Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Báo cáo tổng kết thi hành luật giáo dục đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.7 KB, 38 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

BÁO CÁO
TỔNG KẾT THI HÀNH LUẬT GIÁO DỤC ĐẠI HỌC

Từ 1/1/2013, khi Luật số 08/2012/QH13 - Luật GDĐH (gọi tắt Luật
GDĐH) được ban hành và có hiệu lực, hàng năm, trong Báo cáo tổng kết
năm học của các cơ sở giáo dục đại học (GDĐH), của Bộ Giáo dục và Đào
tạo (GDĐT) đều có đánh giá, sơ kết quá trình hướng dẫn thi hành và triển
khai thực hiện Luật GDĐH.
Kết quả sơ kết hằng năm thực hiện Luật GDĐH cho thấy đây là đạo
luật đầu tiên điều chỉnh về GDĐH, có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá
trình phát triển GDĐH Việt Nam, tạo ra những chuyển biến tích cực trong
hệ thống giáo dục quốc dân nói chung và GDĐH nói riêng. Luật GDĐH
quy định các nội dung khá toàn diện về GDĐH, tạo môi trường pháp lý cho
các cơ sở GDĐH phát triển và khẳng định vị thế trong hệ thống GDĐH Việt
Nam cũng như trên bình diện quốc tế.
Thưc hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại phiên họp Chính phủ
tháng 12/2016 và Công văn số 51/VPCP-PL ngày 4/01/2017 của Văn phòng
Chính phủ thông báo ý kiến của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc
về việc giao, GDĐT nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật GDĐH
trong năm 2017, Bộ GDĐT đã tổ chức sơ kết 04 năm thực hiện Luật GDĐH
trong khối các cơ sở các cơ sở GDĐH, xây dựng căn cứ thực tiễn cho việc
nghiên cứu, xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung Luật GDĐH. Cụ thể như sau:
Phần I
TÌNH HÌNH THI HÀNH LUẬT GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
I. Ban hành văn bản quy định chi tiết và chỉ đạo, đôn đốc thi
hành
Sau khi Luật GDĐH được ban hành và có hiệu lực, Bộ GDĐT đã chỉ
đạo việc rà soát các quy định của Luật và đề xuất danh sách những văn bản


quy phạm pháp luật cần xây dựng và ban hành thuộc thẩm quyền của Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ và Bộ GDĐT.
Bộ trưởng Bộ GDĐT đã phân công cho các đơn vị trực thuộc Bộ chủ
trì, phối hợp với các bên liên quan dự thảo và ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật (QPPL) quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật GDĐH.
1


Có 02 văn bản Bộ GDĐT xin lùi thời gian ban hành do có sự thay đổi
về chính sách và thực tiễn phát triển GDĐH, cụ thể:
- Nghị định quy định phương thức và tiêu chí phân bổ nguồn ngân
sách nhà nước cho các cơ sở GDĐH: Ngày 11/12/2014, Bộ GDĐT đã trình
Chính phủ dự thảo Nghị định. Ngày 27/02/2015, Phó Thủ tướng Vũ Đức
Đam chủ trì cuộc họp với Văn phòng Chính phủ (VPCP), Bộ GDĐT và Bộ
Tài chính về dự thảo văn bản và chỉ đạo Bộ GDĐT lùi thời gian ban hành
văn bản này để tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện cho phù hợp với định hướng
đổi mới cơ chế tài chính đơn vị sự nghiệp công lập. Ngày 19/3/2015, Bộ
GDĐT đã có Tờ trình số 136/TTr-BGDĐT trình Chính phủ xin lùi thời gian
ban hành Nghị định này.
- Thông tư liên tịch quy định cụ thể việc đào tạo và công nhận văn
bằng trình độ kỹ năng thực hành, ứng dụng chuyên sâu cho người đã tốt
nghiệp đại học ở một số ngành chuyên môn đặc thù: Hiện nay, chỉ có Bộ Y
tế có đối tượng có trình độ sau đại học cần chuyển đổi và hiện đang áp dụng
Thông tư liên tịch số 30/2003/TTLT-BGDDT-BYT ngày 01/7/2003 hướng
dẫn việc chuyển đổi các văn bằng và trình độ đào tạo sau đại học trong lĩnh
vực y tế.
Ngoài việc ban hành các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn Luật
GDĐH và Luật Giáo dục, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo
dục; trong giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2016, Bộ GDĐT đã tiến hành rà

soát sửa đổi, bổ sung, ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành
105 văn bản đảm bảo phù hợp với quy định của Luật GDĐH, bao gồm: 07
nghị định của Chính phủ, 06 quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 92 thông
tư và thông tư liên tịch do Bộ GDĐT ban hành và liên tịch ban hành.
Về cơ bản, việc ban hành hệ thống văn bản QPPL đã theo đúng kế
hoạch đề ra, đáp ứng được yêu cầu đổi mới GDĐH, tạo hành lang pháp lý
cho công tác quản lý nhà nước về GDĐH và đảm bảo hiệu quả thực thi Luật
GDĐH. Tuy nhiên, một số văn bản còn chậm so với yêu cầu do các nguyên
nhân sau:
- Sự phối hợp giữa các đơn vị trong ngành và ngoài ngành chưa đạt
hiệu quả như mong muốn.
- Việc xây dựng kế hoạch soạn thảo, ban hành văn bản QPPL chưa sát
thực tế nên số lượng văn bản dự kiến quá lớn, trong khi nguồn lực thực hiện
có hạn, thiếu tính khả thi.
- Kinh phí xây dựng văn bản QPPL còn rất hạn chế dẫn đến khó khăn
trong việc đảm bảo thực hiện đầy đủ các công đoạn của quy trình soạn thảo
văn bản.
- Một số văn bản điều chỉnh những vấn đề phức tạp, khó tạo được sự
đồng thuận giữa các cơ quan; căn cứ để ban hành các văn bản QPPL thuộc
2


thẩm quyền của Bộ GDĐT có những quy định chưa rõ ràng dẫn đến nhận
thức chưa thống nhất.
- Thủ tục ban hành văn bản của cơ quan cấp trên phức tạp, qua nhiều
công đoạn; nhiều trường hợp quan điểm của cơ quan chủ trì soạn thảo và
các đơn vị chức năng chưa thống nhất, dẫn đến nhiều văn bản phải làm đi
làm lại nhiều lần.
- Việc góp ý, lấy ý kiến của một số cơ quan, tổ chức, đơn vị trong và
ngoài Bộ GDĐT thường kéo dài hoặc cơ quan lấy ý kiến yêu cầu quá gấp

rút. Mặt khác, ý kiến góp ý của một số cơ quan, đơn vị đối với dự thảo văn
bản còn chưa sát với nội dung.
II. Triển khai phổ biến, tập huấn
Thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ và
nhân dân; Nghị quyết số 61/2007/NQ-CP ngày 17/12/2007 của Chính phủ
về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban
Bí thư Trung ương Đảng, Kết luận số 04/KL-TW ngày 19/4/2011 của Ban
chấp hành Trung ương về kết quả thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW ngày
09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật của cán bộ và nhân dân; Bộ GDĐT đã ban hành kế hoạch
tuyên truyền, phổ biến Luật GDĐH trong ngành và tuyên truyền, phổ biến
trong cán bộ, nhân dân (Kế hoạch số 934/KH-BGDĐT ngày 21/9/2012).
Theo đó, việc tuyên truyền, phổ biến được tổ chức triển khai ngay
trong kế hoạch đầu năm học 2012 - 2013 của các đơn vị trong toàn ngành.
Luật GDĐH được giới thiệu tổng thể và giới thiệu sâu, nhấn mạnh một số
nội dung đối với từng nhóm đối tượng như: Cán bộ quản lý, công chức,
viên chức trong ngành GDĐH; giảng viên; người học; nhân dân.
Đối với đối tượng là cán bộ quản lý, công chức, viên chức trong
ngành giáo dục tập trung vào các nội dung về: Phân tầng GDĐH; quy hoạch
mạng lưới cơ sở GDĐH; chính sách của Nhà nước về phát triển GDĐH; cơ
cấu tổ chức của cơ sở GDĐH; quyền tự chủ của cơ sở GDĐH; bảo đảm chất
lượng và kiểm định chất lượng GDĐH; tài chính, tài sản của cơ sở GDĐH;
nội dung quản lý nhà nước về GDĐH; vấn đề thanh tra, kiểm tra, xử lý vi
phạm.
Đối với giảng viên, tập trung vào các nội dung cơ bản như hoạt động
đào tạo, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế của cơ sở GDĐH; các chức
danh giảng viên và trình độ chuẩn của chức danh giảng dạy đại học; nhiệm

vụ và quyền của giảng viên; chính sách đối với giảng viên; quy định về
3


giảng viên thỉnh giảng và báo cáo viên; các hành vi giảng viên không được
làm.
Đối với người học, tập trung vào các quy định về mục tiêu GDĐH;
thời gian đào tạo; chương trình, giáo trình GDĐH; văn bằng GDĐH; chính
sách đối với người học; nhiệm vụ và quyền của người học; các hành vi
người học không được làm.
Đối với nhân dân, tập trung giới thiệu các điểm mới của Luật GDĐH;
các chính sách của Nhà nước về phát triển GDĐH; các quy định về đầu tư
cho GDĐH, xã hội hóa GDĐH; quản lý nhà nước về GDĐH; quyền tự chủ
của cơ sở GDĐH và vấn đề kiểm soát chất lượng đào tạo.
III. Kết quả thực hiện các quy định của Luật GDĐH
Luật GDĐH quy định 12 vấn đề lớn tương ứng với 12 Chương: (1)
Những quy định chung; (2) Tổ chức cơ sở GDĐH; (3) Nhiệm vụ và quyền
hạn của cơ sở GDĐH; (4) Hoạt động đào tạo; (5) Hoạt động khoa học và
công nghệ; (6) Hoạt động hợp tác quốc tế; (7) Bảo đảm chất lượng và kiểm
định chất lượng GDĐH; (8) Giảng viên; (9) Người học; (10) Tài chính, tài
sản của cơ sở GDĐH; (11) Quản lý nhà nước về GDĐH; (12) Điều khoản
thi hành.
Trong bối cảnh yêu cầu của xã hội đối với chất lượng GDĐH và trách
nhiệm của các trường đại học ngày càng gia tăng, Luật GDĐH đã góp phần
tạo ra hành lang pháp lý cơ bản là hoàn thiện để đáp ứng những đòi hỏi này
ở mức độ nhất định, đặc biệt là về tự chủ của các trường đại học. Tuy nhiên,
quá trình thực hiện những quy định của Luật GDĐH, bên cạnh những kết
quả đạt được vẫn phát sinh một số hạn chế cần sửa đổi, bổ sung. Cụ thể:
1. Những quy định chung
a) Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, áp dụng Luật GDĐH và

giải thích từ ngữ
Quy định pháp luật: Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, áp dụng
Luật GDĐH và giải thích từ ngữ gồm 13 Điều, được quy định từ Điều 1 đến
Điều 13. Cụ thể: Điều 1. Phạm vi điều chỉnh; Điều 2. Đối tượng áp dụng;
Điều 3. Áp dụng Luật GDĐH; Điều 4. Giải thích từ ngữ; Điều 5. Mục tiêu
của GDĐH; Điều 6. Trình độ và hình thức đào tạo của GDĐH; Điều 7. Cơ
sở GDĐH; Điều 8. Đại học quốc gia; Điều 9. Phân tầng cơ sở GDĐH; Điều
10. Ngôn ngữ dùng trong cơ sở GDĐH; Điều 11. Quy hoạch mạng lưới cơ
sở GDĐH; Điều 12. Chính sách của Nhà nước về phát triển GDĐH; Điều
13. Tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam, đoàn thể và tổ chức xã hội trong cơ
sở GDĐH.

Tình hình thực hiện, đánh giá và khuyến nghị:
4


Phạm vi điều chỉnh của Luật GDĐH khá rộng và bao trùm hầu hết
các hoạt động liên quan đến công tác đào tạo, nghiên cứu của các cơ sở
GDĐH; đối tượng áp dụng là phù hợp tại Việt Nam và các điều ước quốc tế
liên quan mà Việt Nam có cam kết, thừa nhận; các thuật ngữ và khái niệm
sử dụng trong Luật GDĐH đảm bảo được tính khoa học và tính phổ thông.
Tuy nhiên, một số từ ngữ được giải thích tại Điều 4 chưa đầy đủ và
chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển GDĐH (khái niệm về GDĐH, các
chuẩn quốc gia về GDĐH, trình độ GDĐH, cơ sở GDĐH tư thục và cơ sở
GDĐH có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động không vì lợi nhuận). Mặt khác,
khi xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GDĐH không chỉ
bao gồm các quy định liên quan tới cơ sở GDĐH mà cần có các nội dung
khác về hệ thống GDĐH. Vậy cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các khái
niệm, từ ngữ và các quy định tại phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng cho
phù hợp với thông lệ quốc tế.

b) Mục tiêu của GDĐH
Quy định pháp luật: Mục tiêu của GDĐH gồm mục tiêu chung và
mục tiêu cụ thể đào tạo trình độ đại học, thạc sĩ, tiến sĩ quy định tại Điều 5
của Luật GDĐH.
Tình hình thực hiện, đánh giá và khuyến nghị:
Để thực hiện các mục tiêu của GDĐH, Chính phủ đã ban hành quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật GDĐH. Các Bộ,
ngành đã ban hành văn bản quy định quản lý chặt chẽ các hoạt động liên
quan tới GDĐH; đảm bảo chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu thị trường
lao động. Đến nay, mặc dù các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ và các Bộ, ngành đang có hiệu lực đảm bảo cho thực hiện các mục tiêu
của GDĐH.
Tuy nhiên, Luật GDĐH hiện hành chỉ nêu mục tiêu đào tạo, chưa có
mục tiêu nghiên cứu và phục vụ cộng đồng là hai chức năng cơ bản của
khác của GDĐH. Hơn nữa Luật GDĐH cũng chưa khẳng định hướng đi của
GDĐH Việt Nam, và chưa thể hiện những quan tâm đào tạo phát triển con
người toàn điện với tinh thần khai phóng, hội nhập quốc tế nhưng vẫn có
bản sắc văn hóa tốt đẹp của Việt Nam;
c) Trình độ và hình thức đào tạo của GDĐH
Quy định pháp luật: Trình độ và hình thức đào tạo của GDĐH quy
định tại Điều 6 Luật GDĐH.
Tình hình thực hiện, đánh giá và khuyến nghị:
Để thực hiện các quy định của Nhà nước về trình độ và hình thức đào
tạo, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình, Đề án phát triển
GDĐH. Các Bộ, ngành đã ban hành văn bản quy định, hướng dẫn các cơ sở
GDĐH đào tạo theo các trình độ và hình thức của GDĐH theo hướng đảm
5


bảo chất lượng trên cơ sở chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế

xã hội của đất nước.
Do yếu tố khách quan, các chính sách Nhà nước về GDĐH trong thời
gian qua còn chưa tiến tới sự công nhận lẫn nhau về văn bằng, trình độ đào
tạo với các nước trong khu vực và trên thế giới; thiếu các trình độ chuyển
tiếp giữa các trình độ đào tạo từ đại học đến tiến sĩ để đào tạo các chương
trình chuyên nghiệp, các chương trình chuyên gia như thực tế ở Việt Nam
và ở một số nước trên thế giới (ví dụ: Nga, một số nước thuộc Liên Xô
cũ...); cơ cấu các trình độ đào tạo trong GDĐH cũng chưa tham khảo các
trình độ đào tạo của thực tế nhiều nước trên thế giới đã được tổng hợp và
công bố trong Tiêu chuẩn phân loại giáo dục quốc tế (The International
Standard Classification of Education 2011 - ISCED 2011) của Tổ chức
UNESCO.
Do vậy, để đảm bảo tính hội nhập quốc tế của GDĐH Việt Nam, Luật
GDĐH cần được sửa đổi, bổ sung về cơ cấu trình độ đào tạo.
d) Cơ sở GDĐH, Đại học quốc gia
Quy định pháp luật: Các loại hình cơ sở GDĐH và về Đại học quốc
gia được quy định tại Điều 7, 8 Luật GDĐH.
Tình hình thực hiện, đánh giá và khuyến nghị:
Quy định tại Điều 7 về loại hình cơ sở GDĐH đã tạo ra sự phân chia
hệ thống GDĐH thiếu logic, vì việc phân chia vừa căn cứ vào trình độ đào
tạo mà cơ sở GDĐH đảm nhiệm, vừa căn cứ vào mô hình tổ chức, vừa căn
cứ vào vị thế trong hệ thống (trường đại học, đại học, đại học quốc gia).
Bên cạnh đó, Luật GDĐH không có quy định để phân biệt sự khác nhau cơ
bản giữa các loại cơ sở GDĐH.
Trên thế giới, thông thường các cơ sở GDĐH được phân loại và có
tên gọi là “đại học”, “trường đại học” hoặc “học viện”, trong đó “đại học”
là tên gọi thường chỉ dành cho các cơ sở đào tạo đa lĩnh vực. Tuy nhiên,
theo quy định của Luật GDĐH, tên gọi “đại học” mới chỉ được đặt cho 5 cơ
sở, gồm 2 đại học quốc gia và 3 đại học vùng, trong khi nhiều cơ sở GDĐH
khác (như Trường Đại học Cần thơ, Trường Đại học Tây Nguyên, Trường

Đại học Đà Lạt…) mặc dù mang tính chất đa lĩnh vực rất rõ ràng nhưng lại
không được mang tên “đại học”. Bên cạnh đó, khi dịch ra tiếng Anh, phần
lớn các trường đại học ở Việt Nam đều tự nhận là University trong khi ở
nhiều nước, việc sử dụng tên gọi tiếng Anh khi giao dịch quốc tế
(University, College, Academy/Institute) thường thể hiện đẳng cấp hoặc nội
hàm hoạt động đào tạo của các cơ sở đó cũng như để phân biệt sứ mạng,
chức năng của từng cơ sở trong hệ thống GDĐH. Ở một số nước (ví dụ như
Hàn Quốc, Trung Quốc), tên gọi và việc dịch ra tiếng Anh tên gọi của các
cơ sở GDĐH được nhà nước phân loại và quản lý rất chặt chẽ để tránh hiểu
6


nhầm như trường hợp “đại học” - University trong “đại học” - University
của hệ thống các đại học (quốc gia và vùng) ở Việt Nam hiện nay.
Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung Luật GDĐH cần điều chỉnh cơ cấu của
hệ thống GDĐH, trong đó quy định cụ thể những tiêu chí cơ bản để phân
loại các cơ sở GDĐH. Điều này giúp thực hiện phân cấp quản lý rõ ràng,
phát huy tiềm năng, tính chủ động và sáng tạo của cơ sở GDĐH, đồng thời
tạo điều kiện để các cơ quan quản lý làm tốt ở tầm vĩ mô, tập trung vào
những vấn đề chiến lược trong môi trường hội nhập quốc tế cũng như hỗ trợ
các trường khi giao dịch, phát triển các quan hệ đối tác ở các mức độ tương
ứng với các cơ sở GDĐH của nước ngoài.
đ) Phân tầng, xếp hạng cơ sở GDĐH
Quy định pháp luật: Các quy định về phân tầng, xếp hạng cơ sở
GDĐH được quy định tại Điều 9 Luật GDĐH.
Tình hình thực hiện, đánh giá và khuyến nghị:
Quy định về phân tầng đại học trong Luật GDĐH và các văn bản
dưới Luật đến nay vẫn chưa triển khai được trong thực tiễn. Điều này do
các nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng chủ yếu do các quy định ở
khoản 3 Điều 9 không phù hợp với xu hướng quốc tế và khó thực hiện trong

thực tiễn cũng như gây lẫn lộn giữa khái niệm cao, thấp và phân loại các cơ
sở GDĐH theo chức năng, sứ mạng trong hệ thống.
Bên cạnh đó, quy định của Luật GDĐH coi xếp hạng như là một
công cụ quản lý nhà nước về giáo dục. Tuy nhiên, về bản chất, xếp hạng là
một công cụ để tạo động lực cạnh tranh giữa các trường giúp các trường tự
nâng cao chất lượng “dịch vụ giáo dục” để phục vụ tốt hơn cho “khách
hàng” - người học và cung cấp cho xã hội một kênh thông tin tham khảo.
Theo thực tế trên thế giới hiện nay, việc xếp hạng các trường đại học
thường do các tổ chức xã hội, nghề nghiệp thực hiện dựa trên cơ sở các tiêu
chuẩn, tiêu chí do nhà nước quy định. Quyết định để tập trung hay ưu tiên
đầu tư cho ngành/trường nào đó phải là sự kết hợp giữa nhiều chính sách
chứ không chỉ là ở kết quả xếp hạng. Không có nước nào trên thế giới đầu
tư cho trường đại học chỉ dựa trên tiêu chí xếp hạng.
Do vậy, cần điều chỉnh sửa đổi các quy định về phân tầng, về tiêu
chuẩn xếp hạng, vai trò, trách nhiệm của các đơn vị, tổ chức thực hiện xếp
hạng các cơ sở GDĐH đảm bảo thực hiện được trong thực tế và phù hợp
với xu thế thế giới.
e) Quy hoạch mạng lưới cơ sở GDĐH:
Quy định pháp luật: Định nghĩa, nguyên tắc, nội dung của quy hoạch
mạng lưới các cơ sở GDĐH được quy định tại Điều 11 Luật GDĐH.
Tình hình thực hiện, đánh giá và khuyến nghị:
7


Để thực hiện các quy định của Nhà nước về Quy hoạch mạng lưới
các cơ sở GDĐH, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt điều chỉnh quy hoạch
mạng lưới các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2006-2020. Các Bộ,
ngành đã ban hành văn bản quy định, hướng dẫn thực hiện việc rà soát, điều
chỉnh quy hoạch mạng lưới các trường. Tuy nhiên, việc thực hiện quy
hoạch mạng lưới các cơ sở GDĐH chưa thực sự hiệu quả bởi chưa có các

quy định cụ thể để phân loại các cơ sở GDĐH trong đào tạo các loại nhân
lực khác nhau, cụ thể như loại trường đào tạo nhân lực bậc cao để thúc đẩy
nghiên cứu, chuyển giao công nghệ; loại trường nào đào tạo nhân lực bậc
trung; loại trường đào tạo phục vụ nhu cầu nhân lực của toàn quốc gia; loại
trường nào đào tạo phục vụ nhu cầu nhân lực của các địa phương... Công
tác quy hoạch cũng chưa tạo được mối kết nối giữa trường đại học và viện
nghiên cứu để tập trung nguồn lực, chuyển giao kết quả nghiên cứu cho đào
tạo. Quy hoạch hệ thống đào tạo sư phạm cũng cần thay đổi tư duy, mô hình
để đầu tư đào tạo sư phạm hiệu quả và chất lượng phục vụ đổi mới chương
trình, sách giáo khoa phổ thông.
Do vậy, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định về quy hoạch
mạng lưới các cơ sở GDĐH để phát triển hệ thống GDĐH Việt Nam thực
hiện sứ mạng đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực với cơ cấu hợp lý theo
mỗi giai đoạn, thời kỳ khác nhau để phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Đồng thời cũng cần quy định về việc định kỳ rà soát mạng lưới cơ sở
GDĐH, nhằm đình chỉ các cơ sở thực hiện không đúng quy định của Luật,
hoặc hoạt động không có hiệu quả.
g) Chính sách của Nhà nước về phát triển GDĐH,
Quy định pháp luật: Các chính sách của Nhà nước về phát triển
GDĐH và quy định được quy định tại Điều 12 Luật GDĐH.
Tình hình thực hiện, đánh giá và khuyến nghị:
Các chính sách của Nhà nước về phát triển GDĐH còn mang tính
chung chung, thiếu cụ thể; ví dụ quy định “ưu tiên về đất đai, thuế, tín dụng,
đào tạo cán bộ để khuyến khích các cơ sở GDĐH tư thục và cơ sở GDĐH
có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động không vì lợi nhuận” nhưng thực tế hiện
nay với mỗi cơ quan chủ quản, với mỗi địa phương lại có chính sách ưu tiên
ở mức độ khác nhau làm cho Luật khó đi vào cuộc sống; hoặc như quy định
“Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có quyền và trách nhiệm tiếp nhận, tạo
điều kiện để người học, giảng viên thực hành, thực tập, nghiên cứu khoa
học” nhưng khi không có chế tài hay chính sách khuyến khích cụ thể thì

không có gì đảm bảo quy định này được thực hiện trong thực tế.
Bên cạnh đó, các chính sách này cũng chưa có tiêu chí rõ ràng để áp
dụng một cách minh bạch được cho các loại trường khác nhau, dẫn tới chưa
tạo được tính công bằng trong toàn hệ thống GDĐH.
8


Do vậy, cần nghiên cứu, sửa đổi bổ sung quy định về các chính sách
phát triển GDĐH phù hợp với từng loại trường, tạo điều kiện đầu tư bình
đẳng cho tất cả các loại hình cơ sở GDĐH, với các hình thức đầu tư phù
hợp. Nguyên tắc đầu tư dựa trên tính đa dạng hóa của GDĐH, cạnh tranh và
bình đẳng, dựa trên sản phẩm đầu ra.
2. Tổ chức cơ sở GDĐH
Các quy định tổ chức cơ sở GDĐH gồm 07 điều trong Luật GDĐH.
Cụ thể: Điều 14. Cơ cấu tổ chức của trường đại học, học viện; Điều 15. Cơ
cấu tổ chức của đại học; Điều 16. Hội đồng trường; Điều 17. Hội đồng quản
trị; Điều 18. Hội đồng đại học; Điều 19. Hội đồng khoa học và đào tạo;
Điều 20. Hiệu trưởng;
a) Cơ cấu tổ chức của trường đại học, học viện, đại học
Quy định pháp luật: Cơ cấu tổ chức của trường đại học, học viện, đại
học được quy định tại Điều 14, Điều 15 Luật GDĐH.
Tình hình thực hiện, đánh giá và khuyến nghị:
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Điều lệ trường đại học quy định
chi tiết về cơ cấu tổ chức của trường đại học, học viện, đại học; Bộ GDĐT
ban hành quy chế cho các đại học vùng. Tuy nhiên, các quy định hiện hành
về cơ cấu tổ chức của trường đại học lại được quy định theo tổ chức bộ máy
mà không quy định theo cấp quản lý hành chính trong trường dẫn tới chưa
có sự tường minh về cơ cấu tổ chức theo từng loại trường.
b) Hội đồng trường, Hội đồng quản trị, Hội đồng đại học, Hội đồng
khoa học và đào tạo, Hiệu trưởng

Quy định pháp luật: Các quy định về Hội đồng trường, Hội đồng
quản trị, Hội đồng đại học, Hội đồng khoa học và đào tạo, Hiệu trưởng
được quy định tại các Điều 16, 17, 18, 19, 20 của Luật GDĐH.
Tình hình thực hiện, đánh giá và khuyến nghị:
Vị trí, vai trò, chức năng, cơ chế hoạt động của Hội đồng trường, Hội
đồng quản trị, Hội đồng đại học, Hội đồng khoa học và đào tạo được Thủ
tướng Chính phủ quy định chi tiết tại Điều lệ trường đại học, và quy định
của Bộ GDĐT tại quy chế đại học quốc gia, đại học vùng.
Hội đồng trường, Hội đồng quản trị là một cơ chế để thực hiện trách
nhiệm cao nhất về chiến lược - định hướng phát triển và trách nhiệm giải
trình của trường. Khoản 2 Điều 16 quy định 02 chức năng của Hội đồng
trường là “tổ chức quản trị” và “đại diện quyền sở hữu của nhà trường”
nhưng Luật GDĐH chưa làm rõ được chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của
Hội đồng trường; và việc triển khai quy định về Hội đồng trường trong thực
tế chưa phân định rõ được chức năng, quyền hạn của Hội đồng trường với
Ban giám hiệu. Điều này làm cho Hội đồng trường không có thực quyền và
nhiều cơ sở GDĐH công lập không thành lập Hội đồng trường cũng không
9


bị chế tài gì, làm mất tính nghiêm minh của Luật pháp. Quy định “nhiệm kỳ
của Hội đồng trường …theo nhiệm kỳ của Hiệu trưởng” ngầm định rằng
Hiệu trưởng có quyền hạn cao hơn Hội đồng trường là không phù hợp.
Luật GDĐH ở nhiều nước trên thế giới xác định Hội đồng trường
như cơ quan lãnh đạo cao nhất của nhà trường và có trách nhiệm giải trình
trước Nhà nước và xã hội về kết quả hoạt động của trường. Quy mô và cơ
cấu thành phần của Hội đồng trường gồm những người trong hay ngoài nhà
trường tùy thuộc loại hình sở hữu của trường. Nếu Hội đồng trường của
trường công gồm nhiều thành viên là người ngoài trường, thì các thành viên
này không chỉ thuộc giới khoa học và giáo dục; mà gồm cả các thành viên

của các bên liên quan như cơ quan quản lý nhà nước, các nhà sử dụng lao
động, các doanh nghiệp, đại diện cha mẹ sinh viên, các chuyên gia về các
lĩnh vực liên quan như quản trị giáo dục, luật sư, tài chính, đại diện các tổ
chức xã hội liên quan... Nếu Hội đồng quản trị của trường ĐH tư thục thì
các thành viên thuộc Hội đồng quản trị được xác định theo cơ chế hoạt
động của các loại trường này. Nếu trường ĐH tư thục hoạt động theo cơ chế
không vì lợi nhuận thì Hội đồng quản trị cần bao gồm các thành phần đại
diện cho không chỉ các bên liên quan bên trong nhà trường mà có thể đại
diện cho cộng đồng xã hội. Nếu trường ĐH tư thục hoạt động theo cơ chế vì
lợi nhuận thì Hội đồng quản trị của trường ĐH tư thục có thể chỉ bao gồm
các thành viên góp vốn.
Hội đồng trường không can thiệp vào những việc cụ thể về quản lý vận hành nhà trường, mà tập trung chủ yếu vào xem xét và phê chuẩn định
hướng, chiến lược, kế hoạch phát triển của trường, giám sát các hoạt động
quản lý của Hiệu trưởng/Giám đốc theo quy định của luật pháp và theo quy
chế của trường để bảo đảm rằng nhà trường thực hiện được đúng các mục
tiêu đặt ra trong sứ mạng của mình. Hội đồng trường phải trung thành với
lợi ích công theo sứ mạng của một cơ sở giáo dục và sự hài hòa về lợi ích
và trách nhiệm giữa các chủ thể liên quan trên cơ sở coi lợi ích phát triển
chung của nhà trường như một tổng thể hữu cơ của tất cả các chủ thể liên
quan. Chính cơ chế Hội đồng trường như vậy mới gắn tự chủ của nhà
trường với trách nhiệm giải trình để không rơi vào tình trạng tự quyết – tự
chịu trách nhiệm một cách tùy tiện vô nguyên tắc.
Do vậy, vấn đề lớn và quan trọng trong sửa đổi, bổ sung Luật GDĐH
là cần quy định sao cho có sự phân định và chế định phù hợp vai trò, chức
năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm giữa Hội đồng trường và Hiệu
trưởng trong những điều kiện cụ thể, trình độ phát triển cụ thể, loại trường
cụ thể; đảm bảo một sự hài hòa, hiệu lực và hiệu quả trong hoạt động của
nhà trường, tránh để xảy ra những mâu thuẫn và “xung đột” giữa Hội đồng
trường và Ban giám hiệu.
10



Một trong những giải pháp mà nhiều quốc gia thực hiện là trao cho
Hội đồng trường quyền tuyển chọn hay bãi miễn hiệu trưởng của trường. Ở
Việt Nam, trong Luật GDĐH và trong Điều lệ trường đại học do Thủ tướng
Chính phủ ban hành, Hội đồng trường không có quyền hạn trong việc bổ
nhiệm hay miễn nhiệm Hiệu trưởng; và đây là điều cần được nghiên cứu kỹ
để sửa đổi, bổ sung các quy định về Hội đồng trường trong Luật GDĐH.
Về quy định đối với Hội đồng quản trị, khoản 3 Điều 17 chưa làm rõ
vai trò, nhiệm vụ của đại diện cơ quan quản lý địa phương tham gia làm
thành viên Hội đồng quản trị, còn hình thức, thiếu tính thực tế đối với các
tỉnh thành phố có nhiều trường tư thục như Hà Nội và Thành phố Hồ Chí
Minh.
c) Thành lập, giải thể, sát nhập, chia, tách cơ sở GDĐH
Quy định pháp luật: Các quy định về phân hiệu, điều kiện thành lập
hoặc cho phép thành lập cơ sở GDĐH, điều kiện để được phép hoạt động
đào tạo, sát nhập, chia, tách cơ sở GDĐH, đình chỉ hoạt động của cơ sở
GDĐH, giải thể cơ sở GDĐH được quy định tại các Điều 22, 23, 23, 25, 26,
27 Luật GDĐH.
Tình hình thực hiện, đánh giá và khuyến nghị:
Các quy định về thủ tục và thẩm quyền thành lập hoặc cho phép
thành lập, chưa làm rõ những điều kiện tối thiểu phải có gắn với những cam
kết mang tính pháp lý để có được quyết định thành lập cơ sở GDĐH và
quyết định cho phép hoạt động GDĐH, cũng như các chế tài nếu vi phạm
hoặc đình chỉ hoạt động hay giải thể trường nhằm ngăn ngừa những hoạt
động kinh doanh trá hình GDĐH và làm tổn thương đến người học và cộng
đồng.
3. Nhiệm vụ và quyền hạn của cơ sở GDĐH
Quy định pháp luật: Nhiệm vụ và quyền hạn của cơ sở GDĐH gồm 5
điều, được quy định tại Điều 28, 29, 30, 31, 32 của Luật GDĐH. Cụ thể:

Điều 28. Nhiệm vụ và quyền hạn của trường cao đẳng, trường đại học, học
viện; Điều 29. Nhiệm vụ và quyền hạn của đại học; Điều 30. Nhiệm vụ và
quyền hạn của viện nghiên cứu khoa học được phép đào tạo trình độ tiến sĩ;
Điều 31. Nhiệm vụ và quyền hạn của cơ sở GDĐH có vốn đầu tư nước
ngoài; Điều 32. Quyền tự chủ của cơ sở GDĐH
Tình hình thực hiện, đánh giá và khuyến nghị:
Tại Điều 32 Luật GDĐH quy định, trường đại học được tự chủ trên 6
lĩnh vực tổ chức và nhân sự, tài chính và tài sản, đào tạo, khoa học và công
nghệ, hợp tác quốc tế, bảo đảm chất lượng GDĐH. Tuy nhiên, cho đến nay,
hai lĩnh vực quyết định quan trọng nhất trong hoạt động của trường đại học
phần lớn vẫn do cơ quan chủ quản quyết định, đó là tài chính và nhân sự.
Ngoài ra, Điều 32 cũng quy định: “1. Cơ sở GDĐH tự chủ trong các
11


hoạt động chủ yếu thuộc các lĩnh vực tổ chức và nhân sự, tài chính và tài
sản, đào tạo, khoa học và công nghệ, hợp tác quốc tế, bảo đảm chất lượng
GDĐH. Cơ sở GDĐH thực hiện quyền tự chủ ở mức độ cao hơn phù hợp
với năng lực, kết quả xếp hạng và kết quả kiểm định chất lượng giáo dục. 2.
Cơ sở GDĐH không còn đủ năng lực thực hiện quyền tự chủ hoặc vi phạm
pháp luật trong quá trình thực hiện quyền tự chủ, tùy thuộc mức độ, bị xử lý
theo quy định của pháp luật”. Như vậy, Luật GDĐH có quy định mức độ tự
chủ khác nhau giữa các cơ sở GDĐH nhưng còn chung chung và chưa có
chế tài “thu hồi quyền tự chủ”.
Các quy định về quyền tự chủ của cơ sở GDĐH được Thủ tướng
Chính phủ quy định chi tiết tại Điều lệ trường đại học. Tuy nhiên, quyền tự
chủ của các cơ sở GDĐH bị giới hạn rất nhiều bởi các luật khác. Ngoài ra,
khi cơ sở GDĐH được trao thẩm quyền và mức tự chủ lớn, thì cơ chế và
chủ thể kiểm soát “thực thi quyền lực” và giám sát kết quả về chất lượng
hoạt động của trường cũng chưa được quy định.

Như vậy, các quy định của Luật GDĐH vẫn chưa thực sự hỗ trợ thực
hiện tự chủ một cách toàn diện với mục tiêu phát huy hết khả năng chủ
động, sáng tạo, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ sở GDĐH, bảo đảm
thực hiện tốt sứ mệnh và mục tiêu nâng cao chất lượng đào tạo trong bối
cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới.
Do tính chất đặc thù của hệ thống GDĐH, cơ chế đó chính là đổi mới
quản lý nhà nước và sự tham gia giám sát của xã hội, gắn với chế định rõ
trách nhiệm giải trình của các cơ sở GDĐH. Khi đó trách nhiệm giải trình là
một chế định pháp lý quan trọng để kiểm soát thực thi quyền lực và giám
sát hoạt động của các cơ sở GDĐH. Do vậy, các quy định của Luật cần
được sửa đổi, bổ sung để kiến tạo một môi trường giáo dục đào tạo minh
bạch, công khai, trong đó cơ sở GDĐH phát huy được vai trò tự quyết của
mình, nhưng đồng thời phải chịu trách nhiệm giải trình trước xã hội, người
học và các bên có liên quan.
4. Hoạt động đào tạo
Quy định pháp luật: Các quy định về hoạt động đào tạo gồm 6 điều,
được quy định tại các Điều 33, 34, 35, 36, 37, 38 Luật GDĐH. Cụ thể: Điều
33. Mở ngành, chuyên ngành đào tạo; Điều 34. Chỉ tiêu tuyển sinh và tổ
chức tuyển sinh; Điều 35. Thời gian đào tạo; Điều 36. Chương trình, giáo
trình GDĐH; Điều 37. Tổ chức và quản lý đào tạo; Điều 38. Văn bằng
GDĐH.
Tình hình thực hiện, đánh giá và khuyến nghị:
Trên cơ sở quy định của Luật, việc triển khai các hoạt động đào tạo
trong thực tế còn nhiều bất cập, tồn tại, đó là:
12


- Chương trình đào tạo đại học còn nặng về lý thuyết, nhẹ về thực
hành, thiếu kỹ năng, xa rời thực tiễn khiến sinh viên không hứng thú học
tập, sinh viên ra trường khó tìm kiếm việc làm.

- Chưa tạo được sự liên thông giữa các chuẩn mực đào tạo trong
nước và quốc tế từ đó gây khó khăn cho liên thông với các chương trình
đào tạo ở nước ngoài hoặc việc công nhận văn bằng của Việt Nam ở các
nước khác trong khu vực và trên thế giới.
- Các trường xây dựng và công bố chuẩn đầu ra của chương trình đào
tạo nhưng vẫn mang tính hình thức, chưa chú trọng chuẩn ngoại ngữ ngang
với yêu cầu của các trường đại học trong khu vực; chưa có sự gắn kết chặt
chẽ với đơn vị sử dụng lao động; thực hiện sàng lọc mạnh để đảm bảo chất
lượng đào tạo.
Theo quy định của Luật GDĐH, chương trình đào tạo theo hình thức
giáo dục thường xuyên có nội dung như chương trình đào tạo theo hình
thức giáo dục chính quy đã gây ra nhiều bất cập trong tổ chức và hoạt động
đào tạo khi liên kết đào tạo với các cơ sở giáo dục là các trường trung cấp
chuyên nghiệp, trung tâm giáo dục thường xuyên cấp tỉnh. Chương trình
đào tạo đại học hệ chính quy có các học phần giáo dục thể chất và giáo dục
quốc phòng yêu cầu phải có đủ điều kiện về cơ sở vật chất, sân bãi trong
khi các Trung tâm giáo dục thường xuyên cấp tỉnh, trường trung cấp chuyên
nghiệp không đủ điều kiện để giảng dạy các học phần này. Tương tự như
vậy, quy định này cũng không phù hợp với hình thức đào tạo từ xa.
Việc tổ chức và quản lý đào tạo vẫn được thực hiện theo cả niên chế
và tín chỉ nên chất lượng đào tạo chưa có sự đồng bộ giữa các loại hình và
phương thức tổ chức đào tạo khác nhau. Quá trình quá độ chuyển đổi từ đào
tạo theo niên chế sang học chế tín chỉ đã gần 10 năm. Đào tạo theo tín chỉ
có thể cho phép người học rút ngắn thời gian học tập, cho phép chính quy
hóa (về chất lượng) đào tạo vừa làm vừa học, từ xa; cho phép đào tạo liên
thông, liên kết trong và ngoài nước. Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung Luật
GDĐH cần chính thức luật hóa đào tạo theo tín chỉ.
Trong thời gian qua, các quy định liên quan đến hoạt động đào tạo
của cơ sở GDĐH được thực hiện theo các quy chế về tuyển sinh, tổ chức
đào tạo; quy định về điều kiện, tiêu chuẩn mở ngành đào tạo; quy định về

phát triển chương trình đào tạo; quy định về cấp, phát văn bằng GDĐH.
Tuy nhiên, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 77 cho phép 23 cơ sở GDĐH
được thí điểm đổi mới cơ chế quản lý, nên nhiều quy định về hoạt động đào
tạo không còn phù hợp với cơ chế tự chủ GDĐH.
Trong thời gian tới, phần lớn các cơ sở GDĐH phải thực hiện tự chủ
đại học, việc mở ngành đào tạo cần giao cho các cơ sở GDĐH được tự chủ
trên cơ sở đáp ứng các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo do Bộ GDĐT
13


quy định và đảm bảo cơ cấu nguồn nhân lực của quốc gia. Theo đó, Bộ
GDĐT cần có chế tài mạnh đối với các cơ sở GDĐH bị phát hiện vi phạm
quy định của pháp luật. Tuy nhiên, quy định của Luật chưa đảm bảo đầy đủ
công cụ quản lý Nhà nước về hoạt động đào tạo.
Ngoài ra, các quy định về chuẩn chất lượng và các quy định về công
khai, minh bạch thông tin về các điều kiện đảm bảo chất lượng và chất
lượng đào tạo còn hạn chế và chưa là cơ sở để các cơ sở GDĐH thực hiện
tự chủ, cơ quan có thẩm quyền quản lý và người học giám sát chất lượng
đào tạo.
Do vậy, các quy định về hoạt động đào tạo cần được nghiên cứu sửa
đổi, bổ sung, trong đó, Nhà nước thực hiện vai trò hỗ trợ, giám sát; các cơ
sở GDĐH được tự chủ thực hiện các hoạt động đào tạo trên cơ sở các chuẩn
mực do Nhà nước quy định để đảm bảo sự thống nhất chung trong toàn
không gian GDĐH của quốc gia.
5. Hoạt động khoa học và công nghệ
Các quy định về hoạt động khoa học và công nghệ gồm 4 điều, được
quy định tại các Điều 39, 40, 41, 42 Luật GDĐH. Cụ thể: Điều 39. Mục tiêu
hoạt động khoa học và công nghệ; Điều 40. Nội dung hoạt động khoa học
và công nghệ; Điều 41. Nhiệm vụ và quyền hạn của cơ sở GDĐH trong
hoạt động khoa học và công nghệ; Điều 42. Trách nhiệm của Nhà nước về

phát triển khoa học và công nghệ.
Tình hình thực hiện, đánh giá và khuyến nghị:
Các quy định về nghiên cứu khoa học trong Luật mang tính chung
chung. Quy định về chuẩn giờ nghiên cứu khoa học như các quy định hiện
nay được hiểu nghiên cứu khoa học là nghĩa vụ của giảng viên, mà không
phải là quyền để khuyến khích và thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học.
Bên cạnh đó, việc triển khai hoạt động khoa học công nghệ chưa đem
lại nguồn thu đáng kể cho các cơ sở GDĐH, việc chuyển giao công nghệ
chủ yếu mới dừng lại ở các giải pháp công nghệ, chưa khuyến khích hình
thành các tổ chức khoa học công nghệ và doanh nghiệp để chuyển giao
khoa học công nghệ…
Quy định của Luật GDĐH chưa tạo động lực cho các cơ sở GDĐH
tăng cường khả năng tiếp cận, truy cập các website về thông tin nghiên cứu
khoa học trong và ngoài nước.
Do đó, sửa đổi, bổ sung Luật GDĐH cần có quy định cụ thể, quan
tâm, khuyến khích, đầu tư phát triển khoa học và công nghệ; cũng như cần
làm rõ mục tiêu, trách nhiệm và quyền tự chủ của các cơ sở GDĐH trong
hoạt động khoa học công nghệ.

14


6. Hoạt động hợp tác quốc tế
Quy định pháp luật: Các quy định về hoạt động hợp tác quốc tế gồm
6 điều, được quy định tại các Điều 43, 44, 45, 46, 47, 48 Luật GDĐH. Cụ
thể: Điều 43. Mục tiêu hoạt động hợp tác quốc tế; Điều 44. Các hình thức
hợp tác quốc tế của cơ sở GDĐH; Điều 45. Liên kết đào tạo với nước
ngoài; Điều 46. Văn phòng đại diện; Điều 47. Nhiệm vụ và quyền hạn của
cơ sở GDĐH trong hoạt động hợp tác quốc tế; Điều 48. Trách nhiệm của
Nhà nước về hợp tác quốc tế.

Tình hình thực hiện, đánh giá và khuyến nghị:
Các quy định liên quan đến hoạt động hợp tác quốc tế được quy định
tại Luật GDĐH và các quy định của Chính phủ, trong đó đặc biệt là Luật
đầu tư. Khi Luật đầu tư thay đổi thì các quy định về hình thức đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam trong lĩnh vực GDĐH cũng phải thay đổi. Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật GDĐH phải điều chỉnh các quy định giúp cho
GDĐH Việt Nam hội nhập quốc tế cũng như tăng các nguồn vốn từ nước
ngoài cho GDĐH.
7. Đảm bảo chất lượng và kiểm định chất lượng GDĐH
Quy định pháp luật: Các quy định về đảm bảo chất lượng và kiểm
định chất lượng GDĐH gồm 5 điều, được quy định tại các Điều 49, 50, 51,
52, 53. Cụ thể: Điều 49. Mục tiêu, nguyên tắc và đối tượng kiểm định chất
lượng GDĐH; Điều 50. Trách nhiệm của cơ sở GDĐH trong việc đảm bảo
chất lượng GDĐH; Điều 51. Nhiệm vụ và quyền hạn của cơ sở GDĐH về
kiểm định chất lượng GDĐH; Điều 52. Tổ chức kiểm định chất lượng giáo
dục; Điều 53. Sử dụng kết quả kiểm định chất lượng GDĐH.
Tình hình thực hiện, đánh giá và khuyến nghị:
Quy định của Luật về “đảm bảo chất lượng và kiểm định chất lượng
GDĐH” cho thấy chưa cụ thể, đồng thời nhiều nội dung thiết yếu để tiến
hành hoạt động kiểm định chất lượng lại chưa được quy định. Cụ thể như
thẩm quyền thành lập tổ chức kiểm định chất lượng đào tạo, điều kiện hoạt
động của tổ chức kiểm định chất lượng đào tạo, quyền và nghĩa vụ của tổ
chức kiểm định chất lượng đào tạo, xử lý kết quả kiểm định chất lượng đào
tạo, thừa nhận kết quả kiểm định chất lượng đào tạo, hay giải quyết tranh
chấp về kết quả kiểm định chất lượng đào tạo, xử lý vi phạm pháp luật về
kiểm định chất lượng đào tạo… Thực tiễn triển khai các quy định này cho
thấy, hoạt động kiểm định mặc dù mang lại một số kết quả nhất định nhưng
nhiều nơi vẫn mang tính hình thức. Các nội dung trong kiểm định chất
lượng đại học vẫn còn mang tính liệt kê mà chưa đi vào thực chất của chất
lượng đào tạo. Nội dung kiểm định mới dừng lại ở bề ngoài, ở việc liệt kê

các công việc, các thứ cần có mà chưa đi vào bên trong, vào hiệu quả của
việc quản lý đào tạo đã mang lại gì cho người học. Kết quả kiểm định chất
15


lượng đại học chưa được sử dụng một cách hiệu quả dẫn đến việc làm chiếu
lệ, làm cho xong, làm cho có đối với một số trường hoặc việc chạy đua
thành tích của một số trường khác.
Trong bối cảnh các cơ sở GDĐH thực hiện tự chủ về tuyển sinh, tự
chủ về chương trình, tổ chức và quản lý đào tạo, in và cấp phát văn bằng thì
việc quy định cụ thể về kiểm định chất lượng là vấn đề hết sức quan trọng
để đảm bảo chất lượng GDĐH. Do đó, tăng cường hoạt động kiểm định
chất lượng GDĐH cần đi vào thực chất. Cần có quy định về hậu quả pháp
lý của việc không thực hiện kiểm định hoặc kiểm định không đúng chất
lượng.
Do vậy, các quy định của Luật liên quan đến kiểm định chất lượng
cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng hoàn thiện hệ thống kiểm định chất
lượng GDĐH của Việt Nam. Tổ chức kiểm định chất lượng phải là tổ chức
độc lập; tiêu chuẩn và quy trình đánh giá tổ chức kiểm định chất lượng giáo
dục nhằm đảm bảo tính thống nhất, xác định rõ về năng lực để đảm bảo
đồng đều về kết quả đánh giá, kiểm định giữa các trung tâm kiểm định chất
lượng. Đây cũng là kênh thông tin để phục vụ công tác quản lý, điều hành
của cơ quan quản lý nhà nước và còn để thực hiện trách nhiệm giải trình với
xã hội về năng lực cũng như kết quả đánh giá của trung tâm.
Bên cạnh đó, các nội dung sửa đổi, bổ sung cần được làm rõ thẩm
quyền, vai trò, trách nhiệm của các chủ thể đối với việc quy định điều kiện,
thủ tục thành lập, cho phép hoạt động, giải thể tổ chức kiểm định chất lượng
giáo dục; quy định điều kiện và thủ tục để tổ chức kiểm định chất lượng
giáo dục nước ngoài được công nhận hoạt động ở Việt Nam. Bộ GDĐT quy
định nguyên tắc hoạt động, cơ cấu tổ chức, trách nhiệm và quyền hạn của tổ

chức kiểm định chất lượng giáo dục; quyết định thành lập hoặc cho phép
thành lập tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục; quyết định cho phép hoạt
động, đình chỉ hoạt động, giải thể tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục;
quyết định công nhận, thu hồi quyết định công nhận tổ chức kiểm định chất
lượng giáo dục nước ngoài hoạt động ở Việt Nam; tiêu chuẩn và quy trình
đánh giá tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục; cũng như quy định về
mạng lưới tổ chức kiểm định chất lượng GDĐH.
8. Giảng viên
Quy định pháp luật: Các quy định về giảng viên gồm 05 điều, được
quy định tại các Điều 54, 55, 56, 57, 58 Luật GDĐH. Cụ thể là: Điều 54.
Giảng viên; Điều 55. Nhiệm vụ và quyền của giảng viên; Điều 56. Chính
sách đối với giảng viên; Điều 57. Giảng viên thỉnh giảng và báo cáo viên;
Điều 58. Các hành vi giảng viên không được làm.
Tình hình thực hiện, đánh giá và khuyến nghị:
16


Theo các quy định hiện hành, giảng viên được hưởng tiền lương, phụ
cấp ưu đãi theo nghề, phụ cấp thâm niên và các phụ cấp khác theo quy định
của Chính phủ. Việc bổ nhiệm, quyết định hưu, nâng bậc lương thường
xuyên, trước hạn đối với chức danh giảng viên cao cấp; tổ chức thi thăng
hạng chức danh nghề nghiệp từ hạng III lên hạng II, được thực hiện theo
mô hình của nền kinh tế kế hoạch hóa, không phù hợp với các cơ sở GDĐH
thực hiện tự chủ. Quy định này cũng không phù hợp khi mà yêu cầu nâng
cao chất lượng đào tạo càng cao, năng lực và uy tín trường đại học gắn liền
với năng lực và uy tín của người dạy đòi hỏi người giảng viên được trả
công xứng đáng với những gì họ đã cống hiến.
Lao động của giảng viên thuộc loại lao động đặc thù, chất lượng cao
với nhiều yêu cầu về trình độ chuyên môn, kỹ năng sư phạm, đạo đức nghề
nghiệp… đòi hỏi mỗi giảng viên phải đầu tư nhiều cả về thời gian và tài

chính. Vì vậy, cần có có chế, chính sách đãi ngộ đối với nhà giáo cho tương
xứng. Tự chủ giáo dục, đào tạo cần phải đi liền với tự chủ trong quy chế trả
lương và các chế độ đối với giảng viên. Những giảng viên có nhiều thành
tích trong hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học nhiều cũng cần có chính
sách khen thưởng để khuyến khích.
Đối với một số cơ sở GDĐH thực hiện các chương trình liên kết nước
ngoài, thường xuyên có các giảng viên, chuyên gia nước ngoài đến nghiên
cứu, giảng dạy, trao đổi học thuật. Với trình độ chuyên môn và kinh nghiệm
sẵn có, đội ngũ này có những đóng góp rất quan trọng trong quá trình phát
triển của cơ sở GDĐH theo xu thế hội nhập quốc tế ở mọi lĩnh vực hoạt
động. Tuy nhiên, quy định của Luật cũng chưa đề cập tới các cơ chế, chính
sách thu hút, sử dụng đội ngũ giảng viên này. Bên cạnh đó, các quy định
của Luật GDĐH cũng chưa có những chính sách đãi ngộ, ưu đãi đối với
những cán bộ giảng viên có những đóng góp thiết thực trong sự nghiệp
GDĐH.
Các quy định liên quan về giảng viên cũng chưa có sự thống nhất
chức danh phù hợp với Luật viên chức, Thông tư liên tịch số
36/2014/TTLT-BGDĐT-BNV của Bộ GDĐT và Bộ Nội vụ, quy định mã số
và tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức giảng dạy trong các cơ sở
GDĐH công lập. Đối với các quy định này, giảng viên trong các cơ sở
GDĐH tư thục chưa bắt buộc phải áp dụng. Quy định tại Điều 8 Thông tư
số 36/2014/TTLT-BGDĐT-BNV chỉ ghi “các cơ sở GDĐH ngoài công lập
có thể vận dụng quy định tại Thông tư liên tịch này để tuyển dụng, sử dụng
và quản lý đội ngũ giảng viên tại cơ sở”. Theo đó, giảng viên các cơ sở
GDĐH ngoài công lập khi có nhu cầu hoặc muốn thi lên ngạch thì không
biết làm như thế nào để đạt và được bổ nhiệm các chức danh giảng viên như
quy định của Luật GDĐH. Cùng với đó, quy định tại Nghị định số
17



73/2015/NĐ-CP quy định tiêu chuẩn cơ sở GDĐH định hướng nghiên cứu
có ít nhất 80% giảng viên, nghiên cứu viên cơ hữu tham gia nghiên cứu
khoa học… Tuy nhiên, quy định của Luật GDĐH không quy định chức
danh nghiên cứu viên trong các cơ sở GDĐH.
Ngoài ra, quy định của Luật chưa có quy định và phương pháp cụ thể
về việc đánh giá chất lượng cán bộ giảng viên định kỳ nhằm nâng cao chất
lượng GDĐH. Do vậy, sửa đổi, bổ sung Luật GDĐH cần có quy định để
kiểm soát chặt chẽ chất lượng cán bộ quản lý GDĐH, giảng viên từ khâu
tuyển dụng… Theo đó, cần quy định các tiêu chuẩn đối với cán bộ quản lý
GDĐH và giảng viên để các cơ sở GDĐH làm căn cứ xây dựng các chính
sách tuyển dụng, sử dụng, đề bạt… cùng với quy định đảm bảo quyền lợi
của giảng viên để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý GDĐH,
giảng viên.
Việc sửa đổi, bổ sung Luật GDĐH cần trao các quyền về đề bạt, thăng
hạng, bổ nhiệm các chức danh khoa học đối với giảng viên cho các cơ sở
GDĐH, các cơ quan quản lý có thẩm quyền thực hiện hậu kiểm và ra chế tài
đối với những cơ sở GDĐH vi phạm quy định pháp luật.
Ngoài ra, kinh nghiệm thế giới cho thấy có sự liên hệ chặt chẽ giữa kết
quả nghiên cứu khoa học tại trường với sự ra đời của các công ty khởi
nghiệp (start-up) nên sửa đổi, bổ sung Luật GDĐH có thể cho phép giảng
viên các cơ sở GDĐH có thể tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp hay
tổ chức nghiên cứu khoa học tư để ứng dụng, hiện thực hóa các kết quả
nghiên cứu.
9. Người học
Quy định pháp luật: Các quy định về người học gồm 5 điều, được
quy định tại các Điều 59, 60, 61, 62, 63. Cụ thể: Điều 59. Người học; Điều
60. Nhiệm vụ và quyền của người học; Điều 61. Các hành vi người học
không được làm; Điều 62. Chính sách đối với người học; Điều 63. Nghĩa vụ
làm việc có thời hạn theo sự điều động của Nhà nước
Tình hình thực hiện, đánh giá và khuyến nghị:

Trong quá trình thực hiện, triển khai Luật, Chính phủ và các Bộ,
Ngành đã cụ thể hóa bằng nhiều văn bản, chính sách cụ thể. Công tác quản
lý người học được Bộ quy định bằng các quy chế, quy định (Thông tư 16/
2015/TT-BGDĐT ban hành Quy chế đánh giá kết quả rèn luyện của người
học được đào tạo trình độ đại học hệ chính quy, Thông tư số 10/2016/TTBGDĐT ban hành Quy chế công tác sinh viên đối với chương trình đào tạo
đại học hệ chính quy).
Thực hiện chính sách miễn giảm học phí cho người học đã được triển
khai, thực hiện theo Nghị định số 74/2013/NĐ-CP và sau đó được thay thế
bằng Nghị định số 86/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định về cơ chế
18


thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc
dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập từ năm học
2015 - 2016 đến năm học 2020 – 2021; chính sách hỗ trợ chi phí học tập
đối với sinh viên là người dân tộc thiểu số học tại các cơ sở GDĐH theo
Quyết định số 66/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; chính sách tín
dụng đào tạo được tiếp tục triển khai có hiệu quả theo Quyết định
157/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Tín dụng đối với học sinh,
sinh viên.
Tuy nhiên, trong thời gian tới các quy định liên quan tới người học
cần rõ ràng về chính sách hỗ trợ sinh viên (thuộc diện chính sách, không
thuộc diện chính sách…). Các quy định về tín dụng đối với học sinh, sinh
viên cần nghiên cứu mở rộng thêm về đối tượng và điều chỉnh mức vay cho
phù hợp thực tiễn để các sinh viên có thể tiếp cận các nguồn vốn tín dụng
ưu đãi, đặc biệt là đối với sinh viên các trường tự chủ. Cần có cơ chế
khuyến khích các Ngân hàng thương mại tham gia các chương trình tín
dụng hỗ trợ sinh viên.
Cần có qui định các cơ sở GDĐH có trách nhiệm thường xuyên tổ
chức các hoạt động giáo dục chính trị tư tưởng, lý tưởng cách mạng, đạo

đức, lối sống văn hóa, khởi nghiệp, văn hóa, thể dục, thể thao và ý thức tôn
trọng pháp luật, trách nhiệm công dân cho sinh viên thiết thực, hiệu quả
hơn.
Theo quy định tại Điều 62, người học là sinh viên sư phạm, người
học theo các khóa đào tạo nghiệp vụ sư phạm, người học các ngành chuyên
môn đặc thù đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong cơ sở GDĐH
không phải đóng học phí. Thực tiễn triển khai chính sách này cho thấy một
số bất cập như:
- Sinh viên sư phạm, sinh viên một số ngành chuyên môn đặc thù
không phải đóng học phí trong quá trình đào tạo nhưng khi tốt nghiệp, nhà
nước không sắp xếp được việc làm cho một bộ phận hay tất cả sinh viên
cũng như nhiều sinh viên không kiếm được việc làm đúng ngành được đào
tạo. Điều này gây lãng phí về nguồn lực ngân sách nhà nước (nhà nước bảo
đảm kinh phí đào tạo nhưng không được sử dụng kết quả đào tạo), lãng phí
nguồn lực xã hội (sinh viên được đào tạo ngành sư phạm, ngành chuyên
môn đặc thù nhưng không làm việc đúng chuyên môn được đào tạo)
- Không thực hiện được quy định tại Điều 63 Luật GDĐH về việc
những người học này “sau khi tốt nghiệp phải chấp hành sự điều động làm
việc của nhà nước trong thời gian ít nhất là gấp đôi thời gian được hưởng
học bổng và chi phí đào tạo…”
- Sinh viên không học ngành sư phạm nhưng được tuyển dụng làm
giáo viên, giảng viên không được hưởng chính sách miễn học phí; sinh viên
19


không học các chuyên ngành đặc thù nhưng làm việc trong các chuyên
ngành đặc thù cũng không được hưởng chính sách ưu đãi về học phí; trong
khi đó những sinh viên được hưởng ưu đãi học phí nhưng sau khi ra trường
không làm việc trong lĩnh vực được đào tạo với chính sách ưu đãi về học
phí

Do đó, để phù hợp với thực tiễn triển khai, quy định này trong Luật
GDĐH cần được xem xét thay đổi để đảm bảo hiệu quả và bình đẳng giữa
sinh viên theo học các chuyên ngành đào tạo trong quá trình học tập.
10. Tài chính, tài sản của cơ sở GDĐH
Các quy định về tài chính, tài sản của cơ sở GDĐH gồm 4 điều, được
quy định tại các Điều 64, 65, 66, 67. Cụ thể: Điều 64. Nguồn tài chính của
cơ sở GDĐH; Điều 65. Học phí; Điều 66. Quản lý tài chính của cơ sở
GDĐH; Điều 67. Quản lý và sử dụng tài sản của cơ sở GDĐH.
Tình hình thực hiện, đánh giá và khuyến nghị:
Việc cấp ngân sách của Nhà nước được quy định ở Điều 64 của Luật
GDĐH: “Các nguồn tài chính của cơ sở GDĐH bao gồm: Ngân sách Nhà
nước (nếu có)…”. Với quy định như vậy, trong bối cảnh các cơ sở GDĐH
có cơ quan chủ quản khác nhau thì vấn đề ngân sách cấp cho các cơ sở
GDĐH khó có sự thống nhất chung, dẫn tới sự mất công bằng giữa các
trường và giữa người học ở các trường khác nhau, trong khi Điều 16 Hiến
pháp nước ta đã ghi rõ “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật” và
“Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn
hóa, xã hội”. Cũng vì lý do đó, sinh viên ở các trường ngoài công lập không
được hưởng sự ưu đãi gián tiếp của Nhà nước, mà họ còn phải đóng nhiều
khoản thuế, như thuế ở ký túc xá, thuế ăn uống, thuế gửi xe trong trường
vv… thậm chí có thể cả tiền thuê đất của Nhà nước để xây dựng trường.
Điều này cho thấy nguyên tắc và cơ chế cấp kinh phí từ ngân sách và
các hỗ trợ của Nhà nước cho người học và cho các cơ sở GDĐH hiện nay là
chưa rõ ràng, chưa cho thấy rõ sự công bằng giữa những người học ở các cơ
sở GDĐH khác nhau. Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung Luật GDĐH cần:
- Làm rõ nguyên tắc và cơ chế cấp kinh phí từ ngân sách và các hỗ
trợ khác cho các cơ sở GDĐH; đảm bảo sự minh bạch, bình đẳng, tương
xứng giữa quyền lợi và trách nhiệm giữa các cơ sở GDĐH trong cả nước.
Có thể sử dụng cơ chế hợp đồng đặt hàng đào tạo với các trường ở một số
ngành mà Nhà nước cần khuyến khích, trong đó quy định rõ về quyền lợi

và trách nhiệm của hai bên. Việc chọn lựa các trường để đặt hàng phải công
khai trên cơ sở mức độ đạt được các tiêu chí về năng lực và chất lượng đào
tạo của các trường, không phân biệt công lập hay ngoài công lập.
- Cụ thể hóa các chính sách quản lý và ưu đãi của Nhà nước đối với
các trường đại học tư thục không vì lợi nhuận. Để thể hiện mạnh mẽ chủ
20


trương của Nhà nước trong việc khuyến khích các trường hoạt động không
vì lợi nhuận phát triển, Luật cần quy định rõ ràng, khác biệt đáng kể giữa
trường hoạt động vì lợi nhuận và không vì lợi nhuận về tiêu chí công nhận,
về trách nhiệm và quyền lợi của mỗi mô hình hoạt động. Trường vì lợi
nhuận có thể coi như một doanh nghiệp tư nhân, còn trường không vì lợi
nhuận có thể như là một doanh nghiệp công ích của xã hội.
Bên cạnh đó, các quy định về tài chính, tài sản đã trở lên không phù
hợp với chủ trương thực hiện tự chủ đại học. Mức học phí chưa chưa được
tính theo cơ chế định giá dịch vụ phù hợp với chi phí đào tạo thực tế của
các nhóm ngành, các loại hình đào tạo và bậc đào tạo. Bên cạnh đó, Luật
chưa có quy định về huy động vốn từ các tổ chức tín dụng và các tổ chức,
cá nhân khác đầu tư cho GDĐH theo khả năng, nhu cầu của các cơ sở
GDĐH. Cơ chế phân bổ ngân sách cho cơ sở GDĐH còn mang tính bình
quân giữa các trường đại học công lập, chưa gắn với tiêu chí phản ánh chất
lượng và kết quả đầu ra nên chưa phát huy được tính cạnh tranh giữa các
trường đại học. Sự kiểm soát và lệ thuộc về nguồn tài chính cũng là một
trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến khó khăn trong việc sử dụng hiệu
quả nguồn tài chính được cấp. Tiêu chí để cấp kinh phí căn cứ vào quy mô,
số lượng sinh viên đầu vào của trường dẫn đến thiếu tính linh hoạt của các
trường khi triển khai thực hiện, đặc biệt là trong trường hợp quy mô sinh
viên tăng nhanh hơn so với sự gia tăng số lượng giảng viên làm ảnh hưởng
đến chất lượng đào tạo.

Các quy định về tài chính, tài sản như vậy cũng chưa giúp các cơ sở
GDĐH chủ động thu hút nhân tài, phục vụ công tác đào tạo, nghiên cứu
khoa học. Mặc dù nguồn hỗ trợ từ ngân sách nhà nước hạn chế, nhưng việc
phân bổ còn chưa gắn với các tiêu chí phản ảnh chất lượng và kết quả đầu
ra của quá trình đào tạo. Các quy định của Luật GDĐH cũng chưa khuyến
khích, tạo điều kiện cho các cơ sở GDĐH khai thác các nguồn hỗ trợ từ bên
ngoài theo các hình thức xã hội hóa để thực hiện nâng cao chất lượng đào
tạo, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ. Các quy định về việc sử dụng tài
chính, tài sản của trường công lập còn nhiều hạn chế trong việc tạo điều
kiện để thành lập các tổ chức khoa học, công nghệ, thành lập doanh nghiệp
để thực hiện chuyển giao, ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học vào thực
tiễn, thương mại hóa sản phẩm nghiên cứu.
Về chính sách học phí, lộ trình tăng học phí trong thời gian qua đã
được thực hiện theo Nghị định 86/2015/NĐ-CP (năm học 2015-2016 đến
năm học 2020 – 2021). Tuy nhiên mức học phí vẫn còn thấp, chưa phù hợp
với chi phí đào tạo thực tế của các nhóm ngành và các loại hình, trình độ
đào tạo. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả trong đào tạo đại học cần thay
21


đổi cách phân bổ kinh phí, tạo cơ chế để các trường tự chủ được xác định
mức học phí hợp lý, tương xứng với chất lượng đào tạo.
Ngoài ra, đối với mỗi loại cơ sở GDĐH cần làm rõ tính chất của tài
sản tích lũy được để quy định chính sách tài chính, tài sản thích hợp theo
nguồn gốc hình thành các loại tài sản đó.
Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung Luật GDĐH cần tạo ra khung pháp lý
để Nhà nước ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể về cơ chế tự chủ tài
chính của các cơ sở GDĐH, trong đó cần hướng dẫn về căn cứ, phương
pháp xác định khối lượng dịch vụ, chất lượng từng loại dịch vụ, để các cơ
sở GDĐH làm căn cứ xây dựng mức đơn giá sự nghiệp dịch vụ công, giá và

khung giá được Bộ trưởng Bộ GDĐT phối hợp với Bộ Tài chính ban hành
theo Quyết định số 186/QĐ-TTg.
Theo đó, cần quy định tiêu chí, tiêu chuẩn, nội dung, quy trình cung
cấp dịch vụ, định mức kinh tế kỹ thuật và các hướng dẫn cụ thể khác để
thực hiện việc tổ chức đặt hàng, giao nhiệm vụ. Việc phân bổ ngân sách
Nhà nước nên dựa trên các tiêu chí đầu ra, phản ảnh hiệu suất hoạt động của
cơ sở GDĐH như: số lượng sinh viên, tổng số giờ giảng thực hiện, chất
lượng công trình nghiên cứu, số lượng sinh viên tốt nghiệp có việc làm,…
Bên cạnh đó, các quy định cũng cần có chính sách hỗ trợ như chính
sách ưu đãi về thuế (miễn/ giảm thuế) cho các cơ sở GDĐH sau một khoảng
thời gian từ khi thực hiện tự chủ, để giúp các cơ sở GDĐH nhanh chóng
đảm bảo năng lực thực hiện tự chủ; chưa có chính sách ưu đãi về đất đai
cho việc xây dựng, mở rộng cơ sở; chính sách để các cơ sở GDĐH có
quyền được tiếp cận các nguồn hỗ trợ của Nhà nước, đặc biệt là đối với các
cơ sở GDĐH đào tạo các khối ngành có khả năng xã hội hóa thấp.
Về vấn đề quy định của Luật để tái đầu tư phát triển cơ sở GDĐH
quy định tại khoản 3 Điều 66 về “Dành ít nhất 25% để đầu tư phát triển cơ
sở GDĐH,…”. Việc hàng năm đưa một tỷ lệ khá lớn như trên để tích lũy
thành “tài sản chung không chia” sẽ làm cho tài sản này dần trở thành quá
lớn đối với một trường đại học trong khi chưa làm rõ người chủ quản của
tài sản này là Nhà nước, tập thể cán bộ, giảng viên, nhân viên cơ hữu của
Nhà trường, hay của những người góp vốn. Chưa có sự phân biệt rõ về
quyền lợi và trách nhiệm giữa 2 loại hình trường vì lợi nhuận và không vì
lợi nhuận.
Do vậy, sửa đổi, bổ sung Luật cần xem xét quy định đối với trường vì
lợi nhuận cần quy định hay không quy định phải dành bao nhiêu phần trăm
chênh lệch thu chi để đầu tư phát triển sau khi đã đóng một khoản thuế do
Nhà nước quy định; quyền sở hữu tài sản chung này là của những người
góp vốn; đối với trường không vì lợi nhuận thì nên quy định là: …toàn bộ
phần chênh lệch thu chi dành để đầu tư phát triển cơ sở GDĐH, …, và trả

22


lãi vốn góp dưới mức lãi suất của trái phiếu Chính phủ. Phần này được
miễn thuế. Chủ quản tài sản này là những người góp vốn và cán bộ, giảng
viên, nhân viên cơ hữu của nhà trường.
11. Quản lý Nhà nước về GDĐH
Quy định pháp luật: Các quy định về Quản lý nhà nước về GDĐH
gồm 4 điều, được quy định tại các Điều 68, 69, 70, 71. Cụ thể: Điều 68. Nội
dung quản lý nhà nước về GDĐH; Điều 69. Cơ quan quản lý nhà nước về
GDĐH; Điều 70. Thanh tra, kiểm tra; Điều 71. Xử lý vi phạm
Tình hình thực hiện, đánh giá và khuyến nghị:
Quản lý Nhà nước về GDĐH cần đổi mới cơ chế quản lý nhà nước
của các cơ quan chủ quản (các bộ ngành và UBND cấp tỉnh chủ quản cơ sở
GDĐH) theo hướng giảm dần sự can thiệp đối với các cơ sở GDĐH; các cơ
sở GDĐH tự chủ hoạt động theo các điều kiện, tiêu chuẩn chất lượng do
pháp luật quy định; chịu sự thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm của cơ
quan quản lý nhà nước về GDĐH. Các trường chủ động trong quản trị, quản
lý và tổ chức thực hiện. Việc quy định cơ chế Bộ chủ quản làm giảm hiệu
quả thực hiện tự chủ đại học và tính chủ động trong quản trị, quản lý và tổ
chức thực hiện của cơ sở GDĐH. Tạo điều kiện cho các cơ sở GDĐH thực
hiện quyền tự chủ hiệu quả theo đúng thuộc tính của cơ sở GDĐH. Đảm
bảo thống nhất quản lý nhà nước của Bộ GDĐT đối với các trường sư phạm
phù hợp với Nghị quyết 76/NQ-CP ngày 3/9/2016 và đang được triển khai
trong thực tiễn.
Bên cạnh đó, vấn đề quản lý Nhà nước đối với GDĐH cần quy định
về việc xây dựng mạng lưới các cơ sở đào tạo. Đặc biệt là trong điều kiện
cách mạng khoa học công nghệ 4.0 thì không chỉ cần có sự liên thông trong
đào tạo mà còn rất cần một mạng lưới các trường đại học với cơ sở dữ liệu
có thể được truy suất để tránh việc bằng giả, học hộ, đảm bảo việc công

nhận kết quả học tập của sinh viên ở các trường khác nhau khi họ muốn học
liên thông hoặc học một lúc nhiều trường, nhiều ngành; cũng như cơ sở dữ
liệu về GDĐH này là công cụ để các cơ sở GDĐH giải trình trách nhiệm xã
hội.
12. Điều khoản thi hành
Các quy định về Điều khoản thi hành gồm 2 điều, được quy định tại
các Điều 72, 73. Cụ thể: Điều 72. Hiệu lực thi hành; Điều 73. Quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành.
Tình hình thực hiện, đánh giá và khuyến nghị:
Theo quy định, Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
Luật này. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại một số quy định của Luật còn
thiếu, chưa thực hiện được như các quy định về phân tầng, chuẩn chương
trình GDĐH… Điều này dẫn đến sự chưa thống nhất chung trong đào tạo
23


giữa mỗi ngành, lĩnh vực; ảnh hưởng đến cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực
của đất nước.
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG
1. Những kết quả cơ bản đã đạt được
Luật GDĐH là đạo luật đầu tiên điều chỉnh về GDĐH, có vai trò đặc
biệt quan trọng trong quá trình phát triển của giáo dục Việt Nam thời kỳ hội
nhập quốc tế, tạo ra nhiều chuyển biến trong hệ thống giáo dục quốc dân
nói chung và GDĐH nói riêng. Luật GDĐH quy định các nội dung khá toàn
diện về GDĐH tạo môi trường pháp lý cho các cơ sở GDĐH phát triển và
khẳng định vị thế trong hệ thống cũng như trên bình diện quốc tế. Có thể
khái quát như sau:
1.1. Luật GDĐH đã nâng các quy định tại các văn bản dưới luật
được thực tiễn kiểm nghiệm thành các quy định có tính pháp lý cao để các
cơ sở GDĐH có hướng phát triển ổn định;

1.2. Luật GDĐH có tác động tích cực đến hệ thống giáo dục quốc
dân, là cơ sở pháp lý của hệ thống GDĐH, các quy định của Luật đã xác
định rõ, đồng bộ, thống nhất từ chủ thể quản lý GDĐH đến các hoạt động
cụ thể của các đại học, cơ sở GDĐH;
1.3. Luật GDĐH đã đặt nền móng vững chắc cho tự chủ đại học, điều
mà vào năm 2012 vẫn còn là một vấn đề khá mới mẻ ở VN. Trong Luật, cơ
sở GDĐH được giao quyền tự chủ trong hầu hết các mặt hoạt động: công
tác quản lý tổ chức và nhân sự, tài chính và tài sản, về hoạt động tuyển sinh
và đào tạo, hoạt động khoa học và công nghệ, hợp tác quốc tế… Luật còn
có định hướng mới về việc “Cơ sở GDĐH thực hiện quyền tự chủ ở mức độ
cao hơn phù hợp với năng lực, kết quả xếp hạng và kết quả kiểm định chất
lượng giáo dục”;
1.4. Luật GDĐH đã đổi mới quản lý nhà nước trong điều kiện tự chủ
đại học thông qua các quy định khung để hình thành các tiêu chuẩn: mở
trường, mở ngành, tính chỉ tiêu tuyển sinh, phân tầng, xếp hạng, chuẩn kiểm
định, chuẩn quốc gia đối với cơ sở GDĐH… trở thành công cụ quản lý hữu
hiệu trong điều kiện tự chủ đại học, giảm thiểu cơ chế xin cho trong quản lý
GDĐH;
1.5. Luật GDĐH đã chú trọng công tác bảo đảm chất lượng và kiểm
định chất lượng nhằm nâng cao chất lượng GDĐH, tạo cơ sở pháp lý để
từng bước hình thành văn hoá chất lượng trong các trường để nâng cao chất
lượng đào tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước – trở thành là mục tiêu xuyên suốt Đạo luật;
1.6. Trên cơ sở Luật GDĐH, các cơ sở GDĐH đã xây dựng hệ thống
quy chế, quy định về giáo dục đào tạo sát với chức năng, nhiệm vụ và tình
24


hình thực tiễn của từng đơn vị, tạo hành lang pháp lý cho các cơ sở GDĐH
hoạt động có hiệu quả, chất lượng GDĐH ngày càng phát triển;

1.7. Luật GDĐH đã đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng tăng của
nhân dân và nâng cao được trình độ đào tạo, trình độ và kĩ năng nghề
nghiệp của người lao động. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục
tăng nhanh về số lượng, trình độ đào tạo được nâng lên, từng bước đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế, chính trị xã hội của đất nước;
1.8. Trên cơ sở thực hiện Luật GDĐH công bằng xã hội trong tiếp
cận GDĐH có nhiều tiến bộ, nhất là đối với người dân tộc thiểu số, lao
động nông thôn, các đối tượng chính sách và người có hoàn cảnh khó khăn,
bình đẳng giới cơ bản được bảo đảm; công tác quản lí giáo dục có bước
chuyển biến tích cực; xã hội hoá GDĐH và hợp tác quốc tế được đẩy mạnh.
2. Những hạn chế, tồn tại
Sau hơn 4 năm thực hiện và trước những đòi hỏi cấp bách của thực
tiễn phát triển GDĐH, cũng như đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện
GDĐH cho thấy Luật GDĐH đang bộc lộ những khiếm khuyết cơ bản,
những bất cập nảy sinh làm khó khăn, trở ngại cho các cơ sở GDĐH cũng
như các cơ quan quản lý nhà nước, cụ thể như sau:
2.1. Về tự chủ và quản trị đại học
Các quy định của Luật GDĐH hiện hành chưa quy định rõ ràng về
trách nhiệm và quyền hạn giữa cơ quan chủ quản và cơ sở GDĐH công lập
để thúc đẩy và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tự chủ đại học trên cả ba
phương diện: hoạt động chuyên môn, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính
tài sản. Cơ sở GDĐH vẫn còn bị quản lý khá chặt chẽ của cơ quản chủ
quản, cơ quản quản lý ngành, địa phương và cơ quan quản lý nhà nước.
Điều này làm giảm tính chủ động, sáng tạo, kịp thời trong quản trị, quản lý
và tổ chức thực hiện giáo dục đào tạo của cơ sở GDĐH nên thực hiện tự
chủ đại học chưa hiệu quả.
Bên cạnh đó, việc xác lập cơ chế tự chủ trong cơ sở GDĐH cũng
chưa được làm rõ. Để thực hiện tự chủ về tổ chức và nhân sự, Hội đồng
trường là thiết chế quan trọng nhưng Luật GDĐH còn quy định chung
chung, chưa hợp lý về thành phần, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn

của Hội đồng trường trong trường đại học công lập, Hội đồng quản trị trong
trường đại học tư thục. Về hoạt động chuyên môn trong đào tạo, khoa học
công nghệ, hợp tác quốc tế… cũng chưa rõ, chưa trở thành lĩnh vực mà các
cơ sở GDĐH được tự chủ cao nhất, chưa phát huy năng lực chủ động, sáng
tạo của đội ngũ các nhà khoa học trong công tác đào tạo, khoa học công
nghệ để đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao, tạo ra “đột phá chiến
lược” để phát triển nền kinh tế đất nước.
25


×