Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

BT lớn Lý luận Nhà nước và Pháp luật: Thông qua bài viết: “Tập tục và pháp luật” của tác giả Nguyễn Minh Đoan (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 122003)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.85 KB, 14 trang )

BÀI TẬP LỚN
Môn: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
ĐỀ BÀI SỐ 8

Thông qua bài viết: “Tập tục và pháp luật” của tác giả Nguyễn Minh Đoan (Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 12/2003), em hãy:
1. Tóm tắt nội dung bài viết trong khoảng 1200 từ
2. Chỉ ra sự giống và khác nhau trong quan điểm về mối quan hệ giữa pháp luật và tập
quán của tác giả bài viết trên với tác giả Lê Vương Long trong bài viết: “Pháp luật và
tập quán trong điều chỉnh quan hệ xã hội” (Tạp chí Luật học, số 2/2001).
3. Nhận xét về mối quan hệ giữa pháp luật và tập quán ở Việt Nam hiện nay.


MỤC LỤC
Mở đầu…………………………………………………………1
Nội dung………………………………………………………..2
1. Tóm tắt nội dung bài viết: “Tập tục và pháp luật” của tác giả
Nguyễn Minh Đoan (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 12/2003)..2
1.1. Tập tục trong xã hội…………………………………………………..…2
1.2. Những nội dung cơ bản của tập tục và việc áp dụng tập tục…………
1.3. Tập tục trong quan hệ với pháp luật……………………………………
1.4. Một số kiến nghị………………………………………………………….

2. Sự giống và khác nhau trong quan điểm về mối quan hệ giữa
pháp luật và tập quán của tác giả bài viết trên với tác giả Lê
Vương Long trong bài viết: “Pháp luật và tập quán trong điều
chỉnh quan hệ xã hội” (Tạp chí Luật học, số 2/2001)
………………………………….
2.1.
2.2.


Sự giống nhau…………………………………………………………
Sự khác biệt…………………………………………………………….

3. Nhận xét về mối quan hệ giữa pháp luật và tập quán ở Việt Nam
hiện nay……………………………………………………………..

Kết luận………………………………………………………...8


MỞ ĐẦU
Trong kho tàng văn hóa đa dạng, đặc sắc của các dân tộc Việt Nam, còn ẩn giấu
một dạng di sản văn hóa pháp lý đặc biệt quý giá đó là các tập tục của người Việt
Nam. Cùng với pháp luật, tập tục là công cụ hữu hiệu, quan trọng trong việc điều
chỉnh các mối quan hệ xã hội trong đời sống của con người. Giữa pháp luật và tập
tục có mối quan hệ vô cùng chặt chẽ. Để tìm hiểu về vấn đề này, tôi chọn đề tài số
8 để nghiên cứu.


NỘI DUNG
1. Tóm tắt nội dung bài viết: “Tập tục và pháp luật” của tác giả
Nguyễn Minh Đoan (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 12/2003):
1.1.

Tập tục trong xã hội:

Ở nước ta có nhiều thuật ngữ để chỉ những cách xử sự lặp đi lặp lại nhiều lần
thành thói quen, được nhiều được nhiều người thừa nhận và tuân theo như “tập
quán”, “phong tục”, “luật tục”, “tập tục”… Dưới đây là một số cách hiểu về những
thuật ngữ trên:
Tập quán có thể được xem như những tác phong, ứng xử được lặp lại theo thời

gian, trở thành thói quen, nên có chỗ đứng vững chắc trong xã hội. Tập quán bao
hàm những thói quen về sản xuất và sinh hoạt trong đời sống xã hội; có phạm vi
điều chỉnh rộng; chỉ là những việc đáng để làm theo nên tính bắt buộc không cao.
Phong tục được xem như “tập quán và nếp sống có ý nghĩa từ lâu đời và ăn sâu
vào đời sống”1, “thói quen trong xã hội”2. Khác với tập quán, phong tục có tính
bắt buộc nghiêm ngặt đối với mọi thành viên trong cộng đồng; mang trong mình
những khuôn mẫu ứng xử là những chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ, khoa học của cả
cộng đồng, xã hội, bởi vậy người vi phạm có thể phải chịu hình phạt rất nghiêm
khắc. Như vậy, dù bắt nguồn từ tập quán nhưng phong tục có mục đích, tính bắt
buộc cao hơn; có biện pháp bảo đảm nghiêm khắc.
Luật tục chỉ những quy ước có giá trị và tính bắt buộc gần như pháp luật nhưng
không phải pháp luật (do không phải do Nhà nước ban hành). Nếu cho rằng các lề
lối (quy tắc) được đặt ra để điều chỉnh hành vi của con người là “luật”, thì tập
quán, phong tục cũng có thể được gọi là “luật tục”. Luật tục trước hết là tập quán,
nhưng chỉ là những tập quán đã trở thành quy ước chung của cả cộng đồng và
được bảo đảm thực hiện bằng những biện pháp nghiêm khắc mà cộng đồng nhất

1 Đoàn Văn Chúc (1997), Xã hội học văn hóa, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội
2 Đào Duy Anh, Hán – Việt từ điển, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh


trí; mọi chủ thể trong cộng đồng đều phải tuân theo. Cách giải thích như vậy cho
thấy “luật tục” gần đồng nghĩa với “phong tục”.
Tập tục được hiểu là cách nói tắt của tập quán và phong tục (tập là tập quán, tục
là phong tục). Trong một số trường hợp, phân biệt rạch ròi tập quán hay phong tục
là rất khó khăn, bởi phong tục được phát triển từ tập quán, nhưng trong những giai
đoạn hoặc điều kiện nhất định khi mà tính bắt buộc và những biện pháp đảm bảo
cho việc thực hiện phong tục mất dần thì phong tục có thể trở lại thành tập
quán.Vậy nên cách nói này vừa bao quát, vừa ngắn gọn. Sự ra đời và tồn tại của
tập tục là tất yếu khách quan; không thể thiếu đối với đời sống. Đời sống sinh hoạt

cộng đồng đòi hỏi những quy tắc để giải quyết tranh chấp, những hành vi vi phạm
quy ước… Những quy ước ấy được mỗi cộng đồng dân cư thừa nhận và thực hiện,
bởi vậy nó mang tính cục bộ, địa phương. Hình thức phổ biến của tập tục là truyền
miệng nên tập tục có tính uyển chuyển, tính xác định không cao, dẫn đến việc áp
dụng nhiều khi không thống nhất, dễ tùy tiện. Hình thức thành văn đầu tiên của tập
tục có lẽ là hương ước (hương biên, hương khoán, hương lệ, tục lệ, cựu khoán,
điều ước, điều lệ, lệ làng…). Các quy ước này có vai trò vô cùng lớn, là chuẩn
mực cho hành vi của con người, công cụ điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, “tri
thức dân gian về quản lý cộng đồng”3
Tuy nhiên, vai trò của tập tục ngày càng bị thu hẹp lại. Nhà nước, xã hội ngày
càng can thiệp nhiều hơn vào các lĩnh vực tự quản của các cộng đồng trong đó có
việc xây dựng những quy ước để điều chỉnh mối quan hệ liên quan đến cộng đồng.
Đây là môt nguyên nhân dẫn đến tập tục bị mai một, lãng quên một số bị ngăn
cấm, một số lạc hậu không còn phù hợp…
Gần đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta, nhiều tập tục, truyền thống
văn hóa tốt đẹp đã được khôi phục. Có thể nói, ở nước ta hiện nay, tập tục đã, đang
và sẽ còn tiếp tục thể hiện vai trò tích cực và những giá trị xã hội của mình trong
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.

3 Bùi Xuân Đính (1998), Hương ước và quản lý làng xã, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội


1.2. Những nội dung cơ bản của tập tục và việc áp dụng tập tục:
Tập tục là những quy ước tổng hợp nhiều vấn đề khác nhau của đời sống, trong
đó thường có nội dung đề cập đến những quy tắc, quy định, cách ứng xử cần tuân
theo và xác định những hình thức khen, thưởng hoặc xử lý những vi phạm, các
cách thức và biện pháp trừng phạt. Chủ yếu liên quan đến đời sống cộng đồng nên
nội dung tập tục tập trung vào các lĩnh vực chính của đời sống xã hội.
Những biện pháp xử lý vi phạm tập tục rất khắc nghiệt, có tác dụng răn đe rất
lớn, thường gây hậu quả bất lợi cho chủ thể vi phạm về mặt kinh tế, danh dự. Bời

vậy số người vi phạm tập tục trên thực tế rất ít.
Tập tục thường được người đứng đầu cộng đồng tổ chức thực hiện và được sự
ủng hộ, giúp đỡ của cả cộng đồng, diễn ra rất nghiêm minh. Nếu việc phân xử theo
tập tục của người có thẩm quyền có biểu hiện sự không công minh hay thiên vị thì
các thành viên của cộng đồng sẽ có ý kiến không đồng tình, phản đối và không tín
nhiệm người phân xử đó nữa.
Mục đích của hầu hết các tập tục là hướng thiện, tuy nhiên cũng tồn tại một số
tập tục có phần phản tiến bộ, có hại cho xã hội, cản trở việc thực hiện pháp luật
Nhà nước.
Tập tục do các bậc tiền nhân để lại nên rất được mọi người tôn trọng, tự giác
thực hiện, coi đó là những tiêu chuẩn đúng đắn, chính xác, công bằng mà mỗi
người cũng như cả cộng đồng đều có nghĩa vụ tuân theo. Nghĩa vụ chấp hành
không chỉ có tính bắt buộc đối với những người liên quan mà còn liên quan trực
tiếp mà những người thân trong cộng đồng cũng phải tham gia. Đối với nhiều cộng
đồng dân cư, tập tục thường được sử dụng trước tiên. Chỉ khi nào những vụ việc
ấy có liên quan đến pháp luật mà các tập tục không thể giải quyết được thì nhân
dân mới nhờ cậy đến chính quyền để giải quyết bằng pháp luật.


1.3. Tập tục trong quan hệ với pháp luật:
Tập tục hình thành và tồn tại trước khi có pháp luật như là một nhu cầu tất nhiên
của đời sống cộng đồng. Khi pháp luật xuất hiện, nó chỉ thay thế một phần chứ
không thay thế hoàn toàn tập tục, tập tục vẫn không mất đi.
Trong thực tế, có những trường hợp pháp luật không thể giải quyết triệt để mà
cần có sự kết hợp giữa pháp luật với tập tục để đưa ra quy định. Do vậy, nên kết
hợp hài hòa giữa pháp luật và tập tục trong giải quyết những tranh chấp, mâu
thuẫn và có tính đến ý chí của các bên.
Tập tục và pháp luật có sự thống nhất về mục đích, có những chức năng tương tự
nhau, đều là những công cụ điều chỉnh luôn hỗ trợ lẫn nhau trong việc phục vụ
mục đích chung của cộng đồng. Quan hệ giữa tập tục với pháp luật thể hiện trên cả

ba phương diện là xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật và hoạt động xét xử:
- Trong hoạt động xây dựng pháp luật, một số tập tục có thể được thừa nhận thành
pháp luật. Khi chưa có pháp luật thì tập tục là công chủ yếu để điều chỉnh các
mối quan hệ trong xã hội. Do vậy khi xuất hiện pháp luật thì rất nhiều tập tục đã
được luật hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước.
- Trong thực hiện và áp dụng pháp luật, một số tập tục có thể được áp dụng để giái
quyết vụ việc. Trong một số trường hợp, khi quy định về một vấn đề phức tạp đã
và đang tồn tại nhiều cách giải quyết phù hợp ở địa phương, nhà làm luật có thể
trù liệu là cho phép giải quyết theo tập tục của mỗi địa phương. Hoặc khi pháp
luật chưa hoặc không quy định về một số vấn đề, các chủ thể có thẩm quyền
được phép áp dụng theo tập tục mặc dù pháp luật không chỉ định rõ tập tục cụ thể
nào. Việc áp dụng tập tục phải bảo đảm tính hợp lý, tiến bộ, vì lợi ích của nhân
dân và phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật, không trái đạo đức
xã hội.
- Một số tập tục không liên quan đến lĩnh vực mà pháp luật điều chỉnh nên cũng
không xem xét việc nó có trái hay không trái pháp luật


- Pháp luật ngăn cấm, loại bỏ những tập tục trái với pháp luật, có hại cho xã hội.
Các tập tục có hại cho tiến bộ xã hội hay đạo đức, trái với pháp luật, có hại cho
tiến bộ xã hội hay đạo đức, trái với văn hóa tốt đẹp của dân tộc thì sẽ bị pháp luật
kìm hãm, cấm đoán hoặc loại trừ.
1.4. Một số kiến nghị:
Nhà nước nên tiến hành tập hợp những tập tục quan trọng, có giá trị, từ đó chọn
lọc để giữ gìn, phát huy những tập tục tốt đẹp, loại trừ những tập tục có hại. Cần
chú trọng đúng mức tới việc xây dựng hương ước mới và nên quy định những vấn
đề cụ thể và mang tính nguyên tắc; củng cố vị trí, vai trò của những người đứng
đầu cộng đồng. Những người này cần là người có uy tín cao, có trình độ, đạo đức
tốt, hiểu biết những đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.


2. Sự giống và khác nhau trong quan điểm về mối quan hệ giữa pháp
luật và tập quán của tác giả bài viết trên với tác giả Lê Vương
Long trong bài viết: “Pháp luật và tập quán trong điều chỉnh quan
hệ xã hội” (Tạp chí Luật học, số 2/2001):
2.1.

Sự giống nhau:

Sau khi tổng hợp và nghiên cứu hai bài viết, tôi nhận ra được một số điểm tương
đồng trong quan điểm của hai tác giả về mối quan hệ giữa pháp luật và tập quán:
Trước hết, khi nói về mối quan hệ giữa pháp luật và tập quán trong hoạt động xây
dựng pháp luật, cả hai người cùng đồng ý rằng một số tập tục có thể được Nhà
nước thừa nhận và nâng lên thành pháp luật. Tác giả Nguyễn Minh Đoan cho rằng
nguyên nhân là do trước khi pháp luật xuất hiện thì tập quán là công cụ chủ yếu để
điều chỉnh quan hệ xã hội, khi pháp luật xuất hiện thì các tập quán ấy được Nhà
nước luật hóa. Còn tác giả Nguyễn Minh Long bổ sung thêm về điều kiện để một


tập quán có thể được nâng lên thành pháp luật như tập quán phải hữu ích, được sử
dụng rộng rãi trong đời sống, phù hợp với truyền thống dân tộc,…
Bên cạnh đó, cả hai tác giả đều tán thành rằng: trong thực tiễn và áp dụng pháp
luật, một số tập tục có thể được áp dụng. Khi quy định về một vấn đề phức tạp đã và
đang tồn tại nhiều cách giải quyết phù hợp ở địa phương, nhà làm luật có thể trù liệu
là cho phép giải quyết theo tập tục của mỗi địa phương. Hoặc khi pháp luật chưa
hoặc không quy định về một số vấn đề, các chủ thể có thẩm quyền được phép áp
dụng theo tập tục mặc dù pháp luật không chỉ định rõ tập tục cụ thể nào. Cả hai tác
giả đều trích dẫn Điều 14 Bộ Luật Dân sự 1997 để chứng minh cho luận điểm này:
“Trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không thỏa thuận thì có thể
áp dụng những tập quán hoặc quy định tương tự của pháp luật, nhưng không được
trái với những nguyên tắc trong bộ luật này”. Hai người đều đồng ý rằng, việc áp

dụng tập tục phải bảo đảm tính hợp lý, tiến bộ, vì lợi ích của nhân dân và phù hợp
với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Các tập quán
tốt đẹp phù hợp với truyền thống dân tộc được pháp luật bảo vệ, những tập tục trái
với pháp luật, có hại cho xã hội thì bị pháp luật ngăn cấm, loại bỏ.
Hơn nữa, khi đề ra những kiến nghị, hai tác giả đều cho rằng Nhà nước nên tiến
hành sưu tầm, tập hợp những tập tục điển hình, tích cực; loại trừ những tập tục lạc
hậu, ảnh hưởng xấu tới trật tự xã hội; cần phải chú trọng, quan tâm đúng mức đối
với việc xây dựng hương ước mới và chuẩn hóa lệ làng, luật tục trong điều kiện hiện
nay.
2.2.

Sự khác biệt:

Dù có nhiều tương đồng trong quan điểm nhưng hai bài viết cũng có những bất
đồng về quan điểm về mối quan hệ giữa tập quán và pháp luật trong điều chình quan
hệ xã hội:
Tác giả Lê Vương Long cho rằng, dù là công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội như
pháp luật nhưng tập quán có phạm vi tác động, tính bắt buộc, các biện pháp bảo đảm


thấp hơn, còn mang tính bảo thủ, được lưu truyền chủ yếu thông qua hình thức
truyền miệng, không có quy định cụ thể, nên quá trình áp dụng còn thụ động, tùy
tiện. Do vậy, tập quán có thể cản trở quá trình thi hành pháp luật. Tuy nhiên, tác giả
Nguyễn Minh Đoan lại cho rằng, tập tục có tính bắt buộc, răn đe rất lớn vì nó gắn
liền với đời sống sinh hoạt và sản xuất; hình thành, tồn tại trước pháp luật. Do đó,
nó có vai trò vô cùng quan trọng trong việc điều chỉnh quan hệ xã hội.

3. Nhận xét về mối quan hệ giữa pháp luật và tập quán ở Việt Nam
hiện nay:
Đã từ rất lâu rồi, những tập tục đã in sâu trong tâm thức của người Việt Nam. Bởi

vậy, hiện nay, pháp luật đã thừa nhận một số tập tục, nâng các tập tục ấy thành pháp
luật, áp dụng thực hiện trong đời sống. Trong Hiến pháp vai trò, vị trí của phong
tục, tập quán, hương ước, luật tục đã được khẳng định. Điều này thể hiện qua các
nội dung sau:
Thứ nhất, điều 56 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001 khẳng định các
dân tộc trên đất nước ta có quyền giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong
tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Mà như chúng ta biết luật
tục cũng chính là thành tố của văn hóa và phong tục, tập quán của các dân tộc. Và
một trong những nghĩa vụ của công dân theo điều 79 của Hiến pháp năm 1992 là
chấp hành những quy tắc sinh hoạt cộng đồng.
Để cụ thể hóa những quy định trong Hiến pháp, ngày 19 tháng 6 năm 1998 Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 14/1998/CT-TTG về việc xây dựng và thực
hiện Hương ước, Quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cứ. Tiếp đó là sự ra đời
của Thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT-BTP-VCHTT-UBTƯMTTQVN hướng dẫn
việc xây dựng và thực hiện Hương ước, Quy ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân



Một cơ sở pháp lý nữa cũng rất quan trọng để tập tục tồn tại đó chính là Bộ luật
dân sự. Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Trong trường hợp pháp luật
không có quy định và các bên không có thỏa thuận thì có thể áp dụng tập quán…”
Và điều 8 cũng chỉ rõ việc lập, thực hiện quyền
và nghĩa vụ dân sự phải đảm bảo gìn
6
giữ bản sắc dân tộc, tôn trọng và phát huy phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp,
tình đoàn kết tương thân, tương ái… Ngoài ra, Bộ luật dân sự cũng đã chỉ rõ một số
trường hợp phải áp dụng tập quán để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên.
Chẳng hạn khoản 4 điều 603 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định việc bồi thường
theo tập quán đối với thiệt hại do gia súc thả rông gây ra: “Trường hợp súc vật thả
rông theo tập quán mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu súc vật đó phải bồi thường theo

tập quán nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.”. Như vậy Bộ luật dân
sự đã gián tiếp thừa nhận tập quán, trong trường hợp đó nó đã trở thành tập quán
pháp.
Tuy nhiên, vẫn còn một số tập tục trái với pháp luật, có hại cho xã hội. Pháp luật
ta hiện đang cố gắng kìm hãm, cấm đoán hoặc loại trừ các tập tục có hại cho tiến bộ
xã hội hay đạo đức, trái với pháp luật, có hại cho tiến bộ xã hội hay đạo đức, trái với
văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Ví dụ như để hạn chế tập tục cổ hủ “trọng nam kinh
nữ”, Điều 17 Mục 1 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ, chồng
bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình,
trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến
pháp, Luật này và các luật khác có liên quan.”
Qua đây, ta thấy được mối quan hệ và những tác động giữa pháp luật và phong tục
tập quán được thể hiện một cách rõ nét qua chính thực tế ở nước ta. Hơn thế nữa,
những mặt tích cực hay hạn chế của phong tục tập quán trong thời đại mới cũng
được pháp luật kế thừa, phát huy hay sửa đổi sao cho phù hợp với thực tế Việt Nam,
điều đó cũng cho thấy vai trò to lớn của cả pháp luật và phong tục tập quán trong xã
hội


KẾT LUẬN
Trong giai đoạn xây dựng và hoàn thiện Nhà nước ở nước ta hiện nay,pháp luật
giữ vị trí quan trọng trong điều chỉnh các quan hệ xã hội.Cùng với pháp luật còn có
rất nhiều công cụ điều chỉnh khác,trong đó phải kể đến các tập tục. Một hệ thống
pháp luật dù hoàn chỉnh đến đâu cũng không thể đạt hiệu quả cao nhất nếu không có
niềm tin của đại bộ phận nhân dân. Vì vậy, muốn hoàn thiện bộ máy nhà nước cần
biết kết hợp với phong tục tập quán,biết chắt lọc tính ưu việt của nó đề cùng pháp
luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Pháp luật với nội dung, bản chất, chức năng
của mình chứa đựng những tri thức dân gian, giá trị truyền thống sẽ giúp nâng cao
được đời sống pháp lí, ngăn chặn những hủ tục lạc hậu, giữ gìn trật tự xã hội, ngăn
chặn văn hóa ngoại lai xâm nhập, bảo vệ thuần phong mỹ tục của dân tộc.



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đoàn Văn Chúc (1997), Xã hội học văn hóa, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội
2. Đào Duy Anh, Hán – Việt từ điển, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh
3. Nguyễn Minh Đoan (2003), “Tập tục và pháp luật”, Nghiên cứu lập pháp
(Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (12), tr. 26-32.
4. Bùi Xuân Đính (1998), Hương ước và quản lý làng xã, Nxb. Khoa học xã hội,
Hà Nội
5. Lê Vương Long (2001), “Pháp luật và tập quán trong điều chỉnh quan hệ xã
hội”, Luật học, (02), tr. 27-32.
Văn bản pháp luật:
1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992 sửa đổi, bổ sung
2.
3.
4.
5.

năm 2001
Bộ luật dân sự năm 2005
Bộ luật dân sự năm 2015
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
Chỉ thị số 14/1998/CT-TTG về việc xây dựng và thực hiện Hương ước, Quy

ước của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cứ
6. Thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT-BTP-VCHTT-UBTƯMTTQVN hướng
dẫn việc xây dựng và thực hiện Hương ước, Quy ước của làng, bản, thôn,
ấp, cụm dân cư




×