết cấu đối lập và kết cấu song hành tâm lý......................................... 46
3.4. Các thủ pháp nghệ thuật ........................................................................... 52
3.4.1. So sánh .................................................................................................. 52
3.4.2. Ẩn dụ ..................................................................................................... 53
3.4.3. Hoán dụ ................................................................................................. 55
3.4.4. Nói quá, nói giảm, nói tránh ................................................................. 55
KẾT LUẬN .................................................................................................... 59
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết ca dao là một thể loại của văn học dân gian Việt Nam,
ca dao thể hiện nỗi niềm, tình cảm của con người trong sinh hoạt, cuộc sống hằng
ngày cũng như các mối quan hệ xã hội khác. Đồng thời, đối tượng mà ca dao lựa
chọn để sáng tác cũng rất đa dạng, trong đó có người anh hùng dân tộc.
Một trong những nhân vật anh hùng dân tộc tiêu biểu, trở thành đề tài vô tận
cho bất cứ thể loại nào, ở bất cứ giai đoạn nào đó chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về cuộc đời cũng như sự cống hiến lớn
lao của Bác và được thể hiện trên rất nhiều các loại hình nghệ thuật khác nhau.
Nhưng xây dựng chân thật, đẹp đẽ nhất về hình tượng Bác phải kể đến ca dao. Số
lượng ca dao về Bác chiếm một mảng lớn trong ca dao hiện đại nhưng hiện nay về
vấn đề nghiên cứu thì chưa nhiều. Các công trình nghiên cứu ca dao về Bác thực sự
còn chưa thỏa đáng.
Trong thực tiễn nghiên cứu chúng tôi nhận thấy ca dao về những nhân vật
lịch sử sẽ hướng người đọc đến những nhận thức, tư duy sâu sắc về lịch sử và thời
đại. Hơn nữa, ca dao không chỉ bày tỏ tình cảm, nguyện vọng, suy nghĩ của cá nhân

mà còn đại diện cho quảng đại quần chúng nhân dân. Vậy nên, chúng tôi nghiên
cứu đề tài này mong muốn sẽ giúp hiểu sâu sắc hơn về tình cảm của nhân dân đối
với Bác và những biện pháp nghệ thuật làm nên thành công của mảng ca dao này.
Ngoài ra, lựa chọn đề tài này cũng một phần dựa trên niềm yêu thích của
chúng tôi. Bởi đối với chúng tôi, được tìm hiểu về Bác, tìm hiểu về tình cảm của
nhân dân mọi miền tổ quốc qua ca dao về Bác chính là một phần chúng tôi thể hiện
lòng thành kính, lòng biết ơn sâu sắc đến Người. Chúng tôi nhận thấy trong chương
trình trung học phổ thông mới chỉ chú trọng nhiều đến thơ về Bác còn ca dao về
Bác chưa được dành nhiều sự quan tâm. Chúng tôi hy vọng khóa luận này sẽ là
nguồn tài liệu hữu ích, làm cơ sở để nghiên cứu thêm về vấn đề này. Cho nên trong
quá trình lựa chọn đề tài chúng tôi cảm thấy vô cùng hứng thú khi tiếp cận một đề
tài liên quan đến người anh hùng dân tộc Hồ Chí Minh.
2. Lịch sử vấn đề
Hiện nay ca dao về Bác là đề tài được rất nhiều người quan tâm. Liên quan đến
đề tài “Ca dao về Bác Hồ - Những đặc điểm nổi bật” chúng ta có thể thấy một số
công trình nghiên cứu như: “Suy nghĩ về cảm quan dân gian qua hình tượng Bác Hồ”

1


đăng trên tạp chí Văn hóa dân gian, số 1/1990 và “Một nét đẹp trong bức tranh văn hóa
dân gian đương đại: ca dao về Bác Hồ” đăng trên tạp chí Văn hóa dân gian số 4/ 1991,
Nguyễn Xuân Lạc đã đề cập đến cảm quan dân gian đối với Bác qua ca dao.
Thi Nhị có bài “Bác Hồ và nguồn ca dao mới” đăng trên tạp chí Văn hóa dân
gian, số 4/1984. Ở bài viết này tác giả chủ yếu thể hiện tình cảm sâu đậm của nhân
đân đối với Bác Hồ kính yêu.
Trần Gia Linh với bài viết “Bốn mươi năm ca dao dâng Bác” đăng trên tạp
chí Văn hóa dân gian số 1/1990 đã khẳng định “Ca dao diễn tả về Người như một sự
thống nhất tuyệt diệu giữa cái vĩ đại trong sự bình dị; giữa những hình ảnh kỳ vĩ có
tính chất thần thoại với những hình ảnh quen thuộc, gần gũi với mọi người; giữa cái

tượng trưng cao độ với cái hiện thực sâu sắc trong phương pháp biểu hiện.” [13, 30]
Bên cạnh đó, công trình “Tìm hiểu công thức truyền thống trong một số bài ca
dao mới Nam Bộ về hình ảnh Bác Hồ”, Trần Tùng Chinh đã nhận ra rằng: “ca dao về
Bác đã có sự kế thừa một số công thức truyền thống của ca dao cổ truyền”. “Các bài
ca dao mới nói chung và ca dao về Bác nói riêng còn thiếu sự trau chuốt nhưng lại
thừa sự mộc mạc, tự nhiên. Tuy nhiên, những công thức truyền thống quen thuộc của
ca dao xưa vẫn in dấu và làm nên chất dân gian trong những bài ca” [1]
Hà Công Tài có bài viết “Vấn đề sưu tầm nghiên cứu thơ ca dân gian hiện
đại” được đăng trong cuốn “Một thế kỷ sưu tầm nghiên cứu văn hóa văn nghệ dân
gian” thuộc Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, Hà Nội - 2001. Ông nhận thấy rằng
chúng có nhiều đặc điểm rất tiêu biểu cho ca dao thời hiện đại, từ cách cảm nhận và
phản ánh cuộc sống tới đặc điểm thi pháp, từ hoàn cảnh lưu truyền tới sự gắn bó với
truyền thống ca dao của dân tộc trong suốt trường kỳ lịch sử.
Ngoài ra, trong quá trình tìm hiểu, chúng tôi còn thấy luận văn thạc sỹ “Đặc
điểm nghệ thuật của ca dao về Bác Hồ” của Nguyễn Thị Thúy Kiều trường Đại học
Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh. Đây cũng là cơ sở để chúng tôi đi khai thác, tìm
hiểu khóa luận của mình.
Như vậy, ta có thể thấy, các tác giả đã phần nào bàn được những khía cạnh
về nội dung cũng như nghệ thuật của ca dao về Bác. Tuy nhiên còn chưa đi sâu. Từ
những cơ sở nghiên cứu trên chúng tôi phát triển thành đề tài “Ca dao về Bác Hồ Những đặc điểm nổi bật”. Chúng tôi hy vọng đề tài sẽ góp thêm một cái nhìn cụ thể
hơn đặc điểm ca dao về Bác Hồ.

2


3. Mục đích nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài này chúng tôi mong muốn góp thêm một cái nhìn đầy
đủ hơn hơn về những đặc điểm nổi bật của ca dao về Bác Hồ ở cả hai phương diện
nội dung và nghệ thuật. Đồng thời hiểu thêm về mối tương quan giữa ca dao cổ
truyền và ca dao hiện đại.

4. Phạm vi nghiên cứu
+ Nội dung: Khóa luận tập trung khảo sát, nhận diện những đặc điểm nội
dung và nghệ thuật nổi bật trong ca dao về Bác Hồ.
+ Tư liệu: Khóa luận khảo sát ca dao về Bác Hồ dự trên nguồn tư liệu đã
được công bố, xuất bản như: “Sen Tháp Mười” do Nhà xuất bản TPHCM xuất bản
năm 1980, gồm 145 bài của dân tộc Kinh và 16 bài của dân tộc ít người; “Ca dao về
bác Hồ” của Trần Hữu Thung do Nhà xuất bản Hà Tĩnh, 1981, gồm 227 bài ca dao;
“Ca dao về Bác Hồ” của Trần Quang Nhật, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà
Nội, 2003 với 253 bài ca dao.
- Ngoài ra, chúng tôi còn tham khảo một số cuốn như: “Ca dao Bảo Định
Giang”, “Tục ngữ ca dao Việt Nam” của Vũ Ngọc Phan, “Ca dao chống Mỹ - tập
2”, “Ca dao chiến sỹ - tập 5”, “Ca dao chiến sĩ - tập 6”, “Ca dao Đồng Tháp Mười”,
“Ca dao sưu tầm - từ 1945 đến nay”,…
- Chúng tôi đã tập hợp và chọn lựa được 521 bài để tiến hành khảo sát, phục
vụ cho mục đích nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu
Về phương pháp nghiên cứu, chúng tôi lựa chọn các phương pháp như so
sánh, hệ thống, phân tích - tổng hợp… Từ những phương pháp này chúng tôi nhận
thấy ca dao vô cùng phong phú và hấp dẫn. Giúp chúng tôi nhận thấy được tầm
quan trọng của mảng ca dao về Bác trong mối tương quan chặt chẽ giữa ca dao cổ
truyền và ca dao hiện đại. Đồng thời, chúng tôi đưa ra được những đánh giá đầy đủ
và ý nghĩa hơn của bộ phận ca dao này.
Ngoài ra, phương pháp thống kê đã giúp thống kê tần số xuất hiện của các
thể thơ, hình ảnh, từ ngữ hay nội dung mà người sáng tác muốn truyền đạt. Dựa vào
kết quả và những số liệu thống kê chúng tôi đã khái quát thành những đặc điểm cơ
bản nhất về nội dung và nghệ thuật.
6. Đóng góp mới của khóa luận
Khóa luận chỉ ra đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của ca dao về Bác Hồ,
lý giải được tầm quan trọng của bộ phận văn học này. Đồng thời hiểu thêm về
phương thức sáng tác của nhân dân ta trong việc ca ngợi người anh hùng.


3


Khóa luận có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu
và giảng dạy văn học Việt Nam.
7. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung khóa luận có 3 chương:
Chương 1: Giới thuyết về ca dao và ca dao hiện đại về Bác Hồ
Chương 2: Ca dao về Bác Hồ - Đặc điểm nội dung
Chương 3: Ca dao về Bác Hồ - Đặc điểm nghệ thuật

4


Chương 1. GIỚI THUYẾT VỀ CA DAO VÀ CA DAO VỀ BÁC
1.1. Ca dao, ca dao hiện đại
1.1.1. Khái niệm
Nguồn gốc của ca dao từ các câu hát dân ca trong cuộc sống sinh hoạt và lao
động của người dân và có mối liên quan mật thiết với dân ca. Trước hết, để hiểu về
khái niệm ca dao chúng ta cần hiểu dân ca là gì? “Dân ca là những bài hát và câu
hát dân gian trong đó có cả phần lời và phần giai điệu” [6, 411]. Dân ca không chỉ
là những câu hát mà nó còn là một hình thức sinh hoạt đặc sắc của đời sống nhân
dân, Qua ca dao, đời sống nhân dân Việt Nam hiện lên vô cùng phong phú và đa
dạng như lao động sản xuất, lễ nghi… Dân ca gắn với các môi trường diễn xướng
như dưới nước, trên cạn... Và dân ca tồn tại khắp các vùng miền: Bắc, Trung, Nam,
khắp các dân tộc trên đất nước.
Chu Xuân Diên đã nhận định rằng “ca dao là lời của các bài hát dân ca
nhưng không có tiếng đệm, tiếng láy… hoặc ngược lại, những câu thơ có thể trở
thành những làn điệu dân ca”. [6, 436]

Nguyễn Xuân Kính lại cho rằng “ca dao là tập những sáng tác văn chương,
chúng được phổ biến rộng rãi và lưu truyền qua nhiều thế hệ. Đồng thời mang
những đặc điểm nhất định và bền vững về mặt phong cách. Và ca dao đã trở thành
một thuật ngữ dùng để chỉ một thể thơ dân gian” [9, 79]
Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong cuốn “Từ điển thuật ngữ
văn học” thì nhận định “ca dao được coi là một danh từ để chỉ riêng thành phần
nghệ thuật ngôn từ (phần lời thơ) của dân ca (không kể những tiếng đệm, tiếng láy,
tiếng đưa hơi).”
Dựa vào thời điểm xuất hiện, có thể chia ca dao làm hai bộ phận chính: ca
dao cổ truyền và ca dao hiện đại.
Bàn về khái niệm ca dao cổ truyền, Chu Xuân Diên cho rằng: “… đó là bộ
phận những câu hát đã trở thành cổ truyền của nhân dân. Gọi là cổ truyền bởi vì những
câu hát này được phổ biến rộng rãi và lưu truyền qua nhiều thế hệ. Gọi là cổ truyền bởi
vì những câu hát này mang những đặc điểm nhất định và bền vững về phong cách…
trở thành khuôn mẫu cho việc sáng tác thơ ca của nhân dân ở các thế hệ sau” [6, 437]
Nguyễn Hằng Phương nhận định: “ca dao cổ (hay ca dao cổ truyền) là khái
niệm chỉ riêng thành phần nghệ thuật ngôn từ của dân ca (không kể tiếng đệm, tiếng
láy, tiếng đưa hơi) được sáng tác từ cách mạng tháng Tám trở về trước”. [24]

5


Về khái niệm ca dao hiện đại, trong “Vấn đề nghiên cứu văn học dân gian
hiện đại”, Chu Xuân Diên nhận định rằng “Chúng tôi dùng khái niệm văn học dân
gian hiện đại hay văn học dân gian mới để chỉ văn học dân gian thời kỳ từ sau cách
mạng tháng 8 năm 1945 trở lại đây” [3,34]. Ca dao hiện đạilà một bộ phận của văn
học dân gian hiện đại. Cho nên ca dao hiện đại là loại ca dao xuất hiện từ sau cách
mạng tháng 8 năm 1945.
Bên cạnh đó, Nguyễn Hằng Phương trong “Một cách nhận diện ca dao hiện
đại” đã đề cập đến ba tiêu chí nhận diện ca dao như sau:

Tiêu chí thứ nhất bà cho rằng ca dao hiện đại chính là những tác phẩm ca
dao mang trong mình những đặc điểm nghệ thuật dân gian truyền thống nhưng
lại phù hợp với quan niệm nghệ thuật và hiện thực đời sống của nhân dân trong
thời kỳ hiện đại.
Ở tiêu chí thứ hai Nguyễn Hằng Phương chỉ ra rằng: ca dao hiện đại thường
là những sáng tác tập thể. Họ phản ánh những hiện tượng cuộc sống vào ca dao và
hiện tượng đó thường tác động mạnh mẽ đến cả một tập thể chứ không phải một đối
tượng riêng lẻ.
Cuối cùng, ở tiêu chí thứ ba bà khẳng định ca dao hiện đại có thể ra đời từ
rất nhiều nguồn khác nhau nhưng quan trọng chúng phải được lưu truyền rộng rãi
bằng phương thức truyền miệng.
1.1.2. Giá trị nội dung
Nội dung chủ yếu của ca dao cổ truyền là phản ánh chân thực những sinh
hoạt hằng ngày, những tâm tư, tình cảm và cả nỗi đau khổ của nhân dân lao động bị
áp bức: “Gánh cực mà đổ lên non/ Còng lưng mà chạy cực còn theo sau”; “Trời sao
trời ở không cân/ Kẻ ăn chẳng hết người lần chẳng ra”;…
Đó là những tình cảm thiêng liêng cao quý của những người thân trong một
gia đình: “Ngó lên nuộc lạt mái nhà/ Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy
nhiêu”;…cha mẹ và con cái: “Ân cha nặng lắm con ơi/ Nghĩa mẹ bằng trời chín
tháng cưu mang”; “Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước trong nguồn
chảy ra/ Một lòng thờ mẹ kính cha/ Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”; vợ chồng:
“Áo vá vai vợ ai không biết/ Áo vá quàng chí quyết vợ anh”; “Chồng em áo rách
em thương/ Chồng người áo gấm xông hương mặc người”; anh em, chị em, họ
hàng: “Anh em như chân với tay/ Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần”…
Ca dao hiện đại có nội dung lên án, tố cáo tội ác của giặc Pháp, Mỹ. Những
hành động, những tội ác của chúng được kể lại với lòng uất hận, căm thù: “Con ơi,

6



mẹ dặn điều này/ Mỹ Diệm một bầy giết hại bà con”; “Chén cơm thuốc độc hãy
còn/ Mối thù Phú Lợi núi mòn không phai”…
Nội dung nổi bật nhất của ca dao hiện đại chính là tình cảm của nhân dân đối
với Đảng và nhất là đối với Bác Hồ. Đề tài này chiếm số lượng lớn nhất trong ca
dao hiện đại: “Nhớ ngày mồng ba tháng ba/ Chính là ngày của Đảng ta ra đời/ Đảng
ra đời sáng ngời mọi chỗ/ Đảng ra đời lúa trổ nhiều bông”; “Bác, Đảng lập thành
tên nước/ Con cháu ta tiến bước dưới cờ/ Ta làm con cháu Bác Hồ/ Đánh tan Mỹ
Ngụy cơ đồ về ta”; “Cụ Hồ ở giữa lòng dân/ Tuy xa, xa lắm, nhưng gần gần ghê”…
Bộ đội là đối tượng làm nhiều ca dao nhất trong hai cuộc kháng chiến:
“Thằng Tây chớ cậy xác dài/ Chúng tao người nhỏ nhưng dai hơn mày”; “Con đi
độc lập con về/ Mẹ yên tâm nhé, con về mẹ vui”; “Em về lo liệu việc nhà/ Để anh
yên dạ xông pha trận tiền”; “Ta đi trăng cũng đi theo/ Đường ta dốc núi đỉnh đèo
trăng soi/ Bây giờ trăng đã ngủ rồi/ Ta đi lòng vẫn sáng ngời ánh trăng”…
Qua nghiên cứu ta có thể thấy ca dao cổ truyền và ca dao hiện đại có nhiều
điểm tương đồng, song cũng có những nét khác biệt.
1.1.3. Giá trị nghệ thuật
Ca dao cổ truyền sử dụng rất nhiều thể thơ khác nhau nhưng phổ biến vẫn là
thể lục bát: “Thân em như tấm lụa đào/ Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”;… và
song thất lục bát: “Lụa làng Trúc vừa thanh vừa bóng/ May áo chàng cùng sóng áo
em/ Chữ tình cùng với chữ duyên/ Xin đừng thay áo mà quên lời nguyền”;…Thể
vãn (vãn bốn, vãn năm…) được sử dụng rất nhiều trong đồng dao: “Chi chi chành
chành/ Cái đanh thổi lửa/ Con ngựa đứt cương/ Ba vương ngũ đế”…Ngoài ra ta còn
thấy xuất hiện các dạng biến thể của thể lục bát và song thất lục bát: “Yêu em tam
tứ núi cũng trèo/ Thất bát sông cũng lội, tứ cửu tam thập lục đèo cũng qua”.
Lối đối thoại là kết cấu chủ yếu trong ca dao cổ truyền.
Đối đáp hai vế:
- “Vào vườn hái quả cau non
Anh thấy em giòn muốn kết nhân duyên
Hai má có hai đồng tiền
Càng non càng đẹp, càng nhìn càng ưa”

Ngoài kết cấu đối đáp còn có kết cấu trần thuật: “Đói lòng ăn hột chà là/ Để
cơm nuôi mẹ mẹ già yếu răng”;…kết cấu đối lập: “Tưởng rằng chị ngã em nâng/ Ai

7


ngờ chị ngã em bưng miệng cười”; và kết cấu đối ngẫu tâm lý: “Lên non mới biết
non cao/ Nuôi con mới biết công lao mẹ thầy”;… kết cấu thu hẹp dần hình tượng:
“Anh đi anh nhớ quê nhà/ Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương/ Nhớ ai dãi nắng
dầm sương/ Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao”;…
Nếu ca dao cổ truyền sử dụng những thể thơ truyền thống thì ca dao hiện đại
sử dụng nhiều thể thơ khác nhau: lục bát: “Bao giờ hết cỏ Tháp Mười/ Thì dân Nam
mới hết người đánh Tây”…, song thất lục bát: “Chiếc khăn xanh viền quanh chỉ đỏ/
Bàn tay nhỏ thêu họ thêu tên/ Anh vào nhập ngũ Tây Nguyên/ Trao khăn em tặng
tình yêu kết tình”… và thể hỗn hợp: “Gió đánh cành tre/ Gió đập cành tre/ Chị ra mặt
trận em về tải thương/ Nhiễu điều phủ lấy giá gương/ Xót tình cá nước thì thương
nhau cùng/ Gió đánh cành hồng/ Gió đập cành hồng/ Chị về gặt lúa nuôi chồng
thương binh/ Chồng em vì nước hy sinh/ Cánh tay mất nửa, mối tình còn nguyên”…
Ca dao hiện đại kế thừa phổ biến các dạng kết cấu của ca dao cổ truyền:
Kết cấu đối thoại chủ yếu là kết cấu một vế:
“Con ơi con ngủ cho say,
Mẹ đi phục kích canh hai mẹ về”.
Kết cấu trần thuật:
“Cắc bụp, cắc bụp, xòa,
Ba thằng giặc Pháo bắt gà bắt heo
Cắc bụp, cắc bụp, xèo,
Ba thằng giặc Pháp bắt heo, bắt gà”.
Kết cấu đối lập:
“Ban ngày em học trường này,
Ban đêm đến lượt mẹ thầy của em.

Ban ngày nắng rực khăn em,
Ban đêm mát dịu ánh đèn sáng soi.
Đảng đem ánh sáng ban ngày,
Soi lên cuộc sống cả hai: trẻ, già”.
Kết cấu thu hẹp dần hình tượng:
“Cái cò, cái vạc cái nông,
Nhặt cỏ ruộng đồng tát nước dùm tao.

8


Mồ hôi càng đổ tạt rào,
Khoai lúa thu vào càng trội hơn lên.
Tất cả cho Tổng động viên,
Phản công thắng lợi mau yên nước nhà”.
Kết cấu đối ngẫu tâm lý:
“Bể đông có lúc vơi đầy,
Mối thù đế quốc có ngày nào quên”
1.2. Ca dao về Bác Hồ
1.2.1. Khái niệm
Ca dao về Bác Hồ nằm trong bộ phận của ca dao hiện đại. Đó là tổng hợp
những bài ca dao do nhân dân khắp mọi miền đất nước sáng tác về Bác từ sau cách
mạng tháng Tám: “Có ai về chốn quê nhà/ Gửi lời chúc thọ Cha già mến yêu”;
“Đếm sao cho hết vì sao/ Kể sao cho hết được công lao Bác Hồ”;…và cả những bài
ca gián tiếp nói đến Bác: “Hôm qua anh đến chơi nhà/ Thấy mẹ dệt vải thấy cha đi
bừa/ Thấy em mải miết xe tơ/ Thấy cháu i-tờ ngồi học bi bô/ Thì ra vâng lệnh cụ
Hồ/ Cả nhà yêu nước thi đua phen này”;…
Nhân dân ta xem Bác như người Cha, người anh trong đại gia đình: “Tháp
Mười đẹp nhất bông sen/ Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”; “Cụ Hồ là đuốc sáng
soi/ Nhắc đến tên cụ muôn người yêu thương”; “Cây quế Thiên Thai mọc trên núi đá/

Trầm nơi Vạn Giã hương tỏa sơn lâm/ Tên Bác Hồ thơm hơn hương quế, hương
trầm/ Nhìn ra phương Bắc mà thương Bác Hồ”; “Dù ai đi đông đi tây/ Mỗi năm tháng
chín nhớ ngày mồng ba/ Dù ai đi gần đi xa/ Chớ quên ngày giỗ Cha già kính yêu”;…
Ta thấy nội dung tăng gia sản xuất không chỉ xuất hiện ở mảng ca dao cổ
truyền mà đề tài này còn xuất hiện cả ở ca dao hiện đại: “Tăng gia sản xuất! Tăng gia
sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa! Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững
quyền tự do độc lập” (Hồ Chí Minh toàn tập). Cho nên, ca dao về Bác đề cập đến vấn
đề này: “Chúng con quyết chí thi đua/ Sản xuất, tiết kiệm cho vừa lòng Cha”; “Cụ Hồ
đã dạy dân ta/ Thi đua sản xuất cũng là đánh Tây”; “Cụ dạy chúng ta thi đua để mà
đoàn kết/ Có đoàn kết rồi mới thiệt thi đua/ Anh em nông dân mình chăm bón làm
mùa/ Công nhân đúc nhiều súng đạn/ Bộ đội đánh mạnh giặc thua chạy dài”;…
Bên cạnh nạn đói, dân tộc ta phải đương đầu với cả nạn dốt. Bác đã kêu gọi
nhân dân “chống nạn mù chữ”, “diệt giặc dốt” vì “Một dân tộc dốt là một dân tộc

9


yếu”. Từ đó ca dao về Bác xuất hiện hàng loạt các bài cổ động cho phong trào này.
Như vậy, nhờ ca dao đã giúp cho bạn đọc hình dung nên bức tranh toàn cảnh
của toàn dân tộc ta đối với Bác, đồng thời cảm nhận được cuộc sống của nhân dân
ta trong giai đoạn từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945.
1.2.2. Lực lượng sáng tác
a. Theo vùng miền
Khắp nơi trên dải đất Việt Nam đâu đâu ta cũng thấy những câu ca dao về
Bác. Từ Việt Bắc: “Em về giã gạo ba giăng/ Anh lên múc nước Cao Bằng về ngâm/
Đến ngày mười chín tháng năm/ Gói thành đôi bánh đem dâng Bác Hồ”. Thủ đô Hà
Nội: “Một chiều nắng ấm thủ đô/ Vui sao được thấy Bác Hồ trồng cây”. Còn người
dân Quảng Bình, Vĩnh Linh, Đông Anh lúc nào cũng đinh ninh lời dạy của Bác:
“Ca rằng: dân tuyến Vĩnh Linh/ Ghi sâu lời Bác đinh ninh đời này”; “Bạc màu là
đất Đông Anh/ Làm theo lời Bác vẫn xanh ruộng đồng”. Người Tây Nguyên muôn

đời nhớ ơn Bác: “Rừng Tây Nguyên muôn đời nhớ Bác/ Đã khắc tên lên bạc đeo
tay”; “Hòa Bình dốc thẳm non cao/ Có đi tiếp vận mới biết công lao cụ Hồ”;
“Trường Sơn dậy tiếng Bác Hồ/ Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”; “Dù cho
biển cạn non mòn/ Lòng dân Thuận Hóa vẫn còn trơ trơ/ Vẫn là dân của cụ Hồ/
Trọn đời theo mãi ngọn cờ vàng sao”. Bình Trị Thiên: “Đất Trị Thiên là đất của Cụ
Hồ/ Đất cha ông chi thằng Bảo Đại mà kéo Tây qua đóng đồn”.
Chúng ta bắt gặp ca dao về Bác không chỉ nhân dân trong nước sáng tác mà
cả kiều bào ở nước ngoài cũng có ca dao về Bác. Dù xa quê hương nhưng lúc nào
họ cũng hướng về quê hương, nơi có Cụ Hồ đang dắt dìu kháng chiến: “Chúng con
ở bốn phương trời/ Quay về hướng Cụ muôn đời chúc mong”; “Cụ Hồ yêu nước
thương nhà/ Dắt dìu dân tộc thắng ba kẻ thù”
Trên đất nước ta đâu đâu cũng có ca dao về Bác Hồ được sáng tác ở tất cả
các vùng miền. Mỗi địa phương lại có cách biểu hiện tình cảm với Bác khác nhau
nhưng tựu chung lại, những tình cảm ấy đã hòa vào làm một, cả dân tộc cùng chung
một lòng kính yêu Bác góp phần làm phong phú hơn cho nội dung mảng ca dao về
Bác Hồ.
b. Theo tầng lớp
Đối tượng làm ca dao về Bác nhiều nhất phải kể đến các anh bộ đội, mà ngày
ấy nhân dân ta ưu ái, tin yêu đặt tên cho các anh là anh bộ đội Cụ Hồ. Họ sáng tác
ca dao về Bác trong mọi hoàn cảnh, chẳng hạn như lúc hành quân ra mặt trận, mặc
10


cho “đường xa, súng nặng oằn vai”, “gian nan cơm vắt muối vừng”, dù phải đi
“trăm núi ngàn khe”, “qua mấy dốc mấy đèo”, nhưng vẫn luôn dõi theo lời Bác “lời
Bác vang vọng non sông”, luôn “thấy Bác mãi còn dõi theo” Các anh thương Bác
“Bác vì đất nước, vì niềm vui chung” “tóc xanh bạc trắng đôi miền” nên ý chí quyết
tâm của anh luôn vững vàng: “Dù cho giọt máu cuối cùng/ Con tin vào Bác vững
lòng tiến lên/ Con thề: diệt sạch xâm lăng/ Hai miền Nam Bắc cùng xanh đất trời;
Bác ơi cháu quyết cắm cờ/ Lên trên đồn giặc như thơ Bác mừng”.

Những cô gái dân công tiếp vận cũng cất ca những lời ca tự hào: “Ta là con
cháu Bác Hồ/ Nghe tin tiếp vận đan bồ đi ngay”. Hay những anh công nhân cầu
đường thấy rõ trách nhiệm của mình: “Cầu này ta bắc chóng xong/ Cho xe chóng
chạy, cho lòng Bác vui”; “Cầu đường mạch máu chúng ta/ Giặc mà phá đứt thì ta
nối liền…/ Tuân theo lời dạy Cha già/ Cầu đường giữ vững, dân ta thắng thù”;…
Nhân dân ta khắc sâu lời dạy của Bác “thi đua sản xuất cũng là đánh Tây”,
nhân dân ta không quản ngại mưa nắng nhọc nhằn, quyết tâm sản xuất ra nhiều thóc
gạo chi viện cho tiền tuyến. “Qua nương xuống ruộng lên đồi/ Ta cuốc, ta xới, ta
cười, ta ca/ Rằng: Hồ Chủ tịch dạy ta/ Tăng gia sản xuất cũng là đánh Tây”. Có thể
thấy, dù đối tượng nào thì ở họ vẫn là tình yêu thương chân thành dành cho Bác.
c. Tuổi tác
Từ cụ già tóc bạc đến các em thơ đều nói lên tình cảm của mình về Bác
bằng ca dao. Cụ già cao tuổi có một ước mơ gặp Bác mãnh liệt: “Ước gì đời sống
thêm năm/ Ước gì mắt sáng để trông Bác Hồ/ Đêm khuya chợp mắt tôi mơ:/ Lúa
vàng thêm mát Cụ Hồ đứng bên”. Bà mẹ miền Nam chưa được một lần gặp: “Con
ra thưa với Bác Hồ/ Đất này chỉ một lá cờ vàng sao”.
Chồng ra tiền tuyến, người vợ nhắn gửi lời ca dao ngọt ngào mà sâu sắc
“Nghe lời Bác dạy thi đua/ Thử xem ai được, ai thua phen này/ Chàng đi ra trận
đánh Tây/ Ruộng để em cày, thóc lúa em gieo/ Nghèo thì em biết phận nghèo/ Nắng
sớm mưa chiều, em chẳng quản công/ Sao cho lúa tốt đầy đồng/ Bộ đội no lòng yên
chí xông pha/ Con thơ cùng với mẹ già/ Chàng cứ tin chắc ở nhà có em”…
“Anh đi gìn giữ nước non/ Tóc xanh em đợi, lòng son em chờ/ Anh đi ra
lính Cụ Hồ/ Khúc sông, đỉnh núi, con đò tiễn anh”. Câu ca dao trên là lời của cô gái
trong ngày tiễn chàng trai ra chiến trường.
“Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn chúng em nhi đồng”. Thiếu niên nhi đồng vô
cùng yêu quý Bác:

11



“Ai yêu các nhi đồng
Bằng Bác Hồ Chí Minh”
Mỗi cá nhân, địa phương, vùng miền bằng những cảm nhận rất riêng đã có
những cách diễn đạt, thổ lộ khác nhau góp phần làm đa dạng hơn nội dung và nghệ
thuật của ca dao về Bác.
1.2.3. Hoàn cảnh sáng tác
a. Trong chiến đấu
Như đã đề cập ở trên bộ đội là đối tượng sáng tác ca dao về Bác nhiều nhất
nên có lẽ hầu hết ca dao về Bác được sáng tác trong hoàn cảnh chiến đấu. Trong
gian khổ, trong chiến đấu, các anh cảm thấy Bác như vẫn ầm thầm dõi theo bước
anh: “Gian nan cơm vắt muối vừng/ Mà sao con thấy sáng trưng cuộc đời; Con đi
trăm núi, ngàn non/ Vẫn trông thấy Bác mãi còn ngó theo/ Con qua mấy dốc, mấy
đèo/ Còn nghe lời Bác vọng theo ân cần”. Sau khi bắn cháy máy bay địch, anh pháo
thủ ngồi ung dung trên mâm pháo ngâm thơ của Bác: “Máy bay giặc Mỹ cháy rồi/
Đồng xanh lại thắm, ruộng đồng lại xanh/ Niềm vui rộn rã trong lòng/ Ngồi ngâm
thơ Bác những dòng kính yêu”. Còn đây là ca dao của những người lính đang đứng
giữa chiến hào đánh giặc: “Đêm nay đứng giữa chiến hào/ Nghe lời Bác gọi dạt dào
niềm tin/ Ngày mai giải phóng quê mình/ Miền Nam đón Bác thỏa tình ước mơ”
Trần Hữu Thung trong “Ca dao về Bác”, Nxb Hà Tĩnh, đã nghe được câu hò
“Thuyền ai xuôi chợ Vực/ Thuyền ai ngược Đô Lương/ Thuyền anh chở khách chở
phường/ Thuyền em chỉ chở công lương cho Cụ Hồ”. Và tác giả cho biết thêm ngày
ấy cán bộ bộ đội và dân công cuốc bộ hành quân lấy đêm làm ngày. Phải hàng
tháng trời từ Bình Trị Thiên mới đi thấu ra Việt Bắc. Dân công từ Thanh Nghệ ra
Hòa Bình cũng phải đi hàng chục ngày đêm. Mà cuộc sống dọc đường hành quân
mới phong phú làm sao! Những vần ca dao, những câu hò cứ thế nở rộ trên đường
dài ra tiền tuyến. Bằng những câu ca dao ứng khẩu, hàng vạn dân công đã nói lên
khí thế hào hùng của mình. Và cũng bằng những câu hò ấy, những câu ca dao ấy, họ
đã ghi lại tấm lòng kính yêu, tin tưởng đối với Đảng, với lãnh tụ.
Dù con đường đấu tranh đầy cam go, nguy hiểm, khó khăn nhưng các anh
bộ đội vẫn quyết tâm thực hiện lời dạy, lời khuyên của Bác để thống nhất nước nhà.

Cho nên, trong kháng chiến chống Pháp cũng như chống Mỹ, các anh không hề nao
núng trước mọi vũ khí hiện đại của kẻ địch: “Bác ơi khẩu súng cầm tay/ Dù muôn
gian khổ chẳng lay được lòng/ Lòng còn hẹn với muôn lòng/ Bắc Nam thống nhất
thành công mới về”.

12


b. Trong lao động sản xuất
Ngày mới giành được chính quyền cách mạng cũng là những ngày dân tộc ta
phải đương đầu với nạn đói khủng khiếp do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây nên.
Cho nên, Chính phủ và Bác Hồ kêu gọi đồng bào tăng gia sản xuất, thực hành tiết
kiệm: “Ngót trăm năm thằng Tây sang vơ vét hết ghế hết đòn/ Việt Nam ta nay độc
lập nỏ còn miếng chi”.
Hưởng ứng lời kêu gọi đó, người nông dân trên đồng ruộng, người công
nhân trong xưởng máy thi đua đẩy mạnh tăng gia sản xuất. Người nông dân nhắc
nhở nhau: “Nghe lời Bác dạy thì no/ Đừng để đất nghỉ, đừng cho máy ngừng/ Đừng
để ao cá vắng tăm/ Chuồng gà vắng trứng, buồng tằm vắng tơ”. Các chị em và bà
con nông dân ở những vùng sát địch thương Bác lo nghĩ trăm đường nên để có thóc
gạo nuôi quân đã phải cấy vội, gặt vội, cất giấu vội, đề phòng địch cướp phá, khủng
bố: “Đồng Diên Canh cắt nhanh, giấu vội/ Đồng Phú Nội cắt vội, giấu nhanh/ Bớ o,
bớ chị, bớ anh/ Lúa bên nách giặc ta giành về ta/ Chờ ngày triêng nặng gánh ra/
Thuế ta đóng càng già thóc lương/ Thương Cha lo nghĩ trăm đường/ Việc nhà, việc
nước, chiến trường chưa yên,…
Bác chăm lo đủ thứ cho cả các anh, các chị công nhân: “Bác Hồ yêu mến
thợ thuyền/ Bác lo chăm sóc thường mọi người/ Lo ăn, lo mặc, lo chơi/ Lo chốn làm
việc, lo nơi học hành/ Bác lo chăn ấm, áo lành/ Bác dìu dắt thợ đấu tranh từng
giờ”... Hiểu tình yêu thương đó của Bác, thấm nhuần lời dạy của Bác, người công
nhân như thấy mình tăng thêm sức mạnh nên càng hối hả tăng gia sản xuất: “Con
nghe lời Bác vọng về/ Rừng xanh nắng dậy, bốn bề gió reo/ Con nghe đỉnh núi lưng

đèo / Tiếng than hối hả, sớm chiều khoan xoay”
c. Trong sinh hoạt
Trong lớp học bình dân xóa nạn mù chữ, học viên là các ông các bà đã quá
nửa đời sống kiếp nô lệ lần đầu tiên được học chữ Cụ Hồ cũng có ca dao về Bác:
“Trường đây không ghế không bàn/ Chung dầu chung bấc chung đèn/ Chung lòng
thực hiện lời khuyên Bác Hồ”; trong phong trào trồng cây xanh: “Một cây bạch đàn/
Hai cây bạch đàn/ Bác ơi quê cháu cả làng trồng cây”; lúc khuyên bảo nhau sống sao
cho xứng đáng với lời dạy của Bác Hồ: “Em ơi cố gắng thi đua/ Đoạt giải Cụ Hồ mới
thật là ngoan”; “Cụ Hồ rộng lượng anh ơi/ Đừng theo giặc nữa kẻo đời nhuốc nhơ”...
lúc về thăm quê Bác: “Bác ơi, nhà Bác cũng nghèo/ Quê hương Bác cũng như nhiều
quê hương”; “Chõng tre Bác ngủ còn đây/ Ngọt lành nước lọc vẫn đầy chum xưa”;...

13


Ngày 2-9-1969 Bác rời xa chúng ta. Bác mất là một tổn thất lớn lao nhưng
tên tuổi và sự nghiệp của Bác vẫn sống mãi trong lòng dân tộc. Trong dịp tang Bác,
biết bao bài ca thấm thía, xúc động lòng người: “Bạc phơ mái tóc phong trần/ Quên
mình chỉ nghĩ nhân dân đồng bào/ Bác đi xa mãi rồi sao/ Nghĩa sâu ơn cả thấm vào
chúng con”; “Nhất xanh là bạch đàn chanh/ Bác đi để lại hương lành cho con/ Nhất
xanh là tán đa tròn/ Bác đi để bóng mát trùm nghìn sau/ Nhất thẳng là ngọn phi lao/
Giữa trời hát mãi công lao Bác Hồ”;...
Tóm lại, ca dao về Bác ra đời trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Điều đó vừa
phản ánh hoàn cảnh sáng tác, môi trường diễn xướng của ca dao giúp người đọc
hình dung được cuộc sống sinh hoạt, lao động, chiến đấu của nhân dân trong giai
đoạn lịch sử đầy biến động của dân tộc
1.2.4. Số lượng
Dựa trên những tài liệu sưu tầm và giới thiệu mà chúng tôi đã nêu trong phần
phạm vi khảo sát, qua thống kê chúng tôi thấy số lượng ca dao về Bác khá phong
phú, khoảng 521 bài, 59 dị bản. Tuy nhiên, đó chưa phải là con số cuối cùng vì trong

quá trình lưu truyền ca dao về Bác ít nhiều đã bị thất lạc và trong khả năng giới hạn
của mình, người viết vẫn chưa khảo sát hết được. Một nhà nghiên cứu cho rằng “Ca
dao về Bác như lá xanh trên rừng khó mà đếm hết và chính xác được. Đồng thời con
số ấy cũng cho thấy ca dao viết về Bác là một hiện tượng vô cùng độc đáo” [2, 7].
Những bài nào có dị bản, chúng tôi chỉ xem như có một bài. Ví dụ:
Một điều đặc biệt mà chúng tôi cũng xin được nói thêm. Ấy là trong rừng ca
dao bao la xanh tốt về Bác Hồ cũng thấy có nhiều tác giả kí tên. Tuy nhiên, những
câu ca dao văn học đó nhanh chóng được dân gian hóa bởi trước hết là do ngôn ngữ
câu ca dao gần với tiếng nói của nhân dân. Sau nữa là dù tác giả có là ai đi nữa
Nguyên Hồ, Huyền Tâm, Bảo Định Giang, Minh Hiệu...thì những bài ca sáng tác về
Bác của các đồng chí, các anh chị dường như không còn thấy bản sắc riêng của một
ai cả. Tất cả đã hòa làm một và cùng mang cái tên chung là ca dao của nhân dân về
Hồ Chủ tịch. Mọi người đều thấy như của riêng mình và cũng đều thấy như của
chung tất cả.
Chẳng hạn bài cao dao sau:
“Tháp Mười đẹp nhất bông sen,
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”.
(ca dao Bảo Định Giang)
14


Đây là một trong những bài ca dao hay nhất trong toàn bộ ca dao về Bác Hồ.
Nhưng đến nay, có lẽ vẫn còn một số người không biết rằng ấy là của Bảo Định Giang.
Như đã nói trên , đã có cả một hệ thống ca dao lịch sử ghi lại tên tuổi, sự
nghiệp, chiến công của những con người anh hùng. Tuy nhiên, chỉ với Chủ tịch Hồ
Chí Minh, nhân dân ta mới sáng tác số lượng ca dao ca ngợi đồ sộ đến thế. Ca dao
ca ngợi các anh hùng dân tộc chủ yếu nảy sinh từ quê hương và địa bàn hoạt động
của họ rồi dần dần lan truyền sang các địa phương khác nhưng ca dao về Bác lại
khác: nó nở rộ khắp nơi.
Nguyễn Hằng Phương khi khảo sát các lời ca dao in trong cuốn “Ca dao

Việt Nam 1945-1975” đã phát hiện trong số 745 lời ca dao có 93 lời viết về đề tài
Hồ Chủ tịch (chiếm tương đương 13%). Từ kết quả khảo sát ấy, tác giả cũng nhận
xét rằng số lời ca dao trực tiếp nhắc đến Hồ Chủ tịch chiếm một số lượng đáng kể.
Điều đó nói lên sức hút mạnh mẽ của đề tài Hồ Chủ tịch đối với chủ thể sáng tạo tác
giả dân gian. Vấn đề nảy sinh ở đây là: tại sao đề tài Hồ Chủ tịch lại lôi cuốn đến
như vậy? Và tác giả cũng cho rằng đó là do cảm hứng sáng tạo của các tác giả dân
gian được khơi nguồn từ hiện thực cuộc sống mà đề tài Hồ Chủ tịch là một “loại”
hiện thực chân thực của giai đoạn lịch sử sinh động 1945 -1975. Ở đây người viết
cũng hoàn toàn nhất trí với cách giải thích của tác giả bởi trong quá trình tìm hiểu,
khảo sát ca dao về Bác, chúng tôi cũng đã nhận thấy điều đó. Chúng tôi xin dẫn vài
ví dụ: trong 521 bài ca dao về Bác có nhiều bài phản ánh chân thực giai đoạn lịch sử
1945-1975- một giai đoạn lịch sử vừa đấu tranh vừa xây dựng đất nước và hình
tượng Hồ Chủ tịch nổi lên như một mảng hiện thực sinh động: “Bác Hồ tranh đấu vì
dân/ Đã bao gian khổ phong trần vượt qua; “Bác luôn chăm sóc đến dân/ Nhất là
nông nghiệp ân cần hỏi han”…
Tóm lại, với số lượng 521 bài, ca dao về Bác là bộ phận chiếm số lượng
tương đối lớn trong ca dao hiện đại. Đồng thời, con số ấy cũng cho thấy truyền
thống nhớ ơn của dân tộc là truyền thống tốt đẹp xuyên suốt qua bao lớp người, từ
quá khứ đến hiện tại và chắc chắn sẽ còn tiếp diễn trong tương lai.

15


Tiểu kết
Qua chương này chúng ta có thể nắm được những đặc điểm khái quát nhất về
khái niệm ca dao, ca dao về Bác Hồ cũng như một vài đặc điểm về nội dung và
nghệ thuật để từ đó có cái nhìn chung nhất về mảng ca dao về Bác. Có thể thấy rằng
số lượng ca dao về Bác chiếm một phần không nhỏ trong kho tàng ca dao hiện đại.
Phải chăng, đó là do tình cảm của nhân dân ta với Bác xuất hiện ở khắp mọi nơi,
mọi lứa tuổi và ngay cả trong những năm tháng khó khăn, ác liệt nhất của cuộc

kháng chiến chống giặc ngoại xâm thì những câu ca dao vẫn được cất lên, nó là
nguồn động lực, tinh thần cỗ vũ vững chắc giúp dân tộc ta danh chiến thắng. Trên
nền tinh thần đó, tác giả dân gian ta còn biết vận dụng linh hoạt các biện pháp nghệ
thuật, kết hợp với nghệ thuật từ ca dao cổ truyền như lục bát hay lục bát biến thể để
làm nên những bài ca dao hiện đại nhưng vẫn mang đậm nét cổ truyền, thể hiện
được cái hồn dân tộc trong từng câu ca dao.

16


Chương 2. CA DAO VỀ BÁC HỒ - ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG
2.1. Ca ngợi công lao của Bác
Trong kho tàng ca dao hiện đại, chủ đề ca ngợi công lao Bác Hồ là chủ đề
được đề cập đến nhiều nhất. Hình tượng Bác Hồ đã đi vào thơ ca, nhạc, họa, và
được thể hiện đặc biệt sinh động trong ca dao, dần tạo nên một kho tàng “Ca dao
Việt Nam về Bác Hồ”
Với mỗi người dân Việt Nam, Bác Hồ thân yêu và gần gũi như ruột thịt trong
gia đình vậy. Nhà thơ Tố Hữu đã viết:
“Người là cha, là bác, là anh
Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ”
Đối với nhân dân ta, Bác Hồ là tên gọi đẹp nhất, sáng chói nhất, lung linh nhất:
“Tháp Mười đẹp nhất bông sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”
Công ơn trời biển của Bác Hồ đối với đất nước, đối với dân tộc và toàn thể
nhân dân ta là không gì có thể so sánh được:
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Bác Hồ hơn mẹ hơn cha
Ơn cao, nghĩa nặng bao la biển trời”
Bác vì dân mà chiến đấu suốt đời và:

“Trên trời có ông sao Rua
Việt Nam ta có cụ Hồ, em ơi!
Ánh sao Rua sáng ngời một góc
Gương cụ Hồ tỏ khắp năm châu”
Nhân dân ta đã dùng những hình anh so sánh cổ truyền để nói lên công ơn vĩ
đại của Bác:
“Đố ai đếm được trời sao
Đố ai đếm được công lao Bác Hồ
Đố ai lên được trời cao
Đố ai đáp được công lao Bác Hồ”
17


Nhân dân ta cũng dùng những hình ảnh cụ thể, những sự vật cụ thể để ghi ơn
công đức Bác, của Đảng.
“Ngày xưa bưng lấy bát cơm
Nhớ thầy, nhớ mẹ phong sương cấy cày
Ngày nay bưng bát cơm đầy
Ơn Bác, ơn Đảng ngày ngày không quên”.
Bác Hồ để lại muôn vàn tình thương yêu cho nhân dân, cho đất nước. Đất
nước ta, nhân dân ta cũng kính yêu người với tình cảm sâu sắc, bao la:
“Lòng Bác rộng khắp bao la
Lòng dân, lòng Bác chan hoà nước non”
Các cháu thiếu nhi thì luôn luôn ghi nhớ
“Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn thiếu niên nhi đồng”
và luôn luôn các cháu mong đợi:
“Bao giờ được Bác về chơi
Để cho các cháu khắp nơi đón mừng”.
Trải qua những ngày kháng chiến đầy khó khăn, gian khổ. Trải qua những
ngày hậu phương tiền tuyến cùng góp sức, góp công, góp của chiến thắng khẻ thù

xâm lược quỷ quyệt, tàn ác, nhân dân ta càng thấm thía công ơn của Bác:
“Trèo đèo mới biết đèo cao
Có đi tiếp vận mới biết công lao Cụ Hồ”.
Càng nhớ ơn Bác Hồ, mọi người, mọi tầng lớp nhân dân càng quyết tâm
hoàn thành nhiệm vụ được cách mạng phân công, giao phó:
“Cụ Hồ với dân
Như chân với tay
Như chày với cối
Như cội với cành
Toàn dân dốc một lòng thành
Làm tròn nhiệm vụ, đáp tâm tình Cụ thương dân”.
Nhân dân vùng mỏ Quảng Ninh đã bao đời cực khổ vì bọn thống trị thực
dân, bọn chủ mỏ bóc lột, áp bức:

18


“Ăn cơm với cá mòi he
Lấy chồng Cẩm Phả đun xe suốt đời”
Họ mong ngày kháng chiến thắng lợi, ngày ánh sáng của Đảng, của Bác Hồ
về với vùng mỏ:
“Bao giờ mà Cụ về đây
Bao nhiêu đau khổ một ngày sạch không
Ăn cơm với cá mòi bông
Lấy chồng Cẩm Phả sướng hơn ông chủ nhì”
Nhân dân Nam Bộ với gậy tầm vông, với mã tấu, với lựu đạn đã đứng lên anh
dũng chiến đấu chống đội quân xâm lược nhà nghề có vũ khí hiện đại cũng mong đợi:
“Bài thơ Nam Bộ của Người, Người ơi
Có vần, có điệu đủ rồi
Còn đợi bóng Người in giữa bài thơ

Bao giờ độc lập Người vô
Bấy giờ là lúc bài thơ hoàn thành”
Nhân dân cả nước ta thấm thía công ơn của Đảng, của Bác Hồ. Có Bác Hồ,
có Đảng, nhân dân cả nước mới có độc lập, tự do, có điều kiện để xây nền hạnh
phúc cho bản thân mình và cho muôn đời con cháu mai sau. Người nông dân càng
thấm thía công ơn của Bác mang lại ruộng đất, được làm chủ ruộng đồng, làm chủ
quê hương. Công ơn Bác, hình ảnh Bác đi liền với hạnh phúc, ấm no:
“Ơn Người lúa lại vàng tươi
Sắn khoai lại biếc mây trời lại xanh”.
Đồng bào miền Nam khi tiễn con em ra miền Bắc tập kết theo Hiệp định
Giơ-ne-vơ năm 1954 đã nhắn nhủ:
“Con ra thưa với Bác Hồ
Đất này chỉ một ngọn cờ vàng sao”
Bác Hồ ở giữa lòng dân, Bác Hồ sống mãi trong lòng nhân dân cả nước.
Hình ảnh Bác Hồ thật cao quý, thiêng liêng nhưng lại rất thân thiết, gẫn gũi:
“Cụ Hồ ở giữa lòng dân
Tuy xa xa lắm mà gần, gần ghê
Mỗi khi thư Cụ gửi về
Rộn ràng khắp chợ cùng quê đón mừng”.

19


×